13/05/2019
Thứ Hai tuần 4 Phục Sinh.
BÀI ĐỌC I: Cv 11, 1-18
“Thiên Chúa cũng ban cho dân
ngoại ơn ăn năn sám hối để được sống”.
Trích sách Tông đồ
Công vụ.
Trong những ngày ấy,
các tông đồ và anh em ở Giuđêa nghe tin rằng cả dân ngoại cũng đã đón nhận lời
Thiên Chúa. Khi Phêrô lên Giêrusalem, các người đã chịu cắt bì trách móc người
rằng: “Tại sao ngài vào nhà những kẻ không chịu cắt bì và ăn uống với họ?”
Phêrô trình bày cho họ sự việc từ đầu đến cuối theo thứ tự sau đây: “Tôi đang ở
tại thành Gióp-pê, lúc cầu nguyện, trong một thị kiến, tôi thấy một vật gì giống
chiếc khăn lớn túm bốn góc, từ trời thả xuống sát bên tôi. Tôi chăm chú nhìn và
thấy những con vật bốn chân, những mãnh thú, rắn rết và chim trời. Tôi nghe tiếng
phán bảo tôi: ‘Phêrô, hãy chỗi dậy giết mà ăn’. Tôi thưa: ‘Lạy Chúa, không được,
vì con không khi nào bỏ vào miệng con những đồ dơ nhớp hay bẩn thỉu’. Tiếng từ
trời nói lần thứ hai: ‘Vật gì Thiên Chúa cho là sạch, ngươi đừng nói là dơ nhớp’.
Ba lần xảy ra như thế, và mọi sự lại được kéo lên trời.
“Và ngay lúc đó, ba
người từ Cêsarêa được sai đến nhà tôi ở. Thánh Thần truyền dạy tôi đừng ngần ngại
đi với họ. Sáu anh em cùng đi với tôi, và chúng tôi vào nhà một người. Anh thuật
lại cho chúng tôi biết: anh đã thấy thiên thần hiện ra thế nào; thiên thần đứng
trong nhà anh và nói với anh rằng: ‘Hãy sai người đến Gióp-pê tìm Simon có tên
là Phêrô; người sẽ dạy ngươi những lời có sức làm cho ngươi và cả nhà ngươi được
cứu độ’. Lúc tôi bắt đầu nói, Thánh Thần ngự xuống trên họ như ngự trên chúng
ta lúc ban đầu. Bấy giờ tôi nhớ lại lời Chúa phán: ‘Gioan đã rửa bằng nước, còn
các con, các con sẽ được rửa bằng Thánh Thần’. Vậy, nếu Thiên Chúa ban cho họ
cũng một ơn như đã ban cho chúng ta, là những kẻ tin vào Chúa Giêsu Kitô, thì
tôi là ai mà có thể ngăn cản Thiên Chúa?”
Nghe những lời ấy, họ
thinh lặng và ca tụng Thiên Chúa rằng: “Vậy ra Thiên Chúa cũng ban cho dân ngoại
ơn ăn năn sám hối để được sống”. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 41, 2. 3;
42, 3. 4
Đáp: Hồn con khát
Chúa Trời, Chúa Trời hằng sống (Tv 41, 3a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Như nai rừng
khát mong nguồn nước, hồn con khát Chúa, Chúa Trời ôi. – Đáp.
2) Hồn con khát Chúa
Trời, Chúa Trời hằng sống; ngày nào con được tìm về ra mắt Chúa Trời! – Đáp.
3) Xin chiếu giãi
quang minh và chân thực của Chúa, để những điều đó hướng dẫn con, đưa con lên
núi thánh và cung lâu của Ngài. – Đáp.
4) Con sẽ tiến tới bàn
thờ Thiên Chúa, đến cùng Thiên Chúa làm cho con được hoan hỉ mừng vui. Với cây
cầm thụ, con sẽ ca ngợi Chúa, ôi Chúa là Thiên Chúa của con. – Đáp.
Alleluia, alleluia!
– Chúng con biết rằng Đức Kitô đã thật sự sống lại từ cõi chết: Lạy Vua chiến
thắng, xin thương xót chúng con. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Ga 10, 1-10
“Ta là cửa chuồng chiên”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu
phán rằng: “Thật, Ta bảo thật cùng các ngươi, ai không qua cửa mà vào chuồng
chiên, nhưng trèo vào lối khác, thì người ấy là kẻ trộm cướp. Còn ai qua cửa mà
vào, thì là kẻ chăn chiên. Kẻ ấy sẽ được người giữ cửa mở cho, và chiên nghe
theo tiếng kẻ ấy. Kẻ ấy sẽ gọi đích danh từng con chiên mình và dẫn ra. Khi đã
lùa chiên mình ra ngoài, kẻ ấy đi trước, và chiên theo sau, vì chúng quen tiếng
kẻ ấy. Chúng sẽ không theo người lạ, trái lại, còn trốn tránh, vì chúng không
quen tiếng người lạ”.
Giêsu phán dụ ngôn
này, nhưng họ không hiểu Người muốn nói gì. Bấy giờ Chúa Giêsu nói thêm: “Thật,
Ta bảo thật các ngươi: Ta là cửa chuồng chiên. Tất cả những kẻ đã đến trước đều
là trộm cướp, và chiên đã không nghe chúng. Ta là cửa, ai qua Ta mà vào, thì sẽ
được cứu rỗi, người ấy sẽ ra vào và tìm thấy của nuôi thân. Kẻ trộm có đến thì
chỉ đến để ăn trộm, để sát hại và phá huỷ. Còn Ta, Ta đến để cho chúng được sống
và được sống dồi dào”. Đó là lời Chúa.
SUY NIỆM : Ta Là Cửa
Ðoàn Chiên
Phần lớn vùng đất
Giuđêa nằm trên độ cao, nhiều gồ ghề và sỏi đá, thuận tiện cho việc chăn nuôi
hơn là trồng trọt. Bởi thế, người dân vùng này nói riêng và toàn thể vùng
Palestina nói chung thường sống bằng nghề chăn nuôi. Họ nuôi nhiều cừu để lấy
lông chiên hơn là ăn thịt. Thế nên, mối liên lạc giữa đàn chiên và người chăn
thật mật thiết. Chiên hiểu chủ và chủ biết từng con chiên một.
Hình ảnh người chăn
chiên là một diễn tả quen thuộc của lòng nhân từ, yêu thương. Trong Kinh Thánh
các tác giả Cựu Ước đặc biệt là Thánh Vịnh thường hay so sánh mối quan hệ giữa
Giavê Thiên Chúa và dân Israel như người chăn và đàn chiên. Israel và đàn chiên
Giavê chăm sóc trong đồng cỏ của Ngài.
Qua tân Ước, hình ảnh
người chăn và đàn chiên cũng được nhiều lần nói đến, đặc biệt là người chăn
chiên được Chúa Giêsu tự đồng hóa mình với người chăn chiên nhân lành. Nỗi lòng
của người chăn chiên cũng là nỗi lòng của Ngài. Một trong những diễn tả ấy được
thánh sử Gioan ghi lại trong bài Tin Mừng hôm nay.
Anh chị em thân mến!
Thấy người Do Thái
không lãnh hội được ý nghĩa là người chăn chiên, Chúa Giêsu nói rõ cho họ biết:
"Ta là cửa chuồng chiên". Qua đó, chính Chúa Giêsu mạc khải cho họ biết
con đường đi tới Chúa Cha như là cửa mà đàn chiên ra vào và được hưởng sự an
toàn, được sống dồi dào. Còn những kẻ đến trước mà vào là kẻ trộm cướp nên
chiên đã không nghe tiếng họ. Những người đến trước ở đây không phải là các
ngôn sứ, nhưng là những người dựa vào sự khôn ngoan thông thái thế gian. Chính
họ là những người Thiên Chúa dấu không cho biết những điều thuôc về ơn cứu độ.
Trong thực tế, mặc dù bị áp đặt, nhưng người mù được Chúa Giêsu chữa lành không
nghe lời người Pharisiêu và chỉ tin vào Chúa Giêsu. Vì họ là kẻ trộm đã giết hại
chiên và phá hủy, còn Chúa Giêsu đến để chiên được sống và sống dồi dào.
Chúa Giêsu đã tóm tắt
vai trò của Ngài, Ðấng chăn chiên với đàn chiên là hình ảnh cửa đàn chiên:
"Ta là cửa, ai qua Ta mà vào thì sẽ được cứu độ". Ðây là hình ảnh
quen thuộc của vùng Trung Ðông đối với các mục tử chăn chiên. Người mục tử nhân
lành biết lo liệu cho đàn chiên của mình vào ban đêm và ban ngày, sẽ dẫn chiên
tới đồng cỏ xanh tươi với dòng suối mát như tác giả Thánh Vịnh 22 vẫn hát lên
"trong đồng cỏ xanh tươi Người cho tôi nằm nghỉ, Người cho tôi dòng nước
trong lành".
Chúa Giêsu là cửa để
qua đó từng con chiên vào và được nghỉ qua đêm an toàn. Chính nơi cửa, người mục
tử sẽ cầm gậy để kiểm từng con chiên, không để một con nào bị lạc mất. Chúa
Giêsu là cửa, qua đó các con chiên được dẫn đi ăn mỗi buổi sáng, để các chiên nghe
và nhận biết tiếng gọi của chủ chăn. Chủ chăn gọi đàn chiên và dẫn chúng đi,
người chăn chiên đi trước và chiên theo sau, vì chiên biết tiếng chủ chiên của
mình. Hình ảnh cửa chuồng chiên và hình ảnh vị chủ chăn cho chúng ta thấy Ngài
là Ðấng chăn chiên, là Ðấng Cứu Ðộ cho những ai nghe tiếng Ngài.
(‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng
Ngày’ – Radio Veritas Asia)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Hai Tuần IV PS
Bài đọc: Acts
11:1-18; Jn 10:1-10.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Con người phải
vâng theo Kế Hoạch của Thiên Chúa.
Có hai giai đọan trong
Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa: Trong giai đoạn thứ nhất, Ngài chọn dân Do-thái
để chuẩn bị cho Đấng Thiên Sai tới; sau đó, đến giai đọan thứ hai, Tin Mừng Cứu
Độ được loan báo cho tất cả mọi người. Nhiều người Do-thái chỉ dừng lại ở giai
đọan thứ nhất. Họ tin chỉ có họ mới là con Thiên Chúa và xứng đáng được hưởng
ơn Cứu Độ; Dân Ngoại không phải là con Thiên Chúa, họ xứng đáng để chịu hình phạt
và bị hư mất.
Các Bài Đọc hôm nay
xoay quanh tình thương Thiên Chúa và Kế Hoạch Cứu Độ dành cho mọi người. Trong
Bài Đọc I, Sách CVTĐ mô tả sự xung đột giữa các môn đệ về việc giao tiếp và chấp
nhận Dân Ngoại vào đạo thánh Chúa. Phêrô phải dùng thị kiến chiếc lưới từ trời
và kinh nghiệm mục vụ để thuyết phục họ: Trong Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa,
Dân Ngoại cũng được lãnh nhận Thánh Thần và ơn sám hối để được sự sống đời đời.
Loài người chúng ta không thể ngăn cản Kế Hoạch của Thiên Chúa. Trong Phúc Âm,
Chúa Giêsu tuyên bố Ngài là Mục Tử Tốt Lành đến để qui tụ tất cả các chiên và
cho chúng được sống dồi dào.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Ơn Cứu Độ được Thiên Chúa ban cho tất cả mọi người.
1.1/ Xung đột xảy ra giữa
người Do-thái và ông Phêrô: Theo truyền thống
Do-thái, họ sống cách biệt với các dân tộc khác, và không bao giờ vào nhà của
Dân Ngoại. Các người Do-thái chỉ trích Phêrô đã giao tiếp với Dân Ngoại, vào
nhà những kẻ không cắt bì, và ăn uống với họ. Bấy giờ ông Phêrô trình bày cho họ
biết thị kiến mà ông đã chứng kiến, ông nói: Tôi đang cầu nguyện tại thành
Joppa, trong lúc xuất thần, tôi thấy thị kiến này: Có một vật gì sà xuống,
trông như một tấm khăn lớn buộc bốn góc, từ trời thả xuống đến tận chỗ tôi.
Nhìn chăm chú và xem xét kỹ, tôi thấy các giống vật bốn chân sống trên đất, các
thú rừng, rắn rết và chim trời. Và tôi nghe có tiếng phán bảo tôi: “Phêrô, đứng
dậy, làm thịt mà ăn!” Tôi đáp: “Lạy Chúa, không thể được, vì những gì ô uế và
không thanh sạch không bao giờ lọt vào miệng con!” Có tiếng từ trời phán lần thứ
hai: “Những gì Thiên Chúa đã tuyên bố là thanh sạch, thì ngươi chớ gọi là ô uế!
Việc ấy xảy ra đến ba lần, rồi tất cả lại được kéo lên trời.”
Thị kiến này đòi Phêrô
phải xét lại truyền thống Do-thái của mình: Vì tất cả những gì Thiên Chúa dựng
nên đều tốt lành và thanh sạch, ông không thể giữ thái độ khinh thường Dân Ngoại,
coi họ là dân không cắt bì, nô lệ, hay không thanh sạch.
1.2/ Thiên Chúa cũng ban
cho các Dân Ngoại ơn sám hối để được sự sống!
(1) Tin Mừng được rao
truyền cho Dân Ngoại: Phêrô tiếp tục kể: “Ngay lúc đó, có ba người đến nhà
chúng tôi ở: họ được sai từ Caesarea đến gặp tôi. Thần Khí bảo tôi đi với họ, đừng
ngần ngại gì. Có sáu anh em đây cùng đi với tôi. Chúng tôi đã vào nhà ông
Cornelius. Ông này thuật lại cho chúng tôi nghe việc ông đã thấy thiên sứ đứng
trong nhà ông và bảo: “Hãy sai người đi Joppa mời ông Simon, cũng gọi là Phêrô.
Ông ấy sẽ nói với ông những lời nhờ đó ông và cả nhà ông sẽ được cứu độ.”
Cornelius là viên Đại Đội Trưởng Roma, tuy là Dân Ngoại, nhưng ông đối xử rất tốt
với người Do-thái. Nhân cơ hội đó, Phêrô đã rao giảng Tin Mừng về Đức Kitô cho
tất cả những người trong gia đình Cornelius. Điều đáng chú ý là Thiên Chúa hoạt
động trong biến cố này: Ngài gởi thiên sứ tới báo tin cho Cornelius, đồng thời
dùng Thần Khí tác động trên Phêrô, để thúc đẩy ông cùng đi với 3 sứ giả của
Cornelius.
(2) Không ai có thể
ngăn cản Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa: Tôi vừa mới bắt đầu nói, thì Thánh Thần
đã ngự xuống trên họ, như đã ngự xuống trên chúng ta lúc ban đầu. Tôi sực nhớ lại
lời Chúa nói rằng: “Ông Gioan thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì sẽ được
rửa trong Thánh Thần. Vậy, nếu Thiên Chúa đã ban cho họ cùng một ân huệ như Người
đã ban cho chúng ta, vì chúng ta tin vào Chúa Giêsu Kitô, thì tôi là ai mà dám
ngăn cản Thiên Chúa?” Phêrô nhắc lại biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống trên
các Tông-đồ trong ngày Lễ Ngũ Tuần; và nhờ biến cố này, Phêrô nhận ra Thiên
Chúa ban Thánh Thần cho tất cả mọi người, chứ không riêng gì những người
Do-thái. Sau đó, Phêrô làm Phép Rửa cho tất cả gia đình ông Cornelius.
Nghe Phêrô trình bày đầu
đuôi, người Do-thái mới hiểu ra. Họ tôn vinh Thiên Chúa và nói: “Vậy ra Thiên
Chúa cũng ban cho các Dân Ngoại ơn sám hối để được sự sống!”
2/ Phúc Âm: Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.
2.1/ Chúa Giêsu là Cửa
chuồng chiên: Trong các làng mạc của
Do-thái, họ có chỗ chung để nhốt tất cả các chiên trong làng ban đêm. Chỗ nhốt
này chỉ có một cửa duy nhất có khóa, và chìa khóa chỉ người giữ cửa mới có. Người
giữ cửa biết tất cả các người chăn chiên, và chỉ mở cửa cho những người này.
Tuy nhiên, cũng có những người chăn chiên không vào làng, nhưng giữ chiên ngoài
cánh đồng như tại Bethlehem. Trong trường hợp này, người chăn chiên sẽ tìm những
hang đá mà chỉ có một ngõ ra vào. Đêm đến, họ sẽ lùa chiên vào trong hang đá,
và họ sẽ nằm ngủ ngay cửa ra vào. Trong trình thuật hôm nay, Chúa Giêsu đề cập
đến cả hai trường hợp:
(1) “Thật, tôi bảo thật
các ông: Ai không đi qua cửa mà vào ràn chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào,
người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp. Còn ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử. Người
giữ cửa mở cho anh ta vào, và chiên nghe tiếng của anh; anh gọi tên từng con, rồi
dẫn chúng ra.”
(2) “Thật, tôi bảo thật
các ông: Tôi là Cửa cho chiên ra vào. Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp;
nhưng chiên đã không nghe họ. Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu.
Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ.”
2.2/ Liên hệ giữa mục tử
và chiên: Có một sự liên hệ mật thiết giữa mục
tử và đàn chiên. Người mục tử biết tất cả các chiên của mình và thói quen của từng
con một; nhiều mục tử còn đặt tên riêng cho mỗi con như “vằn” nếu con nào có những
vằn quanh như sóng trên người, “trắng,” “đen,” “khoang”… Đồng thời, các con
chiên cũng biết đánh hơi, hay nhận ra chủ của chúng nhờ tiếng gọi đặc biệt, hay
tiếng chuông, tiếng kèn, tiếng sáo mà người mục tử đeo trên mình. Đó là lý do tại
sao Chúa nói: “Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên đi theo sau,
vì chúng nhận biết tiếng của anh. Chúng sẽ không theo người lạ, nhưng sẽ chạy
trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ.”
Chúa cũng đề cập đến sự
khác biệt giữa Mục Tử và trộm cướp: “Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và
phá huỷ. Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.” Người chăn
chiên thật phải chịu trách nhiệm về đàn chiên của mình với chủ; nếu chiên bị ăn
thịt, anh phải có bằng chứng rõ ràng để trình cho chủ. Người chăn chiên đích thực
phải chăm sóc bằng cách tìm những đồng cỏ xanh và nước trong lành cho chiên ăn
uống. Anh phải bảo vệ chiên khỏi mọi nguy hiểm như: chó sói, sư tử, kẻ trộm, kẻ
cướp… Qua hình ảnh thân thương này, Chúa Giêsu muốn ví Ngài như Mục Tử Tốt Lành
và các tín hữu được ví như đàn chiên. Ngài đến để cho chúng ta được sống, và sống
dồi dào.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Tất cả mọi người đều
có thể nhận được ơn Cứu Độ trong Kế Hoạch của Thiên Chúa, và Tin Mừng cần được
loan báo cho mọi dân tộc.
– Để được hưởng ơn Cứu
Độ, chúng ta cần biết lắng nghe và tin tưởng vào Đức Kitô, Người Mục Tử Tốt
Lành mà Thiên Chúa gởi tới con người.
– Người mục tử tốt
lành là người phải vào qua Cửa là Đức Kitô: họ phải nhân danh Đức Kitô giảng dạy,
chữa lành; và bắt chước Đức Kitô để săn sóc và bảo vệ đòan chiên của mình.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
13/05/2019 – THỨ HAI TUẦN 4 PS
Đức Mẹ Fatima Ga 10,1-10
CỬA ĐÓNG VÀ CỬA MỞ
“Thật, tôi bảo thật
các ông: Tôi là cửa cho chiên ra vào.” (Ga 10,7)
Suy niệm: Cửa ràn chiên có lúc đóng,
có lúc mở. Cửa đóng, nhất là ban đêm là để bảo vệ chiên khỏi thú dữ, và kẻ trộm.
Chiên ở trong ràn đóng cửa là được an toàn. Cửa mở là để chiên được đi ra và đến
đồng cỏ xanh tươi, đến suối mát. Chiên được thảnh thơi tung tăng dưới ánh mặt
trời. Nhờ cửa mở mà chiên có những điều kiện thuận tiện cho sự phát triển và lớn
lên. Cửa ấy chính là Đức Giê-su như Người khẳng định: “Thật, tôi bảo thật các
ông : Tôi là cửa cho chiên ra vào.” Mục đích của Cửa “đóng hay mở” là để cho
chiên “ra vào”, nhờ đó “chiên được sống và sống dồi dào.”
Mời Bạn: Cửa đóng và mở ấy gợi cho
ta những quy định luật lệ mà Đức Giê-su và Thân Mình của Người là Giáo Hội lập
ra để bảo vệ và nuôi dưỡng con cái mình. Ngày nay không ít người coi Thiên Chúa
đã chết và Giáo Hội là bà mẹ già lỗi thời, nên họ gạt bỏ lề luật và sống theo ý
mình muốn. Mười điều răn Đức Chúa Trời, Năm điều răn Hội Thánh, Tám mối phúc thật,
đó là những quy luật “đóng/mở” của ràn chiên Chúa. Những ai yêu mến Đức Giê-su
và Giáo Hội, sẽ vui lòng tuân giữ. Họ “đi ra, đi vào” đều qua cánh cửa Giê-su
và nhờ đó họ có sự sống đời đời.
Chia sẻ: Ngày nay, điều luật nào của Chúa hay bị vi phạm nhất? Tại
sao?
Sống Lời Chúa: Tâm niệm: “Hạnh phúc thay
ai sống đời hoàn thiện, biết noi theo luật pháp Chúa Trời” (Tv 118,1).
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su,
Chúa đã ví mình là cửa ràn chiên, và đồng thời cửa ấy là cửa “hẹp”. Xin ban
thêm cho chúng con lòng can đảm dám hy sinh đón nhận cửa hẹp, ngõ hầu chúng con
được dưỡng nuôi và lớn lên trong Chúa.
(5 Phút Lời Chúa)
Tôi là cửa cho chiên ra vào (13.5.2019
– Thứ Hai Tuần 4 Phục Sinh)
Suy niệm:
Chúng ta vẫn ở trong mùa Phục sinh, mùa của sự sống tươi mới.
Đức Giêsu là người mục tử chăn chiên.
Khác với kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá hủy,
Ngài đến để chiên có sự sống, và có một cách dồi dào (c. 10).
Đức Giêsu là người mục tử chăn chiên.
Khác với kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá hủy,
Ngài đến để chiên có sự sống, và có một cách dồi dào (c. 10).
Hãy nhìn những nét đặc trưng của người mục tử đích thực.
Anh đi vào ràn chiên hay chuồng chiên bằng cửa,
đường đường chính chính, chứ không lén lút trèo qua tường rào (cc. 1-2).
Người giữ cửa quen anh và mở cửa cho anh.
Chiên cũng quen anh và quen tiếng của anh.
Tiếng của anh là dấu hiệu quan trọng để chiên nhận ra
và phân biệt anh với người lạ hay kẻ trộm (cc. 3-5).
Chiên nghe tiếng của anh (c. 3).
nhưng không nghe tiếng người khác (c. 8).
Anh trìu mến gọi tên từng con, vì anh biết rõ chiên của mình.
Khi dẫn chúng ra ngoài chuồng, anh đi trước dẫn đường,
chúng yên tâm theo sau chứ không chạy trốn,
vì chúng biết mình đang đi theo ai và sẽ được dẫn đến đâu.
Rõ ràng có sự hiểu nhau, gần gũi giữa chiên và mục tử.
Anh đi vào ràn chiên hay chuồng chiên bằng cửa,
đường đường chính chính, chứ không lén lút trèo qua tường rào (cc. 1-2).
Người giữ cửa quen anh và mở cửa cho anh.
Chiên cũng quen anh và quen tiếng của anh.
Tiếng của anh là dấu hiệu quan trọng để chiên nhận ra
và phân biệt anh với người lạ hay kẻ trộm (cc. 3-5).
Chiên nghe tiếng của anh (c. 3).
nhưng không nghe tiếng người khác (c. 8).
Anh trìu mến gọi tên từng con, vì anh biết rõ chiên của mình.
Khi dẫn chúng ra ngoài chuồng, anh đi trước dẫn đường,
chúng yên tâm theo sau chứ không chạy trốn,
vì chúng biết mình đang đi theo ai và sẽ được dẫn đến đâu.
Rõ ràng có sự hiểu nhau, gần gũi giữa chiên và mục tử.
Nhưng Đức Giêsu không chỉ là Mục tử chăn chiên.
Ngài còn tự nhận mình là Cửa cho chiên ra vào (c. 7. 9).
Thánh Gioan Kim Khẩu nói :
“Khi Ngài đưa ta đến với Cha, Ngài nhận mình là Cửa.
Khi Ngài săn sóc ta, Ngài nhận mình là Mục Tử.”
Cửa chuồng chiên nhằm để chiên đi vào và tìm được sự an toàn.
Cửa cũng nhằm để chiên đi ra và tìm được đồng cỏ nuôi sống.
Chỉ ai qua Cửa Giêsu mà vào mới được cứu độ.
Ai ra vào Cửa Giêsu mới tìm thấy đồng cỏ xanh tươi (c. 9).
Cửa Giêsu cũng giúp phân biệt mục tử giả và thật.
Mục tử giả sẽ không dám đến với chiên qua Cửa Giêsu.
Ngài còn tự nhận mình là Cửa cho chiên ra vào (c. 7. 9).
Thánh Gioan Kim Khẩu nói :
“Khi Ngài đưa ta đến với Cha, Ngài nhận mình là Cửa.
Khi Ngài săn sóc ta, Ngài nhận mình là Mục Tử.”
Cửa chuồng chiên nhằm để chiên đi vào và tìm được sự an toàn.
Cửa cũng nhằm để chiên đi ra và tìm được đồng cỏ nuôi sống.
Chỉ ai qua Cửa Giêsu mà vào mới được cứu độ.
Ai ra vào Cửa Giêsu mới tìm thấy đồng cỏ xanh tươi (c. 9).
Cửa Giêsu cũng giúp phân biệt mục tử giả và thật.
Mục tử giả sẽ không dám đến với chiên qua Cửa Giêsu.
Mong sao cho Giáo Hội có nhiều mục tử gần gũi với chiên,
biết gọi tên từng con chiên và đem lại cho chiên hạnh phúc.
Và mong sao chiên có khả năng nhận ra tiếng nói của người mục tử.
biết gọi tên từng con chiên và đem lại cho chiên hạnh phúc.
Và mong sao chiên có khả năng nhận ra tiếng nói của người mục tử.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa nhận mình là Tấm Bánh,
vì Chúa muốn nuôi tâm linh chúng con.
Chúa nhận mình là Cây Nho,
vì Chúa muốn trao cho chúng con dòng nhựa sống.
Chúa nhận mình là Mục tử nhân lành,
vì Chúa muốn dẫn chúng con đến nơi đồng cỏ.
Chúa nhận mình là Cửa,
vì Chúa mở cho chúng con sự phong phú của Nước Trời.
Chúa nhận mình là Con Đường,
vì Chúa là Đấng duy nhất dẫn chúng con đến với Chúa Cha.
Chúa nhận mình là Ánh sáng,
vì Chúa có khả năng khuất phục bóng tối trong thế gian này.
Chúa nhận mình là Sự Thật,
vì Chúa vén mở cho chúng con khuôn mặt của Thiên Chúa.
Chúa nhận mình là Sự Sống và là Sự Sống Lại,
vì Chúa không để cho chúng con bị cái chết chôn vùi.
Lạy Chúa Giêsu,
tạ ơn Chúa vì mọi điều Chúa định nghĩa về mình
đều hướng đến hạnh phúc cho chúng con,
và đều cho chúng con sự sống thâm sâu của Chúa.
Xin cho chúng con chấp nhận Chúa là Anpha và Ômêga,
là Khởi Nguyên và là Tận Cùng của cuộc đời mỗi người chúng con. Amen.
tạ ơn Chúa vì mọi điều Chúa định nghĩa về mình
đều hướng đến hạnh phúc cho chúng con,
và đều cho chúng con sự sống thâm sâu của Chúa.
Xin cho chúng con chấp nhận Chúa là Anpha và Ômêga,
là Khởi Nguyên và là Tận Cùng của cuộc đời mỗi người chúng con. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn
Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
13 THÁNG NĂM
Một Nhịp Cầu Từ Lễ
Phục Sinh Đến Lễ Hiện Xuống
“Khi Đấng Bảo Trợ đến,
Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha, Ngài là Thần Khí sự thật
phát xuất từ Chúa Cha, Ngài sẽ làm chứng về Thầy. Cả anh em nữa, anh em cũng
làm chứng, vì anh em ở với Thầy ngay từ đầu” (Ga 15, 26 – 27).
Giờ đây, chúng ta trở
lại với những lời này của Đức Kitô. Và chúng ta trở lại với căn gác thượng ở
Giê-ru-sa-lem, nơi mà những lời ấy được nói lên. Lời hứa ấy phải trở thành sự
thật trong cùng căn gác thượng ấy, vào ngày Lễ Ngũ Tuần. Lời của Đức Kitô dẫn
chúng ta đi từ Lễ Phục Sinh tới Lễ Hiện Xuống. Những lời ấy như một nhịp cầu.
Chúa Thánh Thần không
ngừng đến với các môn đệ của Đức Kitô như Đấng An Ủi được Chúa Cha sai đến.
Ngài đến như Thần Khí sự thật để làm chứng về Đức Kitô.
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 13/5
Đức Mẹ Fatima
Cv 11, 1-18; Ga 10,
1-10.
LỜI SUY NIỆM: “Tôi là cửa,
ai qua tôi mà vào thi sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ. Kẻ
trộm đến chỉ để ăn trộm, giết hại và phá hủy. Phần tôi tôi đến để cho chiên được
sống và sống dồi dào.”
Lời Chúa Giêsu đã giới thiệu Người cho chúng ta, giúp cho chúng ta thấy được:
“Hội Thánh là “Chuồng Chiên” mà cửa vào duy nhất và cần thiết của chuồng chiên
đó là Đức Kitô. Hội Thánh cũng là đàn chiên mà chính Thiên Chúa đã tiên báo Người
sẽ là mục tử của đàn chiên đó, và những con chiên của đàn ấy, tuy do những mục
tử phàm nhân chăn dắt, nhưng luôn được dẫn dắt và nuôi dưỡng bởi chính Đức
Kitô, vị Mục Tử Nhân Lành và Thủ lãnh của các mục tử, Đấng đã hiến mạng sống
mình cho các con chiên.” (GL số 754)
Lạy Chúa Giêsu. Chúng con tin Chúa đang hiện hữu và luôn cầu bàu cùng Chúa Cha
ban cho mỗi người trong chúng con những ơn cần thiết, để giúp chúng con chiến
thắng những khó khăn thử thách trong hiện tại, mà giữ vững đức tin.
Mạnh Phương
13 Tháng Năm
Ngày Của Mẹ
Ngày Chúa Nhật thứ
hai trong tháng năm, tại nhiều nước trên thế giới, được gọi là ngày của Mẹ,
ngày dành riêng để tỏ lòng báo hiếu đối với Mẹ…
Sáng kiến dành ngày
Chúa Nhật thứ hai của tháng năm làm ngày của mẹ được gán cho một thiếu nữ người
Hoa Kỳ tên là Anna M.Jarvis qua đời khoảng năm 1948. Mẹ của cô qua đời tháng
năm năm 1905. Trong những năm kế tiếp, cô thường tổ chức giỗ mẹ một cách trọng
thể như mời bạn bè đến cầu nguyện tại gia đình. Cô viết thư gửi tới các nhân vật
quan trọng trong nước Mỹ để xin lập một ngày tưởng nhớ các bà Mẹ. Tiểu bang nơi
cô đang sống đã chấp nhận đề nghị năm 1913. Và ngày 10 tháng 5 ấy, quốc hội Hoa
Kỳ cũng thông qua đề nghị nhận ngày Chúa Nhật thứ hai trong tháng 5 như một
ngày để ghi ơn các bà mẹ. Tổng thống Wilson của Hoa Kỳ đã công bố quyết định
này ngày 09/5/1914. Tục lệ này đã lan rộng sang nhiều quốc gia trên thế giới…
Trong ngày nhớ mẹ, người con thường cài trên áo một bông hoa cẩm chướng màu trắng
nếu mẹ đã quá cố và màu hồng dành cho những ai còn mẹ.
Trong các tước hiệu
Giáo Hội dùng để gọi Ðức Maria, có lẽ xứng hợp với tâm tình con người hơn cả vẫn
là tước hiệu Mẹ. Chúng ta có thể gọi Ðức Maria là Mẹ với tất cả tâm tình trìu mến
như khi chúng ta gọi người mẹ của chúng ta. Do lời trăn trối của chính Chúa
Giêsu con Mẹ, Mẹ đã trở thành Mẹ của Giáo Hội. Qua muôn thế hệ, Mẹ không ngừng
cưu mang, sinh ra và dưỡng dục các tín hữu trong Ðức tin.
Niềm hạnh phúc của bất
cứ người mẹ nào vẫn là thấy con mình được nên người. Mẹ Maria chăm chú theo dõi
và lo lắng cho từng người chúng ta. Niềm vui của Mẹ chính là thấy mỗi người
chúng ta được lớn lên theo hình ảnh của Chúa Giêsu con Mẹ…
Chúng ta mang đến cho
Mẹ những bó hoa trong suốt tháng 5, tháng 10 và trong từng lời Kinh dâng lên Mẹ.
Nhưng có lẽ Mẹ sẽ sung sướng hơn mỗi lần nhìn thấy sự trưởng thành nơi chúng
ta. Mỗi lần chúng ta lớn lên trong ân phúc, trong bác ái yêu thương, trong hy vọng
tin yêu: đó là những bó hoa tốt đẹp nhất mà chúng ta dâng lên Mẹ…
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét