20/05/2019
Thứ Hai tuần 5 Phục Sinh
BÀI ĐỌC I: Cv 14, 5-17
(Hl 5-18)
“Chúng tôi rao giảng cho các
người bỏ các thần này mà trở về với Thiên Chúa hằng sống”.
Trích sách Tông đồ
Công vụ.
Trong những ngày ấy, tại
Icônia có phong trào người dân ngoại và người Do-thái cùng các thủ lãnh của họ
định ngược đãi và ném đá Phaolô và Barnaba. Biết thế, hai ngài trốn sang các
thành thuộc Lycaonia là Lystra, Đerbê và khắp vùng phụ cận, và rao giảng Tin Mừng
ở đó.
Lúc ấy tại Lystra có
người bại chân từ lòng mẹ, anh chỉ ngồi và không hề đi được. Anh nghe Phaolô giảng
dạy. Phaolô chăm chú nhìn anh, thấy anh có lòng tin để được cứu chữa, nên nói lớn
tiếng rằng: “Hãy chỗi dậy và đứng thẳng chân lên”. Anh liền nhảy lên và bước
đi. Dân chúng thấy việc Phaolô làm, thì la to bằng tiếng Lycaonia rằng: “Các vị
thần mặc lớp người phàm đã xuống với chúng ta”. Họ gọi Barnaba là thần Giupitê
và Phaolô là thần Mercuriô, vì chính ngài giảng. Thầy sãi thần Giupitê ở ngoại
thành, mang bò và vòng hoa đến trước cửa: ông toan hợp cùng dân tế thần.
Nghe tin ấy, các tông
đồ Barnaba và Phaolô liền xé áo mình ra, xông vào đám dân chúng mà la lên rằng:
“Hỡi các ngươi, các ngươi làm gì thế? Chúng tôi cũng là loài hay chết, là người
như các ngươi, là những kẻ rao giảng cho các người bỏ các thần này mà trở về với
Thiên Chúa hằng sống, Đấng tạo thành trời đất, biển cả và mọi vật trong đó.
Trong các thế hệ trước đây, Người đã để mặc cho mọi dân tộc đi theo đường lối
riêng mình; dầu vậy, Người không hề để thiếu sót những dấu chứng về Người, Người
ban phát muôn ơn lành, cho mưa từ trời xuống cho các ngươi và mùa màng hoa
trái, cho các ngươi được no lòng phỉ dạ”. Dầu nói thế, các ngài cũng phải vất vả
lắm mới ngăn cản được dân chúng khỏi tế các ngài. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 113B, 1-2.
3-4. 15-16
Đáp: Lạy Chúa,
không phải cho chúng con, nhưng xin cho danh Ngài rạng sáng (c. 1).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Không phải
cho chúng con, lạy Chúa, không phải cho chúng con, nhưng xin cho danh Ngài rạng
sáng, vì đức từ bi, vì lòng trung tín của Ngài. Tại sao Chúa để chư dân người
ta nói: “Thiên Chúa của bọn này ở đâu?” – Đáp.
2) Thiên Chúa chúng
tôi ngự trên trời, phàm điều chi Ngài ưng ý, Ngài đã thực thi. Thần tượng của họ
bằng bạc với vàng, đó là sự vật do tay loài người tác tạo. – Đáp.
3) Anh em đã được Chúa
ban phúc lành, Chúa là Đấng đã tạo thành trời đất. Trời là trời của Chúa, còn đất
thì Chúa đã tặng con cái loài người. – Đáp.
ALLELUIA: Cl 3, 1
Alleluia, alleluia!
– Nếu anh em sống lại làm một với Đức Kitô, thì anh em hãy tìm kiếm những sự
cao siêu trên trời, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Ga 14, 21-26
“Đấng Phù Trợ mà Cha sẽ sai đến,
Người sẽ dạy các con mọi điều”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu
phán cùng các môn đệ rằng: “Ai nghe các giới răn Thầy truyền và tuân giữ, người
ấy là kẻ yêu mến Thầy, và ai yêu mến Thầy, sẽ được Cha Thầy yêu mến, và Thầy
cũng yêu mến và tỏ mình ra cho người ấy”.
Ông Giuđa, không phải
Giuđa Iscariô, thưa Người rằng: “Lạy Thầy, tại sao Thầy sẽ tỏ mình ra cho chúng
con, mà không tỏ cho thế gian?” Chúa Giêsu trả lời: “Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời
Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy.
Kẻ không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy. Lời mà các con nghe, không phải
là của Thầy, nhưng là của Cha, Đấng đã sai Thầy. Thầy đã nói với các con những
điều này khi còn ở với các con. Nhưng Đấng Phù Trợ, là Thánh Thần, mà Cha sẽ
sai đến nhân danh Thầy, chính Người sẽ dạy các con mọi điều và sẽ nhắc nhở cho
các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con”. Đó là lời Chúa.
SUY NIỆM : Những giới hạn
Hôm nay, bài Phúc
Âm được Giáo Hội chọn đọc là những lời tâm sự của Chúa Giêsu cho các tông đồ
trong một khung cảnh hết sức quan trọng là bữa tiệc ly của Chúa với các môn đệ
trước khi thực hiện biến cố vượt qua. Cấu trúc của toàn chương 14 này của Phúc
Âm thánh Gioan được xoay quanh ba câu hỏi của các tông đồ. Câu hỏi thứ nhất là
của tông đồ Thomas: “Thầy đi đâu chúng con không biết thì làm sao chúng con biết
đường đi?” Và câu hỏi thứ hai của tông đồ Philípphê: “Lạy Thầy, xin chỉ cho
chúng con nhìn thấy Thiên Chúa Cha và thế là đủ cho chúng con rồi.”
Trong Phúc Âm Chúa Nhật
hôm qua chúng ta đã nghe những lời Chúa Giêsu trả lời cho hai câu hỏi trên và từ
đó chúng ta được Chúa cho biết mục đích của đời sống con người là gì và đâu là
con đường để đạt tới mục đích đó. Con đường đó không là gì khác hơn là chính
Chúa Giêsu Kitô, Ðấng mạc khải Thiên Chúa Cha cho con người và dẫn đưa con người
về cùng Thiên Chúa Cha. Chúa Giêsu đã quả quyết mạnh mẽ với các tông đồ: “Thầy
là Ðường, là Sự Thật, và là Sự Sống”, và hôm nay chúng ta đọc và suy niệm những
câu kế tiếp, trong đó chúng ta sẽ nghe thấy những câu Chúa Giêsu trả lời cho
câu hỏi thứ ba của tông đồ Giuđa Tadeo: “Lạy Thầy, tại sao Thầy lại tỏ mình ra
cho chúng con mà không tỏ mình ra cho thế gian?” Xem ra như Chúa Giêsu không trả
lời trực tiếp cho câu hỏi của Giuđa Tađeo nhưng Chúa nhắc tới thái độ tự nguyện
tự quyết của kẻ muốn theo Chúa: “Ai lắng nghe lời Thầy, ai yêu mến và tuân giữ
lời Thầy thì người đó là kẻ yêu mến Thầy, và chúng ta sẽ đến và ở trong người ấy”.
Qua câu trả lời này
chúng ta hiểu về những giới hạn trong mạc khải của Chúa và từ phía con người chấp
nhận hay không chứ không phải từ Thiên Chúa, là Ðấng muốn cứu rỗi tất cả mọi
người. Con người chúng ta có tự do khước từ ơn cứu rỗi của Thiên Chúa, giới hạn
tác động cứu rỗi của Thiên Chúa. Quả thật đây là một mầu nhiệm, mầu nhiệm của sự
tự do con người và sự hữu hiệu của ân sủng Thiên Chúa. Con người cần được trợ
giúp để quyết định cho đúng và nguồn trợ lực đến từ Chúa Thánh Thần là Ðấng tiếp
tục soi sáng cho các tông đồ, hướng dẫn họ đến sự thật trọn vẹn mỗi ngày một
hơn. Và cũng qua đoạn Phúc Âm trên chúng ta thấy sự hiện diện của Thiên Chúa
trong tâm hồn những ai yêu mến Người là một sự hiện diện Ba Ngôi: Chúa Cha,
Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Lạy Chúa, xin gìn giữ
con trong tình thương của Chúa. Xin cho con luôn sống theo sự soi sáng của Chúa
Thánh Thần để mọi nơi và mọi lúc con luôn được lớn lên trong tình yêu Chúa và
anh chị em chung quanh.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày
Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Hai Tuần V PS
Bài đọc: Acts
14:5-18; Jn 14:21-26.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hoạt động dưới
ảnh hưởng của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Có một sự khác biệt vô
cùng lớn lao giữa tư tưởng và đường lối của Thiên Chúa với tư tưởng và đường lối
của con người. Vì thế, cũng có một sự khác biệt lớn giữa cách hoạt động của những
người dưới ảnh hưởng của Ba Ngôi Thiên Chúa, và những người hoạt động theo cách
thức của người phàm.
Các Bài Đọc hôm nay muốn
nêu bật những khác biệt này. Trong Bài Đọc I, Phaolô, với sức mạnh của Thánh Thần
và nhân danh Đức Kitô, có thể làm cho người bại liệt từ lúc mới sinh đứng dậy
đi lại được. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu mặc khải cho các môn đệ về sự liên hệ giữa
Ba Ngôi Thiên Chúa và con người: Nếu con người vâng lời giữ các giới răn của
Chúa Giêsu, sẽ được cả Ba Ngôi yêu mến; và người đó sẽ có cả Ba Ngôi trong người
mình.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Các Tông-đồ hăng hái rao giảng Tin Mừng giữa những đe dọa bắt
bớ.
1.1/ Phaolô chữa người bại
liệt từ lúc mới sinh: Theo lời Chúa Giêsu
căn dặn: “Khi người ta bách hại anh em trong thành này, thì hãy trốn sang thành
khác” (Mt 10:23); Phaolô và Barnabas
bỏ Iconium lánh sang
các thành miền Lycaonia là Lystra, Derbe, và các vùng phụ cận; khi hai ông biết
những người ngoại và những người Do-thái, cùng với các thủ lãnh của họ, mưu
toan làm nhục và ném đá mình. Đi đến đâu, hai ông loan báo Tin Mừng tới đó.
Tại Lystra, có một người
bại hai chân ngồi đó; anh ta bị què từ khi lọt lòng mẹ, chưa hề đi được bước
nào. Anh nghe ông Phaolô giảng. Ông nhìn thẳng vào anh và thấy anh có lòng tin
để được cứu chữa, thì lớn tiếng nói: “Anh trỗi dậy đi, hai chân đứng thẳng!”
Anh đứng phắt dậy và đi lại được.
1.2/ Hai ông sửa chữa sai
lầm của dân chúng sau khi chứng kiến phép lạ: Thấy
việc ông Phaolô làm, đám đông hô lên bằng tiếng Lycaonia: “Thần linh mặc lốt
người phàm đã xuống với chúng ta!” Họ gọi ông Barnabas là thần Zeus, ông Phaolô
là thần Hermes, vì ông là người phát ngôn. Thầy tư tế đền thờ thần Zeus ở ngoại
thành đem bò và vòng hoa đến trước cổng thành, và cùng với đám đông, muốn dâng
lễ tế.
Zeus và Hermes là hai
thần của người Hy-lạp. Zeus được xem như vua của các thần Hy-lạp, và quan thầy
của những người làm nghề trồng cấy. Có lẽ vì lý do này mà Phaolô muốn nói với
dân thành: không phải Zeus ban mưa từ trời và mùa màng; nhưng là chính Thiên
Chúa trong câu 17. Hermes là con của Zeus với Maia; được xem là quan thầy của
những người lữ hành, tội nhân, và gái điếm. Hermes là sứ giả và đem những sứ điệp
của các thần cho con người.
Thấy phản ứng của họ,
Barnabas và Phaolô xé áo mình ra, xông vào đám đông mà kêu lên: “Hỡi các bạn,
các bạn làm gì thế này? Chúng tôi đây cũng chỉ là người phàm, cùng thân phận với
các bạn. Chúng tôi loan Tin Mừng cho các bạn, là hãy bỏ những cái hão huyền này
đi, mà trở lại cùng Thiên Chúa hằng sống, Đấng đã tạo thành trời đất với biển
khơi cùng muôn loài trong đó.
Trong những thế hệ đã
qua, Người để cho muôn dân đi theo đường lối của họ. Tuy vậy Người không ngừng
làm chứng cho mình, khi thi ân giáng phúc, ban mưa từ trời và mùa màng sung túc
cho các bạn, và cho các bạn được no lòng, được an vui.”
2/ Phúc Âm: Mặc khải của Chúa Giêsu về sự liên hệ giữa Chúa Ba Ngôi và
con người
2.1/ Liên hệ giữa Chúa
Cha và Chúa Con: Đây là mối liên hệ lý tưởng
để con người bắt chước. Trong mối liên hệ này, yêu mến và vâng lời không thể
tách rời nhau.
– Yêu mến: Cha yêu Con
và Con yêu Cha. Hơn nữa, tình yêu không chỉ giới hạn giữa Cha-Con; nhưng lan
tràn đến nhân loại: khi Chúa Giêsu yêu mến ai, Cha Ngài cũng yêu mến người ấy.
– Vâng lời: Con luôn
vâng lời Cha bằng cách làm theo những gì Cha muốn.
Mối liên hệ giữa Chúa
Giêsu và con người cũng phải được họa theo mối liên hệ giữa Chúa Giêsu và Cha của
Ngài.
– Yêu mến: Chúa Giêsu
yêu mến ai vâng lời Người. Khi Chúa Giêsu yêu ai, Chúa Cha sẽ yêu mến người ấy.
Cha và Con sẽ đến và ở lại với người ấy. Ngài sẽ tỏ mình ra cho người ấy.
– Vâng lời: Ai có và
giữ các điều răn của Chúa Giêsu, người ấy mới là kẻ yêu mến Ngài. Con người
vâng lời Chúa Giêsu là vâng lời Chúa Cha, vì Lời con người nghe không phải là của
Chúa Giêsu, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Con.
Ông Judah, không phải
Judah Iscariot, nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, tại sao Thầy phải tỏ mình ra cho
chúng con, mà không tỏ mình ra cho thế gian?” Lý do là vì thế gian không yêu mến
Chúa Giêsu, nên họ không giữ lời Ngài; cho dù Ngài muốn tỏ mình đi nữa, họ cũng
không đón nhận Ngài.
2.2/ Liên hệ giữa Chúa
Giêsu và Chúa Thánh Thần: Chúa Giêsu nói:
“Các điều đó, Thầy đã nói với anh em, đang khi còn ở với anh em. Nhưng Đấng Bảo
Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi
điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.”
(1) Chúa Thánh Thần sẽ
dạy các tín hữu mọi điều: Những gì còn thiếu nơi Đức Kitô, Thánh Thần sẽ dạy
con người tất cả. Một số điều hiển nhiên chúng ta đã nghe nhiều trong những
ngày vừa qua:
– Chúa Thánh Thần dùng
sự kiện Chúa Phục Sinh để soi sáng cho các môn đệ hiểu biết những lời Cựu Ước
và những lời Chúa Giêsu đã báo trước về Cuộc Khổ Nạn, cái chết, và sự Phục Sinh
của Đức Kitô, để các ông giảng giải cho dân chúng, như trong Bài Giảng của
Phêrô (Acts 3:11-26) và của Phaolô (Acts 13:16-41).
– Ngài cũng giúp các
môn đệ nhận ra sự sai trái của Thượng Hội Đồng và Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên
Chúa, để kêu gọi họ ăn năn sám hối trong Hai Bài Giảng này.
– Ngài giúp các ông nhận
ra nhu cầu phải dùng các Phó-tế để cộng tác làm việc (Acts 6:1-7); cho Dân Ngoại
chịu Phép Rửa mà không cần phải cắt bì (Acts 10:44-48), và giúp các ông giải
quyết khác biệt như trong trường hợp của Phaolô (Acts 9:26-30).
(2) Chúa Thánh Thần sẽ
làm cho các môn đệ nhớ lại mọi điều Chúa Giêsu đã nói với họ: Chúa Giêsu đã dạy
các ông rất nhiều điều, nhưng các ông không tiếp nhận được tất cả. Có những điều
các ông quên, Ngài sẽ làm cho các ông nhớ lại. Có những điều các ông không hiểu,
Ngài sẽ làm cho các ông hiểu. Có nhưng điều các ông chưa tin, Ngài sẽ làm cho
các ông tin.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Ba Ngôi Thiên Chúa
không hoạt động riêng lẻ; nhưng các Ngài cùng nhau hoạt động nơi con người. Khi
chúng ta có một là có cả ba, khi chúng ta không có một là cũng không có cả ba.
– Điều kiện để có Ba
Ngôi là vâng lời Chúa Giêsu bằng cách thực thi những gì Ngài muốn. Khi chúng ta
hoạt động trong sự hướng dẫn của Ba Ngôi, kết quả sẽ vô cùng khác biệt.
– Yêu mến và vâng lời
không thể tách biệt trong mối liên hệ giữa con người và Chúa Giêsu; nếu chúng
ta yêu mến Chúa Giêsu, chúng ta phải vâng giữ các giới răn của Ngài.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
20/05/2019 – THỨ HAI TUẦN 5 PS
Th. Bê-na-đi-nô Xi-ê-na, linh mục
Ga 14,21-26
ĐÒI BUỘC CỦA TÌNH YÊU
“Ai yêu mến Thầy,
thì sẽ giữ lời Thầy.” (Ga 14,23-24)
Suy niệm: Tình yêu không bao giờ chỉ
là một thứ tình cảm thuần túy nhưng tình yêu đòi buộc phải có hành động. Chẳng
ai có thể nói “yêu” người khác mà lại không có bất cứ một “hành động” nào để biểu
lộ tình yêu của mình. Mà “hành động” ở đây có nghĩa là tất cả con người của
mình, cả hồn lẫn xác, cả khối óc và con tim, cả tình cảm cũng như việc làm.
Chúng ta có thể tìm thấy mẫu gương diễn tả tình yêu bằng “hành động” như vậy
nơi Chúa Giê-su. Ngài yêu mến Chúa Cha bằng việc vâng lời chấp nhận nhập thể,
chấp nhận cái chết ô nhục trên thập giá. Trước lúc chia ly các môn đệ, Chúa
Giê-su cũng đòi hỏi ông phải diễn tả tình yêu của mình bằng hành động cụ thể,
đó là: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy” (c. 23).
Mời Bạn: Bạn hãy tự vấn chính bản
thân mình: Tôi đã yêu Chúa thật lòng hay chưa? Nếu tôi thực lòng yêu mến Chúa
thì chắc hẳn tôi đã giữ các điều răn của Ngài, tôi đã sống theo lời Ngài dạy,
tôi đã siêng năng tham dự thánh lễ, tôi đã chuyên cần đọc và suy niệm Lời Chúa.
Nếu tôi yêu mến Chúa thì chắc hẳn tôi đã quên mình phục vụ anh em và yêu thương
tất cả mọi người… Bạn đã làm gì để chứng tỏ mình đang yêu mến Chúa thật sự?
Sống Lời Chúa: Nếu bạn chưa có hành động
gì cụ thể như những điều vừa mời gọi bạn ở phần trên đây, bạn hãy có hành động
cụ thể ngay hôm nay. Chúa muốn bạn yêu mến Ngài bằng “hành động” chứ không chỉ
bằng cảm xúc hay lời nói suông mà thôi.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su,
con yêu mến Chúa. Xin cho mọi suy nghĩ và việc làm của con đều thể hiện rằng
con yêu mến Chúa. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
Yêu mến, đến và ở lại (20.5.2019
– Thứ Hai Tuần 5 Phục Sinh)
Suy niệm:
“…Đọc kinh cầu nguyện kẻo sa linh hồn.
Linh hồn phải giữ linh hồn, đến khi gần chết được lên thiên đàng”.
Đó là phần cuối của một bài đồng dao quen thuộc cách đây mấy chục năm.
Bài hát này đi kèm với trò chơi thiên đàng hỏa ngục hai bên của trẻ nhỏ.
Thiên đàng là điểm đến tối hậu của đời người kitô hữu.
Nhưng mô tả thiên đàng lại là điều vượt sức con người.
Thánh Phaolô đã được nghe những lời khôn tả ở đó,
nhưng tiếc là ngài không được phép nói lại (2 Cr 12, 4).
Đức Giêsu đã dùng hình ảnh bữa tiệc để nói lên bầu khí thiên đàng,
nơi có niềm vui, hạnh phúc và sự hiệp thông
giữa Thiên Chúa và những người từ bốn phương thiên hạ (Mt 8, 11).
Nếu coi thiên đàng là nơi con người được hạnh phúc bên Thiên Chúa,
trong một tương quan tình yêu, diện đối diện và vĩnh viễn,
thì thiên đàng ấy đã chớm nở ngay từ đời này rồi.
Khi yêu Thầy Giêsu, người môn đệ sẽ được Thầy yêu lại.
Hơn nữa, chính Chúa Cha cũng yêu mến người ấy (c. 21).
Và điều con người không dám mong sẽ xảy ra sau Phục sinh :
“Cha Thầy và Thầy sẽ đến với người ấy và sẽ ở lại với người ấy” (c. 23).
Thiên đàng bắt đầu với sự trao đổi tình yêu qua lại
giữa người môn đệ với Cha và Con.
Nơi nào có Thiên Chúa cư ngụ, nơi đó là thiên đàng.
Khi Cha và Con đến dựng nhà nơi người môn đệ trung tín,
tâm hồn người ấy trở thành thiên đàng.
Hạnh phúc đã được nếm cảm trong giây phút hiện tại rồi
trước khi được hưởng trọn vẹn trong Nước Thiên Chúa.
Nhưng không phải chỉ có sự hiện diện của Cha và Con,
Người môn đệ còn có Thánh Thần ở với và ở trong mình (Ga 14, 16-17).
Như Cha đã sai Con, nay Cha lại sai Thánh Thần (c. 26).
Thánh Thần sẽ là thầy dạy và là người gợi cho các môn đệ
nhớ lại và hiểu thấu những gì Đức Giêsu đã làm (x. Ga 2, 22; 12,16).
Vậy nơi tâm hồn người môn đệ, có sự hiện diện của cả Ba Ngôi Thiên Chúa.
Một thiên đàng nho nhỏ ngay ở đời này!
Muốn cho thiên đàng ấy tồn tại,
cần giữ các điều răn của Thầy Giêsu với rất nhiều tình yêu.
Hãy yêu bằng hành động hơn là bằng cảm xúc.
và để cho tình yêu Giêsu chi phối mọi chi tiết của đời ta.
Cầu nguyện:
Ngài đã xuống tận đáy lòng con,
xin cho con chỉ tập trung
vào tận đáy lòng con.
Ngài là thượng khách của lòng con,
xin cho con bước vào nhà
là chính đáy lòng con.
Ngài chọn cư ngụ trong lòng con,
xin cho con biết ngồi yên
ngay tại đáy lòng con.
Duy Ngài ở lại trong con,
xin cho con biết chìm sâu
xuống tận đáy lòng con.
Duy Ngài hiện diện trong lòng con,
xin cho con biết xóa mình
khi Ngài ở bên con.
Khi con đã gặp Ngài,
không còn con và Ngài nữa.
Con chẳng là gì cả,
và Ngài là tất cả.
(Theo Swami Abhisiktananda)
Lm. Antôn Nguyễn Cao
Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
20 THÁNG NĂM
Một Lời Hứa Được
Hoàn Thành
“Đấng Bảo Trợ – là
Thánh Thần mà Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy – Ngài sẽ dạy cho anh em mọi
điều và sẽ nhắc anh em nhớ lại tất cả những gì Thầy đã nói với anh em” (Ga 14,
26). Đức Kitô thốt lên những lời này vào buổi chiều hôm trước khi Người bước
vào cuộc khổ nạn và lãnh nhận cái chết thập giá, buổi chiều Người chia tay với
các Tông Đồ. Chúng ta ôn lại những lời này trong Mùa Phục Sinh. Chính trong Mùa
Phục Sinh mà lời hứa về Chúa Thánh Thần sẽ được hoàn thành trọn vẹn.
Ngay buổi chiều sau
khi sống lại, Đức Kitô đã trao ban Thánh Thần cho các Tông Đồ tụ họp trong căn
gác thượng. Người nói với họ: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20, 22). Người
mang Thánh Thần – như một quà tặng – đến cho Giáo Hội. Chính Chúa Thánh Thần sẽ
được mặc khải xung quanh các biến cố của Lễ Ngũ Tuần – cũng như trong tư cách
là một quà tặng trao ban cho Giáo Hội. Trong những ngày này và những tuần lễ
này, tất cả chúng ta được mời gọi cảm nghiệm đặc biệt về mối gắn kết giữa Lễ Phục
Sinh và Lễ Hiện Xuống. Chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa tiếp tục đổ tràn Thánh
Thần của Ngài xuống trên Dân Ngài.
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 20/5
Thánh Bernarđinô
Siêna, linh mục
Cv 14, 5-18; Ga 14,
21-26.
LỜI SUY NIỆM: “Các điều đó,
Thầy đã nói với anh em, đang khi còn ở với anh em. Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh
Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy. Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ
làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.”
Đây là những điều Chúa Giêsu đã nói riêng với các môn đệ của Người trước cuộc
Vượt Qua của Người. Người báo tin sẽ sai đến một “Đấng khác”; là Chúa Thánh Thần.
Đấng đã hoạt động trong công trình tạo dựng và sau khi đã dùng các Tiên Tri mà
phán dạy; nay Ngài sẽ đến với và ở trong các môn đệ, để dạy bảo họ và dẫn họ đến
“sự thật toàn vẹn.” (Ga 16,13). Như vậy, Chúa Thánh Thần được mạc khải như một
Ngôi Vị thần linh khác, trong tương quan với Chúa Cha và với Chúa Giêsu.” (GL số
243)
Lạy Chúa Giêsu, trong moi sự xin cho chúng con luôn hướng về sự hiện diện của
Chúa Thánh Thần, Đấng được chính Chúa và Chúa Cha ban cho chúng con để chúng
con nhớ lại tất cả những gì Chúa dạy, và Giáo Hội hướng dẫn để chúng con sống,
và được sự sống đời đời trong Nước Chúa.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 20-05: Thánh
BERNADINÔ thành Siêna
Linh mục (1380 –
1444)
Thánh Bernadinô xuất
thân từ gia đình quý phái Abbizeschi thành Siêna. Ngài sinh ngày 8 tháng 9 năm
1380 tại Massa Ma-rittima, là nơi thân phụ Ngài làm thống đốc. Nhưng khi mới ba
tuổi, Ngài phải mồ côi mẹ, và 6 tuổi phải mồ côi cha, Ngài được giao phó cho
các bà Dì ăn sóc.
Các dì thay thế người
mẹ quá cố của Bernadiô để nuôi dưỡng và săn sóc con trẻ về mọi phương diện, nhất
là trong đời sống trọn lành. Từ nhỏ, Bernadinô đã có một lòng bác ái đặc biệt với
người nghèo. Một lần kia, dì Biana đuổi một người ăn xin vì hết thực phẩm.
Bernadinô đau đớn nài nỉ: – Vì tình yêu Chúa, ta hãy cho người này cái gì, bằng
không cháu sẽ không ăn gì hôm nay, cháu thà nhịn đói còn hơn phải thấy ông ta
còn đói.
Và bà dì đã vui vẻ bố
thí cho người ăn xin này.
Trẻ Bernadinô rất yêu
mến nhà thờ và sùng kính Đức Trinh Nữ. Mỗi thứ bảy Ngài ăn chay để kính mẹ. Hơn
nữa, Ngài quyết giữ tâm hồn trong trắng như thiên thần không hề tham dự vào các
trò chơi thô kệch, đỏ mặt khi nghe lời nói nhơ bẩn. Một lần có đứa vộ lại đề
nghị chuyện tục tĩu, Ngài đã đấm thẳng vào mặt nó, khiến lắm kẻ ngạc nhiên. Sau
này Ngài cũng phản ứng tương tự đối với một phụ nữ lẳng lơ.
Với một tâm hồn trong
trắng như vậy, Bernadinô đã tỏ ra thông minh đặc biệt khi theo học ở Siêna. Năm
12 tuổi, Ngài được gởi tới Vienna để theo học văn chương và giáo luật. Năm 17
tuổi, Ngài gia nhập hội “Anh em Đức Mẹ” phục vụ bệnh nhân Scala. Bốn năm sau, xảy
ra một cơn dịch hạch. Tại nhà thờ Sancta mỗi ngày có tới vài chục người chết.
Ngài săn sóc họ và cũng bị nhiễm bệnh, Bernadinô say sưa tận tụy phục vụ làm
cho nhiệt tâm của Ngài lan sang tâm hồn các bạn. Ngài lao mình vào giữa nguy hiểm
để săn sóc bệnh nhân và chôn cất người chết. Ngài thoát chết, nhưng đã ngã bệnh
hầu kiệt sức và không bao giờ hồi phục hoàn toàn.
Sáng ngày 08 tháng 9
năm 142, sau khi giúp đỡ một người Dì cả điếc lác trong một cơn bệnh cuối cùng,
Bernadinô đã phân phát hết tài sản cho người nghèo rồi gia nhập dòng thánh
Phanxicô. Năm 1404, Ngài thụ phong linh mục, tiếp đến là khoảng 12 năm Ngài sống
ẩn dật, nhưng sau đó là những ngày tháng đi rao giảng, không biết mệt mỏi khắp
nước Ý.
Nhận biết rõ tư tưởng
thần học sâu sắc của con người khiêm tốn Bernadinô, bề trên buộc Ngài phải từ bỏ
nếp sống ẩn dật để đi rao giảng lời Chúa cho dân chúng. Thánh nhân có một giọng
nói yếu ớt khàn khàn khó nghe. Nhưng là vì bổn phận nên Ngài chạy đến sự phù
giúp của trinh nữ và tiếng Ngài trở nên mạnh mẽ trong sáng. Bài giảng đầu tiên,
Bernadinô ngưng lại giữa chừng rồi lại tiếp tục không ai biết chuyện gì. Sau
này thánh nhân cho biết lúc ấy Ngài bỗng thấy chị em con Dì là Tobia “mặc áo trắng
bất tử mà về trời”. Nghe Bernadinô giảng nhiều tâm hồn quyết sống xứng đáng
hơn.
Các linh mục hỏi Ngài
cho biết bí quyết nào để rao giảng hùng hồn như vậy, Ngài trả lời: – Hãy tìm
vinh danh Chúa và lợi ích các linh hồn mà thôi, hãy thực hiện điều mình giảng
cho người khác, Chúa Thánh Thần sẽ là thày dạy sự khôn ngoan mà không ai chống
lại được. Những chủ đề chính Ngài rao giảng là nhu cầu phải sám hốn và phải trừ
bỏ mọi nết xấu, nhất là những cuộc cãi vã về chính trị, cờ bạc “giả trá” trong
việc ăn mặc và trong cách cư xử.
Ngài đề cập đến các chủ
đề này một cách sống động với những giai thoại điển hình, khiến đông đảo dân
chúng lắng nghe hàng giờ không biết chán, và quyết tâm hối cải. Người ta sẽ còn
nhớ đến Ngài như người khởi xướng việc tôn kính thánh linh Chúa Giêsu, Đức Mẹ
và thánh Giuse. Mỗi lần rao giảng, thánh nhân quen cầm tấmbảng viết tên Chúa Cứu
thế “JHS” và khuyên mọi người hãy bắt chước mà vẽ tấm bảng như vậy rồi treo ở
nhà tư hay ở những nơi công cộng. Bài giảng cuối cùng của thánh nhân về “thần hứng”
chứng tỏ Ngài là nhà tâm lý thông hiểu đường lối thần bí và là thầy dạy có đầu
óc phóng khoáng về lý thuyyết cầu nguyện chiêm niệm. Thánh Bernadinô xứng đáng
kế nghiệp thánh Vincentê Ferie làmvị tông đồ nước Ý.
Ngày 20 tháng 5 năm
1444, thánh nhân Bernadinô từ trần ở Aquila Abruzzi và được chôn cất tại đây.
Các phép lạ xảy ra ngay tại mồ Ngài đã khiến đức Giáo hoàng Nicôla V tôn phong
Ngài lên bậc hiển thánh ngay sáu năm sau.
(daminhvn.net)
20 Tháng Năm
Kẻ Ăn Cắp Một Ổ Bánh Mì
Người ta thường kể
về một trong những ông thị trưởng đầu tiên của thành phố New York bên Hoa Kỳ
giai thoại như sau: một ngày mùa đông lạnh buốt nọ, ông thị trưởng phải chủ tọa
các phiên tòa. Người ta điệu đến trước mặt ông một ông lão quần áo tả tơi. Người
đàn ông này bị tố cáo là đã ăn cắp một mẩu bánh mì. Lời tự biện hộ duy nhất mà
người đàn ông khốn khổ đưa ra là: “Gia đình tôi đang chết đói”.
Nghe xong lời cáo
buộc của cử tọa cũng như lời biẹn bạch của ông lão, viên thị trưởng đưa ra phán
quyết như sau: “Luật pháp không tha thứ cho bất cứ một hành động xấu nào. Tôi
thấy cần phải trừng phạt ông, và hình phạt cho tội ăn cắp là ông phải đóng 10
đô la”. Vừa công bố bản án, ông thỉntưởng rút trong túi của mình ra 10 đô la và
trao cho ngwòi đàn ông khốn khổ. Quay xuống cử tọa ông nói tiếp: “Ông lão đã bồi
thường vì tội ăn cắp của ông. Còn phần quý vị, tôi yêu cầu mỗi người phải đóng
50 xu tiền phạt vì sống dửng dưng đến độ để cho trong thành phố của chúng ta
còn có một người nghèo phải đi ăn cắp”. Nói xong, ông ra lệnh cho viên biện lý
đi thu tiền vảtao tất cả cho ông lão.
Khi chiếc mũ đã được
truyền một vòng tòa án và trở về tay mình, ông lão đếm được tất cả 47 đô la 50
xu.
Trong sứ điệp Mùa Chay
năm 1991, Ðức thánh Cha Gioan Phaolô II mời gọi chúng ta hãy đọc và suy ngẫm về
bài dụ ngôn người giàu có và Lazarô.
Mới nghe qua, chúng ta
có cảm tưởng người giàu có trong bài dụ ngôn đã không làm điều gian ác nào để đến
độ phải bị trầm luân. Chúa Giêsu đã không nói: ông đã trộm cướp, hay biển lận
hoặc gian xảo trong việc làm ăn. Ngài cũng không kết án việc ông ngày ngày yến
tiệc linh đình.
Vậy thì đâu là tội của
người phú hộ? Thưa đó là tội dửng dưng trước nỗi khổ của người khác. Chúa Giêsu
nói đến sự hiện diện ngày qua ngày của một người khốn khổ trước cửa nhà ông để
cho chúng ta thấy sự đang tâm làm ngơ của người giàu có… Máu chảy, ruột mềm.
Trước cảnh khốn khổ của người đồng loại, mà người giàu có ấy vẫn không biểu lộ
một chút xúc động hoặc làm như không nhìn thấy, thì quả thật không gì đáng
trách bằng, bởi vì người giàu có đã làm cho trái tim của mình khô cứng.
Dửng dưng trước nỗi khổ
của người khác không là một thái độ vô thưởng vô phạt, mà là một hành động tội
ác. Ông thị trưởng thành phố New York trong câu chuyện trên đây quả thực đã thấy
được tội ác của chính ông và của thị dân của ông đối với lão ông ăn cắp bánh
mì.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét