10/05/2020
Chúa Nhật tuần 5
PHỤC SINH năm A.
(phần I)
Bài Ðọc I: Cv 6, 1-7
"Họ
chọn bảy người đầy Thánh Thần".
Trích
sách Tông đồ Công vụ.
Trong
những ngày ấy, số môn đồ gia tăng, nên xảy ra việc các người Hy-lạp kêu trách
các người Do-thái, vì trong việc phục vụ hằng ngày, người ta khinh miệt các bà
goá trong nhóm họ. Nên Mười hai Vị triệu tập toàn thể môn đồ đến và bảo:
"Chúng tôi bỏ việc rao giảng lời Chúa mà lo đi giúp bàn, thì không phải lẽ.
Vậy thưa anh em, anh em hãy chọn lấy bảy người trong anh em có tiếng tốt, đầy
Thánh Thần và khôn ngoan, để chúng tôi đặt họ làm việc đó. Còn chúng tôi, thì sẽ
chuyên lo cầu nguyện và phục vụ lời Chúa".
Cả
đoàn thể đều tán thành lời các ngài, và chọn Têphanô, một người đầy đức tin và
Thánh Thần, và chọn Philipphê, Prôcô, Nicanô, Timon, Parmêna, và Nicôla quê ở
Antiôkia. Họ đưa mấy vị đó đến trước mặt các Tông đồ. Các ngài cầu nguyện và đặt
tay trên các vị đó.
Lời
Chúa lan tràn, và số môn đồ ở Giêrusalem gia tăng rất nhiều. Cũng có đám đông
tư tế vâng phục đức tin.
Ðó là
lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 32, 1-2. 4-5. 18-19
Ðáp: Lạy Chúa, xin tỏ lòng từ bi Chúa
cho chúng con, như chúng con đã trông cậy Chúa (c. 22).
Hoặc đọc:
Alleluia.
Xướng:
1) Người hiền đức, hãy hân hoan trong Chúa! Ca ngợi là việc của những kẻ lòng
ngay. Hãy ngợi khen Chúa với cây đàn cầm, với đàn mười dây, hãy xướng ca mừng
Chúa. - Ðáp.
2) Vì
lời Chúa là lời chân chính, bao việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu chuộng
điều công minh chính trực, địa cầu đầy ân sủng Chúa. - Ðáp.
3) Kìa
Chúa để mắt coi những kẻ kính sợ Người, nhìn xem những ai cậy trông ân sủng của
Người, để cứu gỡ họ khỏi tay thần chết, và nuôi dưỡng họ trong cảnh cơ hàn. -
Ðáp.
Bài Ðọc II: 1 Pr 2, 4-9
"Anh
em là dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả".
Trích
thư thứ nhất của Thánh Phêrô Tông đồ.
Anh em
thân mến, khi đến cùng Chúa là tảng đá sống động, bị người ta loại bỏ, nhưng đã
được Thiên Chúa tuyển chọn và tôn vinh, chính anh em như những tảng đá sống động,
xây dựng toà nhà thiêng liêng, chức vụ tư tế thánh thiện, để hiến dâng của lễ
thiêng liêng đáng Thiên Chúa chấp nhận nhờ Ðức Giêsu Kitô. Vì thế, có lời Thánh
Kinh rằng: "Ðây Ta đặt tại Sion tảng đá góc tường, được tuyển chọn và quý
giá, ai tin Người, sẽ không phải hổ thẹn". Vậy, vinh dự cho anh em là những
kẻ tin; nhưng đối với những kẻ không tin, thì tảng đá mà thợ xây loại bỏ, đã trở
thành đá góc tường, đá vấp ngã và đá chướng ngại cho những kẻ chống lại và
không tin lời Chúa, và số phận của họ là thế. Còn anh em là dòng giống được tuyển
chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân tộc thánh thiện, dân riêng của Chúa, để
rao giảng quyền năng của Ðấng đã gọi anh em ra khỏi tối tăm mà vào ánh sáng kỳ
diệu của Người.
Ðó là
lời Chúa.
Alleluia: Ga 14, 6
Alleluia,
alleluia! - Chúa phán: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống; không ai
đến được với Cha mà không qua Thầy". - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 14, 1-12
"Thầy
là đường, là sự thật và là sự sống".
Tin Mừng
Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy,
Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy
tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở, nếu
không, Thầy đã nói với các con rồi; Thầy đi để dọn chỗ cho các con. Và khi Thầy
đã ra đi và dọn chỗ cho các con rồi, Thầy sẽ trở lại đem các con đi với Thầy, để
Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó. Thầy đi đâu, các con đã biết đường rồi".
Ông Tôma thưa Người rằng: "Lạy Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm
sao chúng con biết đường đi?" Chúa Giêsu đáp: "Thầy là đường, là sự
thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy. Nếu các con biết
Thầy, thì cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ các con biết và đã xem thấy Người".
Philipphê thưa: "Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha, và như thế
là đủ cho chúng con". Chúa Giêsu nói cùng ông rằng: "Thầy ở với các
con bấy lâu rồi, thế mà con chưa biết Thầy ư, Philipphê? Ai thấy Thầy là xem thấy
Cha, sao con lại nói "Xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha"? Con không
tin rằng Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy ư? Những điều Thầy nói với các
con, không phải tự mình mà nói, nhưng chính Cha ở trong Thầy, Ngài làm mọi việc.
Các con hãy tin rằng Thầy ở trong Cha, và Cha ở trong Thầy. Ít ra các con hãy
tin vì các việc Thầy đã làm. Thật, Thầy bảo thật các con: Ai tin vào Thầy, người
ấy sẽ làm những việc Thầy đã làm. Người ấy còn làm được những việc lớn lao hơn,
vì Thầy về với Cha".
Ðó là
lời Chúa.
Suy Niệm: Ðường Dẫn Tới Sự Sống
Chúa
Nhật trước, chúng ta đã nghe thánh Phêrô khuyên nhủ hãy quay mặt về với Ðấng là
Mục tử các linh hồn để thấy Người đã đi trước đưa chúng ta vào sự sống dồi dào.
Hôm nay có thể nói chúng ta hãy đến xem cánh đồng cỏ mà Người đã dẫn chúng ta đến,
cũng là đàn chiên mà Người đã đem chúng ta vào, là Hội Thánh mà chúng ta đã gia
nhập nhờ đi qua mầu nhiệm Tử nạn - Phục sinh của Người, khác nào như qua Cửa của
ràn chiên. Cả ba bài Kinh Thánh vừa nghe đọc đều cho chúng ta thấy những phương
diện khác nhau của Hội Thánh.
A. Một Cơ Quan Có Nhiều Phận Sự
Bài
Công vụ các Tông đồ không đơn sơ như chúng ta tưởng sau khi nghe qua một lượt.
Chúng ta nghĩ đây chỉ là chuyện thiết lập các Phó tế, chứng tỏ Hội Thánh đầy đặc
sủng của Chúa Thánh Thần. Nhưng tại sao lại có việc thiết lập ấy? Việc thiết lập
này đã giải quyết được những gì? Và có hệ gì đến đời sống đạo của chúng ta ngày
nay không?
Những
câu đầu của bản văn thật ý nghĩa. Số các môn đồ gia tăng. Hội Thánh như hạt cải
đang lớn thành cây. Sự đồng tâm ý hiệp phải khó hơn. Sách nói có tiếng người
Hylạp rì rầm chống đối người Dothái. Ðó là triệu chứng bất hòa và xung khắc giữa
bổn đạo mới và bổn đạo cũ, giữa lương dân trở lại và Dothái tòng giáo. Cả hai đều
mới mẻ trong Ðức Kitô. Nhưng xuất xứ, nguồn gốc và nhất là phong tục làm cho
hai bên khó sống chung trong một thân thể và nhận mình là chi thể của nhau. Sự
khó dung hòa này còn kéo dài lâu và đưa đến những thái độ quyết liệt như chúng
ta sẽ thấy sau này.
Ở đây,
nguyên nhân sự bất hòa xem ra chỉ do việc các quả phụ người Hylạp không được phục
vụ tươm tất. Bản văn nói vắn tắt quá khiến chúng ta khó thẩm định được sự thật
như thế nào. Nhưng ít nhất chúng ta phải nhận thức: sinh hoạt của Hội Thánh
ngay từ đầu đã không hạn chế nguyên trong phạm vi phụng vụ. Giáo hội đã biểu thị
sức sống bác ái của mình trong cả việc phục vụ tha nhân, đặc biệt trong các phần
tử đau khổ trong xã hội. Chính Chúa đã nói với Hội Thánh, kẻ nghèo sẽ còn ở mãi
với chúng ta. Và Người ngầm bảo: thế nên, chúng con phải săn sóc họ. Chắc chắn
các Tông đồ đã ý thức tầm quan trọng của công việc phục vụ này nên đã muốn tự
tay làm. Nhưng miễn là việc cầu nguyện và phục vụ Lời Chúa không bị thiệt thòi!
Thế mà
dường như sự đó đã xảy ra. Lời các Tông đồ nói khi giải quyết nỗi bất hòa khiến
chúng ta có thể nghĩ như vậy. Ít ra, khi có tiếng rì rầm phàn nàn về việc phục
vụ, các Tông đồ đã có dịp suy nghĩ về cách thức thi hành phận sự của mình. Các
ngài tỏ ra là những người cởi mở, biết nghe nguyện vọng và chỉ trích của người
dưới. Ðó là những cơ hội để nhận định đúng về sứ mệnh và lề lối làm việc của
mình. Nhận ra mình phải dồn sức cho những công việc quan trọng hơn, các ngài
đem sáng kiến giải quyết vấn đề cho anh em suy nghĩ và kêu gọi sự cộng tác. Rõ
ràng các ngài dành cho anh em nhiều phần sáng kiến để chỉ định những người có
tiêu chuẩn. Người phục vụ phải đầy Thánh Thần và khôn ngoan, vì lẽ công việc của
Hội Thánh là công việc của Chúa Thánh Linh và của Ðức Yêsu Kitô. Việc nào trong
Hội Thánh cũng mang tính cách tôn giáo. Thế mà việc thờ phượng của Ðạo Mới phải
thi hành trong Thần Khí và Sự Thật (Yn 4,23). Matthya đã được chọn thế chân
Yuđa vì ông đã biết Chúa Yêsu và tất cả các Tông đồ phải chờ ơn Thánh Thần xuống
để khởi sự hoạt động trong Giáo hội và cho Giáo hội. Vì thế việc lựa chọn những
người mới theo các tiêu chuẩn trên chứng tỏ sự "một lòng một ý" giữa
hàng ngũ Tông đồ và các cộng sự viên. Hội Thánh vẫn duy nhất trong cơ cấu, mặc
dầu mỗi ngày càng nhiều cơ quan phục vụ. Và có lẽ đây là điểm then chốt trong
bài Công vụ hôm nay. Tác giả muốn đề cao sự nhất trí sâu xa nhân dịp có những
chuyện dường như muốn chia rẽ Giáo hội.
Hai
nhóm trong Hội Thánh, hai khuynh hướng mới cũ, Dothái và Hylạp, tiêu biểu cho mọi
mối căng thẳng, đã tìm lại được sự sống bình an. Vai trò chủ động vẫn do các
Tông đồ nắm giữ, nhưng được thực thi với thái độ cởi mở, linh động và không thiếu
phần cương quyết. Những người được kêu gọi hợp tác cũng ý thức phận sự của mình
là tham gia vào sứ vụ của Thần Khí và Sự Thật. Kết quả dù những người được bầu
lên đều mang tên Hylạp và sẽ đi giảng nơi dân ngoại như Philip sẽ đi Samari,
công việc của họ đều đã được các Tông đồ đặt tay. Họ chỉ nối dài tay các ngài
khiến ta thấy rồi đây Tin Mừng sẽ mau lan rộng ra lương dân. Và ngay ở
Yêrusalem số môn đồ cũng tăng gấp lên, chắc chắn nhờ thái độ cởi mở của các
Tông đồ và của Giáo hội, cũng như nhờ sự hợp tác và duy nhất sâu xa giữa các
tín hữu.
Như vậy
bài sách Công vụ hôm nay còn nói rất nhiều với chúng ta, với cộng đoàn giáo xứ,
giáo phận và Giáo hội chúng ta. Hội Thánh của Chúa không được đóng khung trong
Phụng vụ. Sinh hoạt của Hội Thánh phải bao hàm việc phục vụ tha nhân. Cả trong
lãnh vực này, Hội Thánh vẫn phải "chỉ có một tấm lòng, một linh hồn"
và điều đó đòi hỏi cố gắng của mọi người trong chúng ta. Chúng ta sẽ thấy những
lý do mạnh mẽ để sống tinh thần duy nhất này khi suy nghĩ về bài Thánh Thư và
bài Tin Mừng.
B. Một Ðền Thờ Do Nhiều Viên Ðá Sống
Ðộng
Mở đầu
bài thư, thánh Phêrô khuyên mọi người hãy đến với Tảng đá sống động mà loài người
đã chê chối nhưng Thiên Chúa đã lựa chọn và tôn vinh. Rõ ràng ngài muốn nói đến
Ðức Yêsu Tử nạn Phục sinh. Chúa nhật trước cũng chính thánh Phêrô giới thiệu
Người như là Ðấng chăn dắt các linh hồn, đã hy sinh mạng sống vì chiên. Hôm nay
Người được coi như Tảng đá sống động đã bị loại bỏ nhưng rồi đã được nhặt lên để
xây lên một Ðền Thờ lớn. Không phải thánh Phêrô đã tạo ra hình ảnh này. Chính Ðức
Kitô khi còn sống đã trích lời Thánh vịnh 118 nói về Viên Ðá bị thải nhưng rồi
trở thành Ðỉnh Góc để ám chỉ cuộc Tử nạn-Phục sinh của Người (Mt 21,42). Thánh
Phêrô chỉ thêm tĩnh từ "sống động" vào danh từ "Tảng Ðá" để
nói lên niềm tin của mình vào Ðức Kitô Phục sinh hiện nay đang sống động thực sự.
Và có thể nói Người sống động hơn bao giờ hết vì đang xây dựng tín hữu nên Ðền
Thờ mới.
Những
người này cũng là những viên đá sống động vì mang trong mình sự sống của Ðức
Kitô phục sinh, nhờ việc đã đi qua Bí tích tái hiện việc chết đi sống lại của
Chúa. Họ đã đồng hóa với Người nên cùng Người làm thành Ðền Thờ mới. Nói đúng
ra, thánh Phêrô không dùng danh từ Ðền Thờ vì có lẽ khi ngài viết bức thư này,
Giáo hội chưa có Ðền thờ riêng, nhưng thường thi hành việc bẻ bánh trong các
"nhà". Nhưng nhà thiêng liêng cũng là Ðền thờ. Vì không phải vật liệu
đá, gỗ hay các chiều cao thấp, lớn nhỏ, phân biệt nhà và Ðền thờ. Chính Thánh
Thần mới là yếu tố phân định. Nhà trở thành Ðền thờ khi Thần Trí Chúa ập vào.
Chính Thần xác Ðức Kitô cũng chỉ trở thành Ðền thờ thay thế Ðền thờ Yêrusalem
như Yn 2,19-22 đã nói, khi Người đã đi qua mầu nhiệm Tử nạn Phục sinh để Thân
xác Người trở thành đầy Thánh Thần. Vậy, khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, các tín
hữu đã chết cho tội lỗi và sống cho Thiên Chúa, thì họ được đầy Thánh Thần, trở
nên đá sống xây trên Tảng đá sống động, làm thành nhà thiêng liêng.
Và như
Ðức Kitô Phục sinh không phải chỉ là Ðền thờ mới, mà còn là vị Thượng tế tuyệt
với, các tín hữu khi làm thành nhà thiêng liêng cũng trở nên hàng tư tế thánh để
dâng lễ. Không cần các lễ dâng vật chất nữa, nhưng đã có các hy tế thiêng liêng
đầy Thánh Thần, là những lễ vật duy nhất đẹp lòng Thiên Chúa.
Chúng
ta có thể nghĩ trong đoạn thư này thánh Phêrô nhấn mạnh đến sinh hoạt phụng vụ
và vai trò dâng lễ của Hội Thánh. Nhưng chúng ta cũng có thể nói chủ ý của ngài
là nói lên đặc tính duy nhất, thánh thiện của Giáo hội. Toàn thể các tín hữu được
xây trên Ðức Yêsu Phục sinh làm thành Ngôi nhà thiêng liêng. Và như vậy ta sẽ
thấy ăn ý hơn ở đoạn sau.
Quả vậy
tiếp đó, thánh Phêrô trích một lời trong Tiên tri Isaia (28,16) để làm chứng
Thiên Chúa đã tiền định như vậy, để Ðức Kitô "trở thành viên đá đỉnh góc
quý giá và ai tin vào đó tất không bị hổ thẹn" (c.6). Và ngài nói luôn:
"Vậy vinh dự cho anh em là những người tin, còn đối với những kẻ không
tin, thì... đá kia chỉ là khối thạch chướng ngại". Như thế, ngài vẫn không
quên Ðức Kitô Phục sinh đã được đặt làm "Thẩm phán" kẻ chết và người
sống. Những ai tin Người ở một bên và bên kia là những kẻ không tin. Như vậy,
thánh Phêrô đã coi tín hữu như một khối. Ngài muốn nói đến sự duy nhất trong
Giáo hội. Ngài coi tín hữu như những viên đá sống động nằm trong Ngôi nhà thiêng
liêng. Các vinh dự mà ngài kể ra và nói đã được dành cho tín hữu toàn có tính
cách tập thể, vì anh em là "dòng giống được lựa chọn, hàng tư tế hoàng
vương, nước thánh thiện, dân được chọn làm sở hữu". Bao nhiêu phẩm tước của
dân Giao ước cũ (Xh 43,20; 19,5) được chuyển cho Dân Giao ước mới. Ðó là những
vinh dự của cộng đồng chứ không phải của cá nhân. Nên ta có thể nghĩ ở đây
thánh Phêrô muốn nói nhiều về Hội Thánh duy nhất.
Nếu thế
thì chữ "nhà" mà tác giả dùng ở trên có thể gợi đến một đoạn Kinh
Thánh quan trọng. Ðavít bấy giờ muốn làm nhà cho Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa lại
hứa sẽ xây cho Ðavít một nhà tồn tại muôn đời. Ðó là nhà vua Ðavít, dòng họ của
ông, là Ðức Yêsu Kitô Vua muôn thuở nhờ việc Tử nạn Phục sinh, là Hội Thánh gồm
những viên đá sống động làm nên nhà thiêng liêng. Nhà Ðavít chỉ nắm vương quyền;
nhưng Ðấng Cứu Thế phải thi hành quyền tư tế, nên các tiên tri về sau vẫn loan
báo một Vị Cứu Tinh vừa làm Vua vừa là Thượng tế. Và lời Thánh Kinh ấy đã ứng
nghiệm nơi Ðức Kitô Phục sinh. Hội Thánh, Thân thể của Người, vì thế được gọi
là hàng tư tế hoàng vương.
Thánh
Phêrô muốn cho chúng ta suy nghĩ những tước hiệu tập thể ấy để chúng ta rao
truyền các kỳ công của Thiên Chúa trong tinh thần duy nhất, như tác giả Công vụ
đã khẳng định Hội Thánh thuở ban đầu đã một lòng một ý trong việc mở mang Nước
Chúa. Và đó cũng là mệnh lệnh Chúa đã để lại cho chúng ta trong bài Tin Mừng
hôm nay.
C. Một Ðường Dẫn Tới Sự Sống
Thánh
Yoan ghi lại câu chuyện cuối cùng Chúa nói với môn đệ trước khi bị nộp. Người hướng
về tương lai, nói đến những việc sẽ tới. Người đang ngồi giữa môn đệ trước khi
ra đi chịu chết, nhưng lại nói như thể Người đang ở trong trạng thái phục sinh.
Thế nên chúng ta có điều kiện hiểu Người dễ hơn các môn đệ lúc bấy giờ. Nói
cách khác, đây đúng hơn là tâm tình của Chúa phục sinh nói với chúng ta. Và vì
vậy chúng ta hãy chú ý nghe Người.
Người
mở đầu: "Lòng chúng con chớ rúng động!". Người quen nói như vậy mỗi
khi hiện ra sau ngày sống lại. Chính tiếng nói của Ðấng Vô hình làm cho người
ta sợ, nên Chúa phục sinh phải mở đầu như thế. Và thái độ đầu tiên Người đòi hỏi
nơi người ta là hãy tin vào Người. Không tin Người đã sống lại thì không có đủ
điều kiện để thu hoạch lời Người. Và phải tin vào Người như tin vào Thiên Chúa,
vì bây giờ Người không còn như xưa nữa, khi "Người đã chẳng nghĩ phải giằng
cho được chức vị đồng hàng cùng Thiên Chúa, song Người đã hủy mình ra
không" (Ph 2,6-7). Nhưng bây giờ Người đã được đặt làm Chúa, nên người ta
phải tin vào Người như tin vào Thiên Chúa.
Vậy
chính Chúa Yêsu Phục sinh đang nói với chúng ta, qua các môn đệ của Người. Người
bảo: trong nhà Cha có nhiều chỗ ở; Người sẽ đi dọn chỗ cho chúng ta; rồi Người
trở lại đem chúng ta đến nơi Người ở. Ðầu óc chúng ta tự nhiên muốn vẽ ra con
đường lên trời và như thấy Người đang ở xa chúng ta, tận nhà của Cha Người.
Nhưng không phải vậy, vì chính Người lại quả quyết: đàng dẫn đến Chúa Cha lại
chính là Người. Làm sao có thể như vậy được? Ðầu óc chúng ta muốn nổ tung ra mất.
Nhưng này, đang tiếp chuyện "Con Người thiên thai", sao chúng ta lại
cứ nghĩ như con người trần ai? Chúng ta hãy để Người giải thích, nâng tâm trí
chúng ta lên bình diện Nước Trời. Lúc đó, Lời Người nói sẽ rõ rệt hơn và có thể
hiểu được lắm.
Người
nói: Cha với Người là một. Người ở trong Cha và Cha ở trong Người. Ai thấy Người
cũng thấy Cha. Có gì cấm ta tin như vậy? Người đã phục sinh rồi. Người đã trở
lên nơi vinh hiển của thuở đầu; Người đang ngự bên hữu Thiên Chúa, theo kiểu
nói của người Dothái; và sống lại rồi, Người cũng đang ở với Hội Thánh hàng
ngày cho đến tận thế. Vậy giữa Người với Cha và với Hội Thánh không có không
gian cách quãng gì cả. Chỉ có giữa Hội Thánh và Cha phải có Người là trung
gian, là đàng dẫn Hội Thánh tới Cha, dẫn các linh hồn tới Thiên Chúa. Một mình
Người làm được công việc này; và Người đã làm khi ra đi Tử nạn Phục sinh. Chính
khi chết và sống lại, Người đã trở nên đàng cứu độ dẫn chúng ta tới Thiên Chúa.
Vì thế Người cũng là sự thật và là sự sống của chúng ta để chúng ta chắc chắn
được đến cùng Cha và được sống.
Như vậy
bài Tin Mừng Yoan quá sâu sắc. Ít nhất chúng ta phải thấy rằng Ðức Yêsu Phục
sinh này là đàng dẫn ta đến Thiên Chúa. Không phải con đàng có chiều dài chiều
rộng, vì Cha đang ở trong Người và Người đang ở trong Cha. Nhưng là Trung gian,
là Cửa để chúng ta đến với Thiên Chúa, là Cửa ràn chiên để chúng ta ra vào tìm
được sự sống. Chúng ta vào Cửa là đã gặp Thiên Chúa rồi. Chúng ta đến với Chúa
Yêsu là đến với Thiên Chúa. Chỉ có một điều nên nhớ: tự sức mình chúng ta không
đến với Người được. Chính Người phải đến đưa chúng ta lại. Và Người chỉ đến với
chúng ta khi đã trở về với Cha qua mầu nhiệm Tử nạn Phục sinh, mầu nhiệm mà
chúng ta sắp tái hiện trên bàn thờ. Ở đây, Chúa Yêsu trở lại gặp chúng ta đức
chúng ta vào nhà Cha, để Người ở đâu chúng ta cũng ở đó; Người ở trong Cha và
Cha ở trong Người thì chúng ta cũng ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong
chúng ta. Và sở dĩ được như vậy là nhờ Bí tích Thánh Thể, nhờ mầu nhiệm Vượt
qua của Ðức Kitô, nhờ Người là đàng, là sự thật và là sự sống.
Mầu
nhiệm này không xây dựng sự hiệp nhất sao? Chính nhờ việc Người ở trong Cha,
Cha ở trong Người và hai Ngài ở trong chúng ta và chúng ta ở trong các Ngài mà
chúng ta mật thiết với nhau hơn các viên đá trong một Ðền thờ, hơn các chi thể
trong một thân thể. Sự duy nhất ấy không được chỉ thể hiện nơi nhà thờ, vì như
bài Công vụ cho biết, sinh hoạt tôn giáo phải là phục vụ tha nhân nữa. Chúng ta
chỉ sống đạo đầy đủ khi thể hiện sự duy nhất cả nơi xã hội, trong mọi sinh hoạt
với đồng bào, khiến tuy có nhiều phận vụ khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một tấm
lòng, một linh hồn. Xuất xứ, tính tình, phong tục làm chúng ta xung khắc, nhưng
sức mạnh hợp nhất chúng ta lại bởi Chúa. Chính Người là đàng đưa chúng ta vào sự
duy nhất của Thiên Chúa để Thánh Thần sẽ là dây bác ái kết hợp chúng ta lại với
nhau ở trong Người. Và Người sắp làm việc ấy bây giờ cho chúng ta trong mầu nhiệm
Thánh Thể. Chúng ta hãy cùng nhau sốt sắng tham dự.
(Trích dẫn từ tập sách Giải
Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô
Nguyễn Sơn Lâm)
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Chủ Nhật V Phục Sinh, Năm A
Bài đọc: Acts
6:1-7; 1 Pet 2:4-9; Jn 14:1-12.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phẩm giá và cùng đích cao trọng
của con người
Theo kế hoạch tạo dựng và cứu độ
của Thiên Chúa, con người giữ một địa vị quan trọng hơn tất cả mọi loài Thiên
Chúa dựng nên (Psa 8:3-6). Để biết cách hành xử cho xứng đáng với phẩm giá cao
trọng của mình, con người cần học hỏi để hiểu rõ những mặc khải của Thiên Chúa
cho con người. Nếu không chịu học hỏi, con người sẽ hành xử như các loài thú
khác, để rồi cũng chết như chúng, và không bao giờ đạt được đích điểm cao trọng
mà Thiên Chúa đã tiền định cho con người.
Các bài đọc hôm nay dẫn chứng
nhiều chứng minh con người không biết nguồn gốc và đích điểm cao trọng của mình
nếu họ không chịu học hỏi những mặc khải của Thiên Chúa. Trong bài đọc I, cộng
đoàn tín hữu đầu tiên rất hăng hái trong việc sống chung và để mọi sự làm của
chung thuở ban đầu; nhưng chẳng bao lâu, sự tham lam và ghen tị lại tái sinh giữa
các bà góa Do-thái và các bà góa Hy-lạp. Các tông đồ được Thánh Thần soi sáng
nên biết cách giải quyết rất khôn ngoan. Các ngài đề nghị chính họ tìm 7 phó tế
khôn ngoan và thánh thiện giữa họ, để các ngài đặt tay, và họ sẽ trở thành những
cộng tác viên với các tông đồ trong việc phục vụ Dân Chúa. Trong bài đọc II,
tác giả thư Phêrô I nhấn mạnh đến vận mạng cao cả của các tín hữu. Họ là giống
nòi được tuyển chọn, hàng tư tế vương giả, dân thánh của Thiên Chúa, để loan
truyền những kỳ công của Ngài. Thiên Chúa đã gọi họ ra khỏi miền u tối để vào
nơi đầy ánh sáng huyền diệu. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu mặc khải rất nhiều điều
quan trọng cho các tông đồ: Trong nhà Cha Ngài có rất nhiều chỗ ở, Ngài đi là để
dọn chỗ cho mọi người, khi đã dọn xong Ngài sẽ đến để mang mọi người với Ngài,
mục đích là để Ngài và con người không còn ngăn cách nữa...
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Anh em hãy tìm trong cộng đoàn bảy người được tiếng tốt, đầy Thần
Khí và khôn ngoan.
1.1/ Vấn nạn xảy ra trong Giáo Hội
sơ khai: Khi thấm nhuần niềm vui Phục
Sinh, các tín hữu tin tưởng nơi Thiên Chúa và bỏ mọi sự làm của chung để ai cần
thì dùng; nhưng chẳng bao lâu, tính bè phái, ghen tị và tham lam tiếp tục dấy
loạn. “Các tín hữu Do-thái theo văn hoá Hy-lạp kêu trách những tín hữu Do-thái
bản xứ, vì trong việc phân phát lương thực hằng ngày, các bà goá trong nhóm họ
bị bỏ quên.”
Lời than phiền đến tai các tông
đồ. Nếu họ không biết cách giải quyết khôn ngoan, cộng đoàn sơ khai sẽ có nguy
cơ bị tan rã. Đồng thời, các tông đồ cũng biết họ không đủ khả năng và không có
thời giờ làm tất cả mọi việc, và việc rao giảng Lời Thiên Chúa phải đặt lên
trên việc ăn uống.
1.2/ Cách giải quyết tốt đẹp: Bởi thế, Nhóm Mười Hai triệu tập toàn thể các môn đệ và nói:
"Chúng tôi mà bỏ việc, là điều không phải. Vậy, thưa anh em, anh em hãy
tìm trong cộng đoàn bảy người được tiếng tốt, đầy Thần Khí và khôn ngoan, rồi
chúng tôi sẽ cắt đặt họ làm công việc đó. Còn chúng tôi, chúng tôi sẽ chuyên lo
cầu nguyện và phục vụ Lời Thiên Chúa." Đề nghị trên được mọi người tán
thành. Họ chọn ông Stephen, Philíp, Prochorus, Nicanor, Timon, Parmenas và
Nicolaus. Họ đưa các ông ra trước mặt các Tông Đồ. Sau khi cầu nguyện, các Tông
Đồ đặt tay trên các ông.
Vấn nạn được giải quyết. Các
tông đồ có thêm 7 cộng sự viên đắc lực. Stephen trở thành vị tử đạo đầu tiên.
Philip hăng hái rao giảng mọi nơi. Lời Thiên Chúa vẫn lan tràn, và tại
Jerusalem, số các môn đệ tăng thêm rất nhiều, lại cũng có một đám rất đông các
tư tế đón nhận đức tin. Nếu các tông đồ sợ bị phân chia quyền hành, cộng đoàn
sơ khởi sẽ bị thiệt hại nặng nề và không có cơ hội phát triển.
2/ Bài đọc II: Vận mạng cao cả của các tín hữu
2.1/ Tảng đá góc tường: Cụm từ này có nguốn gốc từ Isaiah 8:14; 28:16, và được lặp lại
trong Romans 9:33; Ephesians 2:20, và trong trình thuật hôm nay. Tác giả liệt
kê 3 công dụng của đá:
(1) Dùng để phá hủy: Ngày xưa
không có súng đạn, con người dùng đá tròn làm vũ khí để tiêu hủy căn cứ quân sự
của đối phương. Ngày nay, vẫn còn hàng đống những viên đá này gần những căn cứ
quân sự cũ bên Do-thái (x/c Isa 8:14).
(2) Dùng làm cho con người vấp
ngã: Đá có thể là những chướng ngại làm con người vấp ngã, leo núi mà vấp phải
một tảng đá có thể trượt chân rơi xuống vực. Các tác giả ví Đức Kitô như viên
đá làm cho người Do-thái bị vấp ngã: “Đối với những kẻ không tin, thì viên đá
thợ xây loại bỏ đã trở nên đá tảng góc tường, và cũng là viên đá làm cho vấp, tảng
đá làm cho ngã. Họ đã vấp ngã vì không tin vào Lời Chúa. Số phận của họ là như
vậy.”
(3) Dùng để xây nhà hay Đền Thờ:
Chúa Giêsu chọn Phêrô là Đá để xây Giáo Hội của Ngài (Mt 16:18). Tác giả Phêrô
I trích dẫn lời Isaiah 28:16: “Này đây Ta đặt tại Sion một viên đá quý được lựa
chọn, làm đá tảng góc tường: kẻ tin vào đó sẽ không phải thất vọng.” “Đức Kitô,
viên đá sống động bị người ta loại bỏ, nhưng đã được Thiên Chúa chọn lựa và coi
là quý giá.” Tác giả Thư Ephesô gọi Đức Kitô là Đá Tảng Góc Tường của Đền Thờ
Thiên Chúa, với nền móng là các ngôn sứ và các tông đồ, còn tất cả các tín hữu
là những viên đá của Đền Thờ (Eph 2:20).
2.2/ Anh em là những viên đá sống động:
Tác giả khuyên các tín hữu: “Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như
những viên đá sống động mà xây nên ngôi Đền Thờ thiêng liêng, và hãy để Thiên
Chúa đặt anh em làm hàng tư tế thánh, dâng những lễ tế thiêng liêng đẹp lòng
Người, nhờ Đức Giêsu Kitô.”
Tác giả cũng nhấn mạnh đến vận mạng
cao cả của các tín hữu. Anh em:
(1) là giống nòi được tuyển chọn:
Chữ “genos” có 3 ý nghĩa trong Hy-lạp: con cháu của một dòng giống, những
người trong cùng một gia đình, hay giống loại theo động vật hoặc thực vật. Tác
giả có ý muốn nói theo nghĩa thứ hai: các tín hữu là những người trong cùng một
gia đình với Thiên Chúa, vì họ đã tin vào Đức Kitô.
(2) là hàng tư tế vương giả:
Trong Cựu Ước, chỉ có những người trong dòng tộc Aaron (Levi) mới được làm tư tế;
nhưng trong Tân Ước, các tín hữu thuộc gia đình Đức Kitô, Ngài là tư tế muôn đời
theo phẩm trật Melchisedech. Khi được rửa tội, các tín hữu thành những tư tế phổ
quát (để phân biệt tư tế theo thừa tác), họ có bổn phận phải thờ phượng Thiên
Chúa.
(3) là dân thánh, dân riêng của
Thiên Chúa: Trong Cựu Ước, chỉ có dân Do-thái được chọn làm dân riêng của Thiên
Chúa. Khi Đức Kitô tới, tất cả những ai tin vào Đức Kitô đều trở thành dân
thánh của Thiên Chúa để loan truyền những kỳ công của Người.
3/ Phúc Âm: Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống.
Có quá nhiều những mặc khải quan
trọng của Chúa Giêsu cho chúng ta trong trình thuật hôm nay. Trong khuôn khổ của
bài viết chúng ta chỉ có thể vắn tắt; khi nào có cơ hội, chúng ta sẽ khai triển
rộng hơn.
(1) Về mục đích đời người và sự
ra đi của Chúa Giêsu: Trên Thiên Đàng có đủ chỗ cho tất cả mọi người. Chúa
Giêsu sắp sửa từ giã các môn đệ là để dọn chỗ cho các ông. Khi đã dọn xong,
Ngài sẽ trở lại để đón các môn đệ về chung sống với Ngài, và đó là cuộc sống hạnh
phúc muôn đời của con người bên Thiên Chúa. Con người phải tin tưởng vào những
gì Chúa Giêsu nói, và đừng để bất kỳ đau khổ nào xảy ra trong cuộc đời làm con
người sợ hãi và thất vọng. Những lời này cũng chứng minh tình yêu vô biên và sự
chăm sóc cẩn thận của Thiên Chúa dành cho con người.
(2) "Chính Thầy là con đường,
là sự thật và là sự sống”: Câu này có thể chia làm 3 mặc khải quan trọng, chính
Chúa Giêsu là:
+ Con đường: Ngài là con đường
và mọi người phải qua con đường này để đạt tới Thiên Chúa. Không còn con đường
nào khác dẫn tới Thiên Chúa: “Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.” Một
ví dụ giúp chúng ta dễ hiểu câu này hơn. Khi chúng ta bị lạc đường, chúng ta hỏi
người để chỉ đường, họ chỉ dẫn chúng ta đi bao nhiêu thì quẹo trái, quẹo phải...;
nghe lời họ, chúng ta lên đường, nhưng rồi lại lạc nữa. Nhưng nếu có người nói
với chúng ta: cứ đi theo tôi, tôi sẽ dẫn tới đó. Chúng ta sẽ cảm thấy an tòan
hơn. Trên đường đời cũng thế, có quá nhiều con đường làm chúng ta lạc hướng và
bất an; nhưng nếu chúng ta nghe lời của Chúa Giêsu: Chính Thầy là đường, và bước
theo Ngài, chúng ta sẽ cảm thấy bình an và chắc chắn sẽ đạt đích an toàn.
Con đường có thể được hiểu là
toàn bộ những giáo huấn của Ngài.
+ Sự thật: Ngài là chính sự thật.
Một người có thể học sự thật của Ngài rồi truyền lại cho người khác, nhưng
không ai có thể vỗ ngực tuyên bố “họ là sự thật.” Tất cả những sự thật khác đều
phải đối chiếu với sự thật của Chúa Giêsu để đáng được tin cậy.
+ Sự sống: Có nhiều phương diện
khác nhau của sự sống như: thể lý, tâm lý, trí tuệ, thiêng liêng, và đời đời. Nếu
một người chọn sống theo sự thật của Chúa Giêsu, họ sẽ đạt được sự sống hoàn
toàn đầy đủ về mọi phương diện.
(3) Ai thấy Chúa Giêsu là thấy
Chúa Cha: Đây là nguồn để chứng minh Thiên Chúa Ba Ngôi. Người Do-thái chỉ tin
một Thiên Chúa, và đó là lý do ông Philíp nói: "Thưa Thầy, xin tỏ cho
chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện." Chúa Giêsu trả
lời rõ ràng cho Philip: Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Chúa Cha và Chúa Giêsu
là một. Chúa Giêsu giải thích thêm: “Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự
mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc
của mình. Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy;
bằng không thì hãy tin vì công việc Thầy làm.”
(4) Việc lớn hơn nữa là việc
nào? Chúa Giêsu bảo đảm cho các môn đệ: “Thật, Thầy bảo thật anh em, ai tin vào
Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những
việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha.” Để tìm ra câu trả lời, chúng
ta phải xem coi những việc gì các môn đệ có thể làm mà Chúa Giêsu không làm hay
chưa làm. Chỉ có một việc là các môn đệ của Chúa Giêsu loan báo Tin Mừng cho mọi
người khắp cùng cõi đất. Điều này Chúa Giêsu đã không làm khi còn sống trên
dương gian; nhưng Ngài để dành cho các môn đệ và sai các ông làm chuyện đó. Dĩ
nhiên, các môn đệ có làm được hay không cũng cần có sự trợ giúp của Ngài, vì
“không có Thầy anh em chẳng làm chi được.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta có một địa vị quan trọng
trước mặt Thiên Chúa hơn hết mọi loài Ngài dựng nên. Hãy sống đúng với phẩm giá
quan trọng của mình để đạt mục đích Thiên Chúa đã tiền định.
- Để hiểu biết phẩm giá quan trọng,
chúng ta cần học hỏi và suy niệm những gì Ngài đã mặc khải. Lười biếng không chịu
học hỏi sẽ làm cho chúng ta ù lỳ, và bằng lòng cuộc sống của loài vật, và của
những thú vui hạ cấp mà thế gian dâng tặng.
Lm.
Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
10/05/20 CHÚA NHẬT TUẦN
5 PS – A
Ga 14,1-12
Ga 14,1-12
ĐỪNG SỢ NHƯNG HÃY TIN
“Anh em đừng
xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy.” (Ga 14,1)
Suy niệm: Các
môn đệ chưa hết hoang mang vì tin dữ mà Đức Giê-su vừa tiết lộ: có một người
trong các ông sẽ phản bội Thầy, thì Ngài lại cho biết Ngài sẽ đi rất xa, đi một
nơi mà “các ông không đến được”, và
ngay cả Phê-rô, người môn đệ “sẵn sàng
thí mạng vì Thầy,” thế mà cũng sẽ “chối
Thầy ba lần” (x. Ga 13,1tt). Bữa tiệc thân mật Thầy trò bỗng trở nên trĩu nặng.
Các môn đệ bàng hoàng xao xuyến. Trong bầu khí ảm đạm đó, Chúa Giê-su vực dậy
lòng tin đang chao đảo của các ông. Ngài dạy: “Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy.” Chính sự kết hợp giữa
Ngài với Chúa Cha bảo đảm điều đó. Quả thật, Chúa là con đường và là sự sống,
nên Chúa ở đâu chúng ta cũng ở đó với Ngài; và ai đến với Ngài thì cũng sẽ gặp
được Chúa Cha, vì Ngài nói: “Thầy ở trong
Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy.”
Mời Bạn: Không
ít lần chúng ta đã rơi vào nỗi sợ hãi. Nhất là hiện nay, chúng ta đang hoang
mang lo lắng vì cơn dịch bệnh và những hậu quả dây chuyền của nó: nỗi lo thất
nghiệp, nạn đói, bạo lực, chiến tranh… Mời bạn dành một khoảnh khắc thinh lặng
để lắng nghe lời Chúa trấn an bạn: “Anh
em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy.” Lời mời gọi của
Chúa không cất những khó khăn khỏi bạn nhưng ban cho bạn nghị lực, vì Chúa nói:
“Ơn Thầy đủ cho con” (2Cr 12,9).
Sống Lời Chúa: Dành một
giây để xin Chúa thánh hoá công việc bạn sắp làm.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, con cần lắm lời trấn an của Chúa
trong từng giây phút của đời sống con. Xin cho con đừng bao giờ nghi ngờ tình
yêu và lòng thương xót của Chúa dành cho con, cho dù cuộc sống có khó khăn, khắc
nghiệt.
(5 phút Lời Chúa)
XIN CHO CHÚNG CON THẤY CHÚA CHA (10.5.2020 – Chúa nhật 5 Phục sinh, Năm A)
Khi đi vào Con Ðường Giêsu,
chúng ta cũng trở nên nẻo đường cho con người hôm nay, nẻo đường dẫn đến
Giêsu.
Suy niệm:
Ông Philipphê xin với Thầy Giêsu:
“Xin cho chúng con thấy Chúa Cha” (Ga 14,8).
Khao khát của ông cũng là khao khát của biết bao người,
những người thiện chí không ngừng tìm kiếm Thiên Chúa,
Ðấng mà họ gọi bằng những tên khác nhau:
Ðấng Tối Cao, Ðấng Tuyệt Ðối, Ðấng vượt trên mọi danh...
Con người muốn bắc một nhịp cầu với Ðấng siêu việt,
muốn có cảm nghiệm và tương quan với Tạo Hóa.
Thiên Chúa đã đáp lại khát vọng Ngài gieo nơi lòng người
khi cho Con Một Ngài làm người, ở giữa chúng ta.
Nơi Ðức Giêsu Kitô, chúng ta gặp được Thiên Chúa,
dễ gần, dễ thấy, dễ quen.
Thiên Chúa đâu chỉ ở nơi cao thẳm ngàn trùng,
Thiên Chúa hiện diện nơi con người Ðức Giêsu khiêm hạ.
Giữa Ngài và Thiên Chúa Cha có một gắn bó lạ lùng
đến nỗi Ðức Giêsu dám nói:
“Ai biết Thầy là biết Cha” (14,7)
“Ai thấy Thầy là thấy Cha” (14,9)
vì “Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy”(14,10).
Lời nói và việc làm của Ðức Giêsu
chính là lời nói và việc làm của Thiên Chúa (14,10).
Toàn bộ cuộc đời Ðức Giêsu được Cha chiếm ngự.
Ngài như tấm gương trong suốt,
phản chiếu khuôn mặt và trái tim Thiên Chúa,
đầy nhân ái và bao dung với hết mọi người.
Làm Kitô hữu là làm người như Ðức Giêsu Kitô,
là trở nên một Giêsu khác cho con người hôm nay,
là ước ao nói được rằng:
“Ai biết tôi là biết Ðức Kitô,
ai thấy tôi là thấy Ðức Kitô.”
Như thế cũng là biết và thấy Thiên Chúa.
“Xin cho chúng con thấy Chúa Cha”
Xin dẫn chúng con đến gặp Thiên Chúa Cha.
Ðức Giêsu không phải chỉ là người đưa đường dẫn lối;
Ngài tự nhận mình là Con Ðường,
thậm chí là Con Ðường độc nhất dẫn đến Cha:
“Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” (14,6).
Mọi con đường cứu độ đều phải đi vào Con Ðường Giêsu.
“Thiên Chúa không ban một danh nào khác dưới bầu trời,
để nhờ danh đó mà chúng ta được ơn cứu độ” (Cv 4,12).
Nhân loại được cứu độ nhờ Danh Ðức Giêsu,
kể cả những ai không biết Ngài - tuy không do lỗi của họ -
nhưng đã sống theo những đòi hỏi của lương tâm.
Ðức Giêsu đã về với Chúa Cha trong vinh quang phục sinh,
sau khi đã sống một đời yêu thương tự hiến.
Cuộc đời Ðức Giêsu trở thành con đường cho chúng ta đi.
Khi chiêm ngắm Ngài trong Tin Mừng,
chúng ta biết mình phải nghĩ gì, nói gì, làm gì.
Khi đi vào Con Ðường Giêsu,
chúng ta cũng trở nên nẻo đường cho con người hôm nay,
nẻo đường dẫn đến Giêsu.
Cầu nguyện:
Lạy Cha,
Cha muốn cho mọi người được
cứu độ
và nhận biết chân lý,
chân lý mà Cha đã bày tỏ nơi
Đức Giêsu, Con Cha.
Xin Cha nhìn đến hàng tỉ người
chưa nhận biết Đức Giêsu,
họ cũng là những người đã được cứu chuộc.
Xin Cha thôi thúc nơi chúng con
khát vọng truyền giáo,
khát vọng muốn chia sẻ niềm
tin và hạnh phúc,
niềm vui và bình an của mình
cho tha nhân,
và khát vọng muốn giới thiệu
Đức Giêsu cho thế giới.
Chúng con thấy mình nhỏ bé và bất lực
trước sứ mạng đi đến tận
cùng trái đất
để loan báo Tin Mừng.
Chúng con chỉ xin đến
với những người bạn gần bên,
giúp họ quen biết Đức Giêsu và tin vào Ngài,
qua đời sống yêu thương cụ thể của chúng con.
Chúng con cũng cầu nguyện
cho tất cả những ai đang xả thân lo việc truyền giáo.
Xin Cha cho những cố gắng của chúng con
sinh nhiều hoa trái. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
10 THÁNG NĂM
Cơn Đau Sinh Nở Giáo Hội
Trong Mùa Phục Sinh, phụng vụ
qui hướng đặc biệt về Sách Công Vụ Tông Đồ. Chúng ta dõi bước theo cuộc hành
trình tông đồ của Phao-lô và Barnaba đến nhiều thành phố khác nhau trên khắp đế
quốc Rô-ma – ở những nơi đó, Tin Mừng lần đầu tiên được công bố và Giáo Hội được
khai sinh.
Sự phát triển từng bước ấy của
Tin Mừng và của Giáo Hội chính là hoa trái của mầu nhiệm Vượt Qua đã diễn ra tại
Giê-ru-sa-lem. Tất cả những sự kiện ấy – đều có mối gắn kết với căn gác thượng
ngày nào – đã tiếp tục cùng một công cuộc cứu độ của Đức Kitô. Chúng ta nhìn thấy
công cuộc cứu độ của Đức Kitô được xúc tiến xuyên qua hoạt động rao giảng Tin Mừng
và xuyên qua đời sống Giáo Hội như được ghi lại trong Sách Công Vụ Tông Đồ.
Tất cả đã trở thành có thể – duy
chỉ nhờ quyền năng của Đức Kitô Khổ Nạn và Phục Sinh và nhờ quyền năng của Chúa
Thánh Thần, Đấng được Người gửi đến. Các Tông Đồ nhắc chúng ta rằng chúng ta phải
trải qua nhiều thử thách trước khi có thể bước vào triều đại của Thiên Chúa (Cv
14, 22). Đó là con đường mà Đức Kitô dã giới thiệu cho mọi Kitôhữu. Giáo Hội
đang được khai sinh trong tâm hồn những con người môn đệ, trong những cộng đoàn
mới, trong mọi nơi chốn mà Thánh Thần Chúa tác động. Giáo Hội đang được khai
sinh và đơm hoa kết trái nhờ ở mầu nhiệm Vượt Qua vĩ đại là cái chết và cuộc phục
sinh của Chúa. Giáo Hội vẫn được khai sinh như thế qua hàng bao thế kỷ. Và hôm
nay, sau ngót hai ngàn năm, chúng ta vẫn gắn kết với di sản cuộc khai sinh mang
tính cứu độ ấy của Giáo Hội.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan
Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John
Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 10-5
CHÚA NHẬT V PHỤC SINH
Cv 6, 1-7; 1Pr 2, 4-9; Ga 14, 1-12.
LỜI SUY
NIỆM: “Chính Thầy là con đường, là sự
thật và là sự sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.”
Con
đường của Chúa Giêsu xuất phát từ Thiên Chúa đi đến trong cung lòng Trinh Nữ
Maria để làm người, sinh ra tại hang lừa máng cỏ ở Bêlem và chết trên Thánh Giá
ở đồi Canvê. Con đường của Chúa Giêsu, là con đường thể hiện tình yêu thương cứu
độ của Chúa Cha đối với nhân loại, và làm vinh danh Chúa Cha. Chúa Giêsu mời gọi
Kitô hữu đi vào con đường sự thật và sự sống. – Vì yêu thương con người mỏng
dòn, yếu đuối. Chúa Giêsu vạch cho chúng ta những con đường nhỏ dễ đi hơn: đó
là: “Tám Mối Phúc”. Trên con đường này, cũng đầy thử thách và cam go, cần có sự
cầu nguyện liên lỉ với Chúa Cha. Đồng thời, luôn có sự hiện diện của Chúa Thánh
Thần trợ giúp sức mạnh và khôn ngoan.Để chúng ta qua Chúa Giêsu để gặp được
Chúa Cha.
Lạy
Chúa Giêsu. Chỉ có Chúa là con đường sự thật và là sự sống. Xin cho mọi thành
viên gia đình chúng con luôn chọn Chúa.
Mạnh
Phương
10 Tháng Năm
Bàn Tay Phải Của Chúa Giêsu
Có rất nhiều giai thoại kể về những
tượng thánh giá cổ xưa... Tại một nhà thờ bên Tây Ban Nha, có một tượng thánh
giá cổ rất đặc biệt. Cánh tay trái của Chúa Giêsu vẫn còn đóng vào gỗ giá,
nhưng cánh tay mặt thì rời ra và đưa đến phía trước trong tư thế ban phép lành.
Người Tây Ban Nha kể về nguồn gốc
của tượng thánh giá này như sau: Một hôm có một tội nhân đến xưng tội với vị
linh mục chính xứ ngay dưới cây thánh giá này. Như thường lệ, mỗi khi giải tội
cho một tội nhân có quá nhiều tội nặng, vị linh mục này tthường tỏ ra rất
nghiêm khắc. Ngài ra việc đền tội nặng cũng như ngăm đe nhiều điều.
Tội nhân ra về, lòng cảm thấy nhẹ
nhàng. Nhưng tính nào tật ấy, không bao lâu, người đó sa ngã lại. Lần này, sau
khi anh xưng thú tội lỗi, vị linh mục lại đe dọa như sau: "Ðây là lần cuối
cùng tôi giải tội cho ông".
Nhiều tháng trôi qua, tội nhân lại
đến quỳ dưới chân linh mục cũng bên dưới cây thánh giá và lại xin ơn tha thứ một
lần nữa. Nhưng lần này, vị linh mục đã dứt khoát. Ngài trả lời: "Ông đừng
có đùa với Chúa. Tôi không thể ban phép giải tội cho ông nữa".
Nhưng lạ lùng thay, khi vị linh
mục vừa khước từ tội nhân, thì ông bỗng nghe một tiếng thì thầm từ bên thánh
giá. Bàn tay phải của Chúa Giêsu bỗng được rút ra khỏi thánh giá và ban phép
lành cho hối nhân. Và vị linh mục nghe được tiếng thì thầm ấy như sau:
"Chính ta là người đã đổ máu ra cho người này, chứ không phải ngươi".
Từ đó, bàn tay phải của Chúa
Giêsu cứ ở mãi trong tư thế ấy, như không ngừng mời gọi con người đến để ban ơn
tha thứ...
Kinh Thánh thuật lại rằng trong
cuộc hành trình tiến về đất hứa, khi đi qua giữa sa mạc, dân Israel đã bị rắn cắn.
Môi sen đã sai đúc một con rắn đồng và treo lên một ngọn cây để tất cả những ai
bị rắn cắn, nhìn vào con rắn đồng ấy đều được chữa lành...
Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta
nhìn lên thập giá của Ngài.
Nhìn lên thập giá của Ngài để thấy
được án phạt của tội lỗi.
Nhìn lên thập giá để thấy được
tình yêu bao la của Chúa.
Phải, bên kia sự độc ác của tội
lỗi, Chúa Giêsu chỉ muốn chúng ta nhìn thấy được tình yêu của Thiên Chúa: một
tình yêu không ngừng tha thứ, một tình yêu vượt lên trên mọi tư tưởng, mọi tiêu
chuẩn phán đoán, mọi khát vọng của chúng ta.
Nhìn lên thập giá Chúa không phải
để thất vọng vì gánh nặng của tội lỗi, mà trái lại để cảm mến được hồng ân bao
la của Chúa, để cho tâm hồn được phấn khởi, tin yêu hơn...
Nhìn lên thập giá Chúa để cảm mến
được ơn tha thứ của Ngài, chúng ta cũng được mời gọi để cảm thông, để tha thứ
hơn đối với người anh em của chúng ta. Càng nhận ra được tình yêu tha thứ của
Chúa, chúng ta còn được mời để gọi tha thứ nhiều hơn. Còn tha thứ nhiều hơn,
chúng ta còn dễ cảm mến được ơn tha thứ của Chúa...
(Lẽ Sống)






Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét