14/03/2020
Thứ bảy tuần 2 Mùa Chay
BÀI ĐỌC I: Mk 7, 14-15.
18-20
“Chúa ném mọi tội lỗi chúng tôi
xuống đáy biển”.
Trích sách Tiên tri
Mikha.
Lạy Chúa, với cây trượng của Chúa, xin chăn dắt dân Chúa, chăn dắt những
con chiên thuộc quyền sở hữu của Chúa, sống lẻ loi trong rừng, ở giữa núi
Carmêlô. Tất cả được chăn dắt ở Basan và Galaad như ngày xưa. Như ngày ra khỏi
Ai-cập, xin tỏ cho chúng con thấy những việc lạ lùng.
Có Chúa nào giống như Chúa là Đấng dẹp tan mọi bất công, và tha thứ mọi tội
lỗi của kẻ sống sót thuộc về Chúa? Chúa không khư khư giữ mãi cơn thịnh nộ của
mình, vì Chúa ưa thích lòng từ bi. Chúa còn thương xót chúng tôi, còn dày đạp
những bất công của chúng tôi dưới chân Chúa, và ném mọi tội lỗi chúng tôi xuống
đáy biển. Chúa ban cho Giacóp biết sự trung thành của Chúa và cho Abraham biết
lòng từ bi mà Chúa đã thề hứa với tổ phụ chúng tôi từ ngàn xưa. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 102, 1-2.
3-4. 9-10. 11-12
Đáp: Chúa là Đấng từ
bi và hay thương xót (c. 8a).
Xướng: 1) Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, toàn thể con người tôi,
hãy chúc tụng thánh danh Người. Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và chớ khá
quên mọi ân huệ của Người. – Đáp.
2) Người đã tha thứ cho mọi điều sai lỗi, và chữa ngươi khỏi mọi tật
nguyền. Người chuộc mạng ngươi khỏi chỗ vong thân; Người đội đầu ngươi bằng mão
từ bi, ân sủng. – Đáp.
3) Người không chấp tranh triệt để, cũng không đời đời giữ thế căm
hờn. Người không xử với chúng tôi như chúng tôi đắc tội, và không trả đũa điều
oan trái chúng tôi. – Đáp.
4) Cũng như trời xanh cao vượt trên trái đất, lòng nhân Người còn
siêu việt hơn thế trên kẻ kính sợ Người. Cũng như từ đông sang tây xa vời vợi,
Người đã ném tội lỗi xa khỏi chúng tôi. – Đáp.
CÂU XƯỚNG TRƯỚC PHÚC
ÂM: 2 Cr 6, 2b
Đây là lúc thuận tiện,
đây là ngày cứu độ.
PHÚC ÂM: Lc 15, 1-3.
11-32
“Em con đã chết nay sống lại”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo thánh Luca.
Khi ấy, những người thâu thuế và những người tội lỗi đến gần Chúa Giêsu để
nghe Người giảng. Thấy vậy, những người biệt phái và luật sĩ lẩm bẩm rằng: “Ông
này đón tiếp những kẻ tội lỗi và cùng ngồi ăn uống với chúng”. Bấy giờ Người
phán bảo họ dụ ngôn này:
“Người kia có hai con trai. Đứa em đến thưa cha rằng: ‘Thưa cha, xin cha
cho con phần gia tài thuộc về con’. Người cha liền chia gia tài cho các con. Ít
ngày sau, người em thu nhặt tất cả tiền của mình trẩy đi miền xa và ở đó ăn
chơi xa xỉ, phung phí hết tiền của. Khi nó tiêu hết tiền của, thì gặp nạn đói lớn
trong miền đó và nó bắt đầu cảm thấy túng thiếu. Nó vào giúp việc cho một người
trong miền, người này sai nó ra đồng chăn heo. Nó muốn ăn những đồ heo ăn cho đầy
bụng, nhưng cũng không ai cho. Bấy giờ nó mới hồi tâm lại và tự nhủ: ‘Biết bao
người làm công ở nhà cha tôi được ăn uống dư dật, còn tôi, tôi ở đây phải chết
đói! Tôi muốn ra đi, trở về với cha tôi và thưa người rằng: “Lạy cha, con đã lỗi
phạm đến Trời và đến cha; con không đáng được gọi là con cha nữa, xin cha đối xử
với con như một người làm công của cha”‘. Vậy nó ra đi và trở về với cha nó.
Khi nó còn ở đàng xa, cha nó chợt trông thấy, liền động lòng thương; ông chạy lại
ôm choàng lấy cổ nó và hôn nó hồi lâu. Người con trai lúc đó thưa rằng: ‘Lạy
cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến cha; con không đáng được gọi là con cha nữa’.
Nhưng người cha bảo các đầy tớ: ‘Mau mang áo đẹp nhất ra đây và mặc cho cậu;
hãy đeo nhẫn vào ngón tay cậu, và xỏ giầy vào chân cậu. Hãy bắt con bê béo làm
thịt để chúng ta ăn mừng, vì con ta đây đã chết, nay sống lại, đã mất nay lại
tìm thấy’. Và người ta bắt đầu ăn uống linh đình.
“Người con cả đang ở ngoài đồng. Khi về gần đến nhà, nghe tiếng đàn hát
và nhảy múa, anh gọi một tên đầy tớ để hỏi xem có chuyện gì. Tên đầy tớ nói:
‘Đó là em cậu đã trở về và cha cậu đã giết con bê béo, vì thấy cậu ấy trở về mạnh
khoẻ’. Anh liền nổi giận và quyết định không vào nhà. Cha anh ra xin anh vào,
nhưng anh trả lời: ‘Cha coi, đã bao nhiêu năm con hầu hạ cha, không hề trái lệnh
cha một điều nào, mà không bao giờ cha cho riêng con một con bê nhỏ để ăn mừng
với chúng bạn; còn thằng con của cha kia, sau khi phung phí hết tài sản của cha
với bọn điếm nay trở về, thì cha lại sai làm thịt con bê béo ăn mừng nó’. Nhưng
người cha bảo: ‘Hỡi con, con luôn ở với cha, và mọi sự của cha đều là của con.
Nhưng phải ăn tiệc và vui mừng, vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại
tìm thấy’ “. Đó là lời Chúa.
SUY NIỆM : Người con
hoang đàng
Văn hào Nga Dostoievki khi biết mình không còn sống bao lâu nữa, đã gọi
các con đến bên giường bệnh và yêu cầu vợ đọc cho chúng nghe dụ ngôn người con
hoang đàng. Khi bà vợ vừa dứt lời, Dostoievki nói như để lại di chúc riêng của
ông như sau:
“Các con yêu dấu, các con đừng quên những gì các con vừa nghe đọc. Hãy
tin tưởng tuyệt đối vào Chúa, đừng bao giờ thất vọng về sự tha thứ của Ngài.
Cha thương các con vô cùng, nhưng tình thương của cha không thể sánh được với
tình yêu Thiên Chúa dành cho những ai Ngài đã tạo dựng. Cho dù các con có phạm
tội ác, các con đừng bao giờ thất vọng về Thiên Chúa. Các con là con cái Ngài,
hãy khiêm tốn đến trước mặt Ngài. Hãy xin Ngài tha thứ và Ngài sẽ vui mừng vì sự
sám hối của các con, như người Cha đã vui mừng khi người con hoang trở về”.
Những lời trăn trối của Dostoievki có lẽ cũng chính là tâm tình mà Giáo Hội
mời gọi chúng ta khi cho chúng ta lắng nghe dụ ngôn về người con hoang đàng.
Qua dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn nêu bật lòng thương xót của Thiên Chúa được
chính Ngài cụ thể hoá qua sự gần gũi của Ngài với các tội nhân. Nêu bật lòng
thương xót của Thiên Chúa đối với con người, Chúa Giêsu cũng nhắm đến thái độ
chai đá của các biệt phái và luật sĩ, được Ngài tô vẽ qua hình ảnh của người
con cả. Trong một vài nét ngắn ngủi, nhưng Chúa Giêsu đã phô bày được bộ mặt
chai đá, ích kỷ, mù quáng của biệt phái và luật sĩ. Người con cả là hạng người
không bao giờ nhận ra được tình thương của Thiên Chúa. Bao lâu nay sống bên cạnh
cha, người con cả vẫn xem mình như một thứ người làm công trong nhà, mà không
nghĩ rằng “tất cả những gì của cha đều là của con”.
Đó có thể là tâm tình của rất nhiều người trong chúng ta. Chúng ta tuân
giữ và thực hành đúng đắn với giới răn, nhưng có lẽ chúng ta chỉ ngước lên Chúa
như một quan toà công thẳng hay như một viên cảnh sát lúc nào cũng rình rập
theo dõi để trừng phạt chúng ta. Từ một hình ảnh như thế về Thiên Chúa, tâm
tình mà chúng ta có đối với Ngài có lẽ chỉ là sợ hãi, nô lệ. Và bởi lẽ không nhận
ra Thiên Chúa như một người cha, cho nên con người cũng không nhận ra tha nhân
là anh em của mình và như vậy cũng là xúc phạm đến chính Thiên Chúa.
Mùa Chay là mùa của hoán cải. Hoán cải trước tiên là trả lại cho Thiên
Chúa gương mặt mà Chúa Giêsu đã mạc khải, đó là gương mặt của người Cha yêu
thương con người đến thí ban Con Một mình. Nhưng không thể trở về với Thiên
Chúa là Cha mà lại không yêu thương tha thứ cho người anh em của mình.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Bảy Tuần II MC
Bài đọc: Mic 7:14-15, 18-20; Lk 15:1-3, 11-32.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Tình thương tha thứ của Thiên Chúa
Khi chúng ta nghe Chúa Giêsu đòi hỏi phải yêu thương kẻ thù và cầu nguyện
cho những người đã xúc phạm đến chúng ta; nhiều người đã lắc đầu và chép miệng
than: Khó quá! Làm sao thực hiện nổi? Chắc chắn Thiên Chúa không đòi con người
làm những gì quá sức mình. Để giúp con người làm được điều này, Thiên Chúa ban
ơn thánh và mời gọi con người nhìn lại mối liên hệ của họ với Thiên Chúa.
Các Bài Đọc hôm nay giúp con người nhận ra tình thương tha thứ của Thiên
Chúa lớn hơn tội lỗi của con người đã xúc phạm đến Ngài. Trong Bài Đọc I,
Tiên-tri Micah xin Thiên Chúa nối lại mối liên hệ của Ngài với Israel sau Thời
Lưu Đày. Điều này chỉ Thiên Chúa mới có thể làm được, vì mọi con dân Israel đã
xúc phạm đến Ngài. Để thực hiện điều đó, Thiên Chúa phải chà đạp tội lỗi dưới chân
hay quăng chúng xuống đáy biển. Trong Phúc Âm, Thánh-sử Luca viết lại cho chúng
ta một câu truyện tuyệt vời về tình thương tha thứ của Thiên Chúa. Ngài sẵn
sàng tha thứ vô điều kiện và phục hồi quyền làm con, khi một người ăn năn trở lại.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa nhân từ.
1.1/ Xin Thiên Chúa tiếp tục chăn dắt dân: Những gì Tiên-tri Micah viết
trong chương cuối hôm nay giả sử Thời Lưu Đày đã qua, và Thiên Chúa đã có kế họach
cho dân Do-Thái trở về để tái thiết Đền Thờ và xây dựng lại quê hương. Tiên-tri
ước mơ Thiên Chúa sẽ nối lại tình cha con, như khi họ mới từ Ai-cập vào Đất Hứa:
“Lạy Đức Chúa, xin Ngài dùng gậy để chăn dắt dân là đàn chiên, là cơ nghiệp của
Ngài, đang biệt cư trong rừng giữa vườn cây ăn trái. Xin đưa họ tới đồng cỏ miền
Bashan và Galaat như những ngày thuở xa xưa. Như thời Ngài ra khỏi đất Ai-cập,
xin Ngài cho chúng con thấy những kỳ công.”
1.2/ Thiên Chúa không chấp tội của con người: Tiên-tri ý thức sâu xa các
tội của dân đã xúc phạm đến Thiên Chúa, và tình thương như trời biển của Ngài
dành cho dân. Họ xứng đáng lãnh nhận mọi hình phạt và ngay cả cái chết; nhưng họ
còn sống và còn được trở về quê hương là hòan tòan do lòng nhân từ của Thiên
Chúa. Tiên-tri Micah tự hỏi: “Thần minh nào sánh được như Ngài, Đấng chịu đựng
lỗi lầm, Đấng bỏ qua tội ác cho phần còn sót lại của cơ nghiệp Ngài? Người
không giữ mãi cơn giận, nhưng chuộng lòng nhân nghĩa, Người sẽ lại thương xót
chúng ta, tội lỗi chúng ta, Người chà đạp dưới chân. Mọi lỗi lầm chúng ta, Người
ném xuống đáy biển.”
2/ Phúc Âm: Người Cha nhân hậu
2.1/ Người tội lỗi cần tình thương của Thiên Chúa: Các người thu thuế và
các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng. Những người
Pharisees và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi
và ăn uống với chúng.” Chúa Giêsu đưa ra 3 dụ ngôn để giúp họ nhận ra tình
thương Thiên Chúa, và dụ ngôn “Người Cha nhân hậu” tuyệt vời hơn cả, vì nó bao
hàm tất cả các tiến trình phạm tội, xám hối, trở về, và tình thương tha thứ.
(1) Tội lỗi và tự do: Tội lỗi xảy ra khi con người lạm dụng quyền tự do của
mình. Thiên Chúa ban cho con người quyền tự do chọn lựa, và Ngài tôn trọng quyền
tự do của con người. Dĩ nhiên Ngài có thể bắt con người làm theo ý Ngài, nhưng
làm như thế là mâu thuẫn với chính Ngài, và con người cũng không thỏai mái khi
bị bắt làm như thế. Người con thứ cho chúng ta nhìn thấy cách xử dụng tự do
không đúng của con người. Người cha để cho con hòan tòan tự do, mặc dù ông rất
đau khổ trong lòng, vì ông biết có thể đây là lần cuối được nhìn thấy con.
(2) Tội lỗi và hình phạt: Tự do chọn lựa là phải lãnh nhận hậu quả mang lại.
Người biết dùng tự do là người biết cân nhắc kỹ các hậu quả sẽ mang lại của từng
lựa chọn. Người con thứ đã không nhìn thấy trước hậu quả của lối sống anh ta đã
chọn; và khi hậu quả xảy ra, anh mới biết mình đã lựa chọn không đúng. Vì không
có nghề, nên anh phải chăn heo, là một nghề mà người Do-Thái khinh thường. Chưa
hết, vì quá đói nên anh ước ao được ăn những đồ heo ăn, mà cũng chẳng ai cho.
Danh dự của một con người giờ còn thua cả một con vật nhơ bẩn.
(3) Tội lỗi và xám hối: Đau khổ cần thiết vì nó giúp con người biết phân
biệt phải trái; trong đau khổ, con người nhận ra nhu cầu phải ăn năn xám hối.
Người con thứ nhận ra mình đã không sống xứng đáng với địa vị làm con, nên muốn
xin trở nên như một người làm công để có cơm ăn cho khỏi chết đói. Và anh ta mạnh
dạn đứng lên ra về.
(4) Tội lỗi và tha thứ: Có một chi tiết nhỏ, nhưng nhiều người đã nhận ra
và viết về nó: Làm sao người cha biết khi nào con trở về mà chạy ra đón con? Có
người suy đóan: chắc ngày nào ông cũng ra đón vì thương con. Điều hợp lý hơn có
lẽ Chúa Giêsu muốn ám chỉ Thiên Chúa, vì chỉ có Thiên Chúa mới biết những gì xảy
ra trong tâm hồn con người. Ngài tha thứ mà chẳng đòi điều kiện nào cả; cũng chẳng
cần con kịp nói hết lời. Không những sẵn sàng tha thứ mọi tội mà còn phục hồi
quyền làm con qua việc mặc áo đẹp nhất, xỏ nhẫn, mang giầy, và ăn mừng.
2.2/ Con người không thể hiểu được tình thương Thiên Chúa: Tình thương
quá tuyệt vời của người cha làm nhiều người bất mãn, trong đó có người anh của
người con thứ.
(1) Phản ứng của người anh cả: Khi biết lý do của buổi tiệc, Người anh cả
liền nổi giận và không chịu vào nhà. Nhưng cha cậu ra năn nỉ, và cậu được dịp để
bày tỏ nỗi tức giận của mình:
– Kể công phục vụ: “Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng
khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con
ăn mừng với bạn bè.”
– Từ chối không nhận em mình: “Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt
hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng!”
(2) Phản ứng của người cha: Ông vẫn bênh vực người con thứ và kiên nhẫn cắt
nghĩa cho người con cả: “Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của
cha đều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã
chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC
SỐNG:
– Chúng ta khó tha thứ cho kẻ thù và cầu nguyện cho người xúc phạm; vì
chúng ta không chịu xét mình để nhìn ra tình thương tha thứ và cách cư xử của
Thiên Chúa với chúng ta.
– Một khi chúng ta nhìn ra tình thương tha thứ của Thiên Chúa và cách cư
xử của Thiên Chúa, chúng ta sẽ dễ dàng tha thứ cho anh chị em hơn; và nhận ra
những gì họ xúc phạm đến chúng ta không thể so sánh với những gì chúng ta đã
xúc phạm đến Thiên Chúa.
– Sau cùng, tất cả chỉ là tình thương. Nếu chúng ta đã nhận được tình
thương từ Thiên Chúa, chúng ta cũng phải chia sẻ tình thương cho nhau.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
14/03/2020 – THỨ BẢY TUẦN 2 MC
Lc 15,1-3.11-32
NGƯỜI ANH GANH TỊ
“Người anh cả liền nổi giận và không chịu vào nhà. Nhưng cha
cậu ra năn nỉ.” (Lc 15,28)
Suy niệm: Điều làm cho con người ta
mất bác ái là ganh tị, cái làm cho con người ta dễ dàng nóng giận, soi mói chì
chiết người khác cũng là ganh tị. Người anh trong dụ ngôn phản kháng không chịu
vào nhà vì ganh tị. Không chịu vào nhà là tự rứt mình ra khỏi mối liên hệ gia
đình (cha-con; anh-em…). Đây là một thái độ xúc phạm nặng nề. Chính sự ganh tị
đã gây ra bao vết thương và cả những chia rẽ, đổ vỡ trong gia đình, trong Giáo
Hội. Để vãn hồi, củng cố và thăng tiến sự hiệp nhất của gia đình, để những người
vốn là anh chị em của nhau nhận thấy rằng mình thực sự là anh chị em của nhau,
thì nhất thiết tất cả họ phải quay về với Cha Mẹ mình. ‘Anh em như thể tay
chân’, ‘chị ngã em nâng’… Sống trong tinh thần đó thì không thể còn có chỗ cho
lòng ganh tị.
Mời Bạn: Góp phần vun trồng tình
yêu thương và sự hiệp nhất trong gia đình, trong Giáo Hội – bằng cách dứt bỏ
lòng tự mãn, tự tôn, biết chân thành chia sẻ niềm vui với người vui và chia sẻ
nỗi buồn với người buồn.
Chia sẻ: Ganh tị là tuyệt chiêu của
ma quỷ đánh vào con người không trừ ai, nhất là những người thông thái, giỏi
giang, nhưng không có tâm hồn khiêm tốn, để gây ra những bè phái chống đối Giáo
Hội, chia rẽ cộng đoàn và gieo rắc tư tưởng chống đối nơi người khác. Ta phải
làm gì để tận diệt tính ganh tị?
Sống Lời Chúa: Ta đón nhận tất cả anh chị
em, không trừ một ai, trong tình huynh đệ chân thành.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con biết
sống lời Chúa dạy: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ của Thầy,
là anh em yêu thương nhau.”
(5 Phút Lời Chúa)
SUY NIỆM : Ăn mừng
Dụ ngôn người cha nhân hậu là một dụ ngôn nổi tiếng,
qua đó Đức Giêsu cho thấy tại sao Ngài đón tiếp và ăn uống với tội nhân.
Đơn giản chỉ vì ngài giống Thiên Chúa là người Cha nhân hậu.
Người cha nhân hậu là người tôn trọng tự do của đứa con thứ,
người đã chia một phần ba gia sản cho nó ngay khi ông còn sống.
Ông đã không tìm con, như người ta tìm chiên lạc hay tìm đồng bạc bị mất.
Ông tin và hy vọng sớm muộn nó sẽ về, nên ông kiên nhẫn chờ.
Vì chờ, nên ông là người đầu tiên trông thấy con trở về tiều tụy.
Không cầm lòng được vì thương, ông chạy ra, ôm lấy cổ con mà hôn.
Người con của ông đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy.
Khi con thứ sám hối, ông đã trả lại cho cậu tất cả vinh dự của người con.
Việc duy nhất phải làm ngay là mở tiệc ăn mừng (cc. 23, 24. 29, 32).
Khi con cả giận dỗi, không chịu vào nhà chung vui với cha và em,
một lần nữa người cha lại đi ra và năn nỉ (c. 28).
Ông chấp nhận ở thế yếu vì ông không muốn mất một đứa con nào.
Ông không thể yên tâm ở trong nhà khi còn một đứa con ngoài cổng.
Hoán cải bao giờ cũng khó.
Con thứ phải can đảm lắm mới dám trở về nhà cha.
Làm sao lường được phản ứng của cha, anh, của gia nhân, hàng xóm?
Làm sao dám về nhà trong tình trạng thân tàn ma dại?
Nhưng con cả cũng không dễ vào nhà chút nào,
vì vào nhà là phải bắt tay thằng em đã phung phí hết của cải,
vào nhà là phải chấp nhận sự thiên vị khó hiểu của người cha (cc. 29-30).
Cả hai người con đều cần hoán cải.
Người con cả cũng hỗn hào với cha không kém gì đứa em (c. 30).
Em bỏ nhà ra đi nên đói, còn anh không chịu vào nhà nên cũng có thể bị
đói.
Anh phục vụ cha rất tốt nhưng lại mong cha trả công như người thợ (c.
29).
Anh ở gần cha, nhưng thực sự trái tim lại xa cha.
Khi cha vui vì em trở về thì anh lại buồn giận.
Mùa Chay là thời gian trở về với Cha, trở lại với anh em.
Người con thứ đã đứng lên trở về nhà cha và tìm được hạnh phúc.
Không rõ người con cả có vào nhà cha và ôm lấy em mình không?
Cầu nguyện :
Lạy Cha,
người con thứ đã muốn tự định đoạt lấy đời mình.
Chúng con vẫn rơi vào tội của người con thứ,
khi coi Cha
như người cản trở hạnh phúc của chúng con.
Chúng con thèm được tự do bay nhảy
ngoài vòng tay Cha,
nhưng tự do ấy lại biến chúng con thành nô lệ.
Hạnh phúc do thế gian ban tặng thì bọt bèo.
Như người con thứ,
chúng con bỗng thấy mình tay trắng,
rơi xuống chỗ cùng cực và bị cái chết đe dọa.
Lạy Cha đầy lòng bao dung,
xin kéo chúng con trở về với Cha mỗi ngày,
giúp chúng con điều chỉnh những đam mê lệch lạc.
Xin nâng chúng con đứng lên trong niềm vui
vì tin rằng tình Cha lớn hơn tội chúng con vạn bội.
Ước gì những vấp ngã khiến chúng con lớn lên,
thấy mình mong manh, thấy Cha rộng lượng.
Ước gì sau mỗi lần được Cha tha thứ,
chúng con lại thấy mình hiền hòa hơn với tha nhân. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
14 THÁNG BA
Hãy Đến Và Hãy Gặp
Nước hằng sống – nước đem lại sự sống đời đời – đã biến đổi cuộc sống của
người phụ nữ Sa-ma-ri-ta-nô ấy như thế nào? Nếu chúng ta xem xét sự chuyển biến
tâm linh của người phụ nữ này, chúng ta có thể thấy rằng cuộc gặp gỡ của chị với
Đức Kitô sản sinh hoa trái tâm linh rất lớn lao. Thực vậy, chúng ta có thể nhận
ra nơi chị một cuộc hoán cải đích thực – cuộc hoán cải đưa chị đến chỗ nhìn nhận
Đức Giêsu là Đấng Mê-si-a: “Các người hãy đến và hãy gặp con người đã nói với
tôi về tất cả những gì tôi đã làm! Chắc hẳn người ấy phải là Đấng Mê-si-a!” (Ga
4,29).
Người phụ nữ Sa-ma-ri-ta-nô ấy đã loan báo Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ cho
hàng xóm và bạn bè chị. Chị nói với họ về cuộc hoán cải của chị và về quyền
năng cứu độ của Đức Giêsu. “Ông ấy đã kể cho tôi về mọi sự mà tôi đã làm”. Chị
biểu lộ một nghị lực và niềm vui mới có sức thúc bách chị loan báo cho người
khác về sự thật và về ân sủng mà mình đã nhận được. “Các người hãy đến và hãy gặp”
– chị bảo họ như thế. Có thể nói, chị đã trở thành một sứ giả của Đức Kitô và của
Tin Mừng cứu độ, như trường hợp Maria Mác-đa-la vào buổi sáng ngày Phục Sinh.
Cũng vậy, chúng ta được mời gọi uống thứ nước hằng sống có thể thanh tẩy
tâm hồn ta và biến đổi cuộc sống ta. Và cũng vậy, chúng ta có thể trở thành những
sứ giả của Tin Mừng. Như trường hợp người phụ nữ Sa-ma-ri-ta-nô ấy, chúng ta
cũng phải để cho Đức Kitô đưa dẫn mình tới một cuộc khảo sát nghiêm túc lương
tâm mình, nhờ đó chúng ta có thể quay lưng lại với tội lỗi và được ngập tràn niềm
vui. Rồi chúng ta sẽ muốn chia sẻ cho người khác niềm vui về ơn cứu độ mà mình
đã lãnh nhận được nơi Đức Kitô.
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 14/3
Mk 7, 14-15.18-20;
Lc 15, 1-3.11-32.
Lời Suy Niệm: “Các người thu thuế và các người tôi lỗi đều lui tới với Đức Giêsu.”
Trong cuộc sống giữa xã hội hôm nay
không thiếu những con người tội lỗi đến với Giáo Hội của Chúa; mỗi người Kitô hữu
cần phải có tâm tình tiếp đón; với ánh mắt yêu thương; chứ đừng nghi ngờ họ với
những cái nhìn khó chịu và nghi ngờ.
Lạy Chúa Giêsu. Xin cho chúng con có
trái tim yêu thương và cởi mở của Chúa; để biết đón nhận nhau trong đại gia
đình Giáo Hội Chúa.
Mạnh Phương
14 Tháng Ba
Tôi Muốn Con Tôi Sống
“Tôi muốn con tôi sống” đó là lời của bà Suzanna Petrosyan đã thốt ra và
được báo chí nhắc lại. Thực ra, có bà mẹ nào lại không muốn con của mình được sống
đâu? Thế nhưng trường hợp của bà Petrosyan và đứa con gái 4 tuổi của bà không
giống như những trường hợp của nhiều bà mẹ khác, vì hai mẹ con bà này là nạn
nhân của cơn động đất khủng khiếp tại Armeni, thuộc liên bang Xô Viết hồi tháng
12 năm 1987.
Sau khi động đất, cũng giống như hàng ngàn người khác, cả hai mẹ con bà
Petrosyan đều bị lấp vùi dưới hàng trăm ngàn tấn gạch, đá và xi măng, nhưng họ
may mắn nằm lọt vào trong một khoảng trống nhỏ chỉ vừa đủ chỗ cựa quậy mà thôi.
Tất cả lương thực họ có chỉ là một hũ mứt và chẳng mấy chốc hũ mứt cũng hết sạch.
Lúc đó, cô gái 4 tuổi mới kêu: “Mẹ ơi, con khát quá. Mẹ cho con uống nước”.
Nhưng lấy nước đâu bây giờ? Tiếng kêu khát của con cứ tiếp tục làm cho bà mẹ vừa
đau lòng vừa lúng túng. Nhưng tình mẫu tử thiêng liêng đã gợi cho bà một ý nghĩ
táo bạo: đó là lấy những giọt máu cuối cùng của bà cho con uống để cầm cự với tử
thần. Lúc đó, người mẹ đáng thương mới lấy tay sờ sẫm và vớ được một miếng kính
bể. Bà lấy miếng kính cắt đầu ngón tay trỏ và đút ngón tay vào miệng con bảo
con mút. Em bé mút ngón tay của mẹ một lúc rồi nói: “Mẹ cắt một ngón tay nữa
cho con mút thêm”. Bà liền cắt một ngón tay nữa nhưng vì trời lạnh quá nên bà
không thấy đau đớn gì nữa… Sau khi được cứu sống, người đàn bà thuật lại rằng:
“Lúc đó, tôi biết thế nào tôi cũng chết, nhưng tôi muốn con tôi được sống”.
Tấm gương hy sinh cao cả của bà mẹ trên đây có thể gợi lên Tình Yêu của Ðấng
đã nói: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của kẻ thí mạng sống vì người
mình yêu”.
Cũng giống như một người mẹ sẵn sàng hy sinh đến giọt máu cuối cùng để
cho đứa con được sống. Chúa Giêsu cũng đã hy sinh chính mạng sống của mình cho
con người được sống. Sự sống thần linh mà Chúa Giêsu muốn thông ban cho con người
cũng chính là tình yêu của Ngài. Chịu treo trên thập giá, đổ ra cho đến giọt
máu cuối cùng, Chúa Giêsu chỉ muốn cho con người được sống và sống trong tình
yêu. Ai sống trong tình yêu, người đó đang sống thực sự, bởi vì người đó đang sống
trong Chúa.
Nhờ phép Rửa Tội, người Kitô chúng ta đang sống bằng sự sống của Thiên
Chúa. Ðó là kết quả của những giọt máu của Ðấng đã chịu chết vì chúng ta trên
thập giá… Những giọt máu thần linh ấy một cách nào đó, đang châu lưu trong
chúng ta. Máu ngừng chảy, máu không châu lưu, tình yêu không được san sẻ cho
người khác, cũng sẽ làm cho con người chết khô cằn… Bao lâu chúng ta khước từ
không san sẻ tình yêu cho người khác, chúng ta cũng chối bỏ chính tình yêu của
Chúa.
(Lẽ Sống)
Lectio Divina: Luca 15:1-3, 11-32
Saturday 14 March,
2020
Lectio Divina
Thứ Bảy Tuần II Mùa
Chay
1. Lời nguyện mở đầu
Lạy Chúa Cha Trung
Tín, Chúa là Thiên Chúa của chúng con
Chúa của ân sủng, lòng
thương xót và tha thứ.
Lạy Chúa, khi mà lòng
thương xót và tha thứ nghe có vẻ như thuộc về chế độ gia trưởng cho người thời
nay,
Thì lại khiến cho
chúng con nhận ra được,
Rằng Chúa thách thức
chúng con phải đối diện với chính mình
Và trở thành con người
mới,
Chịu trách nhiệm về số
phận của chính mình
Và vì hạnh phúc của
người khác.
Xin Chúa hãy làm cho
chúng con biết đáp trả lại tình yêu của Chúa
Nhờ Đức Giêsu Kitô,
Chúa chúng con.
2. Phúc Âm – Luca 15:1-3, 11-32
Khi ấy, những người
thu thuế và những người tội lỗi đến gần Chúa Giêsu để nghe Người giảng. Thấy vậy,
những người Biệt Phái và luật sĩ lẩm bẩm rằng: “Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi
và cùng ngồi ăn uống với chúng”. Bấy giờ Người phán bảo họ dụ ngôn này:
“Người kia có hai con
trai. Đứa em đến thưa cha rằng: ‘Thưa cha, xin cha cho con phần gia tài thuộc về
con’. Người cha liền chia gia tài cho các con. Ít ngày sau, người em thu nhặt tất
cả tiền của mình trẩy đi miền xa và ở đó ăn chơi xa xỉ, phung phí hết tiền của.
Khi nó tiêu hết tiền của,
thì gặp nạn đói lớn trong miền đó và nó bắt đầu cảm thấy túng thiếu. Nó vào
giúp việc cho một người trong miền, người này sai nó ra đồng chăn heo. Nó muốn
ăn những đồ heo ăn cho đầy bụng, nhưng cũng không ai cho. Bấy giờ nó mới hồi
tâm lại và tự nhủ: ‘Biết bao người làm công ở nhà cha tôi được ăn uống dư dật,
còn tôi, tôi ở đây phải chết đói! Tôi muốn ra đi, trở về với cha tôi và thưa
người rằng: “Lạy cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến cha; con không đáng được
gọi là con cha nữa, xin cha đối xử với con như một người làm công của cha”’. Vậy
nó ra đi và trở về với cha nó.
Khi nó còn ở đàng xa,
cha nó chợt trông thấy, liền động lòng thương; ông chạy lại ôm choàng lấy cổ nó
và hôn nó hồi lâu. Người con trai lúc đó thưa rằng: ‘Lạy cha, con đã lỗi phạm đến
Trời và đến cha; con không đáng được gọi là con cha nữa’. Nhưng người cha bảo
các đầy tớ: ‘Mau mang áo đẹp nhất ra đây và mặc cho cậu; hãy đeo nhẫn vào ngón
tay cậu, và xỏ giầy vào chân cậu. Hãy bắt con bê béo làm thịt để chúng ta ăn mừng,
vì con ta đây đã chết, nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy’. Và người ta bắt
đầu ăn uống linh đình.
Người con cả đang ở
ngoài đồng. Khi về gần đến nhà, nghe tiếng đàn hát và nhảy múa, anh gọi một tên
đầy tớ để hỏi xem có chuyện gì. Tên đầy tớ nói: ‘Đó là em cậu đã trở về và cha
cậu đã giết con bê béo, vì thấy cậu trở về mạnh khỏe’. Anh liền nổi giận và quyết
định không vào nhà. Cha anh ra xin anh vào, nhưng anh trả lời: ‘Cha coi, đã bao
nhiều năm con hầu hạ cha, không hề trái lệnh cha một điều nào, mà không bao giờ
cha cho riêng con một con bê nhỏ để ăn mừng với chúng bạn; còn thằng con của
cha kia, sau khi phung phí hết tài sản của cha với bọn điếm nay trở về, thì cha
lại sai làm thịt con bê béo ăn mừng nó’.
Nhưng người cha bảo:
‘Hỡi con, con luôn ở với cha, và mọi sự của cha đều là của con. Nhưng phải ăn
tiệc và vui mừng, vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy’”.
3. Suy Niệm
– Chương 15 của sách Tin Mừng Luca được kèm theo những
dữ kiện sau đây: “Những người thu thuế và những người tội lỗi, tất cả mọi người
đều vây quanh Chúa Giêsu để nghe Người giảng, và các người Biệt Phái và Kinh Sư
lẩm bẩm rằng: ‘Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi và ngồi ăn uống với chúng’ (Lc
15:1-3). Ngay lập tức, Luca trình bày ba dụ ngôn được kết lại với nhau bởi cùng
một chủ đề: con chiên lạc (Lc 15:4-7), đồng tiền bị đánh mất (Lc 15:8-10), đứa
con bị mất (Lc 15:11-32). Dụ ngôn cuối cùng này tạo thành chủ đề của bài Tin Mừng
hôm nay.
– Lc 15:11-13: Quyết định của người con thứ. Người
kia có hai con trai. Đứa em xin chia phần gia tài thuộc về nó. Người cha chia tất
cả gia tài cho hai con và cả hai đều nhận phần gia tài của chúng. Được nhận phần
thừa kế không phải vì bất cứ công trạng nào của chúng ta. Đó là món quà cho
không. Việc thừa kế những ân huệ của Thiên Chúa được phân chia cho tất cả nhân
loại, cho dù là dân Do Thái hay dân ngoại, cho dù là Kitô hữu hay không phải là
Kitô hữu. Tất cả mọi người đều nhận được một phần gia nghiệp của Chúa Cha.
Nhưng không phải tất cả ai cũng chăm sóc nó trong cùng một cách. Trong trường hợp
tương tự, đứa con thứ bỏ nhà và trẩy đi miền đất xa xôi, và phung phí tiền bạc
của mình vào cuộc sống trác táng, lìa xa người Cha. Vào thời thánh sử Luca, người
con cả được tượng trưng cho các cộng đoàn phát xuất từ Do Thái giáo, và người
con thứ được tượng trưng cho các cộng đoàn họp thành từ dân ngoại. Và ngày nay,
người con út là ai, và người con cả là ai?
– Lc 15:14-19: Ảo tưởng và ý chí quay trở về nhà Cha.
Nhu cầu sinh nhai khiến cho người thanh niên đánh mất sự tự do của mình và anh
ta trở thành người làm công và phải chăn heo. Đây là tình trạng đời sống của
hàng triệu người nô lệ trong Đế quốc La Mã vào thời thánh Luca. Tình huống khiến
người con thứ hồi tưởng lại cuộc sống ngày xưa ở nhà Cha mình. Cuối cùng, anh
ta nhủ thầm những lời mà anh ta sẽ nói với người Cha: “Lạy cha, con đã lỗi phạm
đến Trời và đến cha; con không đáng được gọi là con cha nữa, xin cha đối xử với
con như một người làm công của cha!” Người làm công làm theo lệnh của chủ, phải
hoàn thành bổn phận của người tôi tớ. Người con thứ muốn tuân thủ lề luật y như
người Biệt Phái và Kinh Sư của thời Chúa Giêsu muốn (Lc 15:1). Sứ vụ của người
Biệt Phái cáo buộc dân ngoại là những người đã cải đạo sang đạo Thiên Chúa của
ông Abraham (Mt 23:15). Vào thời của ông Luca, một số Kitô hữu xuất phát từ Do
Thái giáo, tự mang cái ách của Lề Luật vào mình (Ga 1:6-10).
– Lc 15:20-24: Niềm vui mừng của người Cha khi ông được
gặp lại người con thứ của mình. Dụ ngôn nói rằng khi người con thứ còn ở đàng
xa, mà người Cha đã trông thấy con mình, và chạy lại, ôm choàng lấy nó và hôn
nó. Chúa Giêsu cho chúng ta ấn tượng rằng người Cha vẫn luôn ở bên cửa sổ để
ngóng xem con mình có xuất hiện ở đầu ngõ không. Theo lối suy nghĩ và cảm xúc của
con người, niềm vui mừng của người Cha dường như được phóng đại. Thậm chí ông ấy
đã không để cho con mình nói hết những gì nó muốn nói. Không ai muốn nghe! Người
Cha không muốn con của ông trở thành kẻ nô lệ cho mình. Ông muốn nó là con của
ông! Đây là Tin Mừng tuyệt vời mà Chúa Giêsu đã đem đến cho chúng ta! Một chiếc
áo mới, giầy mới, nhẫn đeo vào tay nó, con bê, tiệc mừng! Trong niềm vui lớn
lao của việc gặp gỡ, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy nỗi buồn to lớn của người Cha
như thế nào vì sự mất mát con trai của ông. Thiên Chúa đã rất buồn và người ta
bây giờ đã ý thức được điều này, khi nhìn thấy niềm vui bao la của người Cha vì
được gặp lại con mình! Đó là niềm vui được chia sẻ với tất cả mọi người trong
tiệc mừng mà ông đã chuẩn bị sẵn sàng.
– Lc 15:25-28a: Phản ứng của người con cả. Người con
cả từ ngoài ruộng trở về và trông thấy trong nhà đang có yến tiệc linh đình.
Anh ta từ chối bước vào nhà. Anh ta muốn biết chuyện gì đang xảy ra. Khi được
biết lý do cho việc ăn uống linh đình, anh ta liền nổi giận và quyết định không
vào nhà. Anh ta tự cách biệt, anh ta nghĩ mình có quyền lợi riêng. Anh ta không
thích việc yến tiệc và không hiểu được lý do cho sự vui mừng của Cha mình. Đây
là dấu hiệu cho thấy anh ta đã không có sự gắn bó mật thiết với Cha, mặc dù thực
tế là họ sống trong cùng một nhà. Thật ra, nếu người con cả đã có liên hệ mật
thiết với Cha mình, thì anh ta đã nhận ra được nỗi muộn phiền của người Cha vì
mất đi người con thứ và sẽ hiểu được niềm vui mừng của ông khi thấy con mình trở
về. Những ai sống rất lo lắng về việc tuân giữ Lề Luật Thiên Chúa, có nguy cơ
quên chính Thiên Chúa! Người con thứ, dù rằng sống xa nhà, dường như biết về
Cha nhiều hơn người con cả là kẻ sống chung nhà với ông. Bởi vì người con thứ
đã có can đảm để quay trở về với Cha mình, trong khi đó người con cả thì lại
không muốn bước vào nhà Cha. Anh ta không ý thức được rằng không có anh ta, người
Cha sẽ mất đi niềm vui mừng. Bởi vì, anh ta, người con trưởng, cũng là con, giống
như người con thứ!
– Lc 15:28b-30: Thái độ của người Cha và
câu trả lời của người con cả. Người Cha đi ra và xin người con cả vào nhà.
Nhưng anh ta trả lời: “Cha coi, đã bao nhiêu năm con hầu hạ cha, không hề trái
lệnh cha một điều nào, mà không bao giờ cha cho riêng con một con bê nhỏ để ăn
mừng với chúng bạn; còn thằng con của cha kia, sau khi phung phí hết tài sản của
cha với bọn đàng điếm nay trở về, thì cha lại sai làm thịt con bê béo ăn mừng
nó”. Người con cả cũng muốn có một bữa tiệc và vui chơi, nhưng chỉ với nhóm bạn
riêng của anh ta thôi. Không muốn vui với em mình và càng không muốn với Cha
mình, và anh ta không gọi em mình là em, mà lại gọi “thằng con của cha kia”,
như thể rằng người con thứ không còn là em của anh ta nữa. Và anh ta, người con
cả, nói đến những cô gái mãi dâm. Đó là ác tâm mà anh ta diễn giải cuộc sống của
em mình theo cách này. Đã bao nhiêu lần, người Công Giáo chúng ta đã diễn giải
tồi tệ về đời sống và tôn giáo của các kẻ khác! Thái độ của người Cha thì ngược
lại! Ông chấp nhận người con thứ, nhưng cũng không muốn mất người con cả. Cả
hai đều là phần tử của gia đình. Người này không thể loại trừ người kia!
– Lc 15:31-32: Câu trả lời cuối cùng của người Cha.
Người Cha là người đã không chú ý đến lời đối đáp của người con thứ, thì trong
cùng một cách, ông cũng không màng đến những lời của người con cả và nói rằng:
“Hỡi con, con luôn ở với cha, và mọi sự của cha đều là của con. Nhưng phải ăn
tiệc và vui mừng, vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy!” Có
phải là người con cả đã thực sự nhận thức được rằng anh ta luôn ở bên Cha mình
và tìm thấy rằng sự hiện diện của anh ta là nguyên nhân cho niềm vui của cha
mình không? Câu nói: “Mọi sự của cha đều là của con!” cũng bao gồm cả người con
thứ là người đã quay về nhà! Người con cả không có quyền phân biệt, và nếu anh
ta muốn là con trai của người Cha, thì anh ta phải chấp nhận người cha như thế
và không như là người cha mà anh ta muốn! Câu chuyện dụ ngôn không nói đến câu
trả lời của người con cả ra sao sau đó. Điều đó tùy thuộc vào người con cả, mà
chúng ta là người ấy, cho câu trả lời!
– Những ai có kinh nghiệm về sự dạt dào đáng ngạc
nhiên và cho không về tình yêu Thiên Chúa trong đời sống của mình thì trở nên
vui vẻ và mong muốn được truyền bá niềm vui mừng này cho những người khác. Hành
động cứu độ của Thiên Chúa là nguồn mạch của sự vui mừng: “Hãy chung vui với
tôi!” (Lc 15:6-9). Và từ kinh nghiệm này về sự cho không của Thiên Chúa dấy lên
ý nghĩa của tiệc mừng và niềm vui (Lc 15:32). Vào cuối câu chuyện dụ ngôn, người
Cha đòi hỏi phải được hạnh phúc và ăn mừng, tiệc vui. Niềm vui mừng đang bị đe
dọa bởi người con cả, là người không muốn vào nhà. Anh ta nghĩ rằng mình có quyền
vui vẻ nhưng chỉ riêng với chúng bạn của mình và không muốn chia sẻ niềm vui mừng
với tất cả các thành viên của gia đình nhân loại. Anh ta đại diện cho những ai
tự coi mình là công chính và tuân giữ lề luật, và những ai nghĩ rằng họ không cần
bất kỳ một sự chuyển đổi nào.
4. Một vài câu hỏi gợi ý cho việc suy gẫm cá nhân
– Đâu là hình ảnh về Thiên Chúa mà tôi đã có từ thời
thơ ấu? Hình ảnh ấy có đã thay đổi trong những năm qua không? Nếu nó đã thay đổi,
tại sao?
– Trong hai người con, tôi nhận thấy mình giống người con
nào: người con thứ hay người con cả? Tại sao?
5. Lời nguyện kết
Chúc tụng CHÚA đi, hồn
tôi hỡi,
Toàn thân tôi, hãy
chúc tụng Thánh Danh!
Chúc tụng CHÚA đi, hồn
tôi hỡi,
Chớ khá quên mọi ân huệ
của Người.
(Tv 103:1-2)







Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét