Trang

Thứ Bảy, 2 tháng 5, 2020

03-05-2020 : (phần I) CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH - CHÚA NHẬT CHÚA CHIÊN LÀNH


03/05/2020
 Chúa Nhật tuần 4 PHỤC SINH năm A
CHÚA NHẬT CHÚA CHIÊN LÀNH
Cầu cho ơn thiên triệu Linh Mục và Tu sĩ
(phần I)


Bài Ðọc I: Cv 2, 14a. 36-41
"Thiên Chúa đã tôn Người làm Chúa và làm Ðấng Kitô".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong ngày lễ Ngũ Tuần, Phêrô cùng với mười một Tông đồ đứng ra, lên tiếng nói rằng: "Xin toàn thể nhà Israel hãy nhận biết chắc rằng: Thiên Chúa đã tôn Ðức Giêsu mà anh em đã đóng đinh, lên làm Chúa và làm Ðấng Kitô".
Nghe những lời nói trên, họ đau đớn trong lòng, nói cùng Phêrô và các Tông đồ khác rằng: "Thưa các ông, chúng tôi phải làm gì?" Phêrô nói với họ: "Anh em hãy ăn năn sám hối, và mỗi người trong anh em hãy chịu phép rửa nhân danh Ðức Giêsu Kitô để được tha tội; và anh em nhận lãnh ơn Thánh Thần. Vì chưng, đó là lời hứa cho anh em, con cái anh em, và mọi người sống ở phương xa mà Chúa là Thiên Chúa chúng ta sẽ kêu gọi đến". Phêrô còn minh chứng bằng nhiều lời khác nữa, và khuyên bảo họ mà rằng: "Anh em hãy tự cứu mình khỏi dòng dõi gian tà này". Vậy những kẻ chấp nhận lời ngài giảng, đều chịu phép rửa, và ngày hôm ấy có thêm chừng ba ngàn người gia nhập đạo.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 22, 1-3a. 3b-4. 5. 6
Ðáp: Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi (c. 1).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng. - Ðáp.
2) Người dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. (Lạy Chúa), dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi lòng con. - Ðáp.
3) Chúa dọn ra cho con mâm cỗ ngay trước mặt những kẻ đối phương; đầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa. - Ðáp.
4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài. - Ðáp.

Bài Ðọc II: 1 Pr 2, 20b-25
"Anh em đã trở về cùng Ðấng canh giữ linh hồn anh em".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phêrô Tông đồ.
Anh em thân mến, khi làm việc lành, nếu anh em phải nhẫn nhục chịu đau khổ, đó mới là ân phúc trước mặt Thiên Chúa. Anh em được gọi làm việc đó, vì Ðức Kitô đã chịu đau khổ cho chúng ta, lưu lại cho anh em một gương mẫu để anh em theo vết chân Người. Người là Ðấng không hề phạm tội, và nơi miệng Người không thấy điều gian trá. Bị phỉ báng, Người không phỉ báng lại; bị hành hạ, Người không ngăm đe; Người phó mình cho Ðấng xét xử công minh; chính Người đã gánh vác tội lỗi chúng ta nơi thân xác Người trên cây khổ giá, để một khi đã chết cho tội lỗi, chúng ta sống cho sự công chính; nhờ vết thương của Người, anh em đã được chữa lành. Xưa kia, anh em như những chiên lạc, nhưng giờ đây, anh em đã trở về cùng vị mục tử và Ðấng canh giữ linh hồn anh em.
Ðó là lời Chúa.

Alleluia: Ga 10, 14
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta". - Alleluia.

Phúc Âm: Ga 10, 1-10
"Ta là cửa chuồng chiên".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Thật, Ta bảo thật cùng các ngươi, ai không qua cửa mà vào chuồng chiên, nhưng trèo vào lối khác, thì người ấy là kẻ trộm cướp. Còn ai qua cửa mà vào, thì là kẻ chăn chiên. Kẻ ấy sẽ được người giữ cửa mở cho, và chiên nghe theo tiếng kẻ ấy. Kẻ ấy sẽ gọi đích danh từng con chiên mình và dẫn ra. Khi đã lùa chiên mình ra ngoài, kẻ ấy đi trước, và chiên theo sau, vì chúng quen tiếng kẻ ấy. Chúng sẽ không theo người lạ, trái lại, còn trốn tránh, vì chúng không quen tiếng người lạ". Chúa Giêsu phán dụ ngôn này, nhưng họ không hiểu Người muốn nói gì. Bấy giờ Chúa Giêsu nói thêm: "Thật, Ta bảo thật các ngươi: Ta là cửa chuồng chiên. Tất cả những kẻ đã đến trước đều là trộm cướp, và chiên đã không nghe chúng. Ta là cửa, ai qua Ta mà vào, thì sẽ được cứu rỗi, người ấy sẽ ra vào và tìm thấy của nuôi thân. Kẻ trộm có đến thì chỉ đến để ăn trộm, để sát hại và phá huỷ. Còn Ta, Ta đến để cho chúng được sống và được sống dồi dào".
Ðó là lời Chúa.


Suy Niệm: Chúa Nhật Ơn Thiên Triệu
Chúa Nhật hôm nay (thường) là Chúa Nhật Ơn Thiên Triệu để cầu nguyện cho các ơn gọi và đặc biệt ơn gọi Linh mục chăn dắt đoàn chiên của Chúa. Nhưng đó chỉ là ý nghĩa mới thêm vào gần đây. Chứ trước kia Phụng vụ chỉ quen gọi Chúa nhật này là Chúa nhật Chúa Chiên Lành, vì lẽ các bài đọc nhấn mạnh việc Chúa là Mục tử. Chúng ta muốn hiểu biết ơn gọi Linh mục để khao khát, cầu nguyện, cổ võ và nâng đỡ, phải nhìn vào Ðấng là Mục tử các linh hồn. Có yêu mến Người và các tư cách của Người, chúng ta mới thấy muốn được Người chăn dắt và mới tha thiết với ơn gọi Linh mục. Tiếc là Phụng vụ không thể đọc hết cho chúng ta nghe cả bài Tin Mừng Yoan về Chúa Chiên Lành, vì dài quá. Chúng ta chỉ được nghe khúc đầu thôi và khúc này lại nói đến cửa ràn chiên hơn là nói đến chính Chúa chiên. Nhưng hiểu kỹ, khúc Tin Mừng vừa nghe vẫn phong phú và có thể soi sáng cho hai bài đọc kia.

A. Chúa Kitô Là Cửa Ràn Chiên
Muốn nhận ra sức mạnh của đoạn văn Yoan, chúng ta nên biết: bấy giờ ở Yêrusalem người ta mừng lễ cung hiến (10,22). Ðền thờ Yêrusalem được Salomon xây đã bị tàn phá. Sau lưu đày người ta xây lại. Nhưng dưới thời đô hộ Hylạp nó biến thành một ngôi đền ngoại đạo. Nghĩa quân Macabê nổi dậy, đánh đuổi bọn Hylạp xâm lăng, cung hiến lại Ðền thờ vào năm -165. Hàng năm, người Dothái kỷ niệm ngày trọng đại này. Nó vừa có ý nghĩa tôn giáo, tức là thanh tẩy Ðền thờ; vừa có ý nghĩa dân tộc, là xua đuổi những kẻ làm cho Ðền thờ ra ô uế. Vào thời Chúa Yêsu, bầu khí lễ cung hiến rất căng thẳng. Dân chúng chờ đón một Macabê mới đến giải phóng Ðất nước khỏi ách Rôma; những chính trị gia xôi thịt muốn lợi dụng cơ hội để xưng vương xưng tướng; nhà cầm quyền canh chừng mọi xáo trộn. Chính trong bầu khí ấy, người Dothái hỏi Chúa Yêsu: "Nếu quả Ông là Ðức Kitô, xin nói trắng ra với chúng tôi" (c. 24). Ðầu óc họ thật đã quá căng thẳng. Vì thế một lời Chúa nói ra sẽ vô cùng quan trọng. Không những Người ý thức như vậy; Người còn tăng thêm phần quan trọng cho lời Người sắp nói khi long trọng mở đầu bằng những tiếng như sau: "Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi...".
Ðó là lời giáo đầu của một sấm ngôn, của một sứ điệp đến từ Thiên Chúa. Lời ấy nhắm thẳng vào đối thủ, những người Dothái đầu mục trong dân. Họ là trộm là cướp, chứ không phải là người chăn chiên. Lời ấy có lẽ cũng nhắm những kẻ lăm le muốn xách động quần chúng để lên chức lãnh đạo. Vì tất cả họ chỉ là những kẻ "không ngang qua cửa mà vào ràn chiên, nhưng lên từ chỗ nào khác". Có gì làm chứng điều ấy? Chúa Yêsu không cần dài dòng, không cần triết lý. Người thực tế và đi sát với quần chúng. Người chỉ vào họ mà bảo: "thì cứ xem, chiên không đi theo người lạ, nhưng trốn tránh người ấy, vì chúng không nhận biết tiếng những người xa lạ". Chính phản ứng của chiên lột mặt nạ bọn trộm cướp.
Lời Chúa thật minh bạch và xác đáng. Người Dothái có thể giận lắm, nhưng không làm gì được. Rõ ràng Chúa Yêsu phủ nhận tư cách lãnh đạo của họ. Nhưng Người không thể để chiên không có người chăn, dân không có người phục vụ. Người chưa nói thẳng: "Người chăn chiên tốt, chính là Ta!" (c.11). Người bắt đầu phác họa chân dung người mục tử đích thực để dân nhận ra người chăn chiên tốt, người lãnh đạo thật. Người nói: Người chăn chiên ngang qua cửa mà vào; được người giữ cửa mở cho; chiên nghe tiếng người ấy; kẻ ấy gọi tên từng con, xua chiên của mình ra và đi trước chúng.
Toàn là những nét tả thực tế và chân thật; nhưng hiểu theo bình diện Nước Trời, đó là những nét phác ra hình ảnh Ðức Kitô. Người không đến tự ý, nhưng được Chúa Cha sai phái. Những kẻ giữ giao ước của Chúa đón nhận Người. Họ nghe lời Người; Người gọi tên họ; Người dẫn đưa họ ra khỏi chốn tội lỗi cầm giữ để đi đến chỗ nghỉ ngơi, có cỏ xanh rì bổ sức. Và khi đi như vậy, chính Người sẽ đi trước mở đường cứu rỗi cho các linh hồn.
Chúng ta phải giật mình trước những lời lẽ minh bạch trên. Hình ảnh người mục tử xưa nay của chúng ta thụ động và ủy mị quá! Có thể đó là một hình ảnh thi vị: người chăn chiên dịu dàng đang ôm một con chiên trên cổ, giữa một cánh đồng thật xanh, xa xa nhiều con chiên đang gặm cỏ ngoan ngoãn. Hình ảnh Chúa Yêsu vẽ ra về người mục tử thì lại khác: đó là người đến với đàn chiên, hiểu biết chiên và dẫn chiên ra khỏi chỗ tù hãm, đi đến những chân trời đầy sự sống. Ðó là hình ảnh một Môsê dẫn chiên ra khỏi đất nô lệ, băng qua sa mạc cằn cỗi và tiến vào Hứa địa tràn sữa và mật. Ðó là hình ảnh một Ðấng Cứu thế đến cứu dân và đưa dân vào hạnh phúc trường sinh. Hình ảnh ấy vẽ trước về Ðức Yêsu Tử nạn-Phục sinh; và vì vậy, đoạn Tin Mừng này được đọc sau ngày Chúa sống lại.
Phải thú thật, Lời Chúa mới nghe ai đã hiểu? Chính vì vậy mà Yoan viết: người Dothái không hiểu Ngài nói những gì với họ (c.6). Bó buộc Ngài phải nói lại và nói trắng ra. Ngài lại phải trịnh trọng mở đầu bằng những tiếng: quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi. Bao nhiêu kẻ đã đến trước Ta, hết thảy đều là trộm là cướp.
Chắc chắn Chúa không có ý nói đến những tiên tri được sai đến trước Người đâu. Những vị ấy đã "vui mừng nghĩ đến ngày của Người". Họ đã rao giảng về Người, vì Luật pháp và Tiên tri đều làm chứng cho Người. Họ đã "đi qua cửa ràn chiên là chính Người mà đến" bởi lẽ chính vì Người mà họ đến. Ở đây, Người nhắm thẳng vào địch thủ, những người Dothái đầu mục trong dân, những kẻ "có đến thì chỉ để đánh cắp, sát hại và hủy diệt" (c.10). Nói theo Êzêkiel, họ là mục tử xấu, ích kỷ và chỉ lo bóc lột chiên. Họ chất lên vai kẻ bề dưới những gánh nặng mà chính họ không đưa cả đến ngón tay ra mà động vào.
Thế nên người mục tử tốt, phải là kẻ biết bỏ mình để phục vụ chiên. Ðó là dấu chỉ chắc chắn về người chăn chiên thật. Do đó, Chúa kết luận: "Ta đã đến là để chiên được có sự sống và có một cách dồi dào". Lời này dĩ nhiên chỉ ứng nghiệm khi Chúa đã chịu chết và sống lại. Người đã hy sinh mạng sống mình để chúng ta nhận được dư đầy ơn Thánh Thần, biểu hiện sự sống mới phong phú dồi dào.
Thành ra một lần nữa ta lại thấy vì sao Phụng vụ đọc bản Tin Mừng này trong mùa Phục sinh. Và đoạn trích hôm nay có hai phần nhưng cùng một ý. Chúa Yêsu muốn khẳng định với những kẻ muốn biết Người là ai rằng: Người là Chúa Chiên chân thật và duy nhất. Người hiểu biết chiên với tình trạng khổ sở hiện tại của nó. Người sẽ đưa nó ra, giải phóng nó, đi trước nó, chịu đựng mọi cuộc tấn công thay cho nó, hy sinh mạng sống vì nó, để nó được sự sống dồi dào.
Nhưng thật ra, đó chỉ là những tư tưởng sâu kín của bản văn; chứ theo mặt chữ, Chúa Yêsu chỉ trực tiếp nói Người là Cửa chiên; gián tiếp Người mới nói mình là Chúa Chiên. Cửa chiên và Chúa chiên là hai quan niệm khác nhau, nhưng trong ý Chúa Yêsu cũng chỉ là một. Khi nói mình là Cửa chiên, Người chỉ nhằm nêu lên ý nghĩa và công dụng của cửa ràn là cản trở người lạ và để cho chiên ra vào tự do và sinh sống thoải mái. Ðó là công việc và phận sự của Chúa chiên: xua đuổi sài lang cướp phá đàn chiên và dẫn chiên đến đồng cỏ thảnh thơi. Chúng ta không nên câu nệ vào danh từ, vì chữ viết thì giết chết, nhưng phải tìm ra tinh thần trong chữ viết để nuôi sống mình. Mà giáo lý ban sự sống cho chúng ta nơi bản văn Tin Mừng này là: Ðức Yêsu Kitô, qua việc Tử nạn và Phục sinh đã chứng tỏ Người là Chúa chiên thật, Chúa chiên tốt, đã dùng sự chết của mình để dẫn chúng ta ra khỏi tội và đi đến sự sống dồi dào. Chúng ta hãy đi theo Người.

B. Theo Ðức Kitô
Thánh Phêrô khuyên nhủ chúng ta như vậy trong hai bài Công vụ và Thánh thư. Nói với dân chúng trong ngày lễ Ngũ Tuần, thấy họ đầy thiện chí muốn được ơn cứu độ, Vị Tông đồ trưởng vạch ra cho họ con đường phải đi: hãy ăn năn và chịu rửa nhân Danh Ðức Kitô để lĩnh ơn tha tội và ơn Thánh Thần (c.38).
Ăn năn thống hối, không phải là việc xưa nay người ta không biết. Lãnh phép rửa, người ta cũng đã làm khi nghe Yoan giảng. Ðiều mới lạ trong đề nghị của Phêrô là tin vào Ðức Yêsu Kitô, người mà họ đã giết. Như vậy niềm tin này bao hàm sự công nhận việc làm trước đây của họ là tội lỗi và nhận thức Ðức Yêsu Kitô bây giờ đã được tôn vinh và được đặt làm Thẩm phán của kẻ chết và kẻ sống. Người ta phải "từ bỏ, thoát ra khỏi thế hệ tà vạy" là hàng ngũ tội nhân của những kẻ đã giết Chúa Yêsu, để bước sang hàng ngũ của Người, tức là đi theo, nhập vào đàn chiên của Người.
Nói thực ra, trước đây họ chẳng theo ai, họ giống như chiên lạc bơ vơ, trôi dạt như bọt biển theo sóng gió. Lúc họ dùng tay kẻ vô đạo giết Chúa, họ cũng chỉ tạm thời cùng hô như bọn đầu mục xúi bẩy; sau đó họ lại tan rã như chiên lạc. Giờ đây Phêrô bảo họ hãy "quay mặt về với Ðấng chăn dắt linh hồn anh em" là Ðức Yêsu Kitô.
Việc thống hối ăn năn và lãnh nhận phép Rửa bây giờ có ý nghĩa mới. Ðó là những việc làm nhân Danh Ðức Yêsu, những việc phục tùng Người và để kết hợp với Người, những việc đi qua Người như cửa chiên để tìm thấy sự sống mới mà hiệu quả tức thời là được tha thứ tội lỗi và đổ đầy Thánh Thần.
Những việc đó, chúng ta đã làm khi tin và chịu phép Rửa tội nhân Danh Ðức Yêsu. Nhưng chúng ta còn phải làm khi ăn năn và chịu phép Giải tội để trở về với Ðấng chăn dắt linh hồn chúng ta mỗi khi chúng ta đã dại dột trẽ ngang lạc đàn đi làm việc tội lỗi. Giờ đây, đang ở trong đàn chiên Chúa, chúng ta phải làm gì?
Bài thư Phêrô dẫn chúng ta đi xa hơn, mặc dầu trong bài Tin Mừng Yoan đã bảo chúng ta biết thái độ của chiên tốt là biết tiếng mục tử và đi theo Người. Chúng ta phải nghe tiếng Chúa nói trong Kinh Thánh mà đi theo lời mục tử. Thế mà trong mùa Phục sinh này luôn luôn chúng ta được nghe đi nhắc lại lời sau đây: Luật pháp và Tiên tri đã tiên báo Ðức Kitô phải chịu đau khổ để vào nơi vinh quang. Người đã chết để chúng ta được sống. Người mục tử tốt đã thí mạng sống mình cho chiên. Bài thư Phêrô lấy lại hình ảnh Người Tôi tớ đau khổ trong sách Isaia để kể lại cuộc Tử nạn-Phục sinh của Ðức Kitô và khuyên bảo chúng ta hãy đi theo vết chân của Người. Vậy như Người đã chịu thương khó vì chúng ta, thì chúng ta phải coi như là ơn gọi và ân sủng khi được kiên trì chịu thử thách và đau khổ.
Chắc chắn thư Phêrô được viết vào lúc Giáo hội đang gặp bắt bớ ở nhiều nơi. Nhưng nếu cứ quay mặt nhìn vào Ðấng Mục tử chăn dắt linh hồn chúng ta, thì chắc chắn lời khuyên kiên trì chịu thử thách kia vẫn thường xuyên có giá trị. Vì nếu chúng ta phải dõi theo vết chân Người, thì vì Người là người mục tử đích thực, đến giải phóng chiên, dẫn đầu đi trước và bỏ mạng mình vì chiên, thì chiên nào cũng phải sẵn sàng trở thành Chiên Vượt qua. Và có như vậy mới được lãnh nhận sản nghiệp Lời Hứa dành cho chúng ta từ đời đời.
Nói gì xa xôi, giờ đây tham dự Thánh Lễ là hướng nhìn về Ðấng chăn dắt linh hồn chúng ta. Người sẽ tỏ ra là Mục tử đích thực và tốt lành, đi trước chúng ta trong mầu nhiệm Tử nạn để trở thành Cửa chiên đưa chúng ta vào kho tàng ơn thiêng và sự sống dồi dào trong Thiên Chúa. Cử hành mầu nhiệm này nơi bàn thờ lẽ nào chúng ta lại không sẵn sàng tiếp nối trong đời sống để nỗ lực phấn đấu xây dựng cuộc đời thánh thiện hơn?
Hôm nay, ngày Ơn Thiên Triệu, hiểu hơn về Người Mục tử chân thật, ý thức hơn về vai trò của Người trong đời sống chúng ta, ai lại không khát khao nhìn thấy trong Giáo hội có nhiều kẻ bắt chước Người, tiếp nối vai trò của Người để dẫn đưa chiên ra khỏi nơi khổ sở, đi đến chốn đầy sự sống thảnh thơi? Chúng ta xin Chúa ban cho Giáo hội được thêm nhiều đấng chăn chiên như vậy. Chúng ta cầu xin và giúp đỡ để các vị mục tử đảm đang thi hành sứ vụ đi đầu và hy sinh. Chính chúng ta cũng phải theo dõi vết chân Ðấng chăn chiên tốt để cả chiên mẹ chiên con trong Giáo hội làm thành một đàn chiên theo một Chúa Chiên.
Xin Ðấng là Mục tử các linh hồn ban tinh thần để chúng ta hết thảy là những chiên biết nghe tiếng Người.

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)


Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật IV Phục Sinh, Năm A
Bài đọcActs 2:14a, 36-41; 1 Pet 2:20b-25; Jn 10:1-10.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Làm sao có thể phân biệt sự thật từ sự gian tà?
Sống trong thế giới vàng thau lẫn lộn, không dễ gì để phân biệt vàng khỏi thau, sự thật từ những sự gian trá, và người yêu mình thực sự khỏi những người yêu vì lợi nhuận. Tuy vậy, nếu một người biết cẩn thận suy nghĩ và học hỏi, vẫn có những cách giúp họ khỏi bị lẫn lộn. Vàng đã có lửa, sự thật đã có những mặc khải của Đức Kitô, và người yêu thực sự cần có thời gian để thử xem họ có kiên trung làm việc lành và chịu đựng gian khổ hay không.
Các bài đọc hôm nay cung cấp cho chúng ta một số những tiêu chuẩn để nhận ra sự thật từ sự gian tà, người yêu thương chúng ta thật và những người chỉ lạm dụng để tiêu hủy chúng ta. Trong bài đọc I, Phêrô và các tông đồ vạch ra cho dân chúng tại Jerusalem biết họ đã nhầm lẫn nghe theo những nhà lãnh đạo gian dối của Thượng Hội Đồng để đóng đinh Đấng Thánh của Thiên Chúa. Trong bài đọc II, tác giả Thư Phêrô I chỉ cho thấy người tín hữu thật là người được ơn Thiên Chúa ban cho biết bắt chước gương Đức Kitô để làm việc lành, chịu đau khổ, và kiên tâm chịu đựng đến cùng mà không báo thù, vì biết Thiên Chúa sẽ phân xử cho họ. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu chỉ cho các tín hữu biết người lãnh đạo thực sự là những người phải đi ngang qua Ngài để chăm sóc chiên; tất cả những người đi lối khác đến với chiên đều là những kẻ trộm và kẻ cướp. Người mục tử thật giúp chiên sống dồi dào; trong khi kẻ làm thuê chỉ tìm cách tiêu diệt mạng sống của chiên.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Chúng tôi phải làm gì?
1.1/ Con người đã phạm tội khi tham dự vào việc đóng đinh Đức Kitô: Một trong những sứ điệp chính của việc làm chứng cho Chúa Giêsu bởi các tông đồ là thuyết phục mọi người tin Ngài chính là Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa mà Lề Luật và Ngôn Sứ đã hằng nói tới. Trong trình thuật của CVTĐ hôm nay, ông Phêrô đứng chung với Nhóm Mười Một lớn tiếng nói với họ rằng: "Thưa anh em miền Judah và tất cả những người đang cư ngụ tại Jerusalem, xin biết cho điều này, và lắng nghe những lời tôi nói đây. Toàn thể nhà Israel phải biết chắc điều này: “Đức Giêsu mà anh em đã treo trên thập giá, Thiên Chúa đã đặt Người làm Đức Chúa và làm Đấng Kitô."
1.2/ Hai điều kiện để được hưởng ơn cứu độ: Còn gì đau đớn hơn khi hết thế hệ này đến thế hệ khác mong đợi sự xuất hiện của Đấng Thiên Sai, đến khi Ngài xuất hiện thì lại từ chối và nhẫn tâm đối xử với Con Thiên Chúa còn thua kém một tên trộm cướp. Khi đã thấu hiểu tội của mình, các người Do-thái đau đớn trong lòng, và hỏi ông Phêrô cùng các Tông Đồ khác: "Thưa các anh, vậy chúng tôi phải làm gì?" Phêrô liệt kê cho họ hai điều phải làm.
(1) Hãy chịu phép Rửa nhân danh Đức Kitô: Phép Rửa mà Phêrô nói tới bao gồm hai phần chính: thứ nhất để được ơn tha tội, và thứ hai để được lãnh nhận ân huệ của Chúa Thánh Thần. Hai điều này đã được Thiên Chúa hứa từ ngàn xưa, và giờ đây được hiện thực trong con người Đức Kitô và công cuộc cứu độ của Ngài. Phép Rửa này được ban cho mọi người ở mọi nơi, chứ không chỉ giới hạn trong vòng dân tộc Israel mà thôi.
(2) Hãy tránh xa thế hệ gian tà: Nhìn lại cuộc đời Đức Kitô và cách thức con người đối xử với Ngài, mở mắt cho chúng ta nhìn thấy sự gian trá của ma quỉ, thế gian, và xác thịt. Chúng ta tự hỏi: Tại sao họ không nhận ra những sự thật mà Chúa Giêsu mặc khải? Tại sao các môn đệ đã từng được chứng kiến các phép lạ nhiệm mầu và tình yêu của Thầy Chí Thánh dành cho họ, lại có thể nhẫn tâm phản bội, chối từ, và chạy trốn để Ngài phải đương đầu với Cuộc Thương Khó một mình? Tại sao những người trong Thượng Hội Đồng, những con người tự nhận kính sợ Thiên Chúa và thông biết Lề Luật lại có thể gian dối luận tội Ngài phải chết như vậy? Tại sao nhà lãnh đạo tối cao như Philatô không đủ can đảm để phóng thích Chúa Giêsu, dẫu biết rằng chỉ vì ghen tức mà họ tìm cách giết Ngài?
Chúng ta không dám kết tội những người đương thời với Chúa Giêsu, vì chúng ta sợ không dám trả lời cho câu hỏi: “Tại sao giờ đây chúng ta đã thấu hiểu tình thương của Thiên Chúa, mà chúng ta vẫn tiếp tục phản bội Ngài qua việc tiếp tục làm nô lệ cho tội lỗi?” Chúng ta chỉ biết đấm ngực xét mình, và cố gắng tránh xa thế hệ gian tà bằng cách luyện tập và sống nhân đức hơn.
2/ Bài đọc II: Đức Kitô đã để lại một gương mẫu cho anh em dõi bước theo Người.
2.1/ Hãy bắt chước Chúa Giêsu kiên trung làm việc lành và chịu đau khổ: Ba điều quan trọng tác giả khuyên các tín hữu phải bắt chước Đức Kitô.
(1) Làm việc lành: Nhìn lại cuộc đời của Đức Kitô trên dương thế, Ngài không gây một thiệt hại nào cho dân chúng. Trái lại, đi tới đâu là Ngài thi ân giáng phúc tới đó: hết chữa bệnh, trừ quỉ, đến giảng dạy, mặc khải và rao giảng Tin Mừng. Đến độ Ngài có thể thách thức những kẻ muốn ném đá Ngài: Trong tất cả các việc Ta đã làm, đâu là việc các ngươi đã dựa vào để ném đá Ta? (Jn 10:32). Ngài không chỉ làm việc lành cho những người cùng thời; nhưng còn cho tất cả con người thuộc mọi thời đại đều được hưởng những công nghiệp của Ngài qua các bí tích.
(2) Phải chịu đau khổ: Tuy không gây đau khổ cho ai; nhưng hầu như mọi người đều gây đau khổ cho Ngài: Judah phản bội bán Thầy chỉ có 30 đồng; Phêrô, tông đồ trưởng chối Ngài ba lần trong cuộc Thương Khó; các tông đồ đều bỏ Ngài chạy trốn hết; những người trong Thượng Hội Đồng cáo gian để buộc tội Ngài; quân lính vả mặt, chế giễu, nhổ nước bọt, đội cho Ngài mão gai, đánh đòn, và đóng đinh Ngài trên Thập Giá; dân chúng đòi tha cho Barabba, một tên cướp, thay vì Người đã chuộc tội cho mình; và tất cả mọi người vẫn tiếp tục xúc phạm đến Ngài. Có thể nói được rằng không một ai trên đời này chịu đau khổ nặng hơn Ngài, dù chẳng phạm tội chi cả.
(3) Kiên tâm chịu đựng: Dù bị phản bội, tra tấn, nhục mạ, giết chết cách oan uổng, Chúa Giêsu vẫn không phản ứng, dù Ngài có uy quyền để phạt chết tất cả những kẻ gây đau khổ cho Ngài. Tác giả thư Phêrô I diễn tả sự chịu đựng của Chúa Giêsu: “Bị nguyền rủa, Người không nguyền rủa lại, chịu đau khổ mà chẳng ngăm đe; nhưng một bề phó thác cho Đấng xét xử công bình.” Đức Kitô có thể chịu đựng tất cả những bất công này là vì Ngài biết chắc Thiên Chúa sẽ dành cho Ngài phần chiến thắng. Tác giả kêu gọi các tín hữu noi gương Đức Kitô, vì “anh em được Thiên Chúa gọi để sống như thế.” Tuy nhiên, việc noi gương Đức Kitô để làm cả ba điều này là điều không dễ dàng. Ai làm được cả ba điều này là do ơn Thiên Chúa ban, và họ chắc chắn sẽ cùng được chiến thắng và thống trị với Đức Kitô.
2.2/ Lý do phải bắt chước Đức Kitô: Có ít nhất hai lý do khiến chúng ta phải bắt chước gương Đức Kitô kiên trung làm việc lành và chịu đau khổ.
(1) Vì chúng ta đã được hưởng hiệu quả những hy sinh của Đức Kitô: Tác giả viết: “Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá... Vì Người phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành.” Nếu đã được hưởng những hiệu quả của cuộc Thương Khó và cái chết của Chúa, khi đến lượt chúng ta phải hy sinh cho tha nhân, chúng ta cũng phải làm như vậy để sinh lợi ích cho tha nhân.
(2) Sau khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính: Đức Kitô không chỉ chết cho tội của chúng ta, nhưng Ngài còn ban ơn thánh đầy đủ qua các bí-tích để chúng ta có thể sống cuộc đời công chính và nhân đức. Khi sống cuộc đời công chính, chúng ta sẽ không còn làm nô lệ cho tội nữa, mà thực sự sống tự do theo sự thúc đẩy của Thánh Thần. Nếu chúng ta không để ý tới khía cạnh phải sống nhân đức, chúng ta sẽ dễ dàng quay trở về với nếp sống cũ. Vì thế, tác giả khuyên: “Trước kia anh em chẳng khác nào những con chiên lạc, nhưng nay đã quay về với Vị Mục Tử, Đấng chăm sóc linh hồn anh em.”
3/ Phúc Âm: Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.
Trình thuật cho ta hai dấu chính để nhận ra ai là người chăn chiên thật.
3.1/ Phải đi qua cửa chuồng chiên: Cửa là dấu chỉ cho người có được quyền được vào hay không. Người vào qua cửa mà vào là mục tử; người leo qua lối khác vào là kẻ trộm hay kẻ cướp. Phong tục của người Do-thái có hai cách để giữ chiên ban đêm: Nếu ở xa làng mạc, người mục tử sẽ kiếm những hang đá chỉ có một lối ra vào để lùa chiên vào đó, và người mục tử sẽ nằm ngủ ngay giữa cửa. Ai vào bắt chiên sẽ phải đi ngang qua anh. Nếu ở gần làng mạc, họ sẽ mang chiên tới gởi ở một nơi chung, và có người giữ cửa cho vào. Người giữ cửa biết rõ ai là mục tử và số chiên anh có.
Chúa Giêsu tự nhận Ngài là Cửa chuồng chiên: ai qua Ngài mà vào là người mục tử thật; ai không qua Ngài mà vào, là kẻ trộm kẻ cướp. Có ít nhất hai cách hiểu những lời này. Thứ nhất, ai nhân Danh Ngài mà chăn chiên, là mục tử thật; ngược lại là kẻ trộm cắp. Thứ hai, ai dạy những đạo lý của Ngài là mục tử thật; ai dạy những đạo lý của mình hay của người khác là mục tử giả hiệu.
3.2/ Phải lo cho tính mạng của đoàn chiên: Dấu hiệu thứ nhất không đủ để nhận ra người mục tử tốt lành, vì có những mục tử nhân danh Chúa vào cửa để tìm chiên không phải để lo cho tính mạng của chiên, nhưng là để tìm lông chiên và thịt chiên. Điều này đã được Thiên Chúa cảnh giác nhiều lần trong sách ngôn sứ Ezekiel.
Nghề chăn chiên bên Palestine rất khó và hao mòn sức lực, vì đồng cỏ và suối nước không có nhiều. Nếu người mục tử muốn cho chiên mạnh khỏe, anh phải chịu khó đi xa để tìm đồng cỏ màu mỡ và suối nước trong lành. Bên cạnh đó, địa thế cao nguyên của Palestine rất hiểm trở vì có nhiều núi đá dựng đứng, nếu trượt chân rớt xuống vực là mất mạng, bên cạnh đó, người chăn chiên còn phải bảo vệ đàn chiên mình khỏi nanh vuốt chó sói và tay của những kẻ trộm cướp.
Chúa Giêsu tuyên bố Ngài là Mục Tử Tốt Lành, Ngài đến để làm cho chiên được sống và sống dồi dào. Ngài đi tìm con chiên lạc, băng bó con bị thương, vỗ béo con gầy còm... Người mục tử chăm sóc phần hồn cho các tín hữu cũng phải noi gương Chúa Giêsu khi chăm sóc các tín hữu. Họ không thể chỉ để ý đến lông chiên, thịt chiên; nhưng phải lo lắng đi tìm các tín hữu đã bỏ đạo lâu năm, chữa lành những tâm hồn đau thương dập nát, và làm cho các tín hữu luôn sốt sắng trong việc thờ phượng và giữ đạo.
Tuy người mục tử đã làm hết cách để chăn chiên, thái độ của con chiên cần thiết cho sự chăm sóc và bảo vệ. Thái độ cần thiết nhất của chiên là phải nhận ra tiếng của chủ mình và đừng đi theo người lạ hay đi hoang, vì chủ chiên không thể bảo vệ những con chiên như thế. Thứ đến, chiên cũng cần biết tuân giữ những mệnh lệnh của chủ, chứ đừng chỉ làm theo ý mình; vì chiên chưa đủ khả năng để tự chăm sóc mình, và nhận ra những gì cần thiết cho cuộc đời mình.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta hãy cố gắng học hỏi Kinh Thánh để nhận ra sự thật và tránh xa sự giả trá. Nếu không học hỏi Kinh Thánh, chúng ta sẽ không bao giờ có thể nhận ra sự gian trá của thế gian.
- Chúng ta hãy bắt chước Đức Kitô để kiên trung làm việc lành và chịu đau khổ cho tha nhân, để họ cũng được hưởng ơn cứu độ như Ngài đã làm cho chúng ta.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

03/05/20 CHÚA NHẬT TUẦN 4 PS – A
Ngày thế giới cầu cho ơn thiên triệu
Ga 10,1-10


CHÚA CHĂN NUÔI TÔI
“Tôi đến để chiên được sống và sống dồi dào.” (Ga 10,10)

Suy niệm: Cửa ràn chiên ngăn ngừa thú dữ, cũng như trộm cướp, bảo đảm an toàn cho đoàn chiên. Người chăn chiên vừa bảo vệ chiên trong ràn, vừa chăm sóc chiên trên đường đi, vừa dẫn chiên đến đồng cỏ xanh tươi, suối nước trong lành. Thật tuyệt vời khi một người vừa đóng vai là cửa ràn chiên, vừa đóng vai là mục tử, và nhất là người mục tử đó có thể gọi tên từng con chiên, và chiên biết và nghe theo tiếng mục tử của chúng. Người mục tử đó không tiếc gì, kể cả mạng sống mình, miễn sao đàn chiên được bảo vệ, được sống và phát triển tới mức tối đa. Chúa Giê-su tự nhận mình là người mục tử như thế, Ngài nói: “Tôi là mục tử nhân lành… hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên,” Ngài đến “để chiên được sống và sống dồi dào. Mức độ dồi dào nhất mà Đức Giê-su mang đến cho chúng ta là sự sống lại và sự sống đời đời. Để thực hiện lời Ngài nói, người Mục Tử mang tên Giê-su đã ban cho chúng ta một thứ lương thực có sức mang lại sự sống thường tồn. Đó là chính Mình Máu Thánh của Ngài.
Mời Bạn: Trong hoàn cảnh “giãn cách xã hội” vì đại dịch Covid-19, các tín hữu phải tham dự thánh lễ trực tuyến và rước lễ thiêng liêng, chúng ta cảm nhận được cơn đói khát lương thực thường tồn này cách cụ thể hơn bao giờ hết. Bạn hãy khắc sâu cảm nhận này để từ nay không còn thờ ơ, nguội lạnh, nhàm chán đối với bí tích Thánh Thể nữa.
Sống Lời Chúa: Thực hành rước lễ thiêng liêng nhiều lần trong ngày.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, Chúa ban chính Mình Máu Chúa để nuôi dưỡng chúng con. Xin cho chúng con khao khát Chúa và chuẩn bị tâm hồn xứng đáng mỗi khi đón rước Chúa.
(5 phút Lời Chúa)


TÔI ĐẾN ĐỂ CHIÊN ĐƯỢC SỐNG


Suy nim:
Trong Tin Mừng Gioan,
Ðức Giêsu thường ví mình với điều cụ thể:
“Tôi là bánh, là Ánh Sáng, là Ðường...”
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Ngài ví mình như Mục tử.
Người mục tử chân chính đi qua cửa mà vào chuồng chiên.
Anh gọi chiên của anh bằng một tiếng gọi riêng,
chiên nhận ra tiếng của anh và đi theo.
Còn mục tử giả hiệu thì trèo tường mà vào chuồng.
Chiên không theo anh ta, nhưng sợ hãi chạy trốn,
vì chúng không nhận biết tiếng người lạ.
Ðức Giêsu gọi những mục tử giả hiệu là trộm cướp.
Họ chỉ đến để giết hại và phá hủy đàn chiên.
Còn Ngài đến để chiên được sống, và sống dồi dào.
Giữa chiên và Ngài có một mối dây thân thiết:
“Tôi biết chiên tôi và chiên tôi biết tôi.”
Chiên đã trở thành điều vô cùng quý giá đối với Ngài,
đến nỗi Ngài dám hy sinh mạng sống mình cho chúng.
Giáo Hội muốn đặc biệt dành Chúa Nhật thứ 4 Phục Sinh,
để cầu nguyện cho ơn gọi linh mục, tu sĩ.
Ðây là vấn đề sống còn của Giáo Hội.
Nhiều nơi trên thế giới đang thiếu linh mục trầm trọng,
nhiều nhà thờ phải giao cho giáo dân coi sóc.
Cũng có những dòng tu phải đóng cửa cơ sở của mình
vì không có lớp người trẻ kế tục.
Giáo Hội hôm nay cũng như mai ngày
vẫn cần đến sự hướng dẫn của các mục tử
để đoàn chiên được sống trong đồng cỏ xanh tươi.
Giáo Hội vẫn cần đến các tu sĩ sống đời thánh hiến,
để thế giới hiểu được thế nào là tình yêu,
thấy được những thực tại vô hình,
và vươn lên khỏi cái tự nhiên, bình thường, hợp lý.
Ðược làm Kitô hữu là một ơn gọi của Thiên Chúa.
Mọi Kitô hữu đều có nhiệm vụ làm chứng cho Tin Mừng,
nhưng một số người được mời gọi đặc biệt
để dấn thân cách trọn vẹn hơn cho Nước Chúa
và bắt chước Ðức Giêsu tận căn hơn.
Chúng ta băn khoăn trước câu hỏi
tại sao Giáo Hội hôm nay thiếu ơn gọi linh mục, tu sĩ.
Vì đời tu không hấp dẫn người trẻ?
Vì bầu khí của thời đại: thực dụng, hưởng thụ,
Mất cảm thức về đức tin, xa lạ với Thiên Chúa?
Hay vì chúng ta chưa có can đảm để cổ võ ơn gọi?
Trong sứ điệp năm 1996 về ơn gọi,
Chân phước - giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nhắc đến việc phải chăm lo cho mảnh đất
nơi hạt giống ơn gọi được nảy mầm và lớn lên.
Mảnh đất đó là cộng đoàn giáo phận và giáo xứ.
Ngài đã phác họa những nét chính của cộng đoàn này như sau:
Một cộng đoàn biết lắng nghe Lời Chúa.
Khi đã quen nghe tiếng Chúa trong Thánh Kinh,
người trẻ sẽ dễ nghe được tiếng Chúa mời gọi
vang lên từ sâu thẳm của con tim mình.
Một cộng đoàn biết chuyên tâm cầu nguyện,
dành ưu tiên cho đời sống tâm linh,
coi trọng việc cầu nguyện riêng tư, lặng lẽ trước nhan Chúa.
Chỉ trong bầu khí trầm lặng của cầu nguyện,
người trẻ mới dám đáp lại tiếng Chúa kêu mời,
quên mình để phục vụ cho lợi ích của tha nhân.
Một cộng đoàn biết hăng say làm việc tông đồ,
khao khát làm cho muôn dân trở thành môn đệ Chúa.
Từ đó những bạn trẻ quảng đại sẽ được thúc đẩy
dâng trọn đời mình để làm cho Chúa Kitô được nhận biết.
Một cộng đoàn quan tâm phục vụ người nghèo,
chọn đứng về phía những người khổ đau, túng thiếu.
Cộng đoàn này sẽ sản sinh những bạn trẻ
biết phục vụ vô vị lợi và hiến thân vô điều kiện.
Như thế ơn gọi chỉ nảy nở từ vùng đất màu mỡ.
Nó là hoa trái của một Giáo Hội đầy sức sống.
Một Giáo Hội mạnh mẽ sẽ cho nhiều ơn gọi.
Nhiều ơn gọi sẽ làm cho Giáo Hội mạnh hơn.
Giới trẻ hôm nay không thiếu lòng quảng đại,
không thiếu lý tưởng và những ước mơ cao cả.
Họ cần có ai đó giúp họ gặp được Ðức Giêsu,
say mê con người Ngài,
và chia sẻ nỗi bận tâm của Ngài về thế giới.
Họ cần có ai đó giúp họ nghe được tiếng kêu
của bao người đói khát chân lý và công lý,
giúp họ cảm nhận được bổn phận lớn lao
là xây dựng trái đất thành mái ấm yêu thương.
Giới trẻ cần những người thầy, người bạn
dám sống điều mình tin giữa muôn vàn khó khăn
và giúp họ đứng vững trước cơn lốc của cám dỗ.
Giáo Hội thiếu ơn gọi là do lỗi của mỗi người chúng ta.
Cần phải cầu nguyện
và cũng cần phải canh tân cuộc sống.
Cầu nguyn:

Lạy Chúa Giêsu,
xin ban cho chúng con những linh mục
có trái tim thuộc trọn về Chúa,
nên cũng thuộc trọn về con người.

Xin cho chúng con những linh mục
có trái tim biết yêu bằng tình yêu hiến dâng,
một trái tim đủ lớn
để chứa được mọi người và từng người,
nhất là những ai nghèo khổ, bị bỏ rơi.

Xin cho chúng con những linh mục biết cầu nguyện,
có tình bạn thân thiết với Chúa
để các ngài giới thiệu Chúa cho chúng con.

Xin cho chúng con những linh mục thánh thiện,
có thể nuôi chúng con bằng tấm bánh thơm tho,
tấm bánh Lời Chúa và Mình Chúa.

Cuối cùng, xin cho chúng con những linh mục
có trái tim của Chúa,
say mê Thiên Chúa và say mê con người,
hy sinh đời mình để bảo vệ đoàn chiên
và dẫn đưa chúng con
đến với Chúa là Nguồn Sống thật.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
3 THÁNG NĂM
No Thỏa Và An Bình Trong Đức Kitô
Thánh Vịnh 23 sửa soạn cho chúng ta nhận hiểu ý nghĩa của dụ ngôn Người Mục Tử Tốt Lành. Đây là một thánh vịnh rất quen thuộc với tất cả chúng ta.
Hình tượng của thánh vịnh này rất phong phú – và có thể được phân vào hai khung cảnh khác nhau. Trước hết, đó là hình ảnh “đồng cỏ xanh tươi” – biểu trưng sự an toàn và sự bổ dưỡng thần linh mà Chúa cung ứng cho chúng ta; rồi “những dòng nước trong lành” xua tan nơi ta cơn khát; hình ảnh “đường ngay nẻo chính” nhắc nhở ta rằng mình đang trên hành trình tiến về một điểm tới cuối cùng trước mặt; “thung lũng âm u” tượng trưng cho những chông gai mà chúng ta phải đương đầu trên hành trình ấy. Đó là những hình ảnh được rút ra từ mối quan hệ giữa mục tử và đàn chiên.
Nửa sau của thánh vịnh là những hình ảnh đặc tả khung cảnh vui vầy. Thánh vịnh nói về một “bàn tiệc” mở rộng – diễn tả ơn phúc dồi dào mà ta được ban cho qua sự hiệp thông với Chúa; hình ảnh “xức dầu thơm” cho thấy thái độ ân cần săn sóc của Người; và “ly rượu đầy tràn chan chứa” nói lên tấm lòng ưu ái và quảng đại mà Chúa luôn dành cho ta.
Trọn cả thánh vịnh, nhất là câu cuối cùng, nhắc cho ta về niềm no thỏa và an bình tuyệt diệu ta nhận được trong Đức Kitô, Đấng Mục Tử tốt lành.
“Lòng nhân hậu và tình thương Chúa
ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời,
và tôi được ở đền Người
những ngày tháng, những năm dài triền miên.”
Đức Kitô hướng dẫn chúng ta theo đường nẻo “yêu thương và nhân hậu” mà Người bước đi trong cuộc đời dương thế của Người – và cuối cùng, Người về đến “nhà của Chúa” để dọn chỗ sẵn cho ta.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II

Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 03 – 5
Chúa Nhật IV Phục Sinh
(Chúa Nhật Chúa Chiên Lành)
Cầu cho ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ
Cv 2, 14a.36-41; 1Pr 2, 20b-25; Ga 10, 1-10.

LỜI SUY NIỆM: “Tôi bảo thật các ông: Tôi là cửa cho chiên ra vào. Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp; nhưng chiên đã không nghe họ. Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ.”
Trong ngày lễ Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, Giáo Hội cho chúng ta biết được: Chúa Giêsu là cửa để “chiên ra vào” Dẫn đưa vào sự sống: “gặp được đồng cỏ”
Lạy Chúa Giêsu. Trong cuộc sống của mỗi người chúng con chứng kiến biết bao cánh cửa, ngăn cách và dẫn đưa con người vào đường tội lỗi và sự chết. Xin Chúa thương ban cho chúng con được ơn bước vào cửa ràn chiên của Chúa để chúng con được sống và sống đồi dào.
Mạnh Phương

Gương Thánh Nhân
Ngày 03-05: Thánh GIACÔBÊ và PHILIPPHÊ
Tông Đồ (Thế kỷ thứ I)

Giáo hội tôn kính hai vị tông đồ này trong cùng một ngày, vì vào thế kỷ thứ V, xác các thánh được đưa về Rôma với nhau và đặt ở đền thờ các thánh tông đồ. Ngày dời xác các Ngài là ngày 01 tháng 5. Nhưng vì trùng với lễ thánh Giuse thợ, lễ kính các Ngài được dời vào ngày 03 tháng 5.
Thánh GIACÔBÊ HẬU
Chỉ có một chỉ dẫn Tân ước cung ứng cho chúng ta về vị tông đồ thứ hai mang tên Giacôbê: Ngài "là con ông Alphêô" (Mt 10,3 - Mc 3,18 - Lc 6,15 - Cv 1,13). Vậy không đáng ngạc nhiên gì, khi có nhiều cố gắng đồng hóa Ngài với một hay nhiều người cùng mang tên là Giacôbê ở trong Tân ước. Có Giacôbê "người anh em của Chúa" (Cl 1,19).
Có lẽ Ngài đã được thấy Chúa Giêsu phục sinh hiện ra (1Cr 15,7) và chắc chắn Ngài là thủ lãnh Giáo hội Giêrusalem (Cv 12,17 - 15,13 - 21,18). Sau cùng, người được đồng hoá với người anh em của Chúa được nhắc đến trong Phúc âm (Mt 13,55 - Mc 6,3). Đó là ý kiến của thánh Hiêrônimô và được chấp nhận lại đời, nhưng các học giả ngày nay muốn phân biệt hai người khác nhau và Phúc âm chỉ giản dị ghi lại tên Ngài.
Dầu cho các sách Phúc âm không nói nhiều tới thánh nhân nhưng Ngài đã giữ được một địa vị sáng giá trong Giáo hội sơ khai, thánh Phêrô khi được cứu thoát khỏi tù đã nói : - "Hãy đem tin cho Giacôbê và các anh em được biết" (Cv 12,17)
Khi tiếp xúc với các tông đồ, thánh Phaolô đã đến gặp Giacôbê. Sau này thánh Phaolô nói : - "Giacôbê, Kêpha (Phêrô) và Gioan, những vị có thế giá như cột trụ ấy đã bắt tay tôi và Barnaba tỏ dấu thông hiệp" (Ga 2,9)
Tại công đồng Giêrusalem, Giacôbê đã lên tiếng sau Phêrô, tóm kết diễn từ về việc rao giảng Phúc âm cho dân ngoại (Cv 15,13-31). Lần sau cùng về Giêrusalem, thánh Phaolô đã đến gặp thánh Giacôbê đang họp với hàng niên trưởng (Cv 21,18)
Để diễn tả sự thánh thiện của Giacôbê, thánh Eusêbiô và Hiêrônimô đã nói rằng: thánh nhân giữ mình đồng trinh suốt đời và con người hiến mình cho Thiên Chúa nay không uống rượu, kiêng thịt, đi chân không và chỉ có một chiếc áo. Quì cầu nguyện nhiều, đầu gối Ngài chai cứng như da lạc đà.
Năm 62, các luật sĩ lo lắng vì sự rạng rỡ Giacôbê mang lại cho Kitô giáo. Họ triệu vời thánh nhân đến ở trước ông nghị để tra vấn xem Ngài nghĩ gì về Chúa Kitô. Trên sân thượng ngoài đền thờ, họ bắt thánh nhân công khai nói lời bội giáo cho dân nghe, Ngài nói : - Chúa Giêsu là con người đang ngự bên hữu Thiên Chúa quyền năng và đến một ngày kia sẽ đến trên mây trời.
Dân chúng đồng loạt lên tiếng tôn vinh Chúa Giêsu trong khi các luật sĩ và biệt phái xông vào thánh nhân. Họ đã quyết định ném đá Ngài.
***********
Thánh PHILIPPHÊ
Thánh Philipphê là người Bethsaida (Ga 1,44). Trên đường đi Galilêa, Chúa Giêsu đã gọi ông. Đến lượt mình chính Philipphê lại giới thiệu Chúa Giêsu cho Nathanael: - "Đấng mà Môisê trong lề luật cùng các tiên tri chép đến chúng tôi đã gặp rồi" (Ga 1,45)
Và ông còn khích lệ thêm : - "Hãy đến mà xem" (Ga 1,46)
Khi hóa bánh ra nhiều Chúa Giêsu đã tin tưởng và ông hỏi: - "Ta mua đâu được bánh cho họ ăn" (Ga 6,5)
Như vậy Chúa Giêsu đã hiệp với ông trước hết trong việc chuẩn bị cho phép lạ này.
Dịp lễ vượt qua sau cùng Chúa Giêsu, các lương dân đã nhờ Philipphê xin Chúa cho họ được gặp Người: - "Thưa ông, chúng tôi muốn gặp Chúa Giêsu" (Ga 12,21)
Sau cùng, trong cuộc đàm đạo thân mật sau bữa Tiệc Ly, Philipphê lên tiếng hỏi Chúa Giêsu: - "Thưa Thày, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, thế là đủ cho chúng con rồi".
Chúa Giêsu nói với ông: - "Đã lâu rồi, Ta ở với các ngươi, thế mà, Philipphê, ngươi đã không biết Ta ư ? Ai thấy ta là đã thấy Cha. Làm sao ngươi nói: Xin tỏ cho chúng con thấy Cha (Ga 14,8-9)
Các tông đồ chỉ hiểu được chiều kích rộng lớn của những lời này khi Chúa Thánh Thần soi sáng cho các ông.
Đó là tất cả những gì mà sách Tin Mừng nói với chúng ta về thánh tông đồ Philipphê. Sau này truyền thống cho chúng ta biết thánh Philipphê đã đi rao giảng Phúc âm ở Scythia và Phrygia. Nhưng rất có thể người ta đã lầm thánh nhân với vị phó tế cũng có tên là Philipphê. Về cái chết của Ngài, không có gì là chắc chắn. Có tài liệu nói rằng: Ngài tử vì đạo. Có tài liệu lại cho rằng: Ngài chết già.
(daminhvn.net)


03 Tháng Năm
Ði Về Ðâu?
Tiền tài danh vọng không làm cho con người hạnh phúc... Ðó là điều mà người ta thường nói khi bàn về cái chết của cô đào Marilin Monroe cách đây hơn hai chục năm... Nay, người ta cũng lặp lại điều đó với nữ danh ca Dalida, người Pháp gốc Ai Cập... Dalida đã tự vận vào hôm 03/5/1987 tại nhà riêng của cô ở Montmartre, Paris, lúc cô được 54 tuổi.
Sinh năm 1933 tai Le Caire với tên thật là Yolande Gigliotti, đã trở nên một ca sĩ nổi tiếng và được hâm mộ trên khắp thế giới, kể cả ở Việt Nam, nhờ giọng ca đầy truyền cảm của cô. Những người thuộc thế hệ 50 và 60 không thể quên những bài "Bambino", "Gigi l'amorose"... do cô trình diễn. Danh vọng đã không đủ để thỏa mãn cô. Ngày 27/02/1967, cô đã thử một lần tự tử, rồi được cứu sống.
Tự tử cũng là một thể hiện nỗi khao khát khôn cùng trong lòng người: đó là khao khát hạnh phúc. Khi cuộc đời này không còn là một đáp trả cho nõii khao khát ấy, nhiều người đã tự mình tìm đến cái chết như một giải thoát.
Khủng hoảng trầm trọng nhất của xã hội ngày nay phải chăng không là khủng hoảng về ý nghĩa của cuộc sống. Con người sinh ra để làm gì? Con người sẽ đi về đâu? Sau cái chết những gì đang thực sự chờ đợi con người... Ðó là những câu hỏi lớn mà con người ngày nay, khi đứng trước những mâu thuẫn trong cuộc sống, không ngừng đặt ra cho mình.
Con người bởi đâu mà ra, con người sẽ đi về đâu? Ðó là ý nghĩa và giá trị của cuộc sống? Ðó là những câu hỏi mà chúng ta không ngừng tự đặt ra cho mình.
Chúng ta hãy cảm tạ Chúa, bởi vì, nhờ Ðức Tin, chúng ta tìm được ánh sáng cho những câu hỏi ấy.
Trước ngưỡng cửa của năm 2000, nhân loại đang mỗi lúc phải đương đầu với những thách đố lớn của cuộc sống. Người Kitô được trang bị bởi Ðức Tin đang nằm giữa một vai trò quan trọng giai đoạn này. Ánh sáng Ðức Tin, cần phải được chiếu sáng trong cuộc sống của người Kitô để nhờ đó, những người xung quanh cũng tìm ra được ý nghĩa và giá trị cũng như hướng đi đích thực của cuộc sống.
(Lẽ Sống)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét