14/05/2019
Thứ Ba tuần 4 Phục Sinh
THÁNH MATTHIA, Tông Đồ.
Lễ kính.
* Thánh
Matthia là người “đã theo Chúa Giêsu, kể từ khi Người chịu phép rửa của ông
Gioan cho đến ngày Người thăng thiên”.
Chính vì thế, thánh
nhân đã được các Tông Đồ chọn làm người thế chỗ của ông Giuđa, để làm chứng cho
Chúa Giêsu phục sinh. Thánh nhân được kể vào Nhóm Mười Hai, như sách Công Vụ
Tông Đồ đã thuật lại.
BÀI ĐỌC I: Cv 1, 15-17.
20-26
“Matthia trúng thăm, ông được kể
vào số mười một Tông Đồ”.
Trích sách Tông đồ
Công vụ.
Trong những ngày ấy,
Phêrô đứng lên giữa anh em (đám đông có chừng một trăm hai mươi người) mà nói:
“Hỡi anh em, phải ứng nghiệm lời Thánh Kinh mà Thánh Thần đã dùng miệng Đavít để
tiên báo về Giuđa, kẻ hướng dẫn những người bắt Chúa Giêsu. Hắn cũng là một
trong số chúng ta, đã thông phần chức vụ của chúng ta. Vì chưng, trong Thánh vịnh
có chép rằng: “Trại của nó sẽ trở nên hoang vắng, và không một ai ở lại trong
đó, và một người khác sẽ lãnh lấy chức vụ của nó”. Vậy trong những người đi
cùng với chúng ta suốt thời gian Chúa Giêsu sống giữa chúng ta, kể từ ngày
Gioan thanh tẩy cho đến ngày Chúa Giêsu lìa chúng ta mà lên trời, chúng ta phải
chọn lấy một trong những người có mặt đây, để cùng với chúng ta làm chứng Người
đã sống lại”.
Họ giới thiệu hai người:
ông Giuse, tức Barsabba, biệt danh là Công chính, và ông Matthia. Đoạn họ cầu
nguyện rằng: “Lạy Chúa, Chúa thấu suốt tâm hồn mọi người, xin hãy tỏ ra Chúa chọn
ai trong hai người này để nhận chức vụ và tước hiệu Tông đồ thay cho Giuđa, kẻ
đã hư hỏng mà đi đến nơi của nó”. Thế rồi họ bỏ thăm và Matthia đã trúng thăm:
ông được kể vào số với mười một Tông đồ. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 112, 1-2.
3-4. 5-6. 7-8
Đáp: Chúa cho người
ngồi với những bậc quân vương của dân Người (c. 8).
Xướng: 1) Hãy ngợi
khen, hỡi những người tôi tớ Chúa, chư vị hãy ngợi khen danh Chúa. Nguyện danh
Chúa được chúc tụng từ bây giờ và cho đến muôn đời. – Đáp.
2) Từ mặt trời mọc lên
tới khi lặn xuống, nguyện cho danh Chúa được ngợi khen. Chúa siêu việt trên hết
thảy chư dân, trên muôn cõi trời, là vinh quang của Chúa. – Đáp.
3) Ai được như Thiên
Chúa chúng tôi, Người ngự trên nơi cao thẳm, và Người để mắt nhìn coi, khắp cả
trên trời dưới đất? – Đáp.
4) Người nâng cao kẻ
túng thiếu từ chỗ bụi tro, và cất nhắc bạn cơ bần từ nơi phẩn thổ, hầu cho họ
ngồi với những bậc quân vương, với những bậc quân vương của dân Người. – Đáp.
ALLELUIA: Ga 15, 16
Alleluia, alleluia!
– Chúa phán: “Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các
con, để các con đi và mang lại hoa trái, và để hoa trái các con tồn tại”. –
Alleluia.
PHÚC ÂM: Ga 15, 9-17
“Thầy không còn gọi các con là
tôi tớ: Thầy gọi các con là bạn hữu”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu
phán cùng các môn đệ rằng: “Như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến các con.
Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy. Nếu các con tuân lệnh Thầy truyền, các con sẽ
ở trong tình yêu của Thầy; cũng như Thầy đã giữ lệnh truyền của Cha Thầy, nên
Thầy ở lại trong tình yêu của Người. Thầy nói với các con điều đó, để niềm vui
của Thầy ở trong các con, và niềm vui của các con được trọn vẹn.
“Đây là lệnh truyền của
Thầy: Các con hãy yêu mến nhau, như Thầy đã yêu mến các con. Không có tình yêu
nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình. Các con là bạn hữu của
Thầy, nếu các con thi hành những điều Thầy truyền.
“Thầy không còn gọi
các con là tôi tớ, vì tôi tớ không biết việc chủ làm; Thầy gọi các con là bạn hữu,
vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết.
Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con, và đã cắt đặt,
để các con đi và mang lại hoa trái, và để hoa trái các con tồn tại, để những gì
các con xin Cha nhân danh Thầy, Người sẽ ban cho các con. Thầy truyền cho các
con điều này là: các con hãy yêu mến nhau”. Đó là lời Chúa.
SUY NIỆM : Ðược sai đi
Hôm nay, Giáo Hội kính
nhớ thánh Mathia tông đồ. Tuy được gọi là tông đồ, nhưng thánh
Mathia không thuộc nhóm Mười Hai Tông Ðồ nguyên thủy của Chúa Giêsu; ngài là
người được chọn để thay thế cho kẻ phản bội là Giuđa Iscariốt.
Mathia theo tiếng
Hybalai có nghĩa là "được trao ban", Tin Mừng không hề nhắc đến nhưng
hầu chắc ngài đã từng là một trong số bảy mươi hai người môn đệ đã theo và sống
với Chúa Giêsu, từ lúc Chúa chịu phép rửa cho đến lúc Chúa lên trời và như vậy
đã chứng kiến cái chết và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu. Nếu cộng đoàn đã đồng
thanh chọn ngài để thế chỗ cho Giuđa, thì cũng để ngài trở nên nhân chứng về sự
Phục Sinh của Chúa Giêsu. Ðây chính là ý nghĩa của tước hiệu Tông Ðồ.
Tông đồ theo nguyên ngữ
có nghĩa là "được sai đi". Thánh Phêrô đã xác định "được sai đi
để làm chứng cho sự Phục Sinh của Chúa Giêsu". Sự Phục Sinh của Chúa Giêsu
chính là nền tảng của niềm tin, là chìa khóa mở ra chiếc cầu của ơn cứu độ giữa
Thiên Chúa và con người, giữa thời gian vĩnh cửu. Chính nhân danh Chúa Kitô Phục
Sinh mà các tông đồ đã hoán cải các dân tộc, rửa tội cho kẻ tin và thực thi những
phép lạ. Sau ngày lễ Ngũ Tuần, các tông đồ đã làm chứng về sự phục sinh của
Chúa khắp nơi, từ Palestina đến Hy Lạp, từ Rôma đến Ai Cập và Siri. Các ngài
thiết lập các Giáo Hội, các cộng đoàn những kẻ tin Chúa Kitô Phục Sinh. Ðược cộng
đoàn ủy thác cho sứ mệnh khi chọn làm tông đồ, thánh Mathia đã làm chứng cho sự
phục sinh của Chúa đến cùng. Có nhiều truyền thuyết về nơi hoạt động và cách thế
tử đạo của thánh Mathia. Tất cả đều hội tụ vào một điểm nổi bật là ngài đã dùng
chính mạng sống mình để làm chứng cho sự phục sinh của Chúa Kitô.
Ðức tin chúng ta đang
có là đức tin được các thánh tông đồ truyền lại. Sợi dây chuyền nối kết chúng
ta với các thánh tông đồ tuy vô hình nhưng vô cùng sống động. Với không biết
bao nhiêu xương máu, niềm tin và sự phục sinh của Chúa Kitô mà các thánh tông đồ
đã dùng chính mạng sống của mình để làm chứng đã được truyền lại cho chúng ta.
Ðây là gia sản quí giá nhất mà chúng ta đã được thụ hưởng, mà chúng ta cũng được
mời gọi để chia sẻ với tất cả mọi người. Sự Phục Sinh của Chúa Kitô gắn liền với
cuộc tử nạn của Ngài. Có đi vào cõi chết, Chúa Giêsu mới sống lại. Tiến trình
này đã trở thành qui luật cơ bản của niềm tin Kitô giáo. Các thánh tông đồ đã sống
qua quy luật ấy cho đến cùng khi dùng chính mạng sống của mình để làm chứng cho
sự phục sinh của Chúa Kitô. Các ngài xác tín rằng không thể là nhân chứng của sự
phục sinh mà không tham dự vào cuộc tử nạn của Chúa Kitô. Ðược rửa tội, nghĩa
là, nói như thánh Phaolô: "được mai táng với Chúa Kitô". Ðể cũng được
sống lại với Ngài, các tín hữu Kitô tham dự vào sứ mệnh tông đồ của Giáo Hội. Cũng
như các thánh tông đồ, các tín hữu Kitô cũng làm chứng cho sự phục sinh của
Chúa Kitô bằng cái chết từng ngày của họ. Chết đi cho những khuynh hướng thấp
hèn của bản thân. Chết đi những gì đi ngược lại những giá trị của Nước Trời. Có
chiến đấu và chết đi từng ngày như thế, họ mới cảm nhận được sức sống của Chúa
Kitô Phục Sinh bừng lên trong họ và tỏa sáng đến những người chung quanh.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày
Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Lễ Thánh Matthias Tông Đồ
Bài đọc: Acts
1:15-17, 20-26; Jn 15:9-17.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa là
Đấng chọn, yêu thương, dạy dỗ, và sai các Tông-đồ
đi.
Lễ Thánh Matthias nằm giữa hai biến cố quan trọng trong Sách CVTĐ: Thăng Thiên
và Hiện Xuống. Cần phải có trọn vẹn 12 Tông-đồ trong Tân Ước, như 12 chi tộc
Israel của Cựu Ước, trước khi lãnh nhận Thánh Thần.
Lịch sử không cho chúng ta nhiều dữ kiện liên quan đến cuộc đời Thánh Matthias,
ngoài trình thuật hôm nay trong Bài Đọc I. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu nhấn mạnh
đến đức tính quan trọng nhất của người môn đệ là phải giữ các giới răn của
Chúa, nhất là giới luật yêu thương.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Chọn một Tông-đồ thay thế cho Judah Iscarioth, kẻ phản bội.
1.1/ Sự phản bội của
Judah nằm trong Kế Hoạch của Thiên Chúa: Trong
những ngày ấy, ông Phêrô đứng lên giữa các anh em – có khoảng một trăm hai mươi
người đang họp mặt – Ông nói: “Thưa anh em, lời Kinh Thánh phải ứng nghiệm, lời
mà Thánh Thần đã dùng miệng vua Đavít để nói trước về Judah, kẻ đã trở thành
tên dẫn đường cho những người bắt Đức Giêsu. Y đã là một người trong số chúng
tôi và được tham dự vào công việc phục vụ của chúng tôi. Thật thế, trong sách
Thánh vịnh có chép rằng: “Ước gì lều trại nó phải tan hoang, không còn ai trú
ngụ (Psa 69:25, RSV); và ước gì người khác nhận lấy chức vụ của nó (Psa
109:8).”
(1) Tại sao Judah phản bội Chúa Giêsu?
+ Vì ham tiền: Đa số con người chấp nhận ý kiến này, vì theo Tin Mừng Gioan,
Judah được trao nhiệm vụ giữ tiền; và ông thường tiêu vào của công. Ông bán Thầy
mình với giá 30 đồng, khoảng 30 ngày làm công thời đó, một món tiền không lớn lắm.
Gioan cũng làm nổi bật sự tham tiền của Judah bằng cách làm nổi bật sự đập vỡ một
bình dầu thơm thượng hạng của một phụ nữ muốn liệm xác Chúa trước Cuộc Thương
Khó (Jn 12:1-8).
+ Vì ham danh: Khi Judah thấy mình không được trọng dụng như ba môn đệ thân tín
của Chúa: Phêrô, Giacôbê, và Gioan; ông tức giận và tìm cách làm hại Ngài.
+ Vì bị kỳ thị: Judah, người thuộc làng Kerioth, thuộc lãnh thổ Judea. Như vậy,
chỉ có ông là người thuộc miền Nam, trong khi 11 môn đệ khác là người miền Bắc.
Kinh nghiệm giữa những người thuộc miền Bắc và thuộc miền Nam của Việt-nam cho
chúng ta hiểu được mối liên hệ này.
+ Vì Judah muốn lợi dụng Chúa: Ông biết Chúa là người có uy quyền rất mạnh, nên
ông muốn đặt Chúa vào tình trạng Chúa phải ra tay uy quyền để cứu Israel như một
Đấng Thiên Sai mà người Do-thái mong mỏi. Khi không thấy Chúa phản ứng như ông
nghĩ, ông hối hận và quyên sinh như Matthew tường thuật (Mt 27:3-10).
+ Vì muốn thử Chúa: Judah là người ma lanh, ông có thể qua mặt bất cứ ai; nhưng
không qua mặt được Chúa. Ông muốn bí mật nộp Chúa để xem Chúa có biết cách đối
phó không.
(2) Số phận của Judah: được tường thuật cách khác nhau bởi các thánh ký.
+ Theo Lucas: Trình thuật hôm nay bỏ hai câu nói về số phận của Judah: “Ông này
đã mua một thửa ruộng với phần thưởng của việc làm độc ác của ông; và bị té xấp
mặt xuống, ông xé roạc bụng và ruột của ông lòi hết ra ngoài. Và việc này được
tất cả dân thành Jerusalem biết tới; vì thế, thửa ruộng đó trong tiếng của họ
được gọi là Akeldama, nghĩa là ruộng máu” (Acts 1:18-19).
+ Theo Matthew: Khi Judah thấy mình đã làm đổ máu người vô tội, ông mang 30 đồng
bạc trả lại cho Thượng Hội Đồng. Họ không chịu nhận. Judah quăng túi tiền vào Đền
Thờ và ra đi tự vẫn. Họ lấy tiền đó để mua một thửa ruộng gọi là “ruộng máu;”
và dùng để chôn cất những người nghèo.
+ Theo tác giả hiện đại: Một số quả quyết: dựa theo bằng chứng Kinh Thánh,
Judah chắc chắn bị sa hỏa ngục. Một số khác cho: vì Kinh Thánh cho biết sự phản
bội của Judah đã được phác họa sẵn trong Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa, và ông
có hối hận về việc ông đã làm, nên Judah có thể được Thiên Chúa cứu. Kinh Thánh
không cho chúng ta biết chắc chắn về số phận của Judah, chỉ cho những bằng chứng
về hành động ông đã làm. Tốt hơn, chúng ta nên để Thiên Chúa phán xét và phó
dâng ông cho lòng từ bi của Ngài.
+ Theo những người tin vào chủ thuyết Tiền Định: Trường hợp của Judah là một điển
hình cho việc tiền định: Nếu Thiên Chúa đã định cho ai phải hư mất, kẻ ấy hư mất
như Judah; ngược lại, nếu Chúa đã định cho ai được cứu độ, kẻ ấy được cứu độ
như Phêrô. Những người này quên mất hành động của cả hai đã làm sau khi phản bội;
hay họ cho rằng ơn thánh thúc đẩy cho Phêrô trở lại mạnh hơn là cho Judah! Hơn
nữa, những người tin vào thuyết Tiền Định đã giả sử Judah phải hư mất.
1.2/ Thủ tục chọn lựa: Chúng ta có thể học được nhiều bài học từ việc chọn người
thay thế Judah từ trình thuật hôm nay:
1.2.1/ Phêrô đưa ra 2 điều kiện để được chọn:
(1) Chọn Tông-đồ từ giữa các môn đệ: “Phải chọn những anh em đã cùng chúng tôi
đi theo Chúa Giêsu suốt thời gian Người sống giữa chúng ta, kể từ khi Người được
ông Gioan làm phép rửa cho đến ngày Người lìa bỏ chúng ta và được rước lên trời.”
(2) Phải có kinh nghiệm “Chúa sống lại”: Một trong những anh em đó phải
cùng với chúng tôi làm chứng rằng Người đã phục sinh.”
Hai tiêu chuẩn để chọn này hợp lý, vì người Tông-đồ được chọn phải biết Chúa
Giêsu và đạo lý của Ngài; đồng thời người đó phải có kinh nghiệm Chúa Phục
Sinh, trước khi có thể làm chứng cho Ngài. Kết quả: Họ đề cử hai người: ông
Joseph, biệt danh là Barsabbas, cũng gọi là Justo, và ông Matthias.
1.2.2/ Rút thăm từ 2 môn đệ được đề cử: Các Tông-đồ tin sự hiện diện của Thiên
Chúa giữa các ông, chính Ngài sẽ hướng dẫn sự lựa chọn, qua lời cầu nguyện của
các ông: “Lạy Chúa, chính Chúa thấu suốt lòng mọi người; giữa hai người này,
xin chỉ cho thấy Chúa chọn ai để nhận chỗ trong sứ vụ Tông Đồ, chỗ Judah đã bỏ
để đi về nơi dành cho y.” Kết quả khi họ rút thăm: thăm trúng ông Matthias: ông
được kể thêm vào số mười một Tông Đồ. Cách rút thăm của người Do-thái: họ viết
tên các ứng viên vào viên đá nhỏ, bỏ vào ly rồi lắc cho đến khi viên đá văng ra
ngoài. Viên đá mang tên ai, người đó thắng.
2/ Phúc Âm: Điều quan trọng nhất cho các môn đệ là giữ giới luật yêu
thương.
Con người có thể suy diễn rất nhiều lý do đưa đến sự phản bội của Judah; nhưng
lý do chính yếu của sự phản bội là không có tình yêu. Tất cả những tật xấu
trong con người của Judah đều có thể sửa chữa, nếu ông để cho tình yêu của Chúa
Giêsu thấm nhập vào.
2.1/ Tình yêu Thiên Chúa:
Có ít nhất 3 loại tình yêu tương xứng với 3
danh từ trong tiếng Hy-lạp: (1) tình dục (eros), như tình yêu giữa nam nữ, khi
họ tìm thấy nét quyến dũ của người khác; (2) tình cảm tự nhiên như những người
trong gia đình (philê) hay tình anh em (philadelphia); và (3) tình bác ái
(‘agapê), tình yêu này chỉ có trong khuôn khổ của Kitô Giáo.
Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh đến tình bác ái, khi Ngài nói: “Như Chúa Cha đã yêu mến
Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình
thương của Thầy.” Các môn đệ của Chúa phải ở lại hay phải được nuôi dưỡng trong
tình yêu này trước khi có thể làm những điều Thiên Chúa truyền.
Cách để ở lại trong tình yêu Thiên Chúa là thi hành các điều răn của Ngài: “Nếu
anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy,
như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người.”
Tình yêu không được tách khỏi sự vâng lời: Như Chúa Giêsu yêu Chúa Cha và vâng
lời tất cả những gì Chúa Cha muốn; con người cũng phải tỏ tình yêu của mình cho
Chúa Giêsu bằng cách vâng lời tất cả các giới răn Chúa đã dạy.
Một điều con người thường quan niệm sai: giữ các giới răn của người khác làm
cho họ ra yếu nhược và giới hạn tự do của họ; nhưng họ quên đi một điều là họ
không biết hết tất cả như Thiên Chúa. Ngài biết những gì tốt hay xấu cho con
người mà chính con người không biết. Khi Ngài truyền cho con người giữ các giới
răn như khi Ngài ban hành Thập Giới cho con người qua Moses, người Do-thái rất
hãnh diện vì Thập Giới, vì không một dân tộc nào được thần minh của họ thân
hành dạy dỗ như Thiên Chúa. Họ biết những điều mà các dân tộc khác không biết;
và do đó tránh được các tội lỗi và hậu quả xấu xa mà các dân tộc khác mắc phải.
Vì thế, giữ các giới răn Chúa truyền phải là một niềm vui và hãnh diện, như
Chúa Giêsu quả quyết: “Các điều ấy, Thầy đã nói với anh em để anh em được hưởng
niềm vui của Thầy, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn.”
Điều răn quan trọng nhất mà Chúa Giêsu mặc khải cho các Tông-đồ (và tất cả các
môn đệ của Ngài) phải giữ là: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu
thương anh em. Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy
sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.” Chỉ khi nào người môn đệ thấm nhuần tình
yêu Thiên Chúa, họ mới có thể đáp ứng lại nguyện vọng của Chúa Giêsu: “sẵn sàng
hy sinh mạng sống vì anh em,” như Ngài đã hy sinh mạng sống cho con người.
2.2/ Chúa Giêsu chọn các
Tông-đồ làm bạn hữu: Đây là điều mà trong giấc
mơ, các môn đệ cũng không dám mơ tới. Chúa Giêsu là Thiên Chúa mà lại muốn trở
nên bạn hữu ngang hàng với con người. Chúa Giêsu là Thầy mà lại coi học trò như
bạn hữu của mình. Chúa Giêsu chỉ đòi các ông một điều kiện: “Anh em là bạn hữu
của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy.” Như vậy, khi con
người giữ các giới răn Chúa dạy, con người yêu mến Chúa và trở nên bạn hữu của
Ngài. Chúa chứng tỏ Ngài coi các ông là bạn hữu trước khi các ông giữ các giới
răn: “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ
làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi
Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết.” Các ông đã biết tất cả những gì Ngài làm,
vì Ngài đã mặc khải và dạy dỗ các ông mọi điều.
2.3/ Chúa Giêsu chọn
các Tông-đồ, không phải các ông chọn Ngài trước: Con người cần nhớ rõ điều này:
Thiên Chúa luôn là người khởi sự trong tình yêu, trong sự tạo dựng, trong sự dạy
dỗ và ban ơn Cứu Độ, trong sự chọn lựa và sai đi như Chúa Giêsu xác nhận:
“Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh
em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại, hầu tất
cả những gì anh em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Người ban cho anh em.
Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Thiên Chúa yêu
thương chúng ta. Tình yêu của Thiên Chúa được biểu lộ qua rất nhiều biến cố
trong cuộc đời: tạo dựng, quan phòng, cứu chuộc, thánh hóa, chọn và sai đi.
– Chúng ta phải đáp lại
tình yêu Thiên Chúa qua việc vâng lời giữ tất cả các điều răn Ngài truyền. Vâng
lời các điều Chúa truyền dạy sẽ giúp chúng ta vượt qua tất cả các tật xấu và hậu
quả của nó, để không bao giờ phải lâm vào tình trạng như của Judah.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
14/05/2019 – THỨ BA TUẦN 4 PS
Th. Mát-thi-a, tông đồ
Ga 15,9-17
VỊ TÔNG ĐỒ ĐIỀN VÀO CHỖ TRỐNG
“Không phải anh em
đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em và cắt cử anh em để anh em ra đi,
sinh được hoa trái, và hoa trái anh em tồn tại.” (Ga 15,16)
Suy niệm: Thoạt nhìn, dường như sự
có mặt của Mát-thi-a trong số các tông đồ chỉ để điền vào chỗ trống cho tròn
con số 12 chẵn chòi đẹp đẽ. Sẽ là quá nông cạn nếu nghĩ số 12 chỉ như một con số
để “lấy hên”. Mát-thi-a được chọn vào nhóm Mười Hai sau khi các tông đồ hiệp
thông cầu nguyện. Mát-thi-a còn là người đã từng cùng các tông đồ theo Chúa
ngay từ những ngày đầu và do đó đủ tư cách làm chứng nhân cho Chúa Ki-tô phục
sinh. Như thế, sự hiện diện của Mát-thi-a trong hàng ngũ Mười Hai tông đồ làm
cho lời chứng của các tông đồ được toàn vẹn. Lời tuyên xưng của một Phê-rô hay
một cá nhân tông đồ nào khác được cả cộng đoàn các tông đồ chứng thực, bảo đảm
cho lời chứng các ngài là xác thực. Ngay từ đầu, Giáo Hội đã mang đặc tính duy
nhất và tông truyền.
Mời Bạn: Dù bạn là người vô danh tiểu
tốt trong cộng đoàn, lời chứng của Hội Thánh vẫn còn thiếu nếu không có sự góp
phần của bạn. Dù bạn chỉ hiện diện trong sự hiệp thông với mọi chi thể khác của
Hội Thánh khi bạn trung thành sống cuộc sống chứng tá cho một niềm tin công
giáo và tông truyền, bạn đang làm công việc không khác gì một tông đồ chính hiệu.
Chia sẻ: về một kinh nghiệm cho thấy việc làm chứng tập thể
mang lại rất nhiều hiệu quả trong việc loan báo Tin Mừng (vd. Cả nhóm/giáo xứ bạn
cùng làm chung một công việc bác ái nào đó).
Sống Lời Chúa: Chọn một việc tông đồ cho
cả nhóm làm chung.
Cầu nguyện: Hiệp thông với
Giáo Hội, bạn sốt sắng đọc kinh Tin Kính.
(5 Phút Lời Chúa)
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
14 THÁNG NĂM
Gặp Gỡ Với Thiên
Chúa Hằng Sống
Sứ mạng của Chúa Thánh
Thần được liên kết với sứ mạng của Chúa Con. Một đàng, Thánh Thần sửa soạn cho
toàn bộ sứ mạng cứu thế của Đức Kitô – và rút ra từ sứ mạng ấy một sự khởi đầu
mới. Chúa Thánh Thần lại đến với chúng ta từ Thập Giá và Phục Sinh. Lời chứng của
Ngài dẫn chúng ta vào mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Lời chứng ấy cũng giúp
chúng ta hiểu về ơn cứu độ của mình. Giờ dây chúng ta biết rằng Thiên Chúa là
tình yêu. Chúng ta biết rằng tình yêu của Thiên Chúa đã biến đổi con người và
biến đổi thế giới: “Cho đến nay Cha tôi vẫn làm việc” (Ga 5, 17) – Đức Giêsu đã
xác nhận với chúng ta như thế.
Công việc ấy của Chúa
Cha – được hoàn chỉnh qua Chúa Con – là công việc được thực hiện trước mắt con
người. Nó trở thành một phần trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Và những con
người chứng kiến ấy – đặc biệt là các Tông Đồ – là những chứng nhân của Đức
Kitô. Lời chứng của họ là lời chứng nhân loại, dựa trên những gì họ nghe thấy,
xem thấy và tiếp xúc (1 Ga 1, 1); lời chứng ấy dựa trên sự gặp gỡ của họ với
Thiên Chúa hằng sống.
Lời chứng nhân loại
này xây dựng nên Giáo Hội ngay từ buổi khởi đầu – Giáo Hội hiểu như là cộng
đoàn các môn đệ Đức Kitô. Đó là cộng đoàn đức tin chiêm ngắm mầu nhiệm vốn giấu
ẩn nơi Thiên Chúa qua bao đời trước (Ep 3, 9). Vì thế, lời chứng nhân loại này
của các Tông Đồ ngay từ trong gốc rễ được liên kết với lời chứng do Đấng An Uûi
– tức Thần Khí sự thật – làm chứng về Đức Kitô. Lời chứng ấy cắm rễ trong Thánh
Thần. Chính bởi xuất phát từ Thánh Thần mà lời chứng ấy có được năng lực biến đổi.
Và năng lực biến đổi này đem lại cho người ta đức tin vào Đức Kitô.
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 14/5
Thánh Mátthia Tông
Đồ
Cv 1, 15-17.20-26;
Ga 15, 9-17.
LỜI SUY NIỆM: “Thầy không gọi
anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em
là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em
biết.”
Đây là tâm tình của Chúa Giêsu đối với tất cả mọi Kitô hữu là tất cả chúng ta
được gọi để làm người bạn của Người, đồng cọng tác với Người, chứ không chỉ ban
cho chúng ta những đặc ân, ân sủng của Người mà thôi.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã chọn chúng con để trở thành bạn hữu của Chúa, vừa là
con cái của Chúa với tràn đầy đặc ân trong gia đình của Chúa. Xin cho chúng con
nhiệt thành trong đời sống đức tin và truyền giáo, để Nước Chúa lan rộng khắp
nơi.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
14-05: Thánh MATHIA
Tông Đồ (Thế kỷ I)
Tài liệu duy nhất đáng
kể về thánh Mathia là tường thuật của sách Công vụ các tông đồ (Cv 1,15-26).
Theo điều kiện mà thánh Phêrô đưa ra để chọn người thế chân cho Giuda trong
nhóm 12. Chúng ta biết thánh Mathia là một trong số các môn đệ của Chúa Giêsu.
Ngài đã theo Chúa Giêsu “Khởi từ lúc Gioan thanh tẩy cho đến ngày Chúa Giêsu về
trời” (c. 22)
Khi Chúa Giêsu đã về
trời, các tông đồ vâng lệnh Chúa trở về Giêruslem cầu nguyện chờ đón Chúa Thánh
Thần đến. Họ gặp nhau lại khoảng 120 người. Lúc ấy Phêrô lên tiếng nhắc lại sự
Giuda phản bội và kết luận: – “Phải chọn lấy thêm một người để cùng chúng tôi
làm chứng tá cho sự sống lại của Chúa Giêsu”.
Cộng đoàn đã đề cử hai
người xem ra xứng đáng nhất, với vinh dự này là Giuse, gọi là Barsabba biệt
danh là Giustô và Mathia. Thế rồi họ cầu nguyện và bắt thăm chọn người Chúa muốn.
Matthia đã trúng cử và nhập vào nhóm 12.
Vị tân tông đồ, sau
khi đón nhận Chúa Thánh Thần, đã ra đi rao giảng Phúc âm và hiến phần còn lại
cho việc tông đồ, thánh Clementê, thánh Alexandria kể lại rằng: các giáo huấn của
thánh Matthia tập chú vào nhu cầu phải hy sinh hãm dẹp xác thịt và những ước muốn
lăng loàn. Đó là bài học quan trọng Ngài đã lãnh nhận từ Chúa Giêsu và đem ra
thực hành.
Nhiều sứ giả cho rằng
thánh Matthia đi từ Giudea tới tận Ethiopie rao giảng và làm cho vô số người trở
lại đạo. Sau ba mươi năm bị bách hại, nỗ lực và thành công, Ngài bị ném đá và bị
chặt đầu dưới thời Nerô vào năm 63.
Theo dân Hy lạp, thánh
Matthia đã mang Kitô giáo đến miền Cappadôcia rồi bị đóng đinh vào thập giá ở
Côlehis. Xác Ngài được đưa về Giêrusalem và sau này thánh nữ Hélena, Mẹ Vua
Constantinô dời về Roma. Một phần các xương thánh vẫn còn ở đền thờ Đức Bà cả
nơi thánh nhân đã làm nhiều phép lạ.
(daminhvn.net)
14 Tháng Năm
Hương Vị Của Khói
Ðể đả phá tính ích
kỷ, người Ả Rập thường kể câu chuyện như sau:
Tai một khu phố nọ,
có không biết bao nhiêu cửa hàng ăn uống mọc lên. Hương vị bốc lên từ các cửa
hàng này thu hút những người giàu lẫn kẻ nghèo. Những người giàu đến đây để thưởng
thức những của ngon vật lạ, còn những người nghèo thì chỉ mong ăn được chút cơm
thừa canh cặn hay cùng lắm là chỉ để hít thở được hương vị thơm ngon bốc lên từ
các nhà bếp…
Một hôm, có một người
nghèo mon men đến một cửa hàng. Trên tay anh cầm một ổ bánh mì. Anh người nghèo
này có ý nghĩ độc đáo: thay vì chầu chực hưởng phần ăn thừa của thực khách, anh
bèn leo lên mái nhà, rồi ngồi cạnh ống khói của nhà bếp. Anh vừa nhai bánh mì vừa
hít thở làn khói bốc ra từ nhà bếp, anh nhai ngấu nghiến ổ bánh mì mà tưởng tượng
như mình đang thưởng thức những của ngon được dọn trên bàn thượng khách.
Nhưng không may cho
anh, vì hôm đó người chủ nhà hàng gặp nhiều rắc rối trong công việc làm ăn cho
nên không có được bộ mặt vui tươi cho mấy. Thế là ông sai những người hầu bàn
lôi cổ người ăn xin xuống khỏi mái nhà và yêu cầu trả tiền. Ông lý luận với người
ăn xin như sau: “Khói bốc ra từ nhà bếp của ta không phải là khói chùa, nhà
ngươi đã thưởng thức làn khói đầy hương vị đó, yêu cầu nhà ngươi trả tiền cho
ta”.
Người ăn xin không
chịu trả tiền. Nội vụ đã được đem ra trước tòa án. Quan đầu tỉnh phải nhức đầu
vì vụ án này. Ông cho triệu tất các bực thức giả trong toàn tỉnh để giúp ông giải
quyết vụ án. Những người này đưa ra hai ý kiến xem ra đều có lý cả: một bên nói
rằng khói bốc ra từ cửa hàng, do đó nó là chủ hữu của ông chủ cửa hàng. Những
người khác thì cho rằng khói cũng như không khí là của mọi người, thành ra người
ăn xin có quyền hưởng mà không phải trả đồng xu nào.
Sau khi đã bàn bạc
và cân nhắc, quan đầu tỉnh mới đưa ra phán quyết như sau: “Người nghèo đã hưởng
khói mà không đụng đến thức ăn, cho nên anh ta hãy lấy một đồng bạc, ra giữa
công viên, gõ đồng bạc vào ghế đá, âm thanh của đồng bạc sẽ lan ra. Người chủ cửa
hàng muốn đòi tiền của khói, ông hãy lắng nghe âm thanh ấy”.
Người kể câu chuyện ngụ
ngôn trên đây có lẽ muốn nói với chúng ta rằng sự ích kỷ không mang lại cho
chúng ta một lợi lộc nào.
Nhưng sự ích kỷ không
bao giờ mang tính chất trung lập. Nghĩa là khi tôi khép kín tâm hồn, khi tôi chỉ
biết nghĩ đến mình, không những tôi làm cho người khác bớt hạnh phúc, mà chính
tôi cũng chết đi một phần trong tôi. Tình liên đới không phải là một thứ xa xỉ
phẩm được thêm vào tương quan giữa người với người hoặc như một thứ tô điểm phụ
thuộc cho nhân cách của tôi, mà là đòi hỏi thiết yếu của ơn gọi làm ngưòi. Tôi
càng nên người hơn khi tôi sống cho tha nhân. Tôi càng trở nên phong phú hơn
khi tôi trao ban…
Chúa Giêsu đã mạc khải
cho chúng ta ơn gọi đích thực của con người: đó là sống trọn vẹn cho tha nhân.
“Này là Người, này là con người với đầy đủ tính người”. Ðó phải là ý nghĩa của
lời tuyên bố của Philato khi ông cho trình diện trước đám đông một Chúa Giêsu với
tấm thân không còn hình tượng của con người nữa và nói: “Này là người…”. Con
người chỉ thể hiện được trọn vẹn tính người khi con người tiêu hao hoàn toàn vì
người khác, khi con người sống hoàn toàn cho người khác…
Ðó là định luật của
Tình Yêu mà Chúa Giê su đã mạc khải cho chúng ta: Ai đi tìm mạng sống mình, người
đó sẽ mất. Ai mất mạng sống mình, người đó sẽ tìm gặp lại.
(Lẽ Sống)
Lectio Divina:
Lễ thánh Mátthia Tông Đồ – Ga 15:9-17
Thứ Ba 14 Tháng
Năm, 2019
Thánh Matthia, Tông Đồ
Mùa Phục
Sinh
1. Lời nguyện
mở đầu
Lạy Chúa là Thiên Chúa
của chúng con,
Thánh Mátthia tông đồ
của Chúa là một nhân chứng
cho cuộc đời và cái chết
của Chúa Giêsu Kitô
và sự phục sinh vinh
quang của Người.
Nguyện xin cho dân của
Chúa ngày nay cũng có thể làm chứng
cho cuộc đời của Con
Chúa
bằng cách sống theo đời
sống của Người với hết sức mình,
và lan tỏa niềm vui mừng
của những kẻ đang được
sống lại cùng với Người
đến một cuộc sống mới
và sâu sắc hơn.
Chúng con cầu xin nhờ
Đức Kitô, Chúa chúng con.
2. Bài Đọc
Tin Mừng – Gioan 15:9-17
Khi ấy, Chúa Giêsu
phán cùng các môn đệ rằng: “Như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến
các con. Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy. Nếu các con tuân lệnh
Thầy truyền, các con sẽ ở trong tình yêu của Thầy; cũng như Thầy đã giữ lệnh
truyền của Cha Thầy, nên Thầy ở lại trong tình yêu của Người. Thầy nói với
các con điều đó, để niềm vui của Thầy ở trong các con, và niềm vui của các con
được trọn vẹn.
“Đây là lệnh truyền của
Thầy: Các con hãy yêu mến nhau, như Thầy đã yêu mến các con. Không
có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình.
Các con là bạn hữu của
Thầy, nếu các con thi hành những điều Thầy truyền. Thầy không còn gọi các
con là tôi tớ, vì tôi tớ không biết việc chủ làm; Thầy gọi các con là bạn hữu,
vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết.
Không phải các con đã
chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con, và đã cắt đặt, để các con đi và
mang lại hoa trái, và để hoa trái các con tồn tại; để những gì các con xin Cha
nhân danh Thầy, Người sẽ ban cho các con. Thầy truyền cho các con điều
này là: Các con hãy yêu mến nhau.”
3. Suy Niệm
– Hôm nay là lễ kính thánh Tông Đồ Mátthia.
Bài Tin Mừng theo thánh Gioan đoạn 15:9-17 đã được suy gẫm trong tháng
Tư. Chúng ta hãy trich một số trong những điểm đã được nhắc đến hôm đó.
– Ga 15:9-11: Hãy ở lại
trong tình yêu của Thầy, nguồn mạch của niềm vui trọn vẹn. Chúa Giêsu
ở lại trong tình yêu của Chúa Cha, đã tuân giữ các lệnh truyền mà Người đã nhận
được từ Chúa Cha. Chúng ta ở lại trong tình yêu của Chúa Giêsu, tuân giữ
các lệnh truyền mà Người đã để lại cho chúng ta. Và chúng ta nên tuân giữ các lệnh
truyền ấy trong cùng một cách mà Người đã tuân giữ các lệnh truyền của Chúa
Cha: “Nếu các con tuân lệnh Thầy truyền, các con sẽ ở trong tình
yêu của Thầy; cũng như Thầy đã giữ lệnh truyền của Cha Thầy, nên Thầy ở lại
trong tình yêu của Người.” Và trong sự hiệp nhất này của tình yêu
Chúa Cha và của Chúa Giêsu thì có được nguồn mạch của niềm vui mừng thực sự: “Thầy
nói với các con điều đó, để niềm vui của Thầy ở trong các con, và niềm vui của
các con được trọn vẹn.”
– Ga 15:12-13: Các con hãy
yêu mến nhau, như Thầy đã yêu mến các con. Lệnh truyền của Chúa Giêsu
thì duy nhất chỉ có: “Các con hãy yêu mến nhau, như Thầy đã yêu mến các
con!” (Ga 15:12). Chúa Giêsu tiến xa hơn Cựu Ước. Điều răn xa xưa
thì như sau: “Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình” (Lv
19:18). Tiêu chuẩn mới là: “Các con hãy yêu mến nhau, như
Thầy đã yêu mến các con.” Đó là câu nói mà chúng ta còn ca tụng
cho đến cả ngày nay và trong đó nói rằng: “Không có tình yêu nào lớn hơn
tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình!”
– Ga 15:14-15: Là bạn hữu
và không phải là tôi tớ. “Các con là bạn hữu của Thầy, nếu
các con thi hành những điều Thầy truyền”, có nghĩa là, thực hành lòng yêu
thương đến độ mà thí mạng sống của mình! Ngay lập tức, Chúa Giêsu trình
bày một lý tưởng rất cao siêu về cuộc sống của các môn đệ. Người nói rằng: “Thầy
không còn gọi các con là tôi tớ, vì tôi tớ không biết việc chủ làm; Thầy gọi
các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy
đã cho các con biết!” Chúa Giêsu không dấu các môn đệ của Người bất kỳ
điều gì. Chúa nói cho chúng ta hết mọi điều những gì Chúa nghe được từ
Chúa Cha! Đây là lý tưởng tuyệt vời của đời sống trong cộng đoàn: để
đạt được một sự minh bạch hoàn toàn, đến độ mà không có bất kỳ bí mật nào giữa
chúng ta và có sự tin tưởng hoàn toàn với nhau, để có thể nói về kinh nghiệm của
Thiên Chúa mà chúng ta có và về cuộc sống, và do đó, có thể cùng làm phong phú
cho nhau. Các Kitô hữu sơ khởi đã thành công để đạt được lý tưởng này sau
nhiều năm: “họ đã cùng có một con tim và cùng có một linh hồn” (Cv
1:14; 2:42-46; 4:32).
– Ga
15:16-17: Chúa Giêsu đã chọn
chúng ta. Chúng ta đã không chọn Chúa Giêsu. Chúa đã gặp
chúng ta, đã gọi chúng ta và giao phó cho chúng ta một sứ vụ để ra đi và mang lại
hoa trái, và để hoa trái tồn tại. Chúng ta cần Chúa, nhưng Chúa cũng muốn
cần đến chúng ta và công việc chúng ta để có thể tiếp tục làm cho đến ngày nay,
cho mọi người những gì Chúa đã làm cho người dân miền Galilêa. Lệnh truyền
cuối cùng: “Thầy truyền cho các con điều này là: Các con
hãy yêu mến nhau!”
4. Một vài
câu tự vấn cá nhân
– Yêu thương tha nhân như Chúa Giêsu đã yêu thương
chúng ta. Đây là lý tưởng của mọi người Kitô hữu. Tôi sống với lý
tưởng này như thế nào?
– Tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì
Thầy đã cho các con biết. Đây là lý tưởng cho cộng đoàn: đạt được sự
minh bạch hoàn toàn. Tôi sống điều này trong cộng đoàn của tôi như thế
nào?
5. Lời nguyện
kết
Hỡi tôi tớ CHÚA, hãy
dâng lời ca ngợi,
nào ca ngợi danh thánh
CHÚA đi!
Chúc tụng danh thánh
CHÚA,
tự giờ đây cho đến mãi
muôn đời!
(Tv 113:1-2)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét