16/03/2020
Thứ hai tuần 3 Mùa
Chay
BÀI ĐỌC I: 2 V 5, 1-15a
"Có nhiều người phong cùi
trong Israel, nhưng không có một người nào trong bọn họ được chữa lành, mà chỉ
có Naaman, người Syria".
Trích sách Các Vua
quyển thứ hai.
Trong những ngày ấy, Naaman, tướng đạo binh của vua xứ Syria, là người có
uy thế đối với vua và được tôn trọng, vì Chúa đã dùng ông mà cứu dân Syria; ông
còn là người hùng mạnh và giàu có, nhưng lại mắc bịnh phong cùi. Lúc bấy giờ một
vài toán dân Syria bắt một thiếu nữ ở đất Israel dẫn về để hầu hạ bà Naaman. Cô
ta nói với bà chủ: "Chớ chi ông chủ tôi đến gặp vị tiên tri ở Samaria, chắc
chắn vị tiên tri ấy sẽ chữa ông khỏi phong cùi". Naaman đến tâu vua rằng:
"Cô nhỏ xứ Israel đã nói thế này thế này". Vua xứ Syria liền nói:
"Khanh hãy đi, trẫm sẽ gởi cho vua Israel một bức thơ". Naaman ra đi,
mang theo mười lạng bạc, sáu ngàn nén vàng và mười bộ áo. Ông trao cho vua
Israel bức thơ nội dung như sau: "Khi bức thơ này đến tay nhà vua, nhà vua
biết tôi sai Naaman, tôi tớ tôi, đến với nhà vua, để xin nhà vua chữa ông khỏi
phong cùi".
Sau khi đọc bức thơ, vua Israel liền xé áo và nói: "Ta có phải là
Chúa, có thể giết chết và cho sống hay sao mà vua ấy gởi người đến xin ta chữa
lành phong cùi? Các ngươi thấy không, vua ấy tìm cớ hại Ta đó". Khi
Êlisêô, người của Thiên Chúa, nghe tin vua Israel đã xé áo mình, nên sai người
đến tâu vua rằng: "Tại sao nhà vua lại xé áo? Ông ấy cứ đến với tôi thì sẽ
biết trong Israel có một vị tiên tri".
Naaman lên xe ngựa đi, và dừng lại trước cửa nhà Êlisêô. Tiên tri nói với
Naaman rằng: "Ông hãy đi tắm bảy lần ở sông Giođan, thì da thịt ông sẽ được
lành sạch". Naaman nổi giận bỏ đi nói rằng: "Tôi tưởng ông ấy ra đón
tôi và đứng trước tôi kêu cầu danh Chúa là Thiên Chúa của ông, rồi đặt tay lên
chỗ phong cùi của tôi và chữa tôi lành mạnh. Các con sông Abana và Pharphar ở
Đamas không sạch hơn các con sông ở Israel để tôi tắm và được lành sạch hay
sao?" Ông trở về lòng đầy tức giận.
Các đầy tớ của ông đến nói với ông rằng: "Thưa cha, vị tiên tri có
yêu cầu cha làm một việc lớn lao thì cha cũng phải làm. Phương chi bây giờ người
bảo cha: 'Hãy đi tắm, thì được sạch' ". Naaman xuống tắm bảy lần ở sông
Gio-đan như lời tiên tri, người của Thiên Chúa dạy, da thịt ông lại trở nên tốt
như da thịt của đứa trẻ, và ông được sạch.
Sau đó ông và đoàn tuỳ tùng trở lại gặp người của Thiên Chúa. Đến nơi,
ông đứng trước mặt người của Thiên Chúa và nói: "Thật tôi biết không có
Thiên Chúa nào khác trên hoàn vũ, ngoài một Thiên Chúa ở Israel". Đó là lời
Chúa.
ĐÁP CA: Tv 41, 2. 3, và
Tv 42, 3. 4
Đáp: Hồn con
khát Chúa Trời, Chúa Trời hằng sống, ngày nào con được tìm về ra mắt Chúa Trời?
(x. Tv 41, 3)
1) Như nai rừng khát mong nguồn nước, hồn con khát Chúa, Chúa Trời ôi! -
Đáp.
2) Hồn con khát Chúa Trời, Chúa Trời hằng sống, ngày nào con được
tìm về ra mắt Chúa Trời? - Đáp.
3) Xin chiếu giãi quang minh và chân thực của Chúa, để những điều
đó hướng dẫn con, đưa con lên núi thánh và cung lâu của Ngài. - Đáp.
4) Con sẽ tiến tới bàn thờ Thiên Chúa, đến cùng Thiên Chúa làm cho
con được hoan hỉ, mừng vui. Với cây cầm thụ con sẽ ca ngợi Chúa, ôi Chúa là
Thiên Chúa của con. - Đáp.
CÂU XƯỚNG TRƯỚC PHÚC
ÂM: Tv 129, 5 và 7
Con trông cậy Chúa,
con mong đợi lời hứa của Chúa, vì nơi Chúa sẵn có lòng từ bi và chan chứa ơn cứu
độ.
PHÚC ÂM: Lc 4, 24-30
"Như Elia và Elisêô, Chúa
Giêsu không phải chỉ được sai đến người Do-thái mà thôi đâu".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo thánh Luca.
(Khi Chúa Giêsu đến thành Nadarét, Ngài nói với dân chúng tụ họp trong hội
đường rằng): "Quả thật, Ta bảo các ngươi, chẳng có một tiên tri nào được
tiếp đón tử tế ở quê hương mình. Ta bảo các ngươi, chắc hẳn trong thời Elia có
nhiều bà goá ở Israel, khi trời hạn hán và một nạn đói lớn hoành hành khắp nước
suốt ba năm sáu tháng, nhưng Elia không được sai đến với một người nào trong bọn
họ, mà chỉ được sai đến với một bà goá ở Sarépta xứ Siđôn thôi. Cũng có nhiều
người phong cùi trong Israel thời tiên tri Elisêô, nhưng không một người nào
trong bọn họ được chữa lành, mà chỉ có Naaman, người Syria".
Vừa nghe đến đó, mọi người trong hội đường đều đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy,
đẩy Người ra khỏi thành và dẫn Người đến một triền đồi, nơi họ xây thành, để xô
Người xuống vực. Nhưng Người tiến qua giữa họ mà đi. Đó là lời Chúa.
Suy Niệm: Quê Hương Ngược
Ðãi Chúa
Một trong những cuốn phim do diễn
viên tài ba về kịch câm, Marxel Marxor thủ diễn có kể câu chuyện như sau:
Một thanh niên đang lim dim đôi
mắt tận hưởng những giây phút tắm nắng tuyệt vời trong một ngày đẹp trời. Nhưng
rồi bỗng nhiên niềm vui của anh bị gián đoạn do tiếng ồn ào của đám trẻ, tiếng
chó, tiếng người qua lại và cả tiếng chim hót. Mọi tiếng động đều có nguyên do
và niềm vui riêng của nó. Tuy nhiên, đối với chàng thanh niên, tất cả đã trở
thành cực hình.
Ðể chống lại sự phiền muộn ấy,
anh ta xây quanh mình một bức tường ngăn cách âm thanh. Mỗi tiếng động vụt tới
là mỗi lần anh gắng sức xây, cứ thế mà bức tường lớn dần, cao dần cho đến khi
ngưng tất cả mọi tiếng động thì bức tường ấy che mất ánh nắng mặt trời tuyệt vời
kia. Bức tường thành một chiếc mồ giam chặt, nhốt kín anh vào trong đó.
Anh chị em thân mến!
Dân tộc Do thái cũng đã được tắm gội ánh sáng. Ðó là niềm tin được trao từ
tổ phụ Abraham. Tuy nhiên, vì tự mãn và ích kỷ, họ đã hành động chẳng khác gì
chàng thanh niên trên. Không chịu mở lòng đón nhận, khiến niềm tin của họ trở
thành khô cằn mất sức sống, xây lên bức tường để bảo vệ mình, hóa ra tự hại lấy
mình. Chúa Giêsu đã chỉ trích thái độ này qua bài Tin Mừng của thánh Luca (Lc
4,24-30).
Anh chị em thân mến!
Người Do thái trong hội đường Nazareth đã tìm cách hãm hại Chúa Giêsu khi
Ngài lên tiếng chê trách niềm tin của họ. Có lẽ ai trong chúng ta cũng bất bình
về việc làm của những người này. Nhưng kỳ thực trong cuộc sống, lắm lúc chúng
ta đã sao chép lại nguyên bản việc làm ấy: tự hào là người Kitô hữu, là người nắm
giữ niềm tin, nhưng rồi với một mớ lễ nghi hình thức, niềm tin trong chúng ta
chỉ là ngọn đèn leo lét chực tắt trước gió. Chỉ là thân cây mất hết nhựa sống
chờ ngày gẫy đổ. Ðây là một thứ niềm tin mà Ðức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn
Văn Thuận, tác giả tập sách "Ðường Hy Vọng" đã nhắc nhở:
"Nhiều người nói: "Tôi có đức tin, tôi còn đức tin". Có lẽ
đức tin là đức tin của giấy khai sinh, không phải là đức tin của đời sống. Con
đừng bao giờ mãn nguyện với một đức tin hình thức và lý thuyết. Nhưng con phải
sống một đức tin chân thật và trung thành. Tự mãn với chính mình mà không chịu
mở lòng đón nhận, khiến người Do thái đã mất Chúa Giêsu, nền tảng của niềm tin,
Ðấng mà họ đang ngóng chờ".
Cũng thế, Kitô hữu nếu chỉ đóng khung trong những nghi thức, tuân giữ luật
lệ, thì sớm muộn gì họ cũng xa rời đức tin là nguồn mạch sự sống. Vì sống là
gì, nếu không là một sự thay đổi luôn luôn. Con người sẽ chết khi một hệ tuần
hoàn không lưu chuyển, hay hệ thần kinh không vận động. Ðối với đức tin cũng vậy,
luôn luôn đòi hỏi một sự trao đổi với Thiên Chúa và với anh em.
Nếu đối với người Kitô hữu, tin trước hết là được cứu rỗi, được tha thứ,
được yêu thương vô cùng. Chúa không phải là Ðấng bắt con phải kính mến, nhưng
Chúa là Ðấng mà con phải để cho Ngài yêu thương con vô cùng. Nắm được đức tin,
con phân biệt đâu là đường hy vọng của tâm hồn tông đồ, đâu là lối chết của thế
gian. Tin là chấp nhận Chúa Giêsu vô điều kiện và quyết tâm sống chết với Ngài.
Quyết tâm sống chết với Ðức Kitô cần có một thao thức tìm kiếm. Quyết tâm
sống chết với Ðức Kitô đòi buộc phải trao đổi, cảm thông với anh em, vì Ngài
đang hiện diện trong những người anh em ấy.
Lạy Chúa, trong Mùa Chay thánh này, xin cho con được biết trở về. Trở về,
trước hết chính ngay căn bản niềm tin của con. Một đức tin không có cùng trong
những hiểu biết lý thuyết hoặc những nguyên tắc nghi lễ, nhưng biết mở rộng tâm
hồn để đón nhận, để rồi con sẽ hiểu đâu là ý nghĩa đích thực của đời sống đức
tin. Amen.
Veritas Asia
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Thứ Hai Tuần III MC
Bài đọc: II Kgs 5:1-15a; Lk 4:24-30.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Không
một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình.
Con người thường dễ nản chí tức giận, sau khi đã cố gắng hết sức để yêu
thương lo lắng cho người thân yêu, mà họ vẫn vô tâm và làm cho mình phải đau khổ
hơn nữa. Các Bài Đọc hôm nay nói lên những đối xử vô ơn tệ bạc của con người với
Thiên Chúa.
Trong Bài Đọc I, Sách Các Vua II tường thuật sự kiện tiên tri Elisha chữa
khỏi bệnh cùi cho Naaman, tướng Syria. Mặc dù là một người Dân-ngọai và kẻ thù
của Israel, nhưng ông đã thú nhận “không có một Thiên Chúa nào khác trừ Thiên
Chúa của Israel.” Trong Phúc Âm, mặc dù Chúa Giêsu đã dùng lịch sử để vạch ra sự
vô ơn và hậu quả của sự cứng lòng, người Do-Thái vẫn ngoan cố không chịu sửa đổi,
còn mang Chúa lên đỉnh núi và xô Ngài xuống vực thẳm.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Tiên tri Elisha chữa Naaman
khỏi bệnh cùi.
1.1/ Hai con người Israel, hai niềm tin:
(1) Người nữ tỳ của vợ ông Naaman: Cô không ghét chủ vì đã bắt mình làm
nô lệ; trái lại, cô còn muốn sự tốt lành cho chủ, kẻ thù của Israel. Cô tuyệt đối
tin tưởng và hy vọng nơi Thiên Chúa sẽ chữa lành qua tiên-tri Elisha. Đây là một
hành động nguy hiểm; vì nếu Naaman không khỏi, cô sẽ mất mạng vì đã đánh lừa
ông.
(2) Vua Israel: luôn ở trong tình trạng nghi ngờ và sợ sệt người khác muốn
làm hại mình. Khi vua Israel đọc xong thư của vua Aram thì xé áo mình ra và
nói: "Ta đâu có phải là vị thần cầm quyền sinh tử, mà ông ấy lại sai người
này đến nhờ ta chữa hắn khỏi bệnh phung hủi? Các ngươi phải biết, phải thấy rằng
ông ấy muốn sinh sự với ta." Là vua trong nước, mà vua chẳng biết, và chắc
cũng chẳng quan tâm có tiên-tri Elisha, người của Thiên Chúa có quyền năng chữa
bệnh, đang ở trong nước mình. Chính tiên-tri Elisah, khi nghe biết là vua
Israel đã xé áo mình ra, thì sai người đến nói với vua: "Sao vua lại xé áo
mình ra? Người ấy cứ đến với tôi, thì sẽ biết là có một ngôn sứ ở Israel."
1.2/ Niềm tin của Naaman được củng cố bởi các đầy tớ của ông.
(1) Phải khiêm nhường: Kiêu ngạo vì muốn giữ thể diện hay vì tự ái dân tộc
là những lý do làm con người không nhận ra và không lãnh nhận được hồng ân
Thiên Chúa. Ông Naaman tức giận vì tiên-tri Elisha không thân hành ra tiếp ông,
nhưng qua sứ giả. Ông cần người tiên tri làm ơn, chứ tiên tri đâu có cầu ơn ông
đâu mà phải thân hành ra tiếp. Điều vô lý nữa là ông Naaman đã có sẵn trong đầu
những gì tiên tri phải làm để chữa ông, và tức giận khi tiên-tri không làm như
thế. Đã bao nhiêu lần chúng ta cũng có sẵn những ý tưởng trong đầu và muốn
Thiên Chúa cũng như tha nhân phải thi hành như vậy để giúp ta! Sau cùng, ông
cũng hãnh diện hão về các con sông trong xứ sở của mình: “Nước các sông Avana
và Pharpar ở Damascus chẳng tốt hơn tất cả nước sông ở Israel sao? Ta lại không
thể tắm ở các sông ấy để được sạch hay sao?"
(2) Phải bình tĩnh để nhận ra điều đơn giản (common sense) của cuộc sống:
Có những điều quá thông thường mà khi con người nóng giận, họ sẽ không nhìn ra.
Khi thấy chủ mình tức tối bỏ về, các tôi tớ của ông đến gần và nói: "Cha
ơi, giả như ngôn sứ bảo cha làm một điều gì khó, cha có thể có lý do không làm!
Đàng này ngôn sứ chỉ nói: Ông hãy đi tắm, thì sẽ được sạch!" Nhận ra sự
nóng giận vô lý của mình, ông xuống dìm mình bảy lần trong sông Jordan, theo lời
người của Thiên Chúa. Da thịt ông lại trở nên như da thịt một trẻ nhỏ. Ông đã
được sạch.
(3) Naaman tuyên bố niềm tin vào Thiên Chúa: Cùng với đoàn tuỳ tùng, ông
trở lại gặp người của Thiên Chúa. Lần này Ông vào, đứng trước mặt tiên-tri và
nói: "Nay tôi biết rằng: trên khắp mặt đất, không đâu có Thiên Chúa, ngoại
trừ ở Israel.”
Điều trớ trêu là một tướng ngọai bang, kẻ thù của Do-thái lại có đức tin
hơn một ông vua của Do-thái. Ông tin vào một nữ tỳ và lặn lội lên đường đi tìm
đến người của Thiên Chúa là tiên-tri Elisha. Ông được chữa lành và tuyên xưng
niềm tin của ông vào Thiên Chúa.
2/ Phúc Âm: Không một ngôn sứ nào được chấp
nhận tại quê hương mình.
2.1/ Chúa dạy dân bài học lịch sử: Trình thuật hôm nay tiếp tục tường thuật
cuộc trở về Nazareth, quê hương của của Chúa Giêsu. Sau khi đọc Sách tiên-tri
Isaiah, khán giả đồng hương ngồi xuống, và Chúa bắt đầu rao giảng. Thay vì là một
cuộc vinh quy bái tổ, họ bắt đầu khinh thường Chúa. Ngài mời họ nhìn lại lịch sử
để đừng tái diễn những điều không nên làm. Người nói tiếp: "Tôi bảo thật
các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình.” Chúa Giêsu dẫn
chứng lời Ngài nói bằng hai ví dụ:
(1) Tiên-tri Elijah cho hũ bột của bà góa tại Zarepta, Sidon, không cạn:
"Thật vậy, tôi nói cho các ông hay: vào thời ông Elijah, khi trời hạn hán
suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội, thiếu gì bà goá ở trong nước
Israel; thế mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến
giúp bà goá thành Zarepta miền Sidon.”
(2) Tiên-tri Elisha chữa Naaman, tướng Syria, khỏi bệnh cùi: “Cũng vậy,
vào thời ngôn sứ Elisah, thiếu gì người phong hủi ở trong nước Israel, nhưng
không người nào được sạch, mà chỉ có ông Naaman, người xứ Syria thôi."
2.2/ Lịch sử tái diễn: “Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ.
Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành - thành này được xây trên núi. Họ kéo Người
lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực. Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi.”
- Không giống Naaman, họ không kiềm chế được tính kiêu ngạo, nóng giận. Họ
nghĩ là Chúa Giêsu xúc phạm tới danh dự dân tộc của họ. Thực sự, Chúa Giêsu chỉ
muốn giúp họ nhìn ra sự thật; nhưng họ từ chối không làm.
- Không giống Naaman, họ không nhìn ra những đơn giản của cuộc sống. Lịch
sử dạy con người những bài học quí giá: Hãy nhìn gương của những người đi trước;
nếu họ làm những quyết định khôn ngoan sinh lợi ích, hãy bắt chước; nếu họ làm
những quyết định điên rồ, đừng bắt chước họ làm như vậy.
Điều trớ trêu là cũng một Bà gốc Phoenician, có con gái bị quỉ ám ở
Sidon, kiên nhẫn tin tưởng vào Chúa Giêsu đến độ câu trả lời của Bà làm Chúa
Giêsu phải ngạc nhiên và chữa lành con gái Bà: “Vâng, nhưng chó con cũng được
ăn những thứ từ trên bàn của chủ rơi xuống!” Trong khi những người đồng hương với
Chúa, đã không tin tưởng, còn tức giận xô Chúa xuống vực thẳm! Sự thật phũ
phàng, khó tin, nhưng vẫn đang xảy ra!
ÁP DỤNG TRONG CUỘC
SỐNG:
- Khi nào chúng ta cảm thấy nản chí, muốn bỏ cuộc trong việc yêu thương
và giúp dỡ người khác; hãy nhớ Lời Chúa nói: “Không một ngôn sứ nào được chấp
nhận tại quê hương mình.”
- Nếu Chúa đã làm ơn và bị đối xử như thế, chúng ta là môn đệ Ngài cũng
phải đồng chịu số phận. Nhớ rằng chúng ta chưa chịu vô ơn đến độ treo thân trên
Thập Giá.
- Điều này giúp mở mắt chúng ta để nhận ra những hồng ân Thiên Chúa và những
sự giúp đỡ của tha nhân không ngừng đổ trên ta; để đừng bao giờ đối xử vô ơn tệ
bạc với người thi ơn như vậy.
Lm. Anthony ĐINH MINH
TIÊN,OP.
16/03/20 thứ hai tuần 3 mc
Lc 4,24-30
Lc 4,24-30
Gắn bó với chúa
Họ đứng dậy lôi Người ra khỏi thành-thành này được xây trên
núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực. (Lc 4,29)
Suy niệm: Người Do Thái có lòng tự hào dân tộc rất cao và lòng tự hào này có
gốc rễ tôn giáo sâu xa. Họ ý thức mình là dân của Chúa, được Chúa chọn riêng. Đối
với họ, không một dân tộc nào được chia sẻ ân huệ của Thiên Chúa như đã ban cho
dân tộc họ. Họ độc quyền đối với ơn Chúa. Vì thế họ cũng rất đau về những trường
hợp mình bị ‘ra rìa’ như điều đã xảy ra cho bà goá thành Xa-rép-ta thời Ê-li-a
và chuyện ngôn sứ Ê-li-sa chữa cho quan Na-a-man người Xy-ri khỏi phong cùi.
Người Do Thái chắc chắn không vui khi Đức Giê-su nhắc lại những chuyện này. Họ
càng không vui, thậm chí phẫn nộ, vì Đức Giêsu hàm ý rằng họ đang ‘ra rìa’ một
lần nữa, do chính họ bưng tai bịt mắt trước những lời nói và hành động cứu độ của
Ngài.
Mời Bạn: Bi kịch của người Do Thái là bài học lớn cho chúng ta, những Ki-tô
hữu hôm nay: Chúa ban cơ hội cách hào phóng, nhưng không phải ai cũng tận dụng
được cơ hội trong tầm tay mình. Kẻ đi trước có khi phải về sau; kẻ ở trong đôi
lúc hoá thành người ngoài! Người ta bắt hụt ‘chuyến tàu’ vì không chịu nổi sự
quấy rầy của những tiếng nói ngôn sứ, của chính lương tri mình; và vì người ta
tìm mọi cách dập tắt những tiếng nói ấy đi.
Sống Lời Chúa: Lặp lại nhiều lần trong ngày sống một câu Lời Chúa và quyết tâm sống
theo.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, xin cho con đừng bao giờ dại dột đi tìm an ổn bằng
cách gạt Chúa ra khỏi đời con. Xin cho con hết lòng mến yêu và phục vụ Chúa tận
tụy trong mỗi công việc.
(5 phút Lời Chúa)
Băng qua giữa họ mà
đi
Đức Giêsu chẳng bao giờ coi thường Nazareth, quê nhà của mình. Nhưng sứ mạng
của Ngài trải rộng hơn Nazareth nhiều.
Suy niệm:
Trong Mùa Chay Giáo Hội cho chúng ta nghe
về kết cục khá bất ngờ và đau đớn của Đức Giêsu
khi Ngài trở về với hội đường của làng Nazareth thân quen.
Nơi đây Ngài gặp lại những người đồng hương.
Họ ngỡ ngàng trước những lời Ngài giảng.
Họ muốn Ngài làm những điều Ngài đã làm ở Caphácnaum (Lc 4, 23).
Nhưng Đức Giêsu đã đáp lại bằng câu tục ngữ:
“Không một ngôn sứ nào được chấp nhận nơi quê nhà của mình” (c. 24).
Đức Giêsu tự nhận mình là một ngôn sứ.
Như những ngôn sứ khác trong lịch sử Israel,
Ngài cũng không được đón nhận và tin tưởng bởi những người cùng quê.
Họ nghĩ mình đã quá biết Ngài, biết gia tộc, biết nghề nghiệp,
biết quá khứ từ ấu thơ đến lúc trưởng thành.
Chính cái biết ấy, đúng nhưng không đủ,
lại trở thành một chướng ngại cho việc họ nhận ra Ngài thật sự là ai.
“Ông này không phải là con ông Giuse sao?” (Lc 4, 22).
Đúng Ngài là con ông Giuse, một người thợ mộc.
Đúng ngài là ông thợ mộc độc thân người làng Nazareth.
Giêsu Nazareth là tên được ghi trên thập tự,
Nazareth sẽ mãi mãi đi với tên Ngài để phân biệt ngài với những Giêsu
khác.
Đức Giêsu chẳng bao giờ coi thường Nazareth, quê nhà của mình.
Ngài quen biết những khuôn mặt trong hội đường này và yêu mến họ.
Nhưng sứ mạng của Ngài trải rộng hơn Nazareth nhiều.
Ngài cho thấy mình không bị trói buộc bởi mối dây làng xã,
cũng không bị giữ chân bởi những người đồng bào cùng tôn giáo.
Để biện minh cho thái độ rộng mở của mình,
Đức Giêsu đã nhắc đến hành động của hai vị ngôn sứ thời Cựu Ước.
Êlia, vị ngôn sứ đầy quyền năng, được Thiên Chúa sai đến với một bà góa.
Bà này là một người dân ngoại sống ở Siđôn vùng dân ngoại.
Êlisa, vị ngôn sứ học trò của Êlia, đã chữa bệnh phong cho Naaman.
Ông này là người dân ngoại, chỉ huy đạo quân của Syria.
Như thế các vị ngôn sứ nổi tiếng đã không bị bó hẹp trong dân Do thái.
Họ đã mở ra với dân ngoại.
Đức Giêsu cũng chẳng bị giới hạn bởi bất cứ biên cương nào.
Ngài chẳng dành cho quê nhà Nazareth một ưu tiên nào.
Phải chăng vì thế mà Ngài làm họ phẫn nộ đến độ muốn xô Ngài xuống vực?
Nỗi đe dọa lại đến từ chính những người đồng hương.
Làm sao chúng ta nhận ra và chấp nhận những ngôn sứ bề ngoài rất bình thường
đang sống trong cộng đoàn chúng ta hôm nay?
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
dân làng Nazareth đã không tin Chúa
vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công.
Các môn đệ đã không tin Chúa
khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự.
Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa
chỉ vì Chúa sống như một con người,
Cũng có lúc chúng con không tin Chúa
hiện diện dưới hình bánh mong manh,
nơi một linh mục yếu đuối,
trong một Hội thánh còn nhiều bất toàn.
Dường như Chúa thích ẩn mình
nơi những gì thế gian chê bỏ,
để chúng con tập nhận ra Ngài
bằng con mắt đức tin.
Xin thêm đức tin cho chúng con
để khiêm tốn thấy Ngài
tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống.
Lm Antôn Nguyễn
Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
16 THÁNG BA
Luân Lý Tính Phải Được Đo Lường Bằng Thước Đo Của
Thiên Chúa
Xuyên qua việc tuân giữ Thập Giới, con người sẽ
trở nên tốt. Con người sẽ mặc lấy phẩm tính của Thiên Chúa. Còn nếu không tuân
giữ Thập Giới, con người sẽ sa vào hành động xấu. Như vậy, Thập Giới trao cho
chúng ta chuẩn mực để đo lường hành vi và đo lường chính cuộc sống của chúng
ta. Trong tư cách là con người – có thể chọn lựa giữa cái đúng và điều sai – phẩm
giá của chúng ta được nối kết một cách trực tiếp với sự vâng phục của chúng ta
đối với luật luân lý của Thiên Chúa.
Vâng phục luật luân lý – đó không chỉ là một vấn
đề cá nhân mà còn là một vấn đề xã hội. Nó cho chúng ta biết Thiên Chúa muốn
chúng ta sống với tha nhân như thế nào. Nó hình thành cho chúng ta một tiêu chuẩn
sống. Nó cho ta biết phải làm sao để bảo vệ và tôn trọng phẩm giá của người
khác cũng như của mình. Qua đó, nó giải phóng người ta khỏi sự trói buộc của sự
dữ. Đây không phải là chuyện hoa hòe, ‘tùy hỉ’chút nào; mà đây là vấn đề hết sức
chủ yếu. Đấng trao ban Thập Giới là Thiên Chúa Gia-vê, là Đấng đã dẫn đưa con
cái It-ra-en ra khỏi đất Ai-cập, ra khỏi tình cảnh nô lệ.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
16 Tháng Ba
Cuộc Săn Thỏ
Ðức hồng Y Carlo Martini,
nguyên viện trưởng trường Kinh Thánh tại Roma và hiện là tổng giám mục Milano
bên Italia, đã ghi lại trong quyển chú giải về Phúc Âm Thánh Gioan, câu chuyện
sau đây:
Vào thế kỷ thứ ba, trong
Giáo hội có vấn đề các tu sĩ ào ạt rời bỏ cuộc sống tu trì... Ðể giải thích cho
hiện tượng này, một thầy dòng nọ đã đưa ra hình ảnh của một đàn chó đi săn thỏ.
Một chú chó trong đàn đã bất chợt nhận ra một con thỏ. Thế là chú nhanh nhẩu rời
đàn chó và vừa chạy theo con thỏ vừa sủa inh ỏi. Không mấy chốc, mấy chú chó
khác cũng rời hàng ngũ để chạy theo. Và cứ thế cả đàn chó bỗng chạy ùa theo. Tất
cả mọi con chó đều chạy, nhưng kì thực chỉ có một con chó là đã phát hiện ra
con thỏ.
Sau một lúc săn đuổi, chú chó nào cũng mệt lả, cho nên từ từ bỏ cuộc, bởi vì đa số đã không được nhìn thấy con thỏ. Chỉ duy chú chó đầu tiên đã phạt hiện ra con thỏ là tiếp tục đeo đuổi cuộc săn bắt.
Sau một lúc săn đuổi, chú chó nào cũng mệt lả, cho nên từ từ bỏ cuộc, bởi vì đa số đã không được nhìn thấy con thỏ. Chỉ duy chú chó đầu tiên đã phạt hiện ra con thỏ là tiếp tục đeo đuổi cuộc săn bắt.
Vị tu sĩ đãđưa ra kết luận
như sau: "Ðã có rất nhiều tu sĩ đi theo Chúa, nhưng kỳ thực chỉ có một hoặc
hai vị là đã thực sự thấy Chúa và hiểu được họ đang đeo đuổi điều gì. Số khác
chạy theo vì đám đông hoặc vì họ nghĩ rằng họ đang làm được một điều tốt. Nhưng
kỳ thực họ chưa bao giờ thấy Chúa. Cho nên khi gặp khó khăn thử thách, họ bắt đầu
chán nản bỏ cuộc".
Cuộc sống của người Kitô chúng ta có lẽ cũng sẽ
ví được với một cuộc săn thỏ... Ở khởi đầu, ai trong chúng ta cũng hăm hở ra
đi, ai trong chúng ta cũng đều làm rất nhiều cam kết, nhưng một lúc nào đó, khi
không còn thấy gì đến trước mắt nữa, chúng ta bỏ cuộc buông xuôi... Ða số trong
chúng ta hành động theo sự thúc đẩy của đám đông mà không cần tìm hiểu lý do của
việc làm chúng ta. Người ta lập gia đình mà không hiểu đâu là cam kết của đời sống
hôn nhân. Người ta gia nhập đoàn thể này, đoàn thể nọ, chúng ta cũng hăng hái
tham gia mà không cân nhắc kỹ lưỡng các lý do tại sao chúng ta tham dự. Và biết
đâu, người ta đi nhà thờ, chúng ta cũng đi nhà thờ mà không bao giờ tự hỏi tại
sao chúng ta đi nhà thờ. Người ta đi xưng tội rước lễ, chúng ta cũng đi xưng tội
rước lễ mà có lẽ chưa bao giờ đặt ra câu hỏi nghiêm chỉnh tại sao chúng ta làm
như thế... Dĩ nhiên, Ðức Tin của chúng ta cần phải được nâng đỡ từ gia đình, xã
hội, bởi người khác. Nhưng chúng ta không thể quên được rằng trước hết Ðức Tin
là một cuộc gặp gỡ cá vị giữa mỗi người và Thiên Chúa, Ðức tin là một cuộc hành
trình trong đó mỗi con người phải tự thấy con đường mình đang đi... Chúng ta
không thể sống đạo, giữ đạo vì người khác. Người Kitô có một đồng phục chung là
Ðức Ái, nhưng cuộc sống của mỗi người không phải vì thế mà được đúc sẵn theo một
khuôn mẫu, theo những công thức có sẵn, theo những lôi cuốn của đám đông.
Trong cuộc hành trình Ðức Tin, chúng ta cùng đồng
hành với người khác, nhưng mỗi người cần phải thấy rõ địa điểm mình đang đi tới.
Có thấy rõ như thế, mỗi khi gặp mệt mỏi, chông gai thử thách, chúng ta mới có
thể kiên vững tiếp tục tiến bước.
(Lẽ sống)
Lectio Divina: Luca 4:24-30
Thứ Hai, 16 Tháng 3, 2020
Thứ Hai Tuần III
Mùa Chay
1. Lời
nguyện mở đầu
Lạy Thiên Chúa thánh thiện và công chính,
Là Chúa Cha yêu thương của chúng con
Chúa đã ban cho chúng con tình bạn từ bàn tay của Chúa
Và Chúa đã sai Con Một Chúa là Đức Giêsu
Để đi với chúng con trên con đường vâng phục và trung tín.
Lạy Chúa, chúng con thường làm tổn thương tình bằng hữu này,
Chúng con hành xử như thể chúng con không phải là con cái Chúa.
Xin Chúa hãy nhìn đến dáng vẻ xấu hổ trên mặt chúng con.
Xin Chúa hãy tha thứ cho chúng con, vì chúng con trông cậy vào Chúa.
Xin Chúa hãy nhận tâm tình tri ân của chúng con
Vì Chúa tiếp tục đón nhận những bất toàn của chúng con
Và yêu thương chúng con cho dù chúng con tội lỗi.
Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con.
2. Phúc Âm
– Luca 4:24-30
(Khi Chúa Giêsu đến thành Nagiarét,) Ngài nói với dân chúng tụ họp trong
hội đường rằng: “Quả thật, Ta bảo các ngươi, chẳng có một tiên tri
nào được tiếp đón tử tế ở quê hương mình.
Ta bảo các ngươi, chắc hẳn trong thời Êlia có nhiều bà góa ở Israel, khi
trời hạn hán và một nạn đói lớn hoành hành khắp nước suốt ba năm sáu tháng,
nhưng Êlia không được sai đến với một người nào trong bọn họ, mà chỉ được sai đến
với một bà góa ở Sarépta xứ Siđôn thôi. Cũng có nhiều người phong
cùi trong Israel thời tiên tri Êlisêô, nhưng không một người nào trong bọn họ
được chữa lành, mà chỉ có Naaman, người Syria”.
Vừa nghe đến đó, mọi người trong hội đường đều đầy phẫn nộ. Họ
đứng dậy, đẩy Người ra khỏi thành và dẫn Người đến một triền đồi, nơi họ xây
thành, để xô Người xuống vực. Nhưng Người tiến qua giữa họ mà đi.
3. Suy
Niệm
- Bài Tin Mừng hôm
nay (Lc 4:24-30) là một phần của câu chuyện ghi lại việc rao giảng của Chúa (Lc
4:14-32). Đức Giêsu đã trình bày chương trình của Người trong hội đường
tại Nagiarét, trích lời từ sách tiên tri Isaia nói về người nghèo, các tù nhân,
người mù và những kẻ bị áp bức (Is 61:1-2) phản ảnh tình trạng người dân miền
Galilê vào thời Chúa Giêsu. Nhân danh Thiên Chúa, Đức Giêsu cho biết
lập trường và xác định sứ vụ của Người: loan báo Tin Mừng cho kẻ
nghèo hèn, công bố sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, đem lại ánh sáng cho người
mù, trả lại tự do cho kẻ bị áp bức. Sau khi đọc xong, Chúa đã thêm
vào văn bản và nói: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh tai các
ngươi vừa nghe!” (Lc 4:21). Tất cả những người có mặt ở đó đã tán
thành và thán phục (Lc 4: 16, 22a). Nhưng ngay lập tức sau đó đã có
phản ứng nghi ngờ. Những người trong Hội Đường đã cảm thấy chướng
tai gai mắt và không muốn biết gì về Chúa Giêsu. Họ bảo
nhau: “Ông này không phải là con ông Giuse đó sao?” (Lc
4:22b). Tại sao họ lại cảm thấy chướng tai gai mắt? Đâu
là lý do cho phản ứng bất ngờ này?
- Bởi vì Chúa Giêsu
đã chỉ trích dẫn lời của tiên tri Isaia cho đến phần nói rằng: “công
bố một năm hồng ân của Đức Chúa”, và Người bỏ qua phần cuối của câu ấy rằng:
“công bố một ngày báo phục của Thiên Chúa chúng ta” (Is 61:2). Người
dân làng Nagiarét ngạc nhiên bởi vì Chúa Giêsu bỏ qua chữ ngày báo phục. Họ
muốn Tin Mừng trả lại tự do cho những kẻ bị áp bức phải là một hành động trả
thù của Thiên Chúa đối với những kẻ đi áp bức. Trong trường hợp này,
Nước Thiên Chúa sắp đến sẽ chỉ là một thay đổi bề ngoài, và không là một thay đổi
hoặc chuyển đổi của guồng máy. Chúa Giêsu không chấp nhận cách suy
nghĩ này. Kinh nghiệm của Đức Giêsu về Chúa Cha giúp cho Người hiểu
rõ hơn ý nghĩa của những lời tiên tri. Chúa cất đi sự trả
thù. Dân làng Nagiarét không chấp nhận lời đề nghị đó và thẩm quyền
của Chúa Giêsu bắt đầu suy giảm: “Ông này không phải là con ông
Giuse đó sao?”
- Lc
4:24: Chẳng có một tiên tri nào được tiếp đón tử tế ở quê hương
mình. Người dân làng Nagiarét ghen tỵ vì những phép lạ mà Chúa Giêsu đã
làm tại Cápernaum, bởi vì Người đã không làm cho họ ở Nagiarét. Chúa
Giêsu trả lời: “Chẳng có một tiên tri nào được tiếp đón tử tế ở quê hương
mình!” Thật ra, họ không chấp nhận hình ảnh mới về Thiên Chúa mà Đức
Giêsu đã truyền đạt cho họ thông qua cách giải thích mới và uyển chuyển hơn về
lời của tiên tri Isaia. Sứ điệp về Thiên Chúa của Đức Giêsu đã vượt
quá lằn ranh của dân tộc Do Thái và đã mở ra để tiếp đón những người bị loại trừ
và toàn thể nhân loại.
- Lc
4:25-27: Hai câu chuyện của Cựu Ước. Để giúp cho cộng
đoàn vượt qua được lời gièm pha và hiểu được tính phổ quát của Thiên Chúa, Đức
Giêsu dùng hai câu chuyện nổi tiếng của Cựu Ước: một của tiên tri
Êlia và một của tiên tri Êlisêô. Qua những câu chuyện này, Người phê phán
dân làng Nagiarét là những kẻ đã sống khép kín cho riêng mình. Tiên
tri Êlia đã được sai đến với một bà góa thuộc dân ngoại tại Sarépta (1V
17:7-16). Tiên tri Êlisêô đã được sai đến để chăm sóc cho dân ngoại ở
Syria (2V 5:14).
- Lc
4:28-30: Họ định xô Người xuống vực, nhưng Người tiến qua
giữa họ mà đi. Những điều Chúa Giêsu nói ra đã không trấn tĩnh được dân
làng. Trái lại là đàng khác! Việc dùng hai đoạn Kinh
Thánh này cũng đã làm cớ cho họ lại càng tức giận hơn. Người dân
làng Nagiarét đã đạt đến điểm muốn giết Đức Giêsu. Và do đó, vào tại
thời điểm mà Người trình bày dự án của mình là đón nhận những kẻ bị gạt ra
ngoài lề xã hội, thì chính Chúa Giêsu lại bị loại trừ! Nhưng Người vẫn
giữ bình tĩnh! Sự tức giận của những người khác đã không làm cho
Chúa thay đổi ý định của mình. Theo cách này, thánh Luca chỉ ra rằng
thật khó mà vượt qua được tâm lý được đặc quyền đã khiến cho người ta chỉ sống
cho riêng mình. Và ông đã cho thấy rằng thái độ luận chiến của Dân
Ngoại đã hiện hữu vào thời Chúa Giêsu. Đức Giêsu đã có những khó
khăn tương tự mà cộng đoàn người Do Thái đã gặp trong thời của thánh
Luca.
4. Một
vài câu hỏi gợi ý cho việc suy gẫm cá nhân
- Chương trình của
Chúa Giêsu cũng có là chương trình của tôi, của chúng ta không? Thái
độ của tôi thì giống như Chúa Giêsu hay giống như dân làng Nagiarét?
- Ai là những kẻ bị loại trừ
mà chúng ta nên đón nhận vào trong cộng đoàn chúng ta?
5. Lời
nguyện kết
Mảnh hồn này khát khao mòn mỏi
Mong tới được khuôn viên đền vàng.
Cả tấm thân con cùng là tấc dạ
Những hướng lên Chúa Trời hằng sống mà hớn hở reo mừng.
(Tv 84:2)






Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét