15/03/2020
Chúa Nhật 3 Mùa
Chay năm A
(phần II)
Phụng Vụ Lời
Chúa: Chúa Nhật III Mùa Chay A
ĐỨC KITÔ, NGUỒN NƯỚC HẰNG SỐNG
“Ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa” (Ga 4,14)
I. CÁC BÀI ĐỌC
Kinh nghiệm sống đức
tin của người Kitô hữu tương tự như kinh nghiệm của Đức Giêsu được mô tả trong
hai bài Tin Mừng của Chúa Nhật I-II Mùa Chay, đó là trung thành tiến bước đến
cùng Chúa Cha để đạt đến cùng đích tối hậu là cuộc biến hình vinh hiển. Hành
trình này sẽ khả thể với một điều kiện: lắng nghe và bén rễ sâu trong lời Chúa
dạy, và chấp nhận những đòi hỏi từ đó. Phụng vụ của các Chúa Nhật mùa Chay tiếp
theo giúp người tín hữu sống lại những thời khắc quan trọng của đời mình, đó là
thời gian mà giờ đây những người dự tòng được trợ giúp nhận ra những đòi hỏi
thâm sâu để được biến đổi trở về với Đức Kitô, qua những dấu chỉ như nước, ánh
sáng và sự sống. Vì thế ba Chúa Nhật cuối của mùa Chay, theo truyền thống của
Giáo hội, được gọi là hành trình cho người dự tòng, bởi gắn liền với ba bài
giáo huấn được chuẩn bị dành riêng cho họ để chuẩn bị lãnh nhận bí tích rửa tội
trong đêm vọng Phục Sinh. Bởi thế, ba bài Tin Mừng cho ba Chúa Nhật được trích
từ Tin Mừng Gioan tương ứng với ba thời khắc quan trọng về niềm tin vào Đức
Giêsu:
-
Chúa Nhật III: Chúa Giêsu đối thoại với
người phụ nữ Samaria (Ga 4,5-42) - Đức Giêsu là nước hằng sống.
-
Chúa Nhật IV: Chúa Giêsu chữa người mù từ thuở mới sinh (Ga 9,1-41) - Đức Giêsu
là ánh sáng thế gian.
-
Chúa Nhật V: Chúa Giêsu làm cho anh Lazarô sống lại (Ga 11,1-45) - Đức Giêsu là
sự sống lại và là sự sống.
Trong Chúa Nhật III
này, phụng vụ Lời Chúa cách riêng giúp chúng ta sống lại kinh nghiệm nền tảng của
bí tích Rửa tội, với biểu tượng nước tái sinh, nước mang lại sự sống mới. Nước
còn là điểm hội tụ và gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người, trong đó ta sẽ bắt gặp
những thỉnh cầu của con người và sự đáp trả của Thiên Chúa. Vì thế cả ba bài đọc
Chúa Nhật III mùa Chay này đều đưa ra biểu tượng nước với ý nghĩa sâu xa của
nó.
1. Bài đọc 1 (Xh 17,3-7)
Theo truyền thống Kinh
Thánh, Thiên Chúa chính là nguồn nước hằng sống. Vì thế, một khi rời xa Người
cùng với những điều luật, con người sẽ gặp phải những hạn hán tồi tệ (x. Gr
2,12-13; 17,13). Trong hành trình đầy gian khó hướng về tự do nơi miền đất hứa,
trong cơn cháy khát của sa mạc, dân Israel đã thử thách Chúa, đòi Người phải ra
tay cứu giúp họ như là một quyền của họ, và họ đã than trách những việc làm của
Môsê và xem ông phải chịu trách nhiệm cho cuộc mạo hiểm không lối thoát này.
Dân chúng tiếc nuối về quá khứ và chối từ tương lai, xem đó như là một sự hão
huyền. Họ chiếm quyền của Thiên Chúa, đòi buộc Người phải ra tay làm dấu lạ để
giải quyết khó khăn của họ. Nhưng Thiên Chúa đã chối từ kiểu đòi hỏi này. Tuy vậy,
Thiên Chúa đã chứng minh là đã không bỏ mặc dân Người: Người đã bảo đảm cho họ
nguồn nước để giải cơn khát của họ để họ nhìn nhận nơi Người là Đấng cứu thoát
họ và để họ học biết tin tưởng vào Người.
2. Bài đọc 2 (Rm 5,1-2,5-8)
Bài đọc 2 làm rõ ý nghĩa
bài Tin Mừng. Lời hứa ban nước hằng sống trở thành hiện thực nơi sự Phục sinh của
Đức Giêsu, bởi từ cạnh sườn Người tuôn trào “máu và nước”. Con người Đức Giêsu
trở thành suối nguồn tuôn trào nước Thánh Thần, nghĩa là tình yêu của Thiên
Chúa đã đổ vào lòng chúng ta trong ngày lãnh nhận bí tích rửa tội. Tình yêu này
đã thanh tẩy và mang lại cho chúng ta sự sống mới ngay khi khi chúng ta còn
chưa có ý thức đáp trả. Nhờ ơn Chúa Thánh Thần chúng ta trở nên một với Đức
Kitô, con Thiên Chúa, trở thành những người thờ phượng Chúa Cha cách đích thật.
Vì thế, cuộc sống Kitô hữu là một kinh nghiệm sống tình con thảo với Thiên
Chúa. Bởi thế, như người nữ Samari, chúng ta cũng cần biết cảm nghiệm tình yêu
của Thiên Chúa dành cho ta và kể lại cho các anh chị em những điều mà Thiên
Chúa đã thực hiện nơi chúng ta, và cũng như những người đồng hương của chị,
chúng ta cùng chạy đến với Người để tuyên xưng rằng Người là Đấng cứu độ thế
gian, chính Người sẽ làm dịu mọi cơn khát của con người chúng ta.
3. Bài Tin Mừng
Trong bài Tin Mừng,
chúng ta thấy một người nữ Samari ra giếng Giacóp lấy nước vào buổi trưa: người
nữ này đang khát. Nơi đó ta cũng thấy Đức Giêsu sau một hành trình mệt nhọc,
Người ngồi bên giếng nước, từ tốn trò chuyện với người nữ Samari và nói với cô
ta: “xin chị cho tôi uống nước”, Đức Giêsu cũng đang khát. Nơi Đức Giêsu ta thấy
một con người đang khát và cần đến nước, và Người đã xin nước để uống. Thánh
Grêgôriô thành Naziazênô có nói: “Thiên Chúa khát con người để con người khát
Thiên Chúa”. Đức Giêsu khát nước, nhưng không chỉ thế, như Người nói tiếp ở
sau, đó là Người khát và đói thi hành ý muốn của Chúa Cha, và hoàn tất công
trình của Người” (x. Ga 4,34), đó là cứu tất cả mọi người bằng việc hiến tế
chính mình trên thánh giá. Ở đó Người lập lại lần cuối: “ta khát” và “mọi sự đã
hoàn tất”, và từ cạnh sườn Người máu và nước chảy ra (x. Ga 19,28-30). Ở đây Đức
Giêsu khao khát cứu người nữ Samari, bởi chính Người là nguồn nước hằng sống,
và người nữ này, mặc dù trải qua nhiều bối rối và ngạc nhiên, cuối cùng cũng
đón nhận hồng ân tái sinh bởi nước hằng sống mà Đức Giêsu ban cho, và từ đây chị
trở thành thụ tạo mới và không bao giờ còn khát nữa.
Thêm nữa, tảng đá mà
hôm xưa Môsê đã làm cho nước tuôn chảy ra là dấu chỉ của sự Quan phòng luôn đồng
hành với dân Người và ban sự sống. Thánh Phaolô trong thư I gởi cho Côrintô sau
này sẽ giải thích rằng tảng đá ấy là chính Đức Kitô, đã hoạt động cách huyền
nhiệm ngay từ những sự kiện đó: “Tất cả cùng uống một thức uống linh thiêng, vì
họ cùng uống nước chảy ra từ tảng đá linh thiêng vẫn đi theo họ. Tảng đá ấy
chính là Đức Kitô” (1Cr 4,1). Đức Kitô còn là Đền thờ, mà từ đó, theo các ngôn
sứ (x. Ed 47; Dcr 13,1), vọt lên nguồn nước, dấu chỉ của Thánh Thần, Đấng ban sự
sống. Ai khát có thể kín múc nơi Người cách nhưng không (x. Ga 7,37-39) và sẽ
không còn khát nữa, bởi chính Người sẽ trở thành một mạch nước vọt lên, đem lại
sự sống đời đời.
II. GỢI Ý SUY NIỆM
1. Thẳm sâu nơi con
người luôn chất chứa những khát vọng cháy bỏng về những giá trị nền tảng như
chân, thiện, mỹ cùng với những giá trị siêu nhiên. Và chính trong cơn khát đó,
giống như người nữ Samari, dù sống trong cảnh tội lỗi, nhưng tôi có ao ước đối
thoại cùng Chúa và mở lòng để đón nhận hồng ân hoán cải và những giá trị Người
ban để lấp đầy đời tôi không ?
2. Là những người Kitô
hữu đã lãnh nhận bí tích rửa tội, tôi có ý thức đang sở hữu nơi mình nguồn nước
trường sinh chính là Đức Kitô, nguồn mạch mọi ơn thánh tôi đang có, để tôi làm
mới lại nguồn nước ấy bằng chính đời sống canh tân của tôi không ?
3. “Họ ra khỏi thành
và đến gặp Người”. Để gặp gỡ Đức Kitô, Đấng cứu độ, các phụ nữ Samari đã rời khỏi
thành trì cố hữu của mình. Vậy với lời mời gọi canh tân đời sống, nhất là trong
Mùa Chay thánh này, tôi có dũng cảm rời khỏi thành trì của mình không ?
III. LỜI NGUYỆN
CHUNG
Chủ tế: Anh chị
em thân mến! Thiên Chúa yêu thương và muốn tặng ban cho chúng ta nguồn sống là
chính Con Một yêu dấu của Người. Trong tâm tình cảm tạ và với khao khát nên
công chính để được sự sống đời đời, chúng ta cùng hiệp ý dâng lời cầu nguyện:
1. Tình yêu Thiên Chúa
là nền tảng cho niềm cậy trông của con người. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi
thành phần Hội Thánh biết tận dụng thời gian của mùa Chay để sám hối trở về với
Chúa, và luôn là chứng tá sống động cho tình yêu của Chúa giữa thế giới hôm
nay.
2. Thiên Chúa muốn
nhân loại thức tỉnh và trưởng thành hơn qua thử thách. Chúng ta cùng cầu nguyện
cho mọi người trên thế giới đang phải đương đầu với dịch bệnh covid-19 biết ý
thức bảo vệ bản thân cũng như cộng đồng, và nỗ lực cộng tác với nhau hầu đẩy
lui dịch bệnh.
3. Nhờ đức tin và bí
tích Rửa tội, người ta được dẫn đưa vào đời sống ân sủng. Chúng ta cùng cầu
nguyện cho mọi kitô hữu biết ý thức củng cố và nuôi dưỡng đức tin, luôn gắn bó
mật thiết với Đức Kitô qua đời sống cầu nguyện và siêng năng lãnh nhận các bí
tích.
4. Thiên Chúa muốn
chúng ta thờ phượng Người trong thần khí và sự thật. Xin cho mọi người trong cộng
đoàn chúng ta ngày càng trưởng thành hơn trong đời sống đạo, luôn dấn thân
trong mọi sinh hoạt của cộng đoàn và tích cực tham gia các hoạt động bác ái xã
hội.
Chủ tế: Lạy
Chúa là Đấng cứu độ và là Cha chúng con, xin nhận lời chúng con cầu nguyện và
ban ơn Thánh Thần, giúp chúng con biết thờ phượng và phụng sự Chúa cho phải đạo,
hầu đáng được hưởng sự sống muôn đời mà Chúa hứa ban qua Đức Giêsu Kitô. Người
hằng sống và hiển trị muôn đời.
Sợi
Chỉ Đỏ Chúa Nhật 3 Mùa Chay Năm A
THEO CHÚA SẼ TỚI ĐƯỢC
NGUỒN NƯỚC HẰNG SỐNG
NGUỒN NƯỚC HẰNG SỐNG
“Ai uống nước
Tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa” (Ga 4,14)
Sợi chỉ đỏ :
– Bài đọc Cựu Ước :
Vâng lệnh Thiên Chúa, Môsê lấy gậy đập lên tảng đá, và nước đã vọt ra.
– Bài Tin Mừng :
Đức Giêsu nói với người phụ nữ Samari : “Ai uống nước tôi cho, sẽ không
bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước chảy
vọt, mang lại sự sống muôn đời”.
– Bài Thánh thư :
Thánh Phaolô giải thích “nước” ấy chính là Thánh Thần và tình yêu : “Thiên
Chúa đã đổ tình yêu vào lòng ta, nhờ Thánh Thần Ngài ban cho ta”.
Hôm nay chúng ta họp
nhau lại như dân do thái ngày xưa trong sa mạc. Họ đã trải qua nhiều gian khổ,
nhất là cái khổ thiếu nước. Trong sa mạc của cuộc sống ngày nay, chúng ta cũng
chịu nhiều gian khổ và cũng cảm thấy khát, khát vì biết bao ước vọng không được
thỏa mãn. Lời Chúa hôm nay cho biết Đức Giêsu là nguồn nước hằng sống. Vậy
chúng ta hãy đến với Ngài và mở rộng lòng ra để Ngài giải khát cho chúng ta.
– Như dân do thái ngày
xưa trong sa mạc, nhiều khi chúng ta cũng hoài nghi nghĩ rằng Thiên Chúa đã vắng
mặt.
– Như dân do thái ngày
xưa, nhiều lần chúng ta đã trách móc Thiên Chúa, nhất là khi Ngài không thỏa
mãn ước muốn của chúng ta.
– Chúng ta thường khao
khát những sự trần gian chứ không biết khao khát những điều thuộc về Thiên
Chúa.
Thiên Chúa đã giải
phóng dân Israel khỏi ách nô lệ Ai cập bằng những hành động diệu kỳ, nhất là biến
cố Thiên Thần vượt qua các gia đình do thái và biến cố vượt qua Biển. Ban đầu
dân Israel rất phấn khởi và sùng mộ Thiên Chúa. Nhưng những khổ cực và thiếu thốn
trong cuộc hành trình qua sa mạc đã dần dần khiến họ nản lòng : họ thường
càu nhàu, đòi trở lại Ai cập, nhiều khi còn nổi loạn. Tuy nhiên Thiên Chúa kiên
nhẫn đã dùng chính hoàn cảnh thiếu thốn ấy để giáo dục họ hiểu biết đâu là điều
thiết yếu trong cuộc sống.
– Điều thiết yếu thứ
nhất là đức tin : Ngài muốn họ tin rằng sự cứu rỗi của họ ở đàng trước chứ
không phải ở đàng sau : đàng trước là Đất hứa, đàng sau là ách nô lệ Ai cập.
Do đó họ có dám tin cậy vào Ngài để tiến tới phía trước không mặc dù hiện tại họ
chỉ thấy toàn khổ cực thiếu thốn. Hay họ thà quay lại đàng sau để sống kiếp nô
lệ với cơm thừa canh cặn ở Ai cập.
– Điều thiết yếu thứ
hai là đức cậy : từ trước tới nay Thiên Chúa chăm lo cho họ đủ mọi điều :
muốn bánh thì có manna, muốn thịt thì có chim cút. Nay Ngài để họ thiếu nước,
thế là niềm trông cậy của họ lung lay, họ hỏi một cách thách thức “Có thực có
Thiên Chúa hay không ?” Sở dĩ họ hỏi vậy là vì họ nghĩ rằng Thiên Chúa là
một kẻ có nhiệm vụ lo lắng cho họ. Nói cách khác, họ coi Thiên Chúa như một người
đối diện với họ (le vis à vis). Thực ra Thiên Chúa không phải là một người đối
diện, dù người đó có quyền lực bao nhiêu đi nữa. Thiên Chúa còn hơn thế nhiều.
Bài Tin Mừng hôm nay mạc khải Thiên Chúa thực ra là thế nào.
Thánh vịnh này nhắc lại
cuộc nổi loạn của dân do thái trong sa mạc khi họ thiếu nước. Chỉ vì khó khăn
trước mắt, họ đã quên hết biết bao việc kỳ diệu mà Thiên Chúa đã làm cho họ.
Thánh vịnh kêu mời con người nhớ lại những ơn lành của Thiên Chúa. Đó chính là
những tiếng kêu gọi của Ngài, mỗi người hãy nhận ra và ngoan ngoãn đáp lại.
– Đức Giêsu ban đầu
xin người phụ nữ Samaria cho Ngài uống nước, sau đó tự mặc khải Ngài chính là
Nước trường sinh “Ai uống nước này sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước
tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên đem lại sự sống đời đời”.
– Qua lời trên, Đức
Giêsu cho biết Thiên Chúa không phải là một kẻ đối diện mà là Đấng muốn ở tận
trong con người chúng ta, để làm thành một nguồn nước vọt ra sự sống muôn đời.
Ai tin vào Ngài và trông cậy nơi Ngài thì có Ngài ở trong người ấy. Ngài ấy sẽ
có một sức sống phong phú chẳng những cho chính bản thân mà còn cho người khác
nữa.
– Câu chuyện người phụ
nữ Samaria là một thí dụ điển hình : Khi bà đã tin vào Đức Giêsu thì bà trở
thành người loan Tin Mừng cho những người khác trong làng. Những người này ban
đầu tin vì nghe theo lời chị. Nhưng sau đó trong lòng họ cũng có một nguồn nước
sống. Họ nói “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính
chúng tôi đã nghe và biết rằng Ngài thật là Đấng cứu độ trần gian” : Đức
Kitô đã cự ngụ ngay trong lòng họ.
Thánh Phaolô là người
đã sống cái cảm nghiệm của người phụ nữ Samaria. Từ khi tin Đức Kitô, ngài đã
nói “Không phải tôi sống mà Đức Kitô sống trong tôi”. Với Đức Kitô sống trong
mình, thánh Phaolô đã trở thành một nguồn nước phong phú cứ muốn vọt ra. Ngài
đi khắp nơi loan báo Tin Mừng về Đức Giêsu Kitô. Mặc dù gặp bao gian khổ, Ngài
không thể không loan báo Tin Mừng ấy được.
Phaolô diễn tả nguồn
nước sống trong con người là :
– Thánh Thần :
“Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Ngài vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Ngài
ban cho chúng ta” (câu 5).
– Ơn sủng của Thiên
Chúa ban nhờ Đức Giêsu : “Ơn sủng nhờ một người duy nhất là Đức Giêsu
Kitô, còn dồi dào hơn (tội lỗi do Adam) biết mấy cho muôn người” (câu 15)
Chúng ta khao khát rất
nhiều điều :
– Khao khát chân lý vì
cuộc sống nhiều gian dối
– Khao khát tự do trong
một xã hội nhiều trói buộc
– Khao khát công bình
trong một môi trường đầy dẫy bất công
– Khao khát yêu thương
trong cuộc đời nhiều thù hận
– Khao khát hạnh phúc
trong cảnh sống bất hạnh
– Khao khát niềm tin
giữa cảnh đời nhiều nghi kỵ…
– v.v.
Tất cả những khao khát
đó đều là biểu hiện của một khát vọng thâm sâu : “Linh hồn con khao khát
Chúa Trời hằng sống”.
“Bên bờ giếng, có một
khách bộ hành mỏi mệt dừng chân. Chân lý đã vọt lên từ những lời ông ta nói.
Cũng bên bờ giếng đó, người phụ nữ nọ đã để lại cái vò nước của mình, bởi từ
nay nó chẳng giúp gì cho chị đón nhận hồng ân Thiên Chúa ban. Cái vò nước bỏ
quên đó sẽ mãi mãi nói với chúng ta về một người phụ nữ mà số phận từng bị giam
hãm trong đủ thứ công việc hằng ngày, trong những quan hệ chẳng tới đâu với một
loạt đời chồng, nay bỗng tìm thấy ý nghĩa cho đời mình qua cuộc gặp gỡ với Đức
Giêsu, qua những trao đổi với Người (…)
Như thế, chính qua những
chuyện của đời thường như ăn, uống, cuộc sống chung với một người đàn ông, cố gắng
quay về với Thiên Chúa… mà con người nghe được tiếng nói của Thánh Thần. Nhưng ở
đây và lúc này, Người lại đến như một ân ban qua những bất trắc khôn lường của
lời nói, qua thái độ chân thành của các bên đối thoại, qua những khoảnh khắc
thinh lặng để cho chân lý lên tiếng nói” (J.Cl. Giroud, được trích dịch bởi
Fiches dominicales, năm A, trang 86).
Những người Samari thờ
phượng Thiên Chúa trên núi Garizim. Những người do thái thờ phượng Thiên Chúa
trên núi Sion. Và hai bên tranh cãi với nhau, thù ghét nhau.
Phải chăng đó là những
chuyện đời xưa ? Không. Ngày nay vẫn có những người chỉ muốn dự Thánh lễ ở
nhà thờ này chứ không phải nhà thờ nọ ; và có rất nhiều người chỉ thờ phượng
Thiên Chúa trong nhà thờ mà thôi.
Đức Giêsu nói với người
phụ nữ Samari : “Đã đến giờ – và chính là lúc này – những người thờ phượng
đích thực sẽ thờ phượng trong thần khí và sự thật”. Thờ phượng “trong thần khí”
là thờ phượng theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần ; thờ phượng “trong sự
thật” là thờ phượng với tâm tình kết hợp với Đức Giêsu, Đấng đã xưng mình là đường,
là sự thật và là sự sống.
Nước vô cùng thiết yếu
cho sự sống. Không có nhà cửa, áo quần, người ta vẫn có thể sống. Không có ăn,
người ta vẫn còn sống một thời gian khá dài. Nhưng không có nước, người ta sẽ
chết sau một vài ngày.
Bởi thế, khi nói về
Thiên Chúa, Thánh Kinh thích dùng hình ảnh nước : Sách Sáng thế mô tả vườn
địa đàng có một con sông tỏa ra 4 nhánh mang nước đi nuôi sống các sinh vật ở 4
phương trời. Tổ tông loài người sống trong khu vườn dồi dào nước ấy đã rất hạnh
phúc. Nhưng rồi khi nguyên tổ phạm tội và bị đuổi khỏi vườn địa đàng thì cuộc sống
vô cùng vất vả trên đất đai khô cằn sỏi đá. Ngụ ý của tác giả đoạn sách Sáng thế
ấy là : khi con người sống trong tình thân với Thiên Chúa thì cũng giống
như sống bên nguồn nước tươi mát ; còn khi họ tách rời Thiên Chúa thì phải
khốn khổ như đang ở trong sa mạc khô cằn. Vì thế sách Khải huyền khi muốn diễn
tả hạnh phúc thời cứu độ đã vẽ lên hình ảnh một thành Giêrusalem mới, trong đó
cũng có một dòng sông hằng sống, nước sông tưới mát một cây hằng sống làm cho
nó trổ sinh hoa quả suốt 12 tháng quanh năm, trái cây cho người ta ăn, và lá
cây dùng làm thuốc chữa hết mọi chứng bệnh.
Người thiếu phụ xứ
Samari mặc dù đang ở bên giếng nước nhưng cõi lòng vẫn khát khao. Nàng thèm
khát một tình nghĩa đậm đà. Nàng tưởng rằng tình đời sẽ thỏa mãn được cơn khát ấy
nên nàng đã lăn xả vào những cuộc phiêu lưu tình ái. Nhưng đã trải qua 5 đời chồng
rồi, nay đã là đời chồng thứ 6 mà nàng vẫn còn khát. Chỉ sau khi gặp được Đức
Giêsu, trò chuyện với Ngài và được Ngài ban cho thứ nước siêu nhiên là tình
nghĩa với Chúa thì nàng mới hết khát. Nàng còn chạy vào làng rủ thêm nhiều người
đến với Đức Giêsu, nguồn nước hằng sống đích thực.
“Như nai rừng mong mỏi
Tìm về suối nước trong
Hồn con cũng trông
mông
Tìm đến Ngài, lạy
Chúa”
Ngày xửa ngày xưa có một
người ăn mày ngồi bên vệ đường để ăn xin, bên cạnh ông là một túi vải đựng vỏn
vẹn vài hạt lúa. Bỗng ông thấy chiếc xe chở Nhà Vua đang đi tới. Ông mừng lắm,
tự nhủ rằng thế nào Nhà Vua cũng bố thí nhiều tiền cho ông. Ông chạy ra đón đường
– Muôn tâu bệ hạ, xin
dủ lòng thương xót bố thí cho kẻ thần dân nghèo khổ này một ít tiền để sống qua
ngày.
Nhà vua xuống xe, đến
gần người ăn mày, và nói một câu khiến ông hết sức ngạc nhiên và thất vọng :
– Ông có thể dâng cho
hoàng thượng của ông một món quà gì không ?
Không cách nào từ chối
được, người ăn mày lục lọi trong túi vải một hạt lúa nhỏ nhất đưa cho nhà vua.
Khi nhà vua đi rồi,
người ăn mày tiếc rẻ mở túi vải ra đếm lại số hạt lúa của mình. Lạ thay, thay
vào chỗ hạt lúa đã cho đi là một hạt vàng sáng lóng lánh, cũng bằng y hạt lúa ấy.
Lúc đó người ăn mày vô cùng tiếc rẻ : phải chi mình cho hết những hạt lúa
đi thì bây giờ mình đã có một túi đầy những hạt vàng !
Ý nghĩa chuyện
này :
– người xin trở thành
người cho và người cho trở thành người nhận, như Đức Giêsu và người phụ nữ
Samaria vậy.
– chính lúc cho đi là
lúc nhận lãnh ; chính khi xẻ chia là khi trở nên giàu có.
CT : Anh chị em thân mến
Chúa ban cho chúng ta
những phương thế tuyệt hảo để chữa lành vết thương tội lỗi trong tâm hồn :
đó là ăn chay hãm mình, siêng năng cầu nguyện và chia sẻ cơm áo cho những anh
chị em nghèo khổ bất hạnh. Tin tưởng vào ơn Chúa trợ giúp, chúng ta cùng dâng lời
cầu nguyện.
1- Nước hằng sống Đức
Giêsu ban chính là Mặc Khải / là lời giáo huấn / là Thánh Thần của Ngài / Chúng
ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành phần trong Hội Thánh / để nhờ Chúa Thánh Thần
soi sáng / mọi người biết thành tâm trở về cùng Chúa / để đền bù những tháng
ngày bội nghĩa vong ân.
2- Hằng năm / ở nhiều
nơi trên thế giới / đặc biệt là tại những vùng đang có chiến tranh / đang gặp
thiên tai / dù được cứu trợ khẩn cấp / vẫn có một số khá đông người bị chết vì
đói khát / vì bệnh tật / do phải uống nước bị ô nhiễm trầm trọng / Chúng ta hiệp
lời cầu xin cho những ai đang gặp hoạn nạn / được giúp đỡ đầy đủ và kịp thời.
3- Chúa đã ban cho
người kitô hữu Mùa Chay thánh để đổi mới đời sống / Chúng ta hiệp lời cầu xin
cho hết mọi tín hữu / biết chuyên tâm cầu nguyện và làm nhiều việc lành phúc đức.
4- Giảm bớt chi
tiêu ăn uống / để chia cơm xẻ áo cho những anh chị em đói rách nghèo nàn / là
ưu tiên số một của người kitô hữu trong Mùa Chay này / Chúng ta hiệp lời cầu
xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết thực thi bác ái / không những trong
việc lớn / mà còn trong những chuyện nhỏ của đời sống hằng ngày.
CT : Lạy Chúa Giêsu, Chúa dạy chúng con phải thờ phượng
Chúa Cha trong thần khí và sự thật. Xin cho tất cả chúng con biết thờ phượng
Chúa cho phải đạo làm con. Chúng con cầu xin…
– Trước kinh Lạy
Cha : Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta nên đã đổ tràn Thánh Thần Ngài
vào lòng chúng ta. Trong tâm tình hiệp nhất với Thánh Thần Tình yêu ấy, chúng
ta hãy dâng lên Ngài lời Kinh Lạy Cha sau đây.
– Sau kinh Lạy
Cha : Chủ tế thêm đôi lời vào lời kinh sau đó “Lạy Chúa, xin cứu chúng
con khỏi mọi sự dữ, và giúp chúng con khỏi tái phạm tội lỗi, xin
đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an…”
Sau khi gặp được Đức
Giêsu, người phụ nữ Samari đã vui mừng chạy đi loan tin vui cho những người dân
làng. Anh chị em cũng đã gặp được Đức Giêsu. Bây giờ anh chị em hãy ra đi loan
tin mừng của Chúa cho mọi người mà anh chị em sẽ gặp gỡ hôm nay. Chúc anh chị
em được bình an.
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI
Lectio Divina: Chúa Nhật III Mùa Chay (A)
Chúa Nhật, 15 Tháng 3, 2020
Cuộc gặp gỡ của
Chúa Giêsu với người đàn bà xứ Samaria
Cuộc đối thoại mang
đến đời sống mới
Ga 4:5-42
1. Lời nguyện
mở đầu
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy sai Thần Khí Chúa đến giúp
chúng con đọc Kinh Thánh với cùng tâm tình mà Chúa đã đọc cho các môn đệ trên
đường Emmau. Với ánh sáng của Lời Chúa
trong Kinh Thánh, Chúa đã giúp các môn đệ khám phá ra được sự hiện diện của
Thiên Chúa trong nỗi đau buồn về bản án và cái chết của mình. Vì thế, cây thập giá tưởng như là sự kết thúc
của mọi niềm hy vọng, đã được mặc khải như là nguồn mạch của sự sống và sự sống
lại.
Xin Chúa hãy tạo trong chúng con sự thinh lặng để
chúng con có thể lắng nghe tiếng Chúa trong sự Tạo Dựng và trong Kinh Thánh,
trong các sự việc của đời sống hằng ngày và trong những người chung quanh, nhất
là những người nghèo khó và đau khổ.
Nguyện xin Lời Chúa hướng dẫn chúng con, để giống như hai môn đệ trên đường
Emmau, chúng con cũng sẽ hưởng được sức mạnh sự phục sinh của Chúa và làm chứng
cho những người khác rằng Chúa đang sống hiện hữu giữa chúng con như nguồn mạch
của tình anh em, của công lý và hòa bình.
Chúng con cầu xin vì danh Chúa Giêsu, con Đức Maria, Đấng đã mặc khải
cho chúng con về Chúa Cha và đã sai Chúa Thánh Thần đến với chúng con. Amen.
2. Bài Đọc
a) Chìa khóa để
mở bài Tin Mừng:
Đoạn Tin Mừng mô tả cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và
người đàn bà Samaria. Đó là một cuộc đối
thoại rất nhân bản, trong đó cho thấy làm cách nào Chúa Giêsu đã liên kết với
loài người và bằng cách nào mà Người đã tự học hỏi và trở nên phong phú khi nói
chuyện với người khác. Trong khi đọc đoạn
Tin Mừng, bạn hãy cố gắng để ý xem điều gì đã làm bạn ngạc nhiên nhất về thái độ
của Chúa Giêsu lẫn của người phụ nữ.
b) Phân đoạn
bài Tin Mừng để trợ giúp cho việc đọc kỹ càng:
Ga 4:5-6: Quang
cảnh nơi cuộc đối thoại diễn ra
Ga 4:7-26: Mô tả
cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và người đàn bà
7-15: Về nước
và khát
16-18: Về chồng
con và gia đình
19-25: Về tôn
giáo và nơi thờ phượng
Ga 4:27-28: Mô
tả tầm ảnh hưởng của cuộc đối thoại về phía người phụ nữ
Ga 4:31-38: Mô
tả sự ảnh hưởng của cuộc đối thoại về phía Chúa Giêsu
Ga 4:39-42: Mô
tả tầm ảnh hưởng về sứ vụ của Chúa Giêsu tại xứ Samaria
c) Phúc Âm:
5-6: Khi ấy,
Chúa Giêsu tới một thành gọi là Sykar, thuộc xứ Samaria, gần phần đất Giacóp đã
cho con là Giuse. Ở đó có giếng của
Giacóp. Chúa Giêsu đi đường mệt, nên ngồi
nghỉ trên miệng giếng, lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu.
7-15: Một người
đàn bà xứ Samaria đến xách nước. Chúa
Giêsu bảo: “Xin bà cho Tôi uống nước.” Lúc ấy, các môn đệ đã vào thành mua thức
ăn. Người đàn bà Samaria thưa lại: “Sao thế!
Ông là người Do Thái mà lại xin nước uống với tôi là người xứ
Samaria?” Vì người Do Thái không giao
thiệp gì với người Samaria. Chúa Giêsu
đáp: “Nếu bà nhận biết ơn của Thiên Chúa
ban và ai là người đang nói với bà :
‘Xin cho tôi uống nước’, thì chắc bà sẽ xin Người và Người sẽ cho bà nước
hằng sống.” Người đàn bà nói: “Thưa Ngài, Ngài không có gì để múc, mà giếng
thì sâu; vậy Ngài lấy đâu ra nước? Phải
chăng Ngài trọng hơn tổ phụ Giacóp chúng tôi, người đã cho chúng tôi giếng này
và chính người đã uống nước giếng này cũng như các con cái và đoàn súc vật của
người?” Chúa Giêsu trả lời: “Ai uống nước giếng này sẽ còn khát; nhưng ai
uống nước Ta sẽ cho thì không bao giờ còn khát nữa; vì nước Ta cho ai thì nơi
người ấy sẽ trở thành mạch nước vọt đến sự sống đời đời.” Người đàn bà thưa: “Thưa Ngài, xin cho tôi nước đó để tôi chẳng
còn khát và khỏi phải đến đây xách nước nữa.”
16-18: Chúa
Giêsu bảo: “Bà hãy đi gọi chồng bà rồi
trở lại đây.” Người đàn bà đáp: “Tôi không có chồng.” Chúa Giêsu nói tiếp: “Bà nói ‘tôi không có chồng’ là phải; vì bà
có năm đời chồng rồi, và người đàn ông đang chung sống với bà bây giờ không phải
là chồng bà, bà đã nói đúng đó.”
19-26: Người
đàn bà nói: “Thưa Ngài, tôi thấy rõ Ngài
là một tiên tri. Cha ông chúng tôi đã thờ
trên núi này, còn các ông, các ông lại bảo: phải thờ ở Giêrusalem.” Chúa Giêsu đáp: “Hỡi bà, hãy tin Ta, vì đã đến giờ người ta sẽ
thờ phượng Chúa Cha, không phải ở trên núi này hay ở Giêrusalem. Các người thờ Đấng mà các người không biết,
còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ từ dân Do Thái mà đến. Nhưng đã đến giờ, và chính là lúc này những kẻ
tôn thờ đích thực, sẽ thờ Chúa Cha trong tinh thần và chân lý đó chính là những
người tôn thờ mà Chúa Cha muốn. Thiên
Chúa là tinh thần, và những kẻ tôn thờ Người, phải tôn thờ trong tinh thần và
trong chân lý.” Người đàn bà thưa: “Tôi biết Đấng Mêssia mà người ta gọi là Kitô
sẽ đến, và khi đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự.” Chúa Giêsu bảo: “Đấng ấy chính là Ta, là người đang nói với
bà đây.”
27-30: Vừa lúc
đó các môn đệ về tới. Các ông ngạc nhiên
thấy Người nói chuyện với một người đàn bà.
Nhưng không ai dám thưa: “Thầy hỏi
bà ta điều gì?” hoặc “Tại sao Thầy nói chuyện với người đó?” Bấy giờ người đàn bà để vò xuống, chạy về
thành bảo mọi người rằng: “Mau hãy đến
xem một ông đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Phải chăng ông đó là Đấng Kitô?” Dân chúng tuôn nhau ra khỏi thành và đến cùng
Người, trong khi các môn đệ giục Người mà rằng:
“Xin mời Thầy ăn.” Nhưng Người
đáp: “Thầy có của ăn mà các con không biết.” Môn đệ hỏi nhau: “Ai đã mang đến cho Thầy ăn rồi chăng?” Chúa Giêsu nói: “Của ăn Thầy là làm theo ý Đấng đã sai Thầy
và chu toàn công việc Ngài, các con chẳng nói:
‘còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt’ đó ư?’ Nhưng Thầy bảo các con hãy đưa mắt mà nhìn
xem đồng lúa chín vàng đã đến lúc gặt.
Người gặt lãnh công và thu lúa thóc vào kho hằng sống, và như vậy kẻ
gieo người gặt đều vui mừng. Đúng như
câu tục ngữ: ‘Kẻ này gieo, người kia gặt.’ Thầy sai các con đi gặt những gì các con
không vất vả làm ra; những kẻ khác đã khó nhọc còn các con thừa hưởng kết quả
công lao của họ.”
39-42: Một số
đông người Samaria ở thành đó đã tin Người vì lời người đàn bà làm chứng rằng: “Ông ấy đã nói với tôi mọi việc tôi đã
làm.” Khi gặp Người, họ xin Người ở lại
với họ; và Người đã ở lại đó hai ngày.
Và vì nghe chính lời Người giảng dạy, số những kẻ tin ở Người thêm đông
hẳn. Họ bảo người đàn bà: “Giờ đây, không phải vì những lời chị kể lại
mà chúng tôi tin, nhưng chính chúng tôi đã được nghe lời Người và chúng tôi biết
Người thật là Đấng Cứu Thế.”
3. Giây
phút thinh lặng cầu nguyện
Để cho Lời Chúa có thể thấm nhập và soi sáng đời sống
chúng ta.
4. Một vài
câu hỏi gợi ý
Để giúp chúng ta trong việc suy gẫm và cầu nguyện.
a) Điều gì đã
thu hút sự chú ý của bạn nhất trong thái độ của Chúa Giêsu đối với người đàn bà
trong cuộc đối thoại? Chúa Giêsu đã xử dụng
phương pháp gì để giúp người đàn bà nhận thức được về một khía cạnh sâu xa hơn
của đời sống?
b) Điều gì đã
thu hút sự chú ý của bạn nhất về thái độ của người đàn bà Samaria trong cuộc đối
thoại với Chúa Giêsu? Bà ta đã ảnh hưởng
đến Chúa Giêsu bằng cách nào?
c) Chỗ nào
trong phần Cựu Ước, nước được xem như có liên hệ với ân sủng của đời sống và ân
sủng của Chúa Thánh Thần?
d) Thái độ của
Chúa Giêsu trong cuộc trò chuyện nêu vấn đề với tôi hoặc đụng chạm tới điều gì
đó trong tâm hồn tôi hay sửa đổi tôi như thế nào?
e) Người đàn
bà Samaria đã lái câu chuyện hướng về đề tài tôn giáo. Nếu bạn có cơ hội gặp gỡ Chúa Giêsu giữa đàng
và trò chuyện với Người, thì bạn muốn nói về chuyện gì? Tại sao?
f) Tôi có tôn
thờ Thiên Chúa trong tinh thần và trong chân lý không hay là tôi chỉ đi tìm sự
an toàn cho bản thân trong các nghi thức và luật lệ?
5. Chìa
khóa dẫn đến bài đọc
Dành cho những ai muốn đào sâu vào chủ đề
a) Biểu tượng của
nước:
* Chúa Giêsu
dùng chữ nước theo hai nghĩa. Nghĩa đầu
tiên chỉ về vật chất, ý nghĩa thông thường của nước là một trong những thức uống;
ý nghĩa thứ hai là sự biểu tượng cho nguồn mạch sự sống và ân sủng của Chúa
Thánh Linh. Chúa Giêsu xử dựng một ngôn
ngữ mà người ta có thể hiểu được, và đồng thời, thức tỉnh trong lòng họ ước muốn
đào sâu và khám phá ra ý nghĩa sâu sắc hơn của đời sống.
* Ý nghĩa biểu
tượng của nước có nguồn gốc từ trong Cựu Ước, nơi mà nước thường là biểu tượng
cho tác động của Chúa Thánh Thần trong người ta. Ví dụ, tiên tri Giêrêmia so sánh mạch nước với
nước trong bể chứa (Gr 2:13). Nước trong
bể chứa càng được lấy ra, thì bể càng có ít nước đi; nước càng được lấy từ suối
nước hằng sống, thì suối càng có nhiều nước hơn. Các bản văn khác từ Cựu Ước: Is 12:3; 49:10;
55:1; Êd 47:1-3. Chúa Giêsu biết rõ các
phong tục tập quán của dân tộc mình và Người đã dùng những truyền thống này
trong cuộc đối thoại của Chúa với người đàn bà Samaria. Đề nghị dùng ý nghĩa biểu tượng của nước,
Chúa đã đề nghị với người đàn bà ấy (và với các độc giả) một số các đoạn và từ
ngữ khác nhau trích từ Cựu Ước.
b) Cuộc đối thoại
giữa Chúa Giêsu và người đàn bà:
* Chúa Giêsu gặp
người đàn bà tại giếng nước, một nơi mà theo tục lệ dành cho các cuộc gặp gỡ và
trò chuyện (St 24:10-27; 29:1-14). Chúa
Giêsu bắt đầu câu chuyện từ nhu cầu thực sự riêng của Người bởi vì Người đang
khát. Người làm điều này trong một cách
mà người đàn bà cảm thấy Chúa đang cần nhờ vả đến bà và bà ấy đã múc nước cho
Người. Chúa Giêsu đã khiến bà ta chú ý đến
nhu cầu của Người. Từ câu hỏi của Chúa,
Người tạo cơ hội cho người đàn bà nhận thức rằng Chúa đang trông nhờ vào bà cho
Người ít nước để uống. Chúa Giêsu đã thức
tỉnh trong bà ấy lòng mong muốn giúp đỡ và phục vụ.
* Cuộc trò chuyện
giữa Chúa Giêsu và người đàn bà có hai mức độ:
(i) Mức độ bên
ngoài, trong ý nghĩa vật chất của nước là làm giảm cơn khát của một người nào
đó, và trong ý nghĩa thông thường về một người chồng như là người cha của gia
đình. Ở cấp độ này, cuộc trò chuyện trở
nên căng thẳng, khó hiểu và không suông sẻ.
Người đàn bà Samaria chiếm lợi thế hơn.
Lúc đầu, Chúa Giêsu cố gắng để bắt chuyện với bà ta bằng cách nói về
công việc hằng ngày (lấy nước), nhưng Người không thành công. Sau đó, Người cố chuyển qua về chuyện gia cảnh
(hãy đi gọi chồng bà), và vẫn không có kết quả.
Cuối cùng, người đàn bà nói về chuyện tôn giáo (nơi thờ phượng). Chúa Giêsu sau đó đã vào được tâm hồn bà ấy
thông qua cánh cửa mà chính bà ấy đã mở.
(ii) Mức độ sâu
hơn, trong ý nghĩa biểu tượng của nước là hình ảnh của cuộc sống mới được Chúa
Giêsu mang lại và biểu tượng người chồng là biểu tượng của sự hợp nhất của
Thiên Chúa với người ta. Ở mức độ này,
cuộc trò chuyện trôi chảy hoàn hảo. Sau
khi mặc khải cho biết rằng chính Người là Đấng ban cho nước của đời sống mới,
Chúa Giêsu bảo: “Bà hãy đi gọi chồng bà
rồi trở lại đây”. Trong quá khứ, người
dân Samaria có năm đời chồng, hoặc năm tượng thần, thuộc năm nhóm người đã bị
đi đày bởi vua Assyria (2V 17:30-31).
Người chồng thứ sáu, là người đàn ông mà người phụ nữ đang chung sống,
cũng không hẳn là chồng bà ta: “Người
đàn ông đang chung sống với bà bây giờ không phải là chồng bà” (Ga 4:18). Những gì dân chúng đã không đáp trả theo lòng
mong muốn sâu thẳm nhất của họ: kết hiệp
với Thiên Chúa, như người chồng kết hiệp với người phối ngẫu của mình (Is 62:5;
54:5). Người chồng thật sự, người thứ bảy,
là Chúa Giêsu, như đã được hứa bởi ngôn sứ Hôsê: “Ta sẽ lập với ngươi một hôn ước
vĩnh cửu, Ta sẽ lập hôn ước với ngươi trong công minh và chính trực, trong ân
tình và xót thương; Ta sẽ lập hôn ước với ngươi trong tín thành, và ngươi sẽ được
biết Đức Chúa.” (Hs 2:21-22). Chúa Giêsu
là chàng rể đã đến (Mc 2:19) mang lại cuộc sống mới cho người phụ nữ đã đi tìm
kiếm nó trong suốt cả cuộc đời, và cho đến bây giờ, chưa bao giờ tìm thấy. Nếu người ta chấp nhận Chúa Giêsu như “người
chồng”, họ sẽ đến được với Thiên Chúa ở bất cứ nơi nào, cả trong tinh thần và
trong chân lý (các câu 23-24).
* Chúa Giêsu
nói với người đàn bà Samaria là Chúa khát nhưng Người lại không uống nước. Đây là một dấu hiệu cho thấy chúng ta đang
nói về sự khát nước tượng trưng, có liên hệ đến sứ vụ của Người: nỗi khao khát thực hiện ý của Chúa Cha (Ga
4:34). Nỗi khao khát này luôn hiện diện
trong Chúa Giêsu và tồn tại với Người cho đến khi chết. Trước lúc sinh thì, Người nói: “Ta khát” (Ga 19:28). Chúa nói về cái khát của mình lần cuối cùng
và để cho Người có thể nói: “Thế là đã
hoàn tất.” Rồi Người gục đầu xuống và
trao Thần Khí (Ga 19:30). Sứ vụ của Người
đã được hoàn thành.
c) Sự quan trọng
của người phụ nữ trong Tin Mừng của thánh Gioan:
* Trong Phúc Âm
của thánh Gioan, điểm đặc trưng của người phụ nữ được nổi bật bảy lần, là sự dứt
khoát cho việc truyền bá Tin Mừng. Các
người phụ nữ được giao cho những chức năng và nhiệm vụ, mà một số trong đó theo
các sách Tin Mừng khác, được thuộc về nam giới:
- Tại tiệc cưới
ở Cana, thân mẫu của Chúa Giêsu nhận ra các giới hạn của Cựu Ước và những sự khẳng
định lề luật của Tin Mừng: “Người bảo
gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2:1-11).
- Người phụ nữ
Samaria là người đầu tiên đã được mặc khải bởi Chúa Giêsu về điều bí mật lớn, rằng
Người là Đấng Mêssia. “Đấng ấy chính là
Ta, là người đang nói với bà đây” (Ga 4:26).
Bà ấy sau đó đã trở thành người loan báo Tin Mừng của xứ Samaria (Ga
4:28-30; 39-42).
- Người phụ nữ,
kẻ bị gọi là người ngoại tình, tại thời điểm nhận được sự tha thứ của Chúa
Giêsu, đã trở nên vị thẩm phán của một xã hội phụ hệ (hoặc của quyền lực nam giới)
đã tìm cách lên án bà ta (Ga 8:1-11).
- Trong các
sách Tin Mừng khác, chính thánh Phêrô là người đã tuyên xưng long trọng đức tin
vào Chúa Giêsu (Mt 16:16; Mc 8:29; Lc 9:20).
Trong Tin Mừng của thánh Gioan, bà Máctha, chị của Maria và Lazarô, là
người tuyên xưng đức tin (Ga 11:27).
- Bà Maria, em
gái của bà Máctha, xức dầu thơm vào chân Chúa Giêsu là có ý dành cho ngày mai
táng Người (Ga 12:7). Vào thời Chúa
Giêsu, người đã chết trên thập giá không được chôn cất hay được tẩm liệm. Bà Maria đã dự tính việc xức dầu của thi thể
Chúa Giêsu. Điều này có nghĩa là bà đã
chấp nhận Chúa Giêsu là Đấng Mêssia – Người Tôi Tớ Đau Khổ, người đã phải chết
trên thập giá. Ông Phêrô đã không chấp
nhận điều này (Ga 13:8) và đã tìm cách can ngăn Chúa Giêsu không đi vào con đường
này (Mt 16:22). Bằng cách này, bà Maria
được trình bày như là một mẫu mực cho các môn đệ khác.
- Dưới chân cây
thập giá, Chúa Giêsu nói: “Thưa Bà, đây
là con của Bà; và đây là mẹ của con” (Ga 19:25-27). Giáo Hội được sinh ra tại chân thập giá. Đức
Maria là mẫu mực cho cộng đoàn Kitô hữu.
- Bà Maria
Mađalêna phải đi loan báo Tin Mừng cho các môn đệ (Ga 20:11-18). Bà nhận lãnh một mệnh lệnh mà nếu không có mệnh
lệnh này thì tất cả các mệnh lệnh khác được trao cho các tông đồ sẽ không có hiệu
lực hoặc giá trị nào.
* Đức Maria,
thân mẫu của Chúa Giêsu, xuất hiện hai lần trong Tin Mừng của thánh Gioan: vào lúc bắt đầu, tại tiệc cưới ở Cana (Ga
2:1-5), và vào lúc cuối, dưới chân cây thập giá (Ga 19:25-27). Trong cả hai trường hợp, Bà đại diện cho Cựu
Ước đang chờ đợi sự xuất hiện của Tân Ước, và trong cả hai lần, đều hỗ trợ cho
sự xuất hiện. Đức Maria kết hợp những gì
đã đi trước với những gì sẽ đến sau đó.
Tại Cana, chính Bà, thân mẫu Chúa Giêsu, biểu tượng của Cựu Ước, người
đã nhận thấy những giới hạn của nó nên đã tiến hành những bước để cho Tân Ước sẽ
đến. Vào giờ lâm chung của Chúa Giêsu,
chính thân mẫu của Chúa Giêsu đã đón nhận “người Môn Đệ Chúa Yêu”. Trong trường hợp này Người Môn Đệ Chúa Yêu là
cộng đoàn mới, đã phát triển chung quanh Chúa Giêsu. Đó là người con đã được sinh ra từ Cựu Ước. Để đáp lại lời yêu cầu của Chúa Giêsu, người
con, Tân Ước, đón Người Mẹ, Cựu Ước, vào nhà mình. Cả hai phải cùng đồng hành với nhau. Tân Ước không thể được hiểu thấu nếu không có
Cựu Ước. Nó giống như một tòa nhà không
có nền móng. Cựu Ước mà không có Tân Ước
thì sẽ thiếu sót. Nó giống như cái cây
mà không có trái.
6. Thánh Vịnh
19 (18):
Thiên Chúa nói với chúng ta qua thiên nhiên và qua
Kinh Thánh
Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa,
không trung loan báo việc tay Người làm.
Ngày qua mách bảo cho ngày tới,
đêm này kể lại với đêm kia.
Chẳng một lời một lẽ, chẳng nghe thấy âm thanh,
mà tiếng vang đã dội khắp hoàn cầu
và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển.
Chúa căng lều cho thái dương tại đó,
thái dương xuất hiện như tân lang rời khỏi loan phòng,
và vui sướng lên đường như tráng sĩ.
Từ chân trời này, thái dương xuất hiện,
rồi chuyển vần mãi đến chân trời kia,
chẳng có chi tránh khỏi ánh dương nồng.
Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn.
Thánh ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên
khôn.
Huấn lệnh Chúa hoàn toàn ngay thẳng, làm hoan hỷ cõi
lòng.
Mệnh lệnh Chúa xiết bao minh bạch, cho đôi mắt rạng ngời.
Lòng kính sợ Chúa luôn trong trắng, tồn tại đến muôn đời.
Quyết định Chúa phù hợp chân lý, hết thảy đều công
minh,
thật quý báu hơn vàng, hơn vàng y muôn lượng,
ngọt ngào hơn mật ong, hơn mật ong nguyên chất.
Nên tôi tớ Ngài đây xin ra công học hỏi;
ai giữ những điều này sẽ được nhiều lợi ích.
Nhưng nào ai thấy rõ các lầm lỗi của mình?
Xin Ngài tha các tội con phạm mà chẳng hay.
Xin cũng giữ cho tôi tớ Ngài khỏi kiêu ngạo,
đừng để tính xấu này thống trị con.
Như thế con sẽ nên vẹn toàn
không còn vương trọng tội.
Lạy Chúa là núi đá cho con trú ẩn,
là Đấng cứu chuộc con, cúi xin Ngài vui nhận
bấy nhiêu lời miệng lưỡi thân thưa,
và bao tiếng lòng con thầm thĩ
mong được thấu đến Ngài.
7. Lời nguyện
kết
Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ Chúa vì những Lời
của Chúa đã trao ban để giúp chúng con có thể hiểu cặn kẽ hơn Thánh ý của Chúa
Cha. Nguyện xin Chúa Thánh Thần soi sáng
cho những việc chúng con đang làm và ban cho chúng con sức mạnh để chúng con có
thể thực thi Lời Chúa đã mặc khải cho chúng con. Chúng con nguyện xin được giống như Đức
Maria, mẹ Người, không những chỉ lắng nghe mà còn thực hành Lời Chúa. Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Đức
Chúa Cha trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét