17/03/2020
Thứ ba tuần 3 Mùa
Chay
BÀI ĐỌC I: Đn 3, 25.
34-43
“Với tâm thần sám hối và tinh
thần khiêm tốn, chúng tôi được chấp nhận”.
Trích sách Tiên tri
Đaniel.
Trong những ngày ấy,
Adaria đứng giữa lửa mở miệng cầu nguyện rằng: “Vì danh Chúa, xin đừng bỏ con
mãi mãi cho quân thù, và xin đừng huỷ bỏ lời giao ước của Chúa. Xin chớ cất
lòng từ bi Chúa khỏi chúng con. Vì Abraham kẻ Chúa yêu, Isaac tôi tớ Chúa, và
Israel người lành thánh của Chúa, những kẻ Chúa đã hứa cho sinh con cháu ra nhiều
như sao trên trời và như cát bãi biển. Vì lạy Chúa, chúng con đã trở nên yếu
hèn hơn mọi dân tộc và hôm nay, vì tội lỗi chúng con, chúng con bị nhục nhã ở mọi
nơi. Hiện giờ không còn vua chúa, thủ lãnh, tiên tri, không còn của lễ toàn
thiêu, lễ hiến tế, lễ vật, nhũ hương và nơi để dâng lên Chúa của đầu mùa để được
Chúa thương. Nhưng với tâm hồn sám hối và với tinh thần khiêm tốn, chúng con
xin Chúa chấp nhận; chúng con như những con dê, bò rừng và những chiên béo được
dâng lên Chúa làm của lễ toàn thiêu, xin cho của hiến tế chúng con dâng trước
tôn nhan Chúa hôm nay, được đẹp lòng Chúa, vì những ai tin tưởng nơi Chúa không
phải hổ thẹn. Và bây giờ chúng con hết lòng theo Chúa, kính sợ Chúa và tìm kiếm
tôn nhan Chúa. Xin đừng để chúng con phải hổ thẹn, nhưng xin hãy đối xử với
chúng con theo lòng nhân hậu và lòng từ bi sung mãn của Chúa. Lạy Chúa, xin làm
những việc lạ lùng mà cứu thoát chúng con, và xin cho thánh danh Chúa được vinh
quang”. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 24, 4bc-5ab.
6-7bc. 8-9
Đáp: Lạy Chúa, xin
hãy nhớ lòng thương xót của Ngài (c. 6a).
Xướng: 1) Lạy Chúa,
xin chỉ cho con đường đi của Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Ngài. Xin hướng
dẫn con trong chân lý và dạy bảo con, vì Chúa là Thiên Chúa cứu độ con. – Đáp.
2) Lạy Chúa, xin hãy
nhớ lòng thương xót của Ngài, lòng thương xót tự muôn đời vẫn có. Xin hãy nhớ
con theo lòng thương xót của Ngài, vì lòng nhân hậu của Ngài, thân lạy Chúa. –
Đáp.
3) Chúa nhân hậu và
công minh, vì thế Ngài sẽ dạy cho tội nhân hay đường lối. Ngài hướng dẫn kẻ
khiêm cung trong đức công minh, dạy bảo người khiêm cung đường lối của Ngài. –
Đáp.
CÂU XƯỚNG TRƯỚC PHÚC
ÂM: Mt 4, 4b
Người ta sống không
nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra.
PHÚC ÂM: Mt 18, 21-35
“Nếu mỗi người trong chúng con
không tha thứ cho anh em, thì Chúa Cha cũng không tha thứ cho chúng con”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo thánh Matthêu.
Khi ấy, Phêrô đến thưa
cùng Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ
cho họ mấy lần? Có phải đến bảy lần không?” Chúa Giêsu đáp: “Ta không bảo con
phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy. Về vấn đề này, thì Nước Trời
cũng giống như ông vua kia muốn tính sổ với các đầy tớ. Trước hết, người ta dẫn
đến vua một người mắc nợ mười ngàn nén bạc. Người này không có gì trả, nên chủ
ra lệnh bán y, vợ con và tất cả tài sản của y để trả hết nợ. Người đầy tớ liền
sấp mình dưới chân chủ và van lơn rằng: ‘Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn
và tôi sẽ trả cho ngài tất cả’. Người chủ động lòng thương, trả tự do và tha nợ
cho y. Khi ra về, tên đầy tớ gặp một người bạn mắc nợ y một trăm bạc. Y tóm lấy,
bóp cổ mà nói rằng: ‘Hãy trả nợ cho ta’. Bấy giờ người bạn sấp mình dưới chân
và van lơn rằng: ‘Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn, tôi sẽ trả hết nợ cho
anh’. Y không nghe, bắt người bạn tống giam vào ngục, cho đến khi trả nợ xong.
Các bạn y chứng kiến cảnh tượng đó, rất khổ tâm, họ liền đi thuật với chủ tất cả
câu truyện. Bấy giờ chủ đòi y đến và bảo rằng: ‘Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã
tha hết nợ cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta; còn ngươi, sao ngươi không chịu
thương bạn ngươi như ta đã thương ngươi?’ Chủ nổi giận, trao y cho lý hình hành
hạ, cho đến khi trả hết nợ. Vậy Cha Ta trên trời cũng xử với các con đúng như
thế, nếu mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình”. Đó là
lời Chúa.
SUY NIỆM : Tha thứ
Tha thứ đến 7 lần, đó
là tha thứ theo đúng công bằng của lề luật, của lý luận con người. Nhưng Chúa
Giêsu còn đi xa hơn bằng cách nói: tha thứ cho đến 70 lần bẩy.
Trong dụ ngôn người đầy
tớ mắc nợ, người này xin chủ chờ thêm thời gian nữa anh sẽ trả hết, nhưng chủ
đã tha luôn cả số nợ. Thế mà anh đã không hành xử như vậy đối với người bạn chỉ
mắc nợ anh một trăm bạc. Chúa Giêsu đã đưa ra bài học từ dụ ngôn này: “Cha Ta
trên trời sẽ xử với các người như thế nếu mỗi người trong các ngươi thật lòng
tha thứ cho anh em mình”.
Chúng ta hãy kiểm điểm
xem chúng ta đã sống thế nào về điều chúng ta thường cầu nguyện: “Xin Cha tha nợ
chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”.
Về vấn đề này tác giả
tập sách Đường Hy Vọng đã chia sẻ như sau:
“Tính phê bình chỉ
trích là một trở ngại lớn cho đời sống siêu nhiên. Chỉ tiêu cực phàn nàn kẻ
khác, con quấy rầy họ, và muôn đắng cay trong lòng con. Va chạm người khác là sự
thường. Sống trong một xã hội không va chạm nhau chỉ có thể là Thiên đàng. Một
hòn đá nhờ va chạm mà bóng láng hơn, sạch đẹp hơn. Phàn nàn là bệnh dịch hay
lây, triệu chứng là bi quan, mất bình an, nghi ngờ, mất nhuệ khí kết hiệp với
Chúa. Bác ái không chỉ có yêu thương và tha thứ. Bác ái là cả một hành động để
tạo bầu khí mới giữa cộng đồng xã hội, quốc gia và quốc tế, biến thế giới của
thú vật nên thế giới của con người, biến thế giới của con người nên thế giới của
con Chúa. Chỉ giây phút hiện tại là quan trọng. Đừng nhớ ngày hôm qua của anh
em để chỉ trích. Đừng nhớ ngày hôm nay của con để khóc lóc, nó đã vào dĩ vãng.
Đừng nhìn ngày mai của con để bi quan, nó còn trong tương lai. Giao quá khứ cho
lòng nhân từ của Thiên Chúa, giao tương lai cho sự quan phòng của Ngài và giao
tất cả cho tình yêu Chúa”.
Xin Chúa hướng dẫn
chúng ta trên con đường canh tân cuộc sống đức tin và đức ái. Xin Chúa ban cho
chúng ta mỗi ngày được nên giống Chúa hơn để xây dựng hoà bình và hoà hợp trong
môi trường chúng ta sống.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày
Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Ba Tuần III MC
Bài đọc: Dan
3:25, 34-43; Mt 18:21-35.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Tha thứ như đã được thứ tha.
Có hai thái độ thường
xảy ra khi con người lâm vào cảnh gian nan khốn khó: Họ có thể chọn thái độ tiêu
cực: trách Trời và trách tha nhân đã xô đẩy họ vào hòan cảnh đau khổ như chiến
tranh, thiên tai, nghèo đói, thất nghiệp … Hay họ có thể chọn thái độ tích cực:
đấm ngực xét mình xem tại sao những điều này xảy ra; sau đó biết thống hối ăn
năn, thú tội, và sửa sai để những điều đó đừng xảy ra nữa.
Các Bài Đọc hôm nay tập
trung trong chủ đề con người phải biết ăn năn và trông cậy vào tình thương tha
thứ của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, Azariah công khai thú tội của Israel từ
đám lửa, và nài xin Thiên Chúa nhớ đến tình thương và giao ước Ngài đã hứa với
các Tổ phụ, mà tha thứ cùng cứu thóat ba trẻ từ lò lửa và Israel khỏi cảnh lưu
đày. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đưa ra một dụ ngôn để dạy các môn đệ phải tha thứ
không điều kiện, và Ngài cảnh cáo các ông: “Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối
xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho
anh em mình.”
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Azariah cầu xin Thiên Chúa tha thứ từ trong lò lửa.
1.1/ Azariah tích cực
cậy trông vào lòng thương xót của Thiên Chúa: Trong lò lửa, Azariah biết chỉ có
Thiên Chúa mới có thể giải thóat ông, hai bạn, và Israel khỏi chết. Ông dựa vào
hai điều để van xin lòng thương xót của Thiên Chúa:
(1) Danh Thánh của
Thiên Chúa: Israel là dân riêng được Thiên Chúa tuyển chọn, và chính Thiên Chúa
đã ký kết giao ước với các Tổ-phụ để bảo vệ dân. Các dân tộc chung quanh Israel
đều biết điều này. Vì thế, Azariah xin Thiên Chúa đừng để cho các dân tộc khinh
thường Danh Chúa vì Ngài đã không bảo vệ được Dân Ngài: “Ôi! Vì danh
thánh Chúa, xin đừng mãi mãi bỏ rơi chúng con, đừng huỷ bỏ giao ước của
Ngài!”
Theo Giao-ước của
Thiên Chúa với Tổ-phụ Abraham, “Ngài đã hứa làm cho dòng dõi họ đông đảo như
sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển. Thế mà hôm nay, lạy Chúa, vì tội lỗi
chúng con, chúng con đã thành dân nhỏ nhất, đã nếm mùi ô nhục trên khắp hoàn cầu.”
Israel đã mất tất cả: quê hương, Đền Thờ, và nhất là tình thương của Thiên
Chúa: “Ngày nay chẳng còn vị thủ lãnh, chẳng còn bậc ngôn sứ, chẳng còn người
chỉ huy. Lễ toàn thiêu, lễ hy sinh đã hết, lễ tiến, lễ hương cũng chẳng còn, chẳng
còn nơi dâng của đầu mùa lên Chúa để chúng con được Chúa xót thương.”
(2) Tình nghĩa của
Thiên Chúa với các Tổ-phụ: Azariah biết sở dĩ Thiên Chúa đã ký kết giao ước
với Israel, là vì niềm tin tuyệt đối của các Tổ-phụ. Vì thế, Azariah dựa
vào lòng trung tín của các Tổ-phụ để xin Thiên Chúa tỏ tình thương tha thứ với
dân tộc Israel: “Vì tình nghĩa với bạn thân Ngài là Abraham, với
tôi tớ Ngài là Isaac, và kẻ Ngài thánh hoá là Israel, xin Ngài đừng rút lại
lòng thương xót đã dành cho chúng con.”
1.2/ Khiêm nhường ăn
năn và xin thay đổi đời sống.
(1) Khiêm nhường thống
hối: Azariah biết mình và con dân Israel không có công trạng gì để được
Thiên Chúa xót thương, vì tất cả đều xúc phạm đến Ngài; nhưng ông biết Thiên
Chúa sẽ tỏ tình thương những cho những ai biết ăn năn xám hối như lời Thánh Vịnh
“một tấm lòng tan nát dày vò, Ngài sẽ chẳng khinh chê,” nên ông cầu xin Thiên
Chúa: “Xin nhận tâm hồn thống hối và tinh thần khiêm nhượng của chúng con, thay
của lễ toàn thiêu chiên bò, và ngàn vạn cừu non béo tốt.” Tuy không còn Đền Thờ
để dâng của lễ; nhưng Thiên Chúa “muốn tình yêu chứ đâu muốn hy lễ!” Vì thế, bất
cứ ở đâu, con người đều có thể dâng tình yêu để đền tội.
(2) Tuyên hứa thay đổi
đời sống: Tội lỗi gây rất nhiều thiệt hại cho con người. Vì thế, khi đã nhận ra
hậu quả của tội, con người phải dốc lòng chừa và cố gắng đừng tái phạm nữa. Một
trong những điều chính yếu con người phải nhận ra khi xét mình: Những lời chỉ dạy
của Thiên Chúa luôn đúng, hành động con người sai trái vì làm ngược lại những
gì Ngài dạy. Vì thế, để có thể sống tốt đẹp hơn, con người phải vâng lời làm
theo những gì Thiên Chúa dạy: “Ước gì chúng con theo Ngài mãi đến cùng, vì những
ai tin cậy vào Ngài, đâu có phải ê chề thất vọng. Và giờ đây, chúng con hết
lòng đi theo Chúa, kính sợ Ngài và tìm kiếm Thánh Nhan. Xin đừng để chúng con
phải thẹn thùng xấu hổ.”
2/ Phúc Âm: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần
bảy.”
2.1/ Điều kiện để được
tha thứ: Con người phải tha thứ vì đã được thứ tha. Phêrô thắc mắc: “Thưa Thầy,
nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần
không?” Phêrô tự nghĩ “quá tang 3 bận;” nhưng để cho chắc ăn, ông tăng lên gấp
đôi và cộng thêm một lần nữa. Nhưng ông ngạc nhiên khi Chúa Giêsu trả lời ông:
“Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy.” Lý do đơn giản
Chúa muốn nói với Phêrô: Hãy tha thứ nhiều lần như Thầy đã tha thứ nhiều lần
cho con.
2.2/ Hậu quả nếu không
chịu tha thứ: Để dẫn chứng tình thương tha thứ bao la của Thiên Chúa và sự ích
kỷ nhỏ mọn của con người, Chúa Giêsu đưa ra một dụ ngôn:
(1) Đã được tha thứ
10,000 yến vàng: Đây là một số nợ khổng lồ. Một lạng vàng trị giá thị trường hôm
nay khỏang 1000 dollars; 10,000 lạng tương xứng với 10 triệu đồng. Nhà Vua chạnh
lòng thương và sẵn sàng tha thứ hết cho tên đầy tớ khi ông ta van xin.
(2) Không chịu thứ tha
100 quan tiền: Nhưng vừa ra đến ngoài, tên đầy tớ ấy gặp một người đồng bạn, mắc
nợ y một trăm quan tiền. Món nợ 100 quan tiền tương đương với khỏang 10
dollars, một món nợ quá nhỏ so với 10 triệu dollars; thế mà y liền túm lấy, bóp
cổ mà bảo: “Trả nợ cho tao!” Bấy giờ, người đồng bạn sấp mình xuống năn nỉ:
“Thưa anh, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả anh.” Nhưng y không chịu,
cứ tống anh ta vào ngục cho đến khi trả xong nợ.
Thấy sự việc xảy ra
như vậy, các đồng bạn của y buồn lắm, mới đi trình bày với tôn chủ đầu đuôi câu
chuyện. Bấy giờ, tôn chủ cho đòi y đến và bảo: “Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã
tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta, thì đến lượt ngươi, ngươi
không phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao?” Rồi tôn
chủ nổi cơn thịnh nộ, trao y cho lính hành hạ, cho đến ngày y trả hết nợ cho
ông. Chúa Giêsu kết luận: “Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em
như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC
SỐNG:
– Khi phải vương vào cảnh
gian nan khốn khổ, chúng ta đừng vội đổ lỗi cho Thiên Chúa và cho tha nhân;
nhưng hãy biết khiêm nhường xét mình để tìm hiểu lý do tại sao chúng ta lâm vào
tình trạng khốn khổ đó.
– Thiên Chúa là Đấng
giàu lòng thương xót. Ngài không chấp tội chúng ta và sẵn sàng tha thứ hết mọi
tội lỗi; nhưng Ngài đòi chúng ta phải biết xám hối và cũng sẵn lòng tha thứ cho
tha nhân như vậy.
– Tội vừa làm thiệt hại
cá nhân vừa làm thiệt hại cộng đòan. Sau khi đã được tha thứ, chúng ta hãy
tránh xa tội và canh tân đời sống bằng cách thực thi những gì Chúa dạy bảo.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
17/03/2020 – THỨ BA TUẦN 3 MC
Th. Pa-tri-xi-ô, giám mục
Mt 18,21-35
VÌ ĐƯỢC THƯƠNG XÓT
“Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì
ngươi đã van xin ta, thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn,
như chính ta đã thương xót ngươi sao?” (Mt 18,33)
Suy niệm: Chúng ta thường là những kẻ phán xét tuyệt vời chứ
không phải yêu thương tuyệt vời. Vì thế, nếu cần được Chúa tha thứ, Ki-tô hữu cần
nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi đồng thời nhận biết tha nhân đang cần được thứ
tha. Trước hết, không Ki-tô hữu đích thực nào chối bỏ mình là tội nhân, bởi
Ki-tô hữu là người cần được Chúa thứ tha. Nhận mình là tội nhân là bước đầu
tiên đến lãnh nhận ơn tha thứ và minh chứng niềm tin vào Thiên Chúa, Đấng hằng
thương xót. Tin Mừng cho biết, dẫu lòng thống hối của người con hoang đàng chưa
trọn vẹn, nhưng người cha vẫn phủ đầy ơn tha thứ trên người con nay trở về. Tuy
nhiên, nhận mình là tội nhân không phải dễ dàng, bởi chúng ta thường thích đổ lỗi
cho người khác và kể tội người khác. Dường như sự oán ghét đã biến thành cái tổ
trong trái tim chúng ta rồi! Nhưng từ nay, điều kiện để Đấng giàu lòng thương
xót tha thứ và ngự trị trong trái tim ta, ta phải để cho Ngài phá vỡ sự oán hờn,
trách móc; thay vào đó, Đấng tha thứ cho ta bảy mươi lần bảy sẽ biến trái tim
ta thành trái tim biết yêu thương và biết tha thứ.
Mời Bạn: Tha thứ không nhằm thay đổi quá khứ, nhưng để mở rộng
tương lai tốt đẹp và thánh thiện. Tha thứ là hình thức đẹp nhất của tình yêu,
là cách thức đón nhận tương lai an bình.
Sống Lời Chúa: Bạn thống hối và đến với bí tích Hoà Giải, đồng thời
tha thứ ngay cho một người đang mích lòng bạn.
Cầu nguyện: Xin Cha tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ
có nợ chúng con.
(5 Phút Lời Chúa)
SUY NIỆM : Hết lòng
tha thứ
Suy niệm :
“Tôi viết cho anh, người bạn vào giây phút cuối của đời tôi…
Vâng, tôi cũng xin nói với bạn tiếng Cám ơn và lời Vĩnh biệt này…
Ước gì chúng ta, những người trộm lành hạnh phúc,
được thấy nhau trên Thiên đàng, nếu Thiên Chúa muốn,
Người là Cha của hai chúng ta.”
Đây là những câu cuối trong di chúc của cha Christian de Chergé,
tu viện trưởng của một đan viện khổ tu ở Tibhirine, nước Algérie, châu
Phi.
Cha viết những câu này vào cuối năm 1993 cho một người nào đó sẽ giết
mình.
Ngày 21-5-1996, cha đã bị nhóm Hồi giáo vũ trang chặt đầu
cùng với sáu tu sĩ khác trong đan viện.
Cha Christian gọi kẻ sẽ giết mình là bạn, chứ không phải là kẻ thù hay
sát nhân.
Cha coi mình cũng là tên trộm lành chẳng khác gì anh ta, cũng cần được
tha thứ.
Cha chỉ mong gặp lại anh ta trên Thiên đàng,
vì cả hai đều là con, cùng được tha vì được yêu bởi Thiên Chúa.
Dụ ngôn hôm nay hẳn đã ảnh hưởng đến suy nghĩ của cha Christian.
Có hai người mắc nợ, cả hai đều là đầy tớ của cùng một ông chủ.
Một người mắc nợ ông chủ một món nợ cực lớn, mười ngàn yến vàng.
Một người mắc nợ đồng bạn mình một món nợ nhỏ, một trăm quan tiền,
mà người đồng bạn ấy lại chính là người đang mắc nợ ông chủ.
Cả hai đều không trả nổi và năn nỉ xin hoãn.
Ông chủ chạnh lòng thương tha luôn món nợ cho người thứ nhất.
Nhưng người này lại dứt khoát không chịu hoãn lại cho người thứ hai.
Anh ta đã tống bạn mình vào ngục.
“Đến lượt ngươi, ngươi lại không phải thương xót người đầy tớ đồng bạn
như chính ta đã thương xót ngươi sao?” (c. 33).
Lòng thương xót tha thứ của Thiên Chúa như dòng suối chảy vào đời tôi.
Thương xót tha thứ chính là để cho dòng suối ấy chảy đi,
chảy đến với người xúc phạm đến tôi nhiều lần trong ngày.
Tôi tha bằng chính sự tha thứ mà tôi đã nhận được từ Thiên Chúa.
Không tha là giữ dòng suối đó lại, và biến nó thành ao tù.
Không tha là đánh mất cả những gì mình đã nhận được.
Người mắc nợ ông chủ nhiều, đã được tha một cách quảng đại bất ngờ,
nhưng sự tha thứ đó đã bị rút lại.
Chỉ ai biết cho đi sự tha thứ mới giữ lại được nó cho mình.
Chúng ta đều là người mắc nợ và đều là đầy tớ của Thiên Chúa.
Tôi nợ Chúa nhiều hơn anh em tôi nợ tôi gấp bội.
Sống với nhau tránh sao khỏi có lúc thấy mình bị xúc phạm.
Chỉ tha thứ mới làm cho tôi đi vào được trái tim của Thiên Chúa nhân hậu.
Chỉ tha thứ mới làm tôi được nhẹ lòng, và người kia được giải thoát.
Cầu nguyện :
Lạy Thiên Chúa, đây lời tôi cầu nguyện:
Xin tận diệt, tận diệt trong tim tôi
mọi biển lận tầm thường.
Xin cho tôi sức mạnh thản nhiên
để gánh chịu mọi buồn vui.
Xin cho tôi sức mạnh hiên ngang
để đem tình yêu gánh vác việc đời.
Xin cho tôi sức mạnh ngoan cường
để chẳng bao giờ khinh rẻ người nghèo khó,
hay cúi đầu khuất phục trước ngạo mạn, quyền uy.
Xin cho tôi sức mạnh dẻo dai
để nâng tâm hồn vươn lên khỏi ti tiện hằng ngày.
Và cho tôi sức mạnh tràn trề
để âu yếm dâng mình theo ý Người muốn. Amen.
R. Tagore (Đỗ Khánh Hoan dịch)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
17 THÁNG BA
Quí Hơn Vàng!
Trong Mùa Chay, chúng
ta ôn lại Thập Giới, vì đây là mùa mà Đức Giêsu Kitô kêu gọi chúng ta khảo sát
lương tâm mình. Từ đầu Mùa Chay, Chúa không ngừng giục giã chúng ta hoán cải và
giao hòa. Tiếng thúc giục này liên can với việc chúng ta tuân giữ luật luân lý
của Thiên Chúa như được thể hiện trong Thập Giới. Hoán cải có nghĩa là đoạn tuyệt
với sự dữ và dứt bỏ các thứ tội lỗi. Hoán cải là quyết định trở về vâng phục
Thiên Chúa và thực thi điều tốt.
Chúng ta biết rằng Đức
Giêsu Kitô đã đến để hoàn thành mọi giới răn mà Thiên Chúa đã trao cho dân Ngài
tại Núi Si-nai. Người đòi dân It-ra-en phải tuân phục các giới răn đó. Người
xác nhận với họ rằng việc tuân phục các giới răn ấy chính là nền tảng của cuộc
giao hòa với Thiên Chúa và của ơn cứu độ vĩnh hằng.
Đó là lý do vì sao phụng
vụ thốt lên: “Lạy Chúa, Chúa có lời ban sự sống đời đời. Luật pháp Chúa quả là
hoàn thiện… Huấn lệnh Chúa hoàn toàn ngay thẳng, làm hoan hỉ cõi lòng… Quyết định
Chúa phù hợp chân lý, hết thảy đều công minh; thật quý báu hơn vàng, hơn vàng y
muôn lượng” (Tv 19,8-11).
Mùa Chay là lúc để ta
quay về với Thập Giới của Thiên Chúa. Trong ánh sáng của Thập Giới, chúng ta bắt
đầu khảo sát lương tâm mình và đào thải mọi tội lỗi đã bén rễ trong đời ta.
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 17/3
Thánh Patriciô,
Giám mục
Đn 3, 25.34-43; Mt
18, 21-35.
Lời Suy Niệm: Bấy giờ ông Phêrô đến gần Đức Giêsu
mà hỏi rằng: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến
mấy lần? Có phải bảy lần không?” Đức Giêsu đáp: “Thầy không bảo là đến bảy lần,
nhưng là đến bảy mươi lần bảy.”
Theo quan niệm của con người về việc tha thứ đều có một giới hạn, đôi khi còn
đòi hỏi phải có điều kiện. Nhưng đối với Chúa Giêsu thì việc tha thứ nó không
có giới hạn, và cũng chẳng đặt ra điều kiện. Điều này giúp cho mỗi người trong
chúng ta vững tin vào sự tha thứ của Thiên Chúa sau những lần vấp ngã, mà biết
chỗi dậy sống trong sự cậy trông vào tình yêu thương của Ngài.
Lạy Chúa Giêsu. Xin cho chúng con nhận ra những lỗi phạm của mình, nhưng không
bi quan thất vọng, mà vững tin vào tình yêu thương tha thứ của Chúa, mà đứng dậy,
sửa mình lại, đặt hết niềm cậy trông sẽ được Chúa cứu chuộc.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
17-03: Thánh PATRICIÔ
Giám mục (…. – 492)
Là anh hùng dân tộc và
thánh bảo trợ của Ai Nhĩ Lan, Patriciô chào đời tại Bretagne. Trang trại của
cha Ngài, phó tế Calpurniô, ở gần biển. Patriciô được 16 tuổi khi bọn hải khấu
Ai Nhỉ Lan đến cướp phá bắt người. Thảm họa thường xẩy ra thời man rợ này.
Patriciô bị bán sang Ai Nhĩ Lan. Ngài chăn súc vật trên núi và đã nếm mùi cực của
đời làm tôi mọi. Ngài đau khổ nhiều.
Nhưng thời kỳ gian lao
phải làm nô lệ này lại là thời kỳ phong phú nhất đối với đời Ngài. Suốt những
tháng ngày dài đơn độc, Ngài nghĩ tới Thiên Chúa. Những lời dạy dỗ của cha mẹ
mà trứơc kia Ngài chẳng chú ý gì tới, bây giờ lại trở thành động lực sống. Như
thế Patriciô tự thánh hóa, hiến mình cho ơn thánh Chúa, quen thuộc với địa sở,
với thổ dân và ngôn ngữ của họ, chuẩn bị cho sứ mệnh lớn lao của Ngài sau này.
Sáu năm trôi qua, tới
ngày đào thoát. Ngài tới một hải cảng, nơi có một con tàu sắp sửa giương buồm
nhổ neo. Nhưng Ngài không có tiền trả lộ phí các thương gia không cho Ngài đáp
tàu. Buồn rầu, Patriciô trở về. Bỗng chủ tàu gọi lại và cho Ngài lên tàu. Sau
ba ngày vuợt biển, họ tới một miền hoang vu ở Econe. Các thủy thủ lang thang kiếm
ăn. Sự lo âu làm họ muốn nghẹt thở. Patriciô nói với bạn hữu về quyền năng siêu
việt của Thiên Chúa mà Ngài thờ lạy.
Các lương dân xin Ngài
khẩn cầu cho họ. Họ nói với Ngài: – Mày là Kitô hữu mà chẳng làm gì được cho
chúng tao cả. Mày không cứu nổi chúng tao khỏi cơn đói này được sao ?
Patriciô trả lời : – Cứ
tin tưởng và thật tình quay về với Chúa, đối với Ngài không có gì là không thể
được, để ngay hôm nay đây, Ngài sẽ gửi đồ ăn tới cho các bạn.
Và chẳng mấy chốc, họ
gặp một bầy heo, khiến cho họ có thể sống cho đến khi tìm tới được miền có dân
cư.
Nhiều năm trôi qua sau
những biến cố thăng trầm và cả một thời gian làm nô lệ, Patriciô được trở về và
gặp lại cha mẹ. Dường như sau bao nhiêu gian khổ, Ngài nói về vui hưởng an bình
và tình thương. Nhưng các thị kiến ám ảnh Ngài luôn: các trẻ em giơ tay kêu mời
Ngài, xin Ngài rửa tội cho chúng.
Tận thẳm sâu tâm hồn
Ngài biết rằng mình phải trở lại đảo lưu đày của mình và lần này là để trở
thành nô lệ của các tâm hồn. Lúc khởi sự chương trình, Ngài gặp phải những dèm
pha, chống đối tư tưởng như thời gian và sức lực Ngài đã uổng phí nơi đám lương
dân này. Nhưng Patriciô, người chiến sĩ của Chúa Kitô không nản chí, không dừng
bước. Ngài bắt đầu học đạo ở Gaule, tại cung điện thời danh Iles de Lérins. Trở
về, Ngài dành một thời gian lâu dài tại Anxèrre để hoàn tất việc học hỏi nơi
các giám mục Amator và Germain. Trong khi chuẩn bị công cuộc truyền giáo lớn
lao sắp tới Ngài được tấn phong giám mục. Đó là việc thành lập tòa giám mục
Armagh.
Năm 432, Patriciô đi
bước quyết định. Ngài sắp lôi kéo các tâm hồn dân Ai Nhĩ Lan ra khỏi việc sùng
bái của các tăng ni (thời cổ xưa) để tỏ cho họ thấy một quyền năng thiêng liêng
cao cả hơn. Ngài biết rằng để hiến tế chính con người, dân Ai Nhĩ Lan chọn những
người ngoại quốc. Nhưng Ngài đương đầu với mọi nguy hiểm đe dọa đến mạng sống.
Ngay tại trung tâm thờ ngẫu tượng mà các tăng ni cư ngụ, Patriciô ra mắt các thủ
lãnh và các chiến binh.
Bất kể những chống đối
dữ dội, Ngài sắp dẫn các lãnh tụ đến chỗ xin được rửa tội. Luôn luôn Ngài nhằm
cải hoá các thủ lãnh bộ tộc, để rồi họ sẽ dắt dân chúng theo Ngài từ chối quà
cáp các vua này muốn trao tặng Ngài. Tại miền Almonaid. Các đạo sĩ nổi dậy.
Patriciô giơ tay trái lên trời chúc dữ thủ lãnh Rechrad khiến hắn chết tốt. Khi
dựng lên nhà thờ ở bìa rừng gần biển, rất nhiều người đã trở lại. Trong một
chuyến đi tới Connaught, chính một tăng lữ đã đón nhận thánh nhân và giúp Ngài
thiết lập một tu viện và một nhà thờ.
Lịch sử kể lại cuộc
hoán cải của các con gái vua Loeghair tại giếng Grogan và diễn từ Ngài đã nói với
họ:
– “Thiên Chúa chúng ta
cổ xúy tất cả, làm sống động tất cả, trỗi vượt tất cả, đỡ nâng tất cả, Ngài có
một người con vĩnh cửu như Ngài, giống như Ngài. Thánh linh hiển hiện giữa các
Ngài, Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần không hề tách rời nhau. Tôi, tôi muốn
dâng các cô cho vua trên trời. Các cô là những con cái trần thế, các cô có tin
không ?
Tiếp sau câu hỏi của
thánh nhân, là những câu đáp:
– Các cô có tin rằng
sau khi chịu phép rửa tội, tội nguyên tổ liền bị xua trừ không ?
– Chúng tôi tin.
– Các cô có tin vào cuộc
sống mới sau khi chết không ?
– Chúng tôi tin.
Thế là Patriciô rửa tội
cho họ và các Kitô hữu xin được xem thấy mặt Chúa Kitô. Patriciô nói: – Nếu
không chết, nếu không rước mình thánh, các cô không thấy được mặt Chúa Kitô.
Và rồi khi đã rước lễ.
Các cô gái của nhà vua lịm đi như chết, gần giếng Crôgan còn nấm mồ của họ.
Không ngơi nghỉ,
Patriciô rảo khắp trên hòn đảo và thích ứng các phong tục ngẫu thần với Kitô
giáo. Ngài để cho lương dân tổ chức lễ thắp lửa ngày 21 tháng sáu kính mùa hè,
nhưng là để kính thánh Gioan Tẩy giả. Ơ Bretagne vẫn còn giữ được lửa thánh
Gioan tẩy giả của Ngài. Do bình cánh chuồn đầy dẫy ở đồng quê, vị tông dồ cho
dân chúng thấy hình ảnh Chúa Ba Ngôi. Như thế mọi sự đều có thể là bài học cho
việc giảng dạy.
Trên một ngọn đồi,
Patriciô lập một ngôi nhà gỗ cho các tu sĩ. Nơi này đã trở thành một trung tâm
vĩ đại, nguồn gốc của thành phố Armagh. Ngài truyền chức cho các linh mục, đặt
họ ở các thành phố. Còn chính Ngài, Ngài sống đời cầu nguyện mãnh liệt và kiên
trì. Chúng ta khó tưởng tượng nổi, Cuốn Confession của Ngài cho thấy đức tin,
lòng nhân hậu và hạnh phúc của Ngài như một cuộc tử đạo.
Thánh Patriciô đã làm
cho cả hòn đảo theo Kitô giáo. Khi cải hóa dân Ai Nhĩ Lan, Ngài còn là Đấng
khai sáng văn minh. Đưa dân man rợ vào nghệ thuật và khoa học. Các tu viện Ngài
để lại phát triển khác thường lôi kéo các sinh viên tới trong nhiều thế kỷ. Ai
Nhĩ Lan được cải hóa đã thành đảo của các nhà trí thức, các thánh nhân, nhờ dấu
vết thánh thiện của thánh Patriciô.
(daminhvn.net)
17 Tháng Ba
Chia Sẻ Ánh Sáng Cứu Ðộ
Ngày xưa có một người
cha có ba đứa con trai. Ông vốn sinh ra nghèo khổ, nhưng nhờ chuyên cần làm việc
và cần kiệm, nên ông trở nên một điền chủ giàu có. Lúc về già, gần đất xa trời,
ông nghĩ tới chuyện chia gia tài cho các con. Nhưng ông cũng muốn xem đứa con
nào thông minh nhất để phó thác phần lớn gia sản của ông cho nó. Ông liền gọi
ba đứa con đến giường bệnh, trao cho mỗi đứa năm đồng bạc và bảo mỗi đứa hãy
mua cái gì có thể lấp đầy căn phòng trơ trọi mà ông đang ở.
Ba đứa con vâng lời
cha cầm tiền ra phố. Người anh cả nghĩ rằng đây chỉ là một công việc dễ dàng.
Anh ta ra tới chợ mua ngay một bó rơm rất lớn mang ngay về nhà. Người con thứ
hai suy nghĩ kỹ lưỡng hơn: sau khi đi rảo quanh chợ một vòng, anh ta quyết định
mua những bao lông vịt rất đẹp mắt.
Còn người con trai
thứ ba, suy nghĩ đi, suy nghĩ lại: làm sao mua được cái gì với năm đồng bạc
này, để có thể lấp đầy căn phòng lớn của cha mình. Sau nhiều giờ đắn đo, bỗng mắt
chàng thanh niên hớn hở, anh ta lại căn tiệm nhỏ mất hút trong đường nhỏ gần chợ,
anh ta mua cây đèn cầy và một hộp diêm. Trở về nhà, anh hồi hộp, không biết hai
anh mình đã mua được cái gì.
Ngày hôm sau, cả ba
người con trai đều họp lại trong phòng của cha già. Mỗi người mang quà tặng của
mình cho cha: Người con cả mang rơm trải trên nền nhà của căn phòng, nhưng
phòng quá lớn, rơm chỉ phủ được một góc nền nhà. Người con thứ hai mang lông vịt
ra, nhưng cũng chỉ phủ được hai góc của căn phòng. Người cha cóvẻ thất vọng. Bấy
giờ người con trai út mới đứng ra giữa phòng, trong tay chẳng mang gì cả. hai
người em tò mò chăm chú nhìn em, và hỏi: “Mày không mua cái gì sao?”. Bấy giờ đứa
em mới từ từ rút trong túi quần ra một cây nến và hộp diêm. Thoáng một cái, căn
phòng đầy ánh sáng. Mọi người đều mỉm cười. Người cha già rất sung sướng vì quà
tặng của đứa con út. Ông quyết định giao phần lớn ruộng đất và gia sản của mình
cho con trai út, vì ông thấy anh ta đủ thông minh để quản trị gia sản của mình
và nhờ đó cũng có thể giúp đỡ các anh của nó nữa.
Ðứng trước khó khăn thử
thách, để kêu gọi sự bình tĩnh sáng suốt và tinh thần hợp tác, người ta thường
nói với nhau: thà đốt lên một ngọn nến hơn là ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối.
Cuộc sống của mỗi người chúng ta, cuộc sống của những người xung quanh chúng ta, cuộc sống của xã hội chúng ta có lẽ cũng giống như một căn phòng đen tối… Chỉ cần một người đốt lên một chút ánh sáng, những người xung quanh sẽ cảm thấy ấm cúng và phấn khởi.
Một chút ánh sáng của một cái mỉm cười. Một chút ánh sáng của một lời chào hỏi. Một chút ánh sáng của một san sẻ. Một chút ánh sáng của tha thứ. Và một chút ánh sáng của niềm tin được chiếu tỏa qua sự vui vẻ chấp nhận cuộc sống… Một chút ánh sáng ấy cũng đủ để nâng đỡ ít nhất là một người mà chúng ta gặp gỡ, bởi vì không có một nghĩa cử nào được thực thi mà không ảnh hưởng đến người khác…
Cuộc sống của mỗi người chúng ta, cuộc sống của những người xung quanh chúng ta, cuộc sống của xã hội chúng ta có lẽ cũng giống như một căn phòng đen tối… Chỉ cần một người đốt lên một chút ánh sáng, những người xung quanh sẽ cảm thấy ấm cúng và phấn khởi.
Một chút ánh sáng của một cái mỉm cười. Một chút ánh sáng của một lời chào hỏi. Một chút ánh sáng của một san sẻ. Một chút ánh sáng của tha thứ. Và một chút ánh sáng của niềm tin được chiếu tỏa qua sự vui vẻ chấp nhận cuộc sống… Một chút ánh sáng ấy cũng đủ để nâng đỡ ít nhất là một người mà chúng ta gặp gỡ, bởi vì không có một nghĩa cử nào được thực thi mà không ảnh hưởng đến người khác…
(Lẽ Sống)
Lectio Divina: Mátthêu 18:21-35
Tuesday 17 March, 2020
Lectio Divina
Thứ Ba Tuần III Mùa
Chay
1. Lời nguyện mở đầu
Lạy Chúa là Thiên Chúa
Chúa muốn chúng con sống
đức tin của chúng con
Không phải như là một
bộ lề luật quy tắc và các thói quen
Mà như là một mối quan
hệ giữa người và người
Với Chúa và với tha
nhân.
Lạy Chúa, xin hãy giữ
cho tâm hồn chúng con luôn hướng về Chúa,
Để chúng con có thể sống
với những gì chúng con tin
Và để cho chúng con có
thể bày tỏ tình yêu của mình dành cho Chúa
Trong các việc phục vụ
cho những người chung quanh chúng con,
Như Đức Giêsu, Con
Chúa, đã làm,
Người là đấng hằng sống
với Chúa và Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.
2. Phúc Âm
– Mátthêu 18:28-35
Khi ấy, Phêrô đến thưa
cùng Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ
cho họ mấy lần? Có phải đến bảy lần không?” Chúa Giêsu đáp: “Ta không bảo con
phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy.”
“Về vấn đề này, thì Nước
Trời cũng giống như ông vua kia muốn tính sổ với các đầy tớ. Trước hết, người
ta dẫn đến vua một người mắc nợ mười ngàn nén bạc. Người này không có gì trả,
nên chủ ra lệnh bán y, vợ con và tất cả tài sản của y để trả hết nợ. Người đầy
tớ liền sấp mình dưới chân chủ mà van lơn rằng: ‘Xin vui lòng cho tôi khất một
kỳ hạn và tôi sẽ trả cho ngài tất cả’. Người chủ động lòng thương, trả tự do và
tha nợ cho y.
Khi ra về, tên đầy tớ
gặp một người bạn mắc nợ y một trăm bạc. Y tóm lấy, bóp cổ mà nói rằng: ‘Hãy trả
nợ cho ta’. Bấy giờ người bạn sấp mình dưới chân và van lơn răng: ‘Xin vui lòng
cho tôi khất một kỳ hạn, tôi sẽ trả hết nợ cho anh’. Y không nghe, bắt người bạn
tống giam vào ngục, cho đến khi trả nợ xong. Các bạn y chứng kiến cảnh tượng
đó, rất khổ tâm, họ liền đi thuật với chủ tất cả câu chuyện. Bấy giờ chủ đòi y
đến và bảo rằng: ‘Tên đầy tớ ác độc kia, ta đã tha hết nợ cho ngươi, vì ngươi
đã van xin ta; còn ngươi, sao ngươi không chịu thương bạn ngươi như ta đã
thương ngươi?’ Chủ nổi giận, trao y cho lý hình hành hạ, cho đến khi trả hết nợ.
Vậy Cha Ta trên trời cũng xử với các con đúng như thế, nếu mỗi người trong các
con không hết lòng tha thứ cho anh em mình”.
3. Suy Niệm
– Bài Tin Mừng hôm nay nói với chúng ta về sự cần thiết
cho việc tha thứ. Thật không phải là dễ dàng để mà tha thứ, bởi vì có những nỗi
sầu khổ và đớn đau vẫn tiếp tục đốt cháy tim can. Có người nói rằng: “Tôi tha
thứ, nhưng tôi không quên được!” Những ác ý, căng thẳng, ý kiến dị biệt, xúc phạm,
chuyện bực mình, khiêu khích, tất cả những điều này làm cho sự tha thứ và hòa
giải trở thành khó khăn. Chúng ta hãy cố gắng suy niệm về những lời của Chúa
Giêsu nói về việc hòa giải (Mt 18:21-22) và lời Chúa nói với chúng ta về dụ
ngôn của việc tha thứ không có giới hạn (Mt 18:23-35).
– Mt 18:21-22: Tha thứ bảy mươi lần bảy! Chúa Giêsu
đã nói về sự quan trọng của việc tha thứ và nhu cầu của việc biết cách chấp nhận
các anh chị em để giúp họ hòa mình với cộng đoàn (Mt 18:15-20). Trước những lời
này của Chúa Giêsu, ông Phêrô hỏi Chúa rằng: “Lạy Thầy, khi anh em xúc phạm đến
con, con phải tha thứ cho họ mấy lần? Có phải đến bảy lần không?” Con số bảy chỉ
ra sự trọn vẹn. Trong trường hợp này, nó đồng nghĩa với mãi mãi. Chúa Giêsu đã
đi xa hơn lời đề nghị của ông Phêrô. Người loại trừ mọi khả năng giới hạn việc
tha thứ: “Ta không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy!”
Đó có nghĩa là, bảy mươi lần mãi mãi! Bởi vì không có tỉ lệ nào so sánh giữa sự
tha thứ mà chúng ta nhận được từ Thiên Chúa với sự tha thứ mà chúng ta nên trao
cho người anh em, như bài dụ ngôn của sự tha thứ không có giới hạn đã dạy chúng
ta.
– Câu nói bảy mươi bảy lần là một viện chứng rõ ràng
về những lời của Laméc đã nói: “Vì một vết thương, ta đã giết một người, vì một
chút sây sát, ta đã giết một đứa trẻ. Cain sẽ được báo thù gấp bảy, nhưng Laméc
thì gấp bảy mươi bảy!” (St 4:23-24). Chúa Giêsu muốn đảo ngược vòng xoáy bạo lực
đã tiến vào thế gian vì sự bất tuân của ông Adong và bà Evà, bởi vì việc Cain
sát hại Abel và vì lòng báo thù của Laméc. Khi mà bạo lực vô độ xâm nhập vào đời
sống, thì mọi việc sẽ đi sai hướng và sự sống tự hủy chính mình. Trận Đại Hồng
Thủy đã tràn đến và tháp Babel đã xuất hiện cho quyền thống trị phổ quát (St
2:1-11:32).
– Mt 18:23-35: Dụ ngôn về việc tha thứ không giới hạn.
Món nợ mười ngàn nén bạc thì xấp xỉ khoảng 164 tấn vàng. Món nợ một trăm đồng bạc
thì có giá trị khoảng 30 gram vàng. Không có sự so sánh giữa hai món nợ này!
Ngay cả nếu như con nợ cùng với vợ con người ấy đi làm cả đời cũng không thể
nào có được 164 tấn vàng. Trước tình yêu cho đi cách nhưng không của Thiên Chúa
về món nợ 164 tấn vàng của chúng ta, thì nhiều hơn phần chúng ta tha không món
nợ 30 gram vàng, bảy mươi lần mãi mãi! Giới hạn duy nhất cho sự tha thứ nhưng
không của Thiên Chúa là việc chúng ta không thể tha thứ cho anh em mình! (Mt
18:34; 6:15).
– Cộng đoàn, không gian chọn lựa cho sự đoàn kết và
tình huynh đệ: xã hội vào thời đế quốc La Mã thì cứng ngắc và lãnh đạm, không
có chỗ cho những kẻ bé mọn. Họ đã đi tìm nơi chốn cho tình người nhưng đã không
tìm thấy. Hội Đường Do Thái cũng đã được cầu xin và đã không cho họ một chỗ
nào. Và trong các cộng đoàn Kitô hữu, sự chặt chẽ của một số người trong việc
tuân giữ Lề Luật đã khiến cho cuộc sống chung trở nên khó khăn bởi vì họ vẫn giữ
những quy luật của Hội Đường. Thêm vào đó, vào cuối thế kỷ thứ nhất, trong các
cộng đoàn Kitô hữu đã bắt đầu xuất hiện những chia rẽ tương tự như đã xảy ra
trong xã hội giữa kẻ giàu người nghèo (Gc 2:1-9). Thay vì làm cộng đoàn là nơi
của sự chấp nhận, họ đã biến cộng đoàn thành chỗ của chỉ trích và xung đột.
Thánh sử Mátthêu muốn soi sáng cho các cộng đoàn, trong một cách mà cộng đoàn
là nơi chọn lựa cho sự đoàn kết và tình huynh đệ. Họ phải là Tin Mừng cho người
nghèo.
4. Một vài
câu hỏi gợi ý cho việc suy gẫm cá nhân
– Tại sao tha thứ lại khó khăn đến như vậy?
– Trong cộng đoàn chúng ta, có chỗ cho việc hòa giải không?
Bằng cách nào?
5. Lời nguyện
kết
Lạy CHÚA, đường nẻo
Ngài, xin dạy cho con biết,
Lối đi của Ngài, xin
chỉ bảo con.
Xin dẫn con đi theo đường
chân lý của Ngài
Và bảo ban dạy dỗ,
Vì chính Ngài là Thiên
Chúa cứu độ con.
Sớm hôm con những cậy
trông Ngài, bởi vì Ngài nhân ái.
(Tv 25:4-5)

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét