17/05/2020
Chúa Nhật tuần 6
PHỤC SINH năm A
(phần II)
Phụng vụ Lời
Chúa: Chúa nhật 6 Phục sinh năm A
(Cv 8,5-8.14-17; 1 Pr 3,15-18; Ga 14,15-21)
VAI TRÒ CỦA THÁNH THẦN
“Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em
một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi”. (Ga 14,16)
một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi”. (Ga 14,16)
Gió muốn thổi đâu thì
thổi; người ta nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu đến và thổi đi đâu.
Ai bởi Thần Khí mà sinh ra thì cũng vậy (x. Ga 3,8). Sự tác động của Thánh Thần
thật diệu kỳ, nhẹ nhàng nhưng hiệu quả, làm cho hạt giống Tin Mừng có từ muôn
thuở, nảy mầm và lớn lên nơi sứ vụ của Chúa Giêsu, lớn mạnh trong đời sống Giáo
hội, từ lúc khai sinh cho đến nay, và tiếp tục mãi về sau.
I. CÁC BÀI ĐỌC
1. Bài đọc 1:
Cuộc bách hại Giáo hội
tại Giêrusalem đã phân tán các môn đệ mỗi người mỗi nơi (x. Cv 8,1), mang sứ điệp
Tin Mừng Phục Sinh rao giảng cho nhiều vùng khác nhau (x. Cv 8,4). Dẫu gặp nhiều
khó khăn, Giáo hội mẹ tại Giêrusalem vẫn quan tâm duy trì sự hiệp nhất nhờ ơn
Thánh Thần.
Trước hết, sự kiện ông
Philípphê đến Samari giảng Đức Kitô cho dân cư ở đó và họ vui mừng đón nhận lời
rao giảng của ông, cho thấy sức lan tỏa và sự linh hoạt của việc loan báo Tin Mừng.
Dù trong khó khăn do bách hại, Tin Mừng về Đức Kitô Phục Sinh vẫn tiếp tục lan
tỏa nhờ sự can đảm và hăng say của sứ giả mang Tin Mừng. Dù bị người Do thái
xem như dân ngoại, dân Samari vẫn không bị loại ra ngoài trong sứ vụ rao giảng
của Giáo hội sơ khai; và đó chính là niềm vui của họ khi được đón nhận Tin Mừng,
một Tin Mừng không loại trừ bất kỳ ai dù họ thuộc dân tộc, quốc gia, tôn giáo
hay tầng lớp nào.
Hơn nữa, để bày tỏ sự
quan tâm, nâng đỡ và tinh thần hiệp thông, Giáo hội mẹ tại Giêrusalem đã cử hai
ông Phêrô và Gioan đến với Giáo hội địa phương tại Samari. Ngay từ thời Giáo hội
sơ khai, các Tông đồ đã ý thức về tầm quan trọng của sự hiệp thông trong Giáo hội.
Sự hiệp thông này không chỉ mang tính nâng đỡ mục vụ, mà trên hết là liên kết
và hiệp nhất trong Giáo hội nhờ ơn Thánh Thần. Quả vậy, dù đã chịu phép rửa
nhân danh Chúa Giêsu, nhưng các tín hữu tại Samari chưa nhận được Thánh Thần. Sự
liên kết hiệp thông trở nên tròn đầy khi có sự hiện diện của đại diện các Tông
đồ; việc các ngài đặt tay, cầu nguyện để ơn Thánh Thần xuống trên các tín hữu
giúp liên kết các tín hữu với nhau, với các Tông đồ và với Giáo hội mẹ
Giêrusalem. Thánh Thần quả thật là Đấng liên kết và hiệp nhất mọi tín hữu trong
Giáo Hội.
2. Bài đọc 2:
Viết cho các Kitô hữu
đang sống giữa những người ngoại giáo, tác giả thư thứ nhất Phêrô khích lệ họ sống
theo gương mẫu Đức Kitô, dù phải chấp nhận thiệt thòi, để làm chứng cho niềm hy
vọng mà họ đặt nơi Người.
Đức Kitô là Đấng công
chính mà đã sẵn sàng chết cho những kẻ bất lương, thì đến lượt các Kitô hữu là
môn đệ của Người cũng được mời gọi sống công chính, hiền hòa, theo lương tâm
ngay thẳng. Chính lối sống đó sẽ là câu trả lời cho bất cứ lời vu khống, dèm
pha, làm cho họ phải thẹn thùng xấu hổ. Khi sống như thế, các Kitô hữu có thể
phải chịu thiệt thòi, kỳ thị nhưng “thà chịu khổ vì làm việc lành, nếu đó là ý
của Thiên Chúa, còn hơn là vì làm điều ác” (1 Pr 3,17).
Đức Kitô đã chết và đã
được phục sinh nhờ Thánh Thần, để dẫn đưa các tín hữu đến cùng Thiên Chúa. Đó
chính là niềm hy vọng cao cả nhất mà các tín hữu được mời gọi sẵn sàng làm chứng
bằng chính đời sống của mình cho những người xung quanh. Thật vậy, sự thánh thiện
của Đức Kitô là gương mẫu để các Kitô hữu noi theo. Dù bị những cám dỗ theo lối
sống xấu xa, các Kitô hữu được khích lệ hãy trung thành với niềm tin vào Đức
Kitô và sống trong niềm hy vọng vào Người, để có thể trả lời cho bất cứ ai chất
vấn về đức tin và niềm hy vọng của mình.
3. Bài Tin Mừng:
Chương 14 Tin Mừng thứ
tư mô tả khung cảnh thân mật giữa Chúa Giêsu và các môn đệ trong những giờ phút
cuối cùng trước khi Người rời xa các ông. Người dành những lời tâm huyết để an ủi
và khích lệ tinh thần các ông bằng cách mạc khải về tình yêu của Thiên Chúa Ba
Ngôi.
Tình yêu chính là sợi
dây liên kết bền chặt, kết hợp Chúa Cha và Chúa Giêsu thế nào, thì đó cũng là mối
dây liên kết Chúa Giêsu và các môn đệ. Bằng cách giữ các điều răn Chúa Giêsu đã
dạy, mà trên hết là giới răn mới, giới răn yêu thương (Ga 13,34-35), các môn đệ
được liên kết với Chúa Giêsu và Chúa Cha trong tình yêu, nhờ đó các ông sẽ hiểu
cách sâu xa hơn, tròn đầy hơn mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa (Ga 14,21). Mầu
nhiệm tình yêu đó chính là Thánh Thần, Đấng được Chúa Cha ban cho các môn đệ.
Cũng như Thánh Thần tình yêu liên kết Chúa Cha và Chúa Giêsu thế nào, Thánh Thần
cũng liên kết các môn đệ vào trong mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa như vậy.
Đồng thời, Thánh Thần
cũng chính là sự sống được ban cho các môn đệ. Rồi đây Chúa Giêsu không còn ở
trong trần gian với các môn đệ, nhưng nhờ Thánh Thần, Người vẫn sống giữa các
môn đệ và làm cho cuộc sống của các ông trở nên sống động (Ga 14,19). Dù Chúa
Giêsu không còn ở với các ông nữa, nhưng Thánh Thần, Đấng Bảo Trợ, sẽ tiếp tục ở
với các môn đệ để các ông không phải mồ côi, vì nhờ ơn Thánh Thần, các môn đệ sẽ
luôn cảm nhận được sự hiện diện của Chúa Giêsu luôn mãi.
Như vậy, qua đoạn Tin
Mừng này, Chúa Giêsu hé lộ mạc khải sâu xa về mầu nhiệm Thiên Chúa: Chúa Cha,
Chúa Giêsu và Thánh Thần. Đó là mầu nhiệm về Thiên Chúa tình yêu. Ai kết hợp với
Thiên Chúa tình yêu bằng việc tuân giữ Lời Chúa Giêsu, thì được hiệp thông với
Thiên Chúa, được thông phần sự sống thần linh của Ngài nhờ ơn Thánh Thần.
II. GỢI Ý ÁP DỤNG
1/ Sách Công vụ Tông đồ cho thấy ơn Thánh Thần được
ban qua việc cầu nguyện và đặt tay của các Tông Đồ. Chính Thánh Thần liên kết
và hiệp nhất các cộng đoàn khác nhau trong Giáo Hội. Nơi đâu thực sự có ơn
Thánh Thần, ở đó chắc chắn có sự hiệp nhất. Trách nhiệm của người Kitô hữu là
làm sao để ơn Thánh Thần mà mình lãnh nhận qua Bí tích Rửa tội và Thêm sức
không trở nên vô nghĩa và không đem lại lợi ích cho sự hiệp nhất của cộng đoàn
mình đang thuộc về.
2/ Theo gương Đức Kitô là Đấng “bị nguyền rủa, Người không
nguyền rủa lại, chịu đau khổ mà chẳng ngăm đe, nhưng một bề phó thác cho Đấng
xét xử công bình” (1 Pr 2,23), các Kitô hữu cũng được mời gọi sống hiền hoà
theo lương tâm ngay thẳng khiến những người ngoại giáo không thể chê trách được
điều gì. Hơn nữa, dù là Đấng công chính, Đức Giêsu chấp nhận chết cho những kẻ
bất chính, để khi sống lại, Người trở nên nguồn hy vọng cho các Kitô hữu. Đến
lượt các Kitô hữu cũng được thôi thúc làm chứng về niềm hy vọng phục sinh cho những
người xung quanh.
3/ Có gì cao quý hơn tình yêu? Còn gì quý giá hơn sự sống?
Làm sao để được kết hợp với Thiên Chúa tình yêu? Làm thế nào để được thông phần
sự sống thần linh của Ngài? Chỉ có con đường Giêsu, con đường tuân giữ Lời Chúa
mới dẫn người Kitô hữu đến cùng Thiên Chúa để biết yêu và được yêu, để được
thông chia sự sống bất diệt của Ngài. Chỉ những ai biết mở lòng ra đón nhận ơn
Thánh Thần thì mới không phải sống trong cảnh mồ côi, nhưng được tháp nhập vào
trong mầu nhiệm tình yêu và sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi.
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị
em thân mến! Thiên Chúa Cha sẽ ban tặng Thánh Thần cho những ai yêu mến và tuân
giữ lệnh truyền của Đức Kitô, giúp họ hoàn tất ơn gọi và sứ mạng của mình.
Trong niềm tin tưởng và phó thác vào quyền năng Thiên Chúa, công đoàn chúng ta
cùng tạ ơn Người và dâng lời cầu nguyện.
1. “Thầy sẽ xin Cha,
và Người sẽ ban cho các con một Ðấng Phù Trợ khác.” Chúng ta cùng cầu xin Chúa
tuôn đổ Thánh Thần trên Đức Giáo Hoàng Phanxicô, hàng Giám mục và các Linh mục,
giúp các ngài chu toàn trách vụ dẫn dắt đoàn chiên được Chúa ủy thác.
2. Các tông đồ đặt tay
trên dân chúng, và họ nhận lãnh Thánh Thần. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các
nhà lãnh đạo trên thế giới được Chúa Thánh Thần hướng dẫn, biết hành động theo
sự thật, tích cực đẩy lùi dịch bệnh và sớm phục hồi cuộc sống cho người dân.
3. Thánh Phêrô nhắc nhở:
“Hãy luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em.”
Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi Kitô hữu luôn thấm nhuần tinh thần Tin Mừng mà
trở nên chứng nhân cho tin yêu và hy vọng giữa thế giới tục hóa hôm nay.
4. “Nếu các con yêu mến
Thầy, thì hãy giữ giới răn của Thầy.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người
trong cộng đoàn chúng ta biết thể hiện lòng yêu mến Chúa qua việc tuân giữ các giới
răn, và tận tâm chu toàn bổn phận đối với gia đình cũng như cộng đoàn.
Chủ tế: Lạy
Thiên Chúa là Cha toàn năng, xin thương chúc lành cho những ý nguyện của chúng
con và ban tràn đầy ân huệ Thánh Thần, giúp chúng con luôn hăng say trong sứ vụ
loan báo niềm vui Tin Mừng giữa thế giới hôm nay. Chúng con cầu xin nhờ Đức
Kitô, Chúa chúng con. Amen.
Sợi Chỉ Đỏ Chúa Nhật 6 Phục Sinh Năm A
CUỘC SỐNG MỚI CỦA TÍN HỮU
TRONG CHÚA THÁNH THẦN
TRONG CHÚA THÁNH THẦN
“Chúa Cha sẽ ban cho anh em một Đấng Phù Trợ khác”
(Ga 14,16)
Sợi chỉ đỏ :
– Bài đọc I : Dân
Samari được lãnh nhận Chúa Thánh Thần.
– Bài Tin Mừng :
Chúa Cha sẽ ban cho tín hữu một Đấng phù trợ khác, đó là Chúa Thánh
Thần.
– Bài đọc
II : Cuộc sống lạc quan của người tín hữu vì đã có Chúa
Thánh Thần giúp họ trong cảnh khó khăn, thù hằn của thế gian.
Anh chị em thân mến,
Chỉ còn một tuần lễ nữa
là đến lễ Thăng thiên. Tin Mừng hôm nay thuật rằng trước khi Đức Giêsu lên trời,
Ngài đã hứa gởi Chúa Thánh Thần đến với chúng ta để giúp chúng ta chu toàn sứ mạng
mà Ngài đã giao cho chúng ta, tức là loan báo Tin Mừng khắp thế giới. Chúng ta
đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần trong ngày được Rửa tội và Thêm sức. Nhưng chúng
ta có ý thức Ngài đang ở trong chúng ta không, và có nghe theo sự hướng dẫn của
ngài không ?
– Mặc dù đã được rửa tội
nhân danh Đức Giêsu và được thêm sức trong Chúa Thánh Thần, thế mà chúng ta vẫn
sống một cuộc sống tầm thường không hơn những kẻ chưa được rửa tội bao nhiêu.
– Kitô hữu là người
mang hy vọng, thế mà nhiều khi chúng ta để mình bị rơi vào thất vọng.
– Chúa Thánh Thần là Đấng
phù trợ luôn bênh vực chúng ta. Nhưng chúng ta thường sợ hãi như không có Ngài.
Bị đuổi khỏi
Giêrusalem do cuộc bách hại mà những người do thái phát động chống các kitô hữu,
phó tế Philíp lánh sang miền Samari. Ông dùng dịp này để loan Tin Mừng Đức
Giêsu Kitô cho dân Samari. Nhiều người Samari đã xin lãnh nhận phép rửa. Hoạt động
truyền giáo của Philíp đã có tiếng vang đến tai các tông đồ, nên ít lâu sau,
chính Phêrô và Gioan đích thân đến Samari và đặt tay xin Thánh Thần xuống trên
các tân tòng Samari.
Khi hồi tưởng biết bao
ơn lành mà Thiên Chúa đã ban cho mình, dân Israel vui mừng cất tiếng tung hô
Ngài và còn kêu mời cả trái đất hợp tiếng tung hô nữa.
So với dân Israel, dân
kitô hữu chúng ta còn được Thiên Chúa ban nhiều ơn lành hơn gấp bội. Lẽ nào
chúng ta không cất tiếng tung hô Ngài ?
Bức thư 1 Pr do Thánh
Phêrô gởi cho các tín hữu đang bị bách hại vì đạo Chúa để chỉ dạy họ cách làm
chứng niềm tin giữa hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ấy :
– Khi người ta chất vấn
về niềm tin của mình thì hãy sẵn sàng trả lời. Nhưng phải trả lời cách hiền hòa
và với sự kính trọng.
– Phải sống tốt lành
theo lương tâm ngay thẳng, khiến cho cuối cùng chính những kẻ bách hại cũng phải
xấu hổ vì đã đối xử tệ với các tín hữu.
Trước khi đi vào cuộc
chịu nạn chịu chết, Đức Giêsu an ủi các môn đệ. Ngài sẽ không bỏ các ông bơ vơ
như những đứa con mồ côi, nhưng Ngài sẽ ban cho họ một Đấng phù trợ khác đến ở
với họ luôn mãi, đó là Chúa Thánh Thần.
Bài đọc 2 hôm nay
trích từ thư thứ nhất của Thánh Phêrô gởi các tín hữu để an ủi và khuyến khích
họ giữ vững đức tin trong hoàn cảnh bị nghi kỵ, thù ghét và bách hại. Tại sao
hôm nay Giáo Hội muốn cho chúng ta nghe lại đoạn thư ấy ?
Thưa vì sự bách hại,
dưới hình thức này hay hình thức khác, là điều tín hữu không thể tránh nếu họ
thực sự sống Tin Mừng. Ta còn có thể nói : chịu bách hại là một thành phần
của việc sống đức tin. Lịch sử đã cho thấy rằng khi Giáo Hội gặp bách hại thì đức
tin của tín hữu mạnh thêm ; còn khi Giáo Hội bình an thì đức tin yếu đi.
Bởi thế, trước tiên là
Đức Giêsu, và kế đó là Thánh Phêrô trong đoạn thư hôm nay, không coi bách hại
là một tai họa, nhưng trái lại là một mối phúc : “Phúc cho anh em khi vì
Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xoá tên như đồ xấu xa.
Ngày đó anh em hãy vui mừng nhảy múa, vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở
trên trời thật lớn lao. Bởi lẽ các ngôn sứ cũng đã từng bị cha ông họ đối xử
như thế” (Lc 6,22-23).
Đức tin luôn bị xét xử !
Vì thế, khi đứng trước tòa án của dư luận, trước sự chỉ trích của những người
chung quanh, người tín hữu đừng buồn và đừng sợ, nhưng hãy coi đây là dịp tốt để
làm chứng về niềm hy vọng sống động của mình.
Nhưng để có thể bình
thản và lạc quan như thế, chúng ta hãy nhớ lời Đức Giêsu nói hôm nay : “Thầy
không để anh em mồ côi đâu… Thầy sẽ xin Chúa Cha và Ngài sẽ ban cho ánh em một
Đấng Bào chữa khác đến với anh em luôn mãi… Ngài ở lại với anh em và trong anh
em”.
Ngày xưa khi các tín hữu
bị bách hại ở Giêrusalem phải trốn sang Antiôkhia, họ bị dân chúng miền này mỉa
mai gọi họ là “Kitô hữu”, ngụ ý đó là những kẻ khờ dại sống theo giáo lý của một
tên Giêsu nào đó xưng mình là Kitô. Nhưng không ngờ cái tên “Kitô hữu” ấy lại
diễn đạt rất đúng tính cách của người tín hữu. Đúng vậy, tín hữu của Đức Giêsu
là người muốn bắt chước Đức Kitô đến nỗi trở thành một Kitô khác.
Nhưng làm thế nào để
được như vậy ? Thưa nhờ Chúa Thánh Thần :
– Chúa Thánh Thần là Đấng
soi sáng, giúp ta ngày càng hiểu rõ Đức Kitô và những lời dạy của Ngài hơn.
– Chúa Thánh Thần là Đấng
Phù trợ : Ngài ban sức mạnh giúp chúng ta sống. Sống một cách phi thường
trong cuộc đời bình thường ; sống bình thản và lạc quan trong những lúc
khó khăn ; sống quảng đại đang khi vác thập giá…
– Chúa Thánh Thần còn
là nguồn tình yêu. Nhờ tình yêu mà Chúa Thánh Thần đổ tràn vào lòng chúng ta,
cuộc sống chúng ta luôn là một màu hồng, cho dù khi thất bại, khi bị phụ bạc vô
ơn, khi chịu đựng những tấn công của kẻ đố kị… giống như Đức Kitô ngày xưa
trong cuộc chịu nạn.
Yêu không chỉ là cảm
xúc mà còn là sống, cho nên yêu thì tất nhiên thể hiện ra bằng hành động :
hành động trước mặt người mình yêu để người ấy vui lòng ; và hành động
theo ý người mình yêu ngay cả khi người ấy không có mặt.
Bởi thế Đức Giêsu nói
với các môn đệ : “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các giới răn của
Thầy”.
Có nhiều cuộc ra đi
nhưng mang những ý nghĩa khác nhau :
– Có khi ra đi là bỏ lại,
như một cha từ trần ra đi bỏ lại đám con côi cút. Hôm nay Đức Giêsu ra đi không
có nghĩa là Ngài bỏ chúng ta mồ côi : “Thầy sẽ không để chúng con phải mồ
côi”.
– Có khi ra đi là dứt
bỏ, như một tên sở khanh bỏ mặc cô gái bị hắn lường gạt mà “quất ngựa truy
phong”. Hôm nay Đức Giêsu ra đi cũng không có nghĩa đó.
– Có khi ra đi là cần
thiết cho lợi ích của kẻ ra đi, như một người thất nghiệp đi đến nơi khác để có
việc làm. Cuộc ra đi hôm nay của Đức Giêsu là như thế, Ngài ra đi để trở về nhà
Cha mình. Cuộc ra đi này rất tốt cho Ngài.
– Có khi ra đi vừa tốt
cho kẻ ra đi vừa tốt cho kẻ ở lại, như một người đi làm ăn rồi một thời gian
sau trở lại đem tiền về cho gia đình. Thí dụ này càng đúng hơn nữa đối với Đức
Giêsu. Hôm nay Ngài ra đi để được về với Cha mình, nhưng cũng để “dọn chỗ” cho
các môn đệ, rồi sau đó Ngài sẽ trở lại rước các môn đệ cùng Ngài đến chỗ mới
đó.
Đức Giêsu không bao giờ
bỏ chúng ta ở lại trong cảnh mồ côi thiếu thốn. Ngài để lại cho chúng ta hai trợ
lực rất hữu hiệu, một là Phép Thánh Thể mà chúng ta có thể đến hằng ngày, hai
là Chúa Thánh Thần vẫn luôn ở bên cạnh để hỗ trợ chúng ta từng giây từng phút.
Một ngày lộng gió, tôi
đứng trên bờ biển với cảm giác ớn lạnh.
Nhưng tôi thấy những
con chim biển chẳng chút sợ gì những đợt gió mạnh ấy, trái lại còn thích thú nữa.
Có lúc chúng lướt theo
gió, có lúc chúng bay ngược chiều gió, chúng lao vút lên trời, rồi chúng đâm
nhào xuống đất. Nhưng lúc nào chúng cũng biết vận dụng sức gió, và có thể nói sức
mạnh của chúng chính là sức mạnh của gió.
Rồi tôi chợt hiểu câu
nói của Đức Giêsu : “Thầy không để chúng con mồ côi. Thầy sẽ ban cho chúng
con một Đấng Phù Trợ khác, đó là Chúa Thánh Thần”. (Flor McCarthy, “Learning
from the sea-gulls”)
CT : Anh chị em thân mến
Trung thành tuân giữ
các điều răn của Chúa là phương thế tốt nhất để bày tỏ lòng yêu mến Chúa. Với
tâm tình mến yêu Luật Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu xin.
1.
Hội Thánh luôn cần
nhiều vị mục tử thánh thiện và khôn ngoan / để hướng dẫn và củng cố niềm tin của
dân Chúa trên đường lữ thứ trần gian / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa Thánh Thần
/ soi sáng và nâng đỡ các vị mục tử trong đời sống mục vụ thường ngày.
2.
Hòa bình và phát
triển là hai mục tiêu mà bất cứ ai đang sống trên trái đất đều mong muốn /
Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa / ban cho thế giới một nền hòa bình thật sự / nhờ
đó các quốc gia có thể phát triển / mọi người được an cư lạc nghiệp / và ấm no
hạnh phúc.
3.
Người kitô hữu sẽ
không bao giờ dám hiên ngang sống đức tin / cũng như sẽ khó trung thành với
Chúa và Hội Thánh / nếu không có Chúa Thánh Thần thúc giục và nâng đỡ / Chúng
ta hiệp lời cầu xin Chúa / ban Thánh Thần của Người / để soi sáng / hướng dẫn /
và trợ giúp các tín hữu trong mọi lúc mọi nơi.
4.
Điều răn Chúa là
rào chắn bảo vệ người tín hữu khỏi rơi xuống vực sâu tội lỗi / Chúng ta hiệp lời
cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết luôn mến yêu và trung thành tuân
giữ các điều răn của Chúa / nhờ đó mà tránh được những lỗi lầm tai hại.
CT : Lạy Chúa Giêsu, Chúa hòa ban Thánh Thần cho các
tông đồ để các ngài đi đến tận cùng trái đất làm chứng cho Chúa. Xin cũng ban
Thánh Thần, để chúng con trở nên chứng nhân can trường của Chúa. Chúa hằng sống
và hiển trị…
– Kinh Tiền Tụng :
Nên dùng Kinh Tiền Tụng Phúc sinh 2, nhấn mạnh câu ở đoạn 2 “Nhờ Người chúng
con được tái sinh làm con cái ánh sáng để sống muôn đời“
– Trước kinh Lạy
Cha : Chúng ta hãy xin Chúa Thánh Thần khơi lên trong lòng chúng ta những
tình cảm và ước muốn giống như Đức Giêsu, để chúng ta có thể cùng với Đức Giêsu
dâng lên Thiên Chúa lời kinh Lạy Cha sau đây.
Sau khi rời nhà thờ,
chúng ta trở lại cuộc sống bình thường với mọi người khác và trước cặp mắt quan
sát của người khác. Anh chị em hãy nhớ làm chứng cho mọi người thấy đức tin và
niềm hy vọng của mình. Chúc anh chị em bình an.
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI
Lectio Divina: Chúa Nhật VI Phục Sinh (A)
Chúa Nhật, 17 Tháng 5, 2020
Lời hứa về Chúa Thánh Thần
Các giới răn như là đường
tình yêu trong Chúa Kitô
Ga 14:15-21
1. Lời nguyện mở đầu
Lạy Cha, Đức Kitô Con Cha đã cầu bầu cho chúng con, nhưng qua Lời của
Chúa, cũng là sự sống của chúng con, Chúa cũng ban cho chúng con ơn thánh của
việc mở cửa tâm hồn chúng con ra với Chúa trong sự cầu nguyện sâu thẳm, tha thiết,
chân thật và thông suốt. Xin Chúa hãy gửi
Đấng Phù Trợ đến với chúng con, Thần Khí của chân lý, không những Người ở cạnh
chúng con, mà Người còn luôn ngự trị trong lòng chúng con nữa. Người là ngọn lửa của tình yêu đã hiệp nhất
Chúa Cha với Chúa Giêsu, nụ hôn mà Chúa luôn trao đổi. Nguyện xin qua Lời của
Chúa, chúng con cũng được dự phần trong tình yêu này và sống bởi tình yêu ấy. Xin Chúa hãy đụng chạm đến tinh thần, tâm trí
và cả thể xác chúng con để chúng con có thể đón nhận những giới răn, được ẩn dấu
trong các câu Tin Mừng này; để chúng con có thể tuân giữ những giới răn này, đó
là sống trọn vẹn với những giới răn và trong sự thật trong sự hiện diện của
Chúa và của anh chị em chúng con.
Amen.
2. Bài
Đọc
a) Đặt đoạn Tin Mừng trong bối cảnh
của nó:
Những câu Tin Mừng này dẫn chúng ta đến đất thánh nơi mà Chúa Giêsu cử
hành bữa tiệc ly với các môn đệ của Người:
nơi của sự mặc khải, sự vinh quang, sự giảng dạy và tình yêu của Người. Ở đây, chúng ta cũng được mời ngồi cùng bàn với
Chúa Giêsu, tựa vào lòng Người, nhận lãnh lời giảng dạy của Người và do đó, chuẩn
bị cho chúng ta cùng với Người bước vào cuộc Thương Khó và sự Phục Sinh của Người. Sau đoạn Tin Mừng 13:1-30, đoạn cho chúng ta
biết các hành động, lời nói, và cảm xúc của Chúa Giêsu và của những người ở
cùng với Chúa trong bữa tiệc lễ Vượt Qua.
Trong câu 13:31, chúng ta nghe những lời của bài giảng cuối cùng tuyệt vời
của Chúa Giêsu, được kết thúc với lời cầu nguyện thánh hiến của chương 17. Sau đó, tại đây chúng ta vẫn còn ở bước khởi
đầu. Trong chương 14:1-14, Chúa Giêsu đã
trình bày và tự hiến mình như là đường đi đến Chúa Cha, trong những câu ít ỏi
này, Người đưa ra lời hứa sẽ gửi Chúa Thánh Thần, như Đấng Phù Trợ, sự hiện diện
vững chắc, nhưng cũng là lời hứa về sự hiện đến của Chúa Cha và Chúa Giêsu
trong đáy lòng của các môn đệ, những người mà qua đức tin, tín thác nơi Người
và tuân giữ các giới răn của Người.
b) Phân đoạn bài Tin Mừng để trợ
giúp cho bài đọc:
Các câu 15-17: Trước hết, Chúa
Giêsu làm sáng tỏ với các môn đệ rằng đối với Người, tình yêu, nếu là tình yêu
chân thật, cũng phải có nghĩa là tuyệt đối tuân giữ các giới răn của Người. Một cách tóm tắt, Người muốn nói với chúng ta
rằng nếu chúng ta không tuân giữ các giới răn thì không có tình yêu; đây là một
hệ quả cần thiết và không thể thiếu, nó cho thấy rằng chúng ta có thật sự yêu
thương hay chỉ tự dối lòng rằng chúng ta yêu thương. Chúa Giêsu cũng nói rằng tặng phẩm của Chúa
Thánh Thần từ Chúa Cha là hoa trái của tình yêu này và từ sự tuân giữ đã phát
sinh ra lời cầu nguyện của Chúa Giêsu, nhờ đó mà chúng ta có thể nhận được Chúa
Thánh Thần. Chúa Giêsu giải thích rằng
Chúa Thánh Thần là Đấng Phù Trợ, Thần Khí của chân lý, Đấng mà thế gian không
thấy, không biết, nhưng là Đấng mà các môn đệ sẽ thấy và biết, Đấng ngự trị với
các ông và trong các ông.
Các câu 18-20: Chúa Giêsu hứa về
việc đến và sự trở lại của Người, sắp xảy ra trong sự phục sinh của Người. Chúa nói rằng Người sẽ không còn xuất hiện
trong sự thương khó, cái chết và việc mai táng của Người, nhưng Người sẽ tái xuất
hiện với các môn đệ, những người sẽ thấy Chúa vì Người là sự sống lại và là sự
sống. Chúa cũng mặc khải về mối quan hệ
với Đức Chúa Cha và mời các ông và chúng ta cùng gia nhập vào mối quan hệ đó;
thực ra, Chúa nói rằng chúng ta sẽ biết, rằng chúng ta sẽ trải nghiệm mối quan
hệ này trong tâm hồn chúng ta. Chúa
Giêsu và không một ai khác có thể hứa được một sự an ủi lớn lao hơn lời hứa
này.
Câu 21: Ở đây bài giảng của Chúa
Giêsu bao gồm tất cả mọi người; Chúa chuyển đổi từ chữ “các con” để chỉ các môn
đệ sang chữ “bất cứ ai” là những người bắt đầu yêu Chúa, bước vào một mối quan
hệ với Người và đi theo Người. Điều đó xảy
ra cho các môn đệ, những người được Chúa chọn đầu tiên, và xảy ra cho những ai
tín thác vào Chúa. Ở đây, Chúa Giêsu mời
gọi chúng ta và tất cả mọi người đến với mối quan hệ tình yêu của Người với
Chúa Cha, bởi vì sống trong Đức Kitô, chúng ta cũng được biết đến và yêu mến bởi
Chúa Cha. Sau cùng, Chúa Giêsu hứa một lần
nữa, tình yêu của Người dành cho bất cứ ai yêu mến Người và sự mặc khải về Người,
đó là một biểu hiện vĩnh viễn tình yêu của Người dành cho chúng ta.
c) Phúc Âm:
15 Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Nếu các con yêu mến Thầy, thì hãy giữ giới
răn Thầy. 16 Vậy Thầy sẽ xin Cha, và Người sẽ ban cho các con Đấng Phù Trợ
khác, để Ngài ở với các con luôn mãi. 17 Người là Thần Chân Lý mà thế gian
không thể đón nhận, vì thế gian cũng chẳng biết được Ngài; còn các con, các con
biết Ngài, vì Ngài sẽ ở nơi các con và ở trong các con. 18 Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi; Thầy sẽ đến
với các con. 19 Một ít nữa, thế gian sẽ
không còn thấy Thầy. Phần các con, các
con thấy Thầy vì Thầy sống và các con cũng sẽ sống. 20 Trong ngày đó, các con sẽ hiểu biết rằng
Thầy ở trong Cha Thầy, và các con ở trong Thầy, và Thầy ở trong các con. 21 Ai nhận các luật Thầy truyền và giữ các luật
đó, thì người ấy là kẻ yêu mến Thầy, và ai yêu mến Thầy sẽ được Cha Thầy yêu mến,
và Thầy sẽ yêu mến nó, và sẽ tỏ mình ra cho nó.”
3. Giây phút thinh lặng cầu nguyện:
Để Lời Chúa được thấm nhập và soi sáng đời sống chúng ta.
4. Một vài câu hỏi gợi ý:
a) Đoạn Tin Mừng này bắt đầu và kết
thúc với cùng một chữ: việc công bố và lời
mời gọi đến với việc yêu mến Chúa. Tôi
biết rằng, qua việc suy niệm và cầu nguyện Lời Chúa (Lectio Divina), Người muốn
chuẩn bị cho tôi một cuộc gặp gỡ mạnh mẽ với tình yêu; có lẽ tôi đang sợ hãi một
chút, tôi biết rằng tôi chưa quen với việc này, có lẽ tôi xấu hổ, có lẽ tôi cảm
thấy e dè với những lời ngọt ngào này.
Tuy nhiên, Người khẳng định và chỉ tiếp tục lặp lại điều này, chỉ có
Tình Yêu. Vì vậy, tôi sẽ làm gì
đây? Tôi có sẽ ở lại và dự phần vào mối
quan hệ đầy thắm thiết, đầy bối rối này không?
Hay là tôi sẽ bỏ đi, sẽ trốn chạy, bởi vì tôi sợ, bởi vì tôi không muốn
dấn thân không? Tôi có sẽ chọn Tình Yêu, đó là, mối quan hệ này, cuộc đối đầu
này, sự trao đổi này, việc cho đi và nhận lãnh này, sự dâng hiến chính bản thân
tôi không? Hay là tôi sẽ chọn lối sống ích kỷ, chỉ sống cho riêng mình trong một
cách biệt phi lý của người không muốn ở gần với Chúa và với những người như
mình không? Chúa Giêsu nói: “Nếu các con muốn”; Người không ép buộc. Tuy nhiên, tôi biết rằng Người đang chờ đợi
tôi và đã chờ từ lâu lắm rồi … tại sao phải chờ thêm nữa?
b) Tôi đọc đi và đọc lại đoạn Tin
Mừng, để cho những lời này, thật tràn đầy ý nghĩa, có thể in đậm vào tâm trí
tôi và đi sâu vào tim tôi. Tôi để ý thấy
Chúa Giêsu luôn nói “các con”, khi nói đến các môn đệ, không chỉ là những người
đang ở cùng với Chúa thời ấy mà cũng là những người của hiện tại, đó là chúng
ta, mỗi người chúng ta được Người đi tìm và gặp với một tình yêu đặc thù và cá
biệt đến nỗi không thể cho đi hoặc thay thế được. Tôi biết rằng tôi cũng được ở bao gồm trong
chữ “các con” đó, xem chừng như có vẻ nói chung chung nhưng không phải như thế. Tôi cố gắng đọc lại lần nữa những Lời của
Chúa Giêsu và để cho mình được tham gia một cách trực tiếp hơn; tôi tự đặt mình
mặt đối mặt, mắt nhìn mắt với Chúa Giêsu và để cho Người nói với tôi tất cả mọi
sự, Người dùng chữ “con” đầy yêu thương, gọi tên tôi mà chỉ có Người biết… Nếu các con yêu mến Thầy, Cha Thầy sẽ ban cho
các con Đấng Phù Trợ khác; các con biết Ngài; Ngài sẽ ở nơi các con và trong
các con; Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi; Thầy sẽ trở lại với các con; các con
sẽ thấy Thầy; các con sẽ sống; các con sẽ hiểu biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy,
và các con ở trong Thầy, và Thầy ở trong các con.
c) Bây giờ chúng ta đối mặt với câu
nói quan trọng của Chúa Giêsu, được lặp lại hai lần: “hãy giữ giới răn của Thầy”. Đây là điều căn bản và quan trọng, bởi vì sự
chân thành của mối quan hệ tình yêu của tôi với Chúa tùy thuộc vào điều này; nếu
tôi không giữ giới răn của Người, thì tôi không yêu Người. Nhưng tôi cố gắng tự hỏi một cách thận trọng
rằng động từ “giữ” có nghĩa gì, nó có vẻ lạnh lùng xa cách làm sao. Tôi tìm thấy động từ ấy trong Mt 27:36, nơi
chúng ta đọc thấy các quân lính canh giữ Chúa Giêsu đang chịu đóng đinh; chính
vào lúc ấy việc canh giữ nghiêm nhặt và cẩn mật, một sự canh giữ không mệt mỏi. Mặt khác, trong Phúc Âm Gioan Ga 2:10, chữ
này xuất hiện với ý nghĩa giữ trong kho lẫm, để dành, như Chúa Giêsu nói về rượu
ngon được giữ lại cho đến lúc sau cùng.
Trong thư thứ hai gửi cho Timôthê 2Tm 4:7, chữ này được dùng trong một
câu Tin Mừng tuyệt vời về đức tin: “Tôi
đã đấu trong một cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm
tin”. Điều này nhấn mạnh đến sự nỗ lực,
sự chăm sóc chu đáo được dùng để bảo tồn và trông coi điều quý giá ấy, đó là đức
tin. Trong Tin Mừng Gioan Ga 17:15, Chúa
Giêsu cầu nguyện cùng Chúa Cha xin gìn giữ những kẻ thuộc về Người khỏi ác thần,
được che chở, canh giữ để không một ai trong họ phải hư mất.
Điều này không đơn giản chỉ là một sự giữ gìn bề ngoài và lạnh lùng các
giới răn của Thiên Chúa hay của Chúa Giêsu, nhưng còn nhiều hơn thế nữa; đây là
một mối quan hệ của tình yêu thương, sự cẩn trọng, che chở, giữ gìn trong đời sống. Một cách căn bản, điều này nhận thức rằng tôi
được yêu cầu, trong đời sống hằng ngày của tôi, mọi lúc và trong mọi tình huống.
5. Chìa khóa của bài đọc
Sau đây là những người tôi gặp gỡ trong bài Tin Mừng: Chúa Cha, Chúa Giêsu, Chúa Thánh Thần, các
môn đệ, thế gian.
Chúa Cha. Sự hiện diện của Chúa
Cha lập tức xuất hiện như là điểm mốc của Đức Giêsu, Chúa Con. Chúa Cha là Đấng mà Người dâng lời cầu nguyện. Người nói:
“Thầy sẽ xin Cha”. Chính sự gần
gũi đặc biệt và thân thiết này tạo nên Đức Giêsu là Con của Chúa Cha, khẳng định
rằng Người mọi lúc đều như thế. Mối liên
hệ tình yêu với Chúa Cha được nuôi dưỡng và duy trì bởi lời cầu nguyện vào ban
đêm vào những lúc khác nhau trong ngày, trong những lúc cần thiết, trong các lời
cầu xin trợ giúp, trong lúc đau khổ, trong những lúc bị thử thách đau buồn nhất. Nếu chúng ta lược đọc qua các sách Tin Mừng
vài lần, chúng ta sẽ thấy Chúa Giêsu làm như thế, ở trong một mối liên hệ sâu
xa với Chúa Cha qua lời cầu nguyện. Sau
đây là một số đoạn Tin Mừng có liên quan đến việc cầu nguyện: Mt 6:9; 11:25; 14:23; 26:39; 27:46; Lc 21:21
và tiếp theo; 6:12; 10:21; 22:42; 23:34-46; Ga 11:41 và tiếp theo; 17:1. Tôi cảm thấy rằng đây cũng là cách sống cho
tôi; Chúa Giêsu đã theo đường lối này một cách sâu xa, để lại cho tôi những dấu
chân rõ ràng và sáng tỏ của Người để tôi không còn sợ hãi trong việc làm theo
Người trong một trải nghiệm tương tự.
Tôi cũng là con của Chúa Cha, tôi cũng có thể cầu nguyện với Ngài.
Ngay sau đó, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy Chúa Cha là Đấng ban
phát. Thực ra, ban phát là đặc điểm
chính của Thiên Chúa, Đấng ban phát liên tục vô số và vô kể những ân sủng cho tất
cả mọi người và trong mọi lúc. Chúa Cha
là Tình Yêu và là Tình Yêu tự hiến, ban tặng mọi thứ. Người đã ban tặng chúng ta Đức Giêsu, Con yêu
dấu của Người, thế mà vẫn còn chưa đủ, Người còn muốn chúc phúc và ban cho
chúng ta sự sống bằng cách sai Chúa Thánh Thần đến. Thực vậy, điều ấy được viết như sau: “Đến như chính Con Một của mình, Thiên Chúa
cũng chẳng tha, mà cũng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên
Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta? (Rm 8:32).
Còn nữa: Chúa Cha yêu thương
chúng ta (Ga 14:23; 16:27)! Và tình yêu
này của Người, Chúa cho phép chúng ta vượt qua khỏi từ sự chết đến sự sống, từ
sự buồn phiền của tội lỗi đến niềm vui của sự hiệp thông với Người, từ sự cách
ly của hận thù đến chia sẻ, bởi vì tình yêu của Thiên Chúa chắc chắn sẽ đưa
chúng ta đến tình yêu của anh chị em chúng ta.
Chúa Con Giêsu. Trong ít câu Tin
Mừng này, hình ảnh và sự hiện diện của Chúa Giêsu xuất hiện một cách mạnh mẽ và
rõ ràng. Người lập tức được thấy như
đang cầu nguyện, Người là Đấng cầu nguyện với Chúa Cha cho chúng ta; Người dang
tay ra trong lúc cầu nguyện vì chúng ta, cũng giống như khi Người dang tay
trong lúc hiến dâng trên thập giá.
Chúa Giêsu không rời xa chúng ta mãi mãi, Đấng không để chúng ta mồ côi,
nhưng sẽ trở lại: “Thầy sẽ trở lại”. Nếu có vẻ như Người vắng mặt, tôi không nên
tuyệt vọng, nhưng hãy tiếp tục tin tưởng nơi Người bởi vì Người sẽ thật sự trở lại. “Phải, chẳng bao lâu nữa Ta sẽ đến! (Kh
22:20). Người sẽ trở lại và, như Người
đã nói, Người sẽ đến và đem chúng ta về với Chúa, để Chúa ở đâu, chúng ta cũng ở
đó (Ga 14:3).
Chúa Giêsu là Đấng hằng sống muôn đời, Đấng chiến thắng sự chết. Người ở trong Chúa Cha, và ở trong chúng ta,
với một quyền lực toàn năng mà không có điều gì có thể hủy diệt. Người ở trong Chúa Cha, nhưng cũng ở trong
chúng ta; Người ngự trong chúng ta, Người ở lại với chúng ta; không có một cuộc
sống nào đích thực và đầy đủ hơn cho chúng ta là bản chất trung tín mà Chúa
Giêsu đã ban tặng cho chúng ta. Người
luôn luôn nói xin vâng, và không bao giờ hối hận vì lời nói đó, hoặc không bao
giờ rút lại lời đoan kết của Người về tình yêu.
Trái lại, Người yêu thương chúng ta, như Chúa Cha đã yêu thương chúng ta
và tỏ mình cho chúng ta biết. Người trao
tặng chính thân mình, dâng hiến bản thân Người, cho phép chúng ta biết Người,
trải nghiệm với Người, đụng chạm và thưởng thức Người. Nhưng đây là một sự mặc khải được kèm theo với
tình yêu, như thánh Phaolô đã nói (2Tm 4:8).
Chúa Thánh Thần. Trong đoạn Tin Mừng
này, Chúa Thánh Thần có vẻ như là một nhân vật mới xuất hiện để bao gồm tất cả
mọi chuyện. Người liên kết Chúa Cha với
Chúa Con, Người đem Chúa Cha và Chúa Con vào trong lòng của các môn đệ; Người tạo
ra một sự liên kết bất khả phân ly của tình yêu, của bản thể. Người được gọi là Đấng An Ủi, tức là Đấng Phù
Trợ, Đấng ở lại với chúng ta luôn mãi, Ngài sẽ không để chúng ta đơn côi, bị bỏ
rơi, bị quên lãng; Ngài đến và tập hợp chúng ta từ bốn phương, từ sự phân tán
và thổi vào chúng ta sức mạnh để chúng ta trở lại với Chúa Cha, với Tình
Yêu. Chỉ có Người mới có thể làm được tất
cả những điều này trong chúng ta; Người là bàn tay nối dài của Thiên Chúa, cho
đến ngày nay, Đấng viết trên cát của lòng chúng ta những lời của bản giao ước mới,
điều mà không bao giờ có thể bị lãng quên
Người là Thần Khí của chân lý, đó là, Đức Giêsu; trong Người không có sự
lừa gạt, không có sự dối trá, chỉ có ánh sáng đích thực của Lời Chúa. Người đã xây nơi cư ngụ của Người ở trong
chúng ta; Người đã được mời gọi và đi từ gần với chúng ta đến ở trong chúng
ta. Người đã trở thành một với chúng ta,
chấp nhận sự liên kết hôn nhân này, sự hiệp nhất; Người là tất cả, là bạn hữu của
mọi người, chính Người là Tình Yêu. Đó
là lý do tại sao Người tự dâng hiến mình như vậy, đổ đầy chúng ta với niềm vui
mừng. Chúng ta hãy cẩn thận đừng làm Người
buồn, đừng để Người ra đi, thay thế sự hiện diện của Người với những hiện diện
khác, các giao ước tình yêu khác; đến lúc đó chúng ta sẽ chết, bởi vì không bao
giờ có ai có thể thay thế Người để phù trợ chúng ta.
Các Môn Đệ. Lời Chúa Giêsu nói với
các môn đệ của Người là những lời thách đố tôi một cách trực tiếp hơn, mạnh mẽ
hơn; chúng được dành để nói với tôi, chúng tác động vào đời sống hằng ngày của
tôi, chúng chạm vào tim tôi, những ý nghĩ của tôi, những mong ước thầm kín nhất
của tôi. Chúng thách thức tôi về một
tình yêu đích thực là tôi phải biến đổi thành những hành động cụ thể, hãy ghi
nhớ rằng Lời Chúa và sự mong ước về Đấng tôi tuyên bố tôi yêu, Chúa. Một tình yêu chỉ có thể được kiểm chứng bởi
việc tuân giữ các giới răn của tôi. Người
môn đệ, khi ấy, ở đây xuất hiện như kẻ biết cách chờ Chủ của anh ta trở về; vào
lúc nửa đêm, vào lúc gà gáy, hay vào lúc tảng sáng? Điều ấy không quan trọng; Người sẽ trở lại và
vì thế tôi phải chờ và phải sẵn sàng. Loại
tình yêu gì mà sẽ không chờ đợi, sẽ không trông ngóng, không bảo vệ?
Người môn đệ cũng là người hiểu
biết; đây là một kiến thức được ban cho từ trên và xảy ra trong trái tim, trong
bản thể thân thiết nhất và cá tính của một người, nơi chúng ta làm những quyết
định để hành động, nơi chúng ta thấu hiểu sự thực, sắp xếp tư tưởng chúng ta,
trông thấy và yêu thương. Đây là kiến thức
trong ý nghĩa Kinh Thánh, được phát sinh từ một kinh nghiệm mạnh mẽ, lâu dài và
thân thiết, từ một liên kết sâu xa và từ sự hiến tặng lẫn nhau. Điều này xảy ra giữa Chúa Thánh Thần và người
môn đệ thực sự của Chúa Giêsu. Một kiến
thức không ngừng phát triển dẫn chúng ta đến với Chúa Kitô, Chúa Cha, và đặt
chúng ta trong sự hiệp thông tình yêu vô hạn và muôn đời của họ: “Các con sẽ hiểu biết rằng Thầy ở trong Cha
Thầy, và các con ở trong Thầy và Thầy ở trong các con.” Người môn đệ cũng là người sống, ở trong, ở
bên trong một sự liên kết không thể phá vỡ với Chúa của mình; đó không phải một
sự liên kết ngẫu hứng, xa cách, hời hợt, nhưng luôn luôn ở trong một mối quan hệ
tình yêu. Người môn đệ tự nguyện đi, đến
và trở lại, cho phép chính mình được ôm lấy, được yêu thương. Và vì thế nhận ra
Lời của Tin Mừng: “Ai yêu mến Thầy sẽ được
Cha Thầy yêu mến.”
Trong thực thế, người môn đệ của Chúa Giêsu là người được yêu thương, được
lựa chọn, từ nguyên thủy và cho đến muôn đời.
Thế Gian. Đoạn Tin Mừng nói rất
ít về thế gian, mà chúng ta biết là rất quan trọng trong các tác phẩm của
Gioan: thế gian không thể nhận lãnh Chúa
Thánh Thần, bởi vì nó không thể thấy hoặc không biết Người. Thế gian đang chìm đắm trong bóng tối và tội
lỗi; nó không thấy hoặc không biết và không thể cảm nghiệm được tình yêu của
Thiên Chúa. Thế gian vẫn xa cách, quay
lưng lại, tự đóng kín và bước đi. Thế
gian đáp trả tình yêu mà Chúa đã dành cho nó với sự hận thù: Chúa Cha đã yêu thương thế gian đến nỗi đã
ban Con một của Người. Có lẽ chúng ta
cũng phải nên yêu thương thế gian, được tạo dựng bởi Thiên Chúa; yêu thương bằng
cách hợp nhất chúng ta với sự trao ban, sự hy sinh của Chúa Giêsu cho thế gian.
Có thể nào nói một cách chính xác rằng, chính trong sự trao ban của Chúa
Kitô, chúng ta đến với chân lý hoàn toàn và tuyệt vời như là con cái của Chúa
Cha, như là các môn đệ, là những người yêu dấu không? Đây có phải là lời kết của bài suy niệm và cầu
nguyện Lời Chúa này (Lectio Divina), của cuộc gặp gỡ này với Đức Kitô, với Chúa
Cha và Chúa Thánh Thần không? Có thể thực
sự là vậy; chúng ta phải đến với sự toàn vẹn của tình yêu, đó là tuân giữ các
giới răn và nhất là một luật Chúa Giêsu đã truyền: hãy yêu thương như Thầy đã yêu thương các
con.
6. Giây phút cầu nguyện: Thánh Vịnh 22
Đáp ca: Chúa chăn nuôi tôi, tôi
chẳng thiếu thốn chi!
Chúa là mục tử chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi.
Trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ.
Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi,
Tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng.
Người dẫn tôi qua những đường đoan chính,
Sở dĩ vì uy danh Người.
Dù bước đi trong thung lũng tối,
Tôi không lo mắc nạn vì có Chúa ở cùng tôi.
Cây roi và cây gậy của Người,
Đó là điều an ủi lòng tôi.
Chúa dọn ra cho con mâm cỗ,
Ngày trước mặt những quân thù;
Đầu con thì Chúa xức dầu thơm,
Chén rượu con đầy tràn chan chứa.
Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi,
Hết mọi ngày trong đời sống;
Và trong nhà Chúa tôi sẽ định cư
Cho tới thời gian rất ư lâu dài.
7. Lời Nguyện Kết
Lạy Chúa, xin đổ đầy tràn trên con với tình yêu của Chúa; con tràn ngập
niềm hân hoan và sự bình an sâu kín. Qua
Lời Chúa, Chúa đã yêu con rất nhiều trong cuộc gặp gỡ này. Chúa đã trao ban chính Chúa cho con cách đầy
đủ; Chúa đã không bỏ sót một điều gì trong con, con người của con, toàn bộ đời
sống của con. Lạy Chúa, con hiện hữu bởi
vì Chúa; Chúa ở với con, trong con. Hôm
nay Chúa đã ban cho con một sức sống mới từ trên cao, Chúa đã đổi mới con; con
biết, con thấy, con cảm nghiệm được sức sống của Chúa trong con. Đây chính là một sự Phục Sinh, một vượt thoát
thật sự từ cõi chết đến sự sống. Lạy
Chúa, con cảm tạ Chúa vì tình yêu khôn tả của Chúa đã bao phủ lấy con, chế ngự
con nhưng lại phù trợ và nâng đỡ con!
Lạy Chúa, con xin để lại đây cái bình không, vô dụng, bất tài của con và
chạy vào trong thành phố để gọi các bạn hữu của con, những người Chúa yêu
thương, để nói với họ: Bạn cũng hãy đến
để bạn có thể nhận biết Tình Yêu!
Lạy Chúa, còn một điều cuối cùng:
Xin đừng bao giờ để con phản bội Chúa.
Nếu Tình Yêu không được cho đi một cách nhưng không, được chia sẻ, thì
nó mờ nhạt dần vào khoảng không, biến mất, trở nên bệnh hoạn và cô đơn. Xin Chúa hãy giúp con để con có thể là tình
yêu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét