Trang

Thứ Năm, 4 tháng 10, 2012

05-10-2012 : THỨ SÁU TUẦN XXVI MÙA THƯỜNG NIÊN


Thứ Sáu sau Chúa Nhật 26 Quanh Năm
* * *

 Ông Gióp
Bài Ðọc I: (Năm II) G 38, 1. 12-21; 39, 33-35
"Ngươi có xuống tận đáy biển và đi bách bộ dưới vực thẳm không?"
Trích sách ông Gióp.
Từ cơn gió lốc, Chúa đáp lời ông Gióp rằng: "Sau khi ngươi đã sinh ra, ngươi có ra lệnh cho bình minh, và chỉ chỗ cho rạng đông không? Ngươi có cầm giữ các phần cuối cùng trái đất, và xua đuổi khỏi địa cầu bọn gian ác không? Mặt đất trở nên như đất sét có đóng ấn và trải ra như chiếc áo. Bọn gian ác bị tước mất sự sáng, và cánh tay giơ cao bị bẻ gẫy.
"Ngươi có xuống tận đáy biển, và đi bách bộ dưới vực thẳm không? Cửa tử thần có mở ra cho ngươi và ngươi có nhìn thấy tối tăm không? Ngươi có xem xét chiều rộng địa cầu không? Nếu ngươi đã hiểu biết, hãy chỉ mọi sự cho Ta. Sự sáng ở đàng nào và sự tối tăm ở nơi đâu, để ngươi dẫn dắt cả hai đến địa giới của chúng, và hiểu biết đường lối nhà chúng? Bấy giờ ngươi có biết ngươi sẽ sinh ra không? Và ngươi có biết rõ số ngày đời ngươi không?"
Ông Gióp thưa lại cùng Chúa rằng: "Con nói lơ đãng, thì con trả lời thế nào được? Con để tay trên miệng con. Con đã nói một lần, chớ chi con đừng nói! Và lần thứ hai, con không nói thêm gì nữa".
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 138, 1-3. 7-8. 9-10. 13-14ab
Ðáp: Lạy Chúa, xin hướng dẫn con trong đường lối đời đời (c. 24b).
Xướng: 1) Lạy Chúa, Ngài thăm dò và biết rõ con, Ngài biết con, lúc con ngồi, khi con đứng. Ngài hiểu thấu tư tưởng con tự đàng xa, khi con bước đi hay nằm nghỉ, Ngài thấy hết, Ngài để ý tới mọi đường lối của con. - Ðáp.
2) Con đi đâu để xa khuất được thần linh của Chúa? Con trốn đâu cho khỏi thiên nhan Ngài? Nếu con leo được lên trời, thì cũng có Ngài ngự đó; nếu con nằm dưới âm phủ, thì đây cũng có mặt Ngài. - Ðáp.
3) Nếu con mượn đôi cánh của hồng đông, và bay đến cư ngụ nơi biên cương biển cả, tại nơi đây cũng bàn tay Chúa dẫn dắt con, và tay hữu Ngài nắm giữ con. - Ðáp.
4) Chính Ngài đã nặn ra thận tạng con, đã dệt ra con trong lòng thân mẫu. Con ngợi khen Ngài đã tạo nên con lạ lùng như thế, vì công cuộc của Ngài thật diệu huyền. - Ðáp.

* * *

Alleluia: Tv 129, 5
Alleluia, alleluia! - Con hy vọng rất nhiều vào Chúa, linh hồn con trông cậy ở lời Chúa. - Alleluia.

Phúc Âm: Lc 10, 13-16
"Ai tiếp đón Thầy, là tiếp đón Ðấng đã sai Thầy".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Khốn cho ngươi, hỡi Corozain, khốn cho ngươi, hỡi Bethsaiđa: vì nếu tại Tyrô và Siđon đã xảy ra những phép lạ thực hiện nơi các ngươi, thì từ lâu, những nơi đó đã mặc áo vải thô và ngồi trên tro bụi mà sám hối. Cho nên trong ngày thẩm phán, Tyrô và Siđon sẽ được nhiêu dung hơn các ngươi.
"Còn ngươi nữa, hỡi Capharnaum, phải chăng ngươi sẽ được nâng cao đến tận trời? Ngươi sẽ phải hạ thấp xuống tới địa ngục.
"Ai nghe các con, tức là nghe Thầy, và ai khinh dể các con, là khinh dể Thầy. Mà ai khinh dể Thầy là khinh dể Ðấng đã sai Thầy".
Ðó là lời Chúa.

Suy Niệm:
Corozain, Bethsaiđa và Capharnaum là những thị trấn nhỏ nằm trên bờ hồ Giênêgiarét. Chúa Giêsu và các môn đệ đã nhiều lần rao giảng Tin Mừng, cũng như làm nhiều phép lạ ở các thị trấn này. Thế mà dân ở đây vẫn cứng lòng không theo Chúa. Hình phạt cho các thị trấn sẽ nặng hơn vì ngoan cố không chịu nghe theo Chúa.

Cầu Nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, trước lòng chai đá của dân chúng, Chúa đã lên tiếng răn đe mong con người sám hối trở về. Vì thế, trách nhiệm truyền giáo của các môn đệ lại càng trở nên cấp thiết. Xin cho chúng con, biết từ bỏ bản thân để lo cho công cuộc rao giảng tin mừng của Giáo Hội Chúa. Amen.


(Lời Chúa trong giờ kinh gia đình)

Nguy Cơ Của Những Tiện Nghi Vật Chất
(Lc 10,13-16)
Suy Niệm:
Nguy Cơ Của Những Tiện Nghi Vật Chất
Có một hiện tượng chung tại các nước đang phát triển, đó là người dân nghèo từ thôn quê đổ xô ra thành thị. Tại đô thị dễ tìm được công ăn việc làm, đời sống nhiều tiện nghi, thú tiêu khiển cũng nhiều hơn. Nhưng hiện tượng đô thị hóa nào cũng có mặt trái của nó: người dân đưa nếp sống thôn dã lên thành thị, giao thông tắc nghẽn, việc buôn bán lấn chiếm vỉa hè, trật tự công cộng không được tôn trọng, và trầm trọng hơn vẫn là đời sống luân lý đạo đức xuống cấp, nạn phạm pháp gia tăng.
Thời Cựu Ước, các Tiên tri đã không ngừng lên tiếng cảnh cáo dân chúng về cuộc sống đồi bại tại các đô thị. Chúc dữ các đô thị vốn là một đề tài quen thuộc trong lời rao giảng của các Tiên tri. Dường như có hai lý do khiến các Tiên tri lên án các đô thị: Một đàng các Tiên tri muốn nhắc nhở dân chúng về cuộc sống du mục trong sa mạc, tại đó họ đã nghe được tiếng Chúa và đã kết ước với Ngài, cuộc sống càng đơn giản, con người càng dễ kết thân với Chúa; nhưng đàng khác, nhận thấy cuộc sống đồi bại của các thành phố ngoại giáo trong vùng, các tiên tri muốn cảnh cáo dân chúng về mối nguy cơ có thể chạy theo một cuộc sống như thế. Sự đồi bại nguy hiểm nhất mà các Tiên tri không ngừng lên án một cách gắt gao, đó là việc tôn thờ ngẫu tượng và nếp sống vô luân của thị dân, điển hình nhất là của các đô thị sa đọa là Sôđôma, Gômôra, Babylon, Tyrô, Siđôn.
Trong Tin Mừng hôm nay, theo truyền thống các tiên tri Cựu Ước, Chúa Giêsu cũng nêu đích danh ba thành phố có nếp sống sa đọa nằm dọc theo bờ hồ, đó là Cozazin, Betsaiđa và Capharnaum. Những tiện nghi vật chất khiến con người dễ trở thành câm điếc trước Lời Chúa. Con người được tạo dựng không phải để sống đơn độc một mình, do đó, cô đơn vốn là điều con người sợ nhất, thành ra đi vào quan hệ với người khác là một trong những nhu cầu cơ bản nhất của con người. Cuộc sống đô thị với nếp sống ồn ào náo nhiệt của nó dễ tạo cho con người cái cảm tưởng rằng ở đó họ dễ đi vào quan hệ với người đồng loại.
Tuy nhiên, như thực tế cho thấy, cuộc sống càng xô bồ, con người càng dễ rơi vào cô đơn. Kinh Thánh không ngừng nhắc nhở con người rằng chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể mang lại bí quyết cho sự thông hiệp đích thực của con người, nghĩa là giúp cho con người ra khỏi nỗi cô đơn của mình; bí quyết đó chính là Lời của Ngài. Thật thế, khi con người sống kết hiệp với Chúa, thì dù có sống một mình, nó cũng sẽ không cảm thấy cô đơn; lại nữa, khi sống kết hiệp với Chúa, con người sẽ cảm thấy được thúc đẩy để đến với anh em của mình. Con người không thể kết hiệp với Chúa mà có thể khước từ người anh em của mình, và ngược lại, bất cứ một quan hệ chân thành nào với người anh em, cũng luôn gia tăng sự kết hiệp con người với Thiên Chúa.
Dù muốn hay không, những thay đổi trong cuộc sống do kinh tế thị trường mang lại không thể không ảnh hưởng đến cuộc sống đức tin của người Kitô hữu. Thật ra, cuộc sống đức tin không phải là một sinh hoạt phụ trong cuộc sống chúng ta; đức tin phải là chiều kích bao trùm toàn bộ cuộc sống của chúng ta: chúng ta là Kitô hữu trong mọi nơi, mọi lúc, mọi sinh hoạt, mọi hoàn cảnh. Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta đề cao cảnh giác trước nguy cơ có thể tách biệt niềm tin với những sinh hoạt hàng ngày và dần dà đẩy niềm tin ra bên lề cuộc sống. Niềm tin ấy có lẽ chỉ còn là Thánh Lễ Chúa Nhật, một vài sinh hoạt trong khuôn viên giáo đường, một số kinh kệ trong gia đình, chứ không ăn nhập gì đến cuộc sống mỗi ngày; niềm tin ấy có lẽ chỉ còn là một món đồ trang điểm cho cuộc sống và cần thiết cho một số dịp nào đó trong năm, chứ không liên hệ gì đến đòi hỏi công bằng bác ái, liên đới mà chúng ta phải thực thi hằng ngày.
Nguyện cho Lời Chúa luôn là động lực thúc đẩy và hướng dẫn chúng ta trong mọi sinh hoạt và quan hệ hằng ngày của chúng ta, để trong khi mưu cầu cho cuộc sống, chúng ta luôn tìm gặp Chúa trong tha nhân và trong mọi biến cố.

(Veritas Asia)


Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Sáu Tuần 26 TN2
Bài đọc: Job 38:1, 12-21, 33-35; Lk 10:13-16.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
 Biết Chúa – biết mình

Chu Tu đã tuyên bố một câu bất hủ: “Biết người, biết ta: trăm trận trăm thắng.” Nhiều người chẳng những đã không biết mình mà còn mù tịt về Thiên Chúa. Hậu quả là con người thường có khuynh hướng lấy những gì mình biết mà áp dụng cho Thiên Chúa; vì thế, con người dễ kiêu ngạo và khinh thường Thiên Chúa, khinh thường những người làm việc cho Thiên Chúa, và lọai Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời. Các Bài đọc hôm nay dạy cho chúng ta những trường hợp phải tránh.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Sự quan phòng của Thiên Chúa trong vũ trụ
Con người có thể nhận ra sự hiện diện, sự khôn ngoan và uy quyền của Thiên Chúa qua việc quan sát thiên nhiên. Thánh Thomas Aquinô đã dùng những nguyên lý rất khoa học để chứng minh những điều này: Ví dụ, theo nguyên lý nhân quả: Vật gì có là phải có người làm cho có; mà vũ trụ thực sự hiện hữu; vì thế phải có người dựng nên vũ trụ. Chúng ta gọi Người đó là Thiên Chúa. Cũng theo nguyên lý này: sự vật càng tinh vi bao nhiêu thì người sáng chế ra nó càng khôn ngoan bấy nhiêu; nhìn vào hệ thống thái dương hệ, nhìn vào thân thể con người với các bộ phận tinh vi và họat động hòa điệu với nhau; chúng ta có thể nhận ra sự khôn ngoan và uy quyền của Thiên Chúa. Thánh Phaolô cũng khẳng định điều này: “Những gì người ta có thể biết về Thiên Chúa, thì thật là hiển nhiên trước mắt họ, vì chính Thiên Chúa đã cho họ thấy rõ. Quả vậy, những gì người ta không thể nhìn thấy được nơi Thiên Chúa, tức là quyền năng vĩnh cửu và thần tính của Người, thì từ khi Thiên Chúa tạo thành vũ trụ, trí khôn con người có thể nhìn thấy được qua những công trình của Người. Do đó, họ không thể tự bào chữa được” (Rom 1:19-20).
Thiên Chúa cũng nhắc nhở cho ông Gióp những điều này:
(1) Qua những gì xảy ra trên trời: “Trong cả đời ngươi, đã có lần nào ngươi từng ra lệnh cho buổi sáng, chỉ định vị trí cho hừng đông, để hừng đông nắm chắc mười phương đất, giũ cho sạch hết bọn gian tà?”
(2) Qua những gì xảy ra dưới biển cả và đáy vực sâu: “Có bao giờ ngươi đã đến tận nguồn biển cả và lang thang ở đáy vực sâu? Có ai từng mở cho ngươi lối vào âm phủ và ngươi thấy được cửa dẫn tới âm ty? Có khi nào ngươi hiểu mặt đất rộng chừng nào? Nếu ngươi biết hết mọi điều đó thì cứ nói đi!”
(3) Qua sự hiện diện của ánh sáng và bóng tối: “Con đường nào dẫn đến nơi ở của ánh sáng, đâu là nơi bóng tối cư ngụ, để ngươi đưa nó đến miền nó ở, và nhận ra đường về nhà nó? Điều này, hẳn ngươi biết rõ, vì khi ấy, ngươi đã chào đời, và đời ngươi đã qua bao năm tháng!”
(4) Qua những qui luật của trời đất: “Liệu ngươi có biết được quy luật của trời, có ấn định được ảnh hưởng của trời đối với đất? Liệu tiếng ngươi có vọng thấu tầng mây, khiến trên ngươi cả khối nước trời đổ xuống?”

2/ Phúc Âm: Biết mình để đừng kiêu ngạo
 (1) Hai thành của Do-Thái, Chorazin và Bethsaida: Sử gia Eusebius và thánh Jerome định vị Chorazin là một thành phố nằm cách Capernaum 2 dặm về phía Bắc. Vì nó nằm trên ngọn đồi nên từ đây một người có thể nhìn xuống Capernaum và Biển Hồ. Thành phố này rất phồn thịnh cho tới thế kỷ 2 AD. Tuy Phúc Âm không tường thuật Chúa rao giảng hay làm phép lạ ở Chorazin, nhưng có lẽ vì thành rất gần Capernaum nên đã nghe những gì Chúa giảng và chứng kiến những gì Chúa làm. Bethsaida, tiếng Do-Thái có nghĩa là “nhà của cá.” Thành này nằm ở phía Tây của Hồ Tiberias. Đây là chỗ sinh sống của các Tông Đồ Phêrô, Anrê, và Philip, và cũng là nơi Chúa thường xuyên lui về để nghỉ ngơi (Mk 6:45, Lk 9 :10, Jn 1:44, 12:21). Tại đây, Chúa làm phép lạ chữa người mù (Mk 8:25) và chữa mẹ vợ của Phêrô (Mt 8 :14, Mk 1 :30).
(2) Hai thành của Dân Ngọai, TyreSidon: Hai thành này nằm dọc theo bờ biển Mediteranean về phía Bắc của Do-Thái là Lebanon hiện giờ. Vì nằm trên bờ biển và là nơi giao thông giữa Á Châu và Âu Châu nên hai hải cảng này rất phồn thịnh. Trong suốt cuộc đời rao giảng của Chúa, chỉ có 2 Thánh Ký Matthew và Mark tường thuật một lần Chúa Giêsu đi đến TyreSidon (Mt 15:21, Mk 7:30) và làm phép lạ một lần: chữa con gái người đàn bà Dân Ngọai Canaanite, sau khi đã khen ngợi đức tin của bà (Mt 15:28, Mk 7:30). Tuy không được Chúa Giêsu đến rao giảng và không được chứng kiến những phép lạ Chúa làm như các thành khác của người Do-Thái; nhưng mỗi khi nghe nói Chúa rao giảng những thành trì gần nơi họ ở, họ kéo nhau tới để lắng nghe Chúa giảng; và niềm tin của người đàn bà xứ Canaanite đã làm Chúa ngạc nhiên.
Khi so sánh giữa 2 thành của Do-Thái (Chorazin và Bethsaida) với 2 thành của Dân Ngọai (Tyre và Sidon), Chúa đã phải thốt lên: "Khốn cho ngươi, hỡi Chorazin! Khốn cho ngươi, hỡi Bethsaiđa! Vì nếu các phép lạ đã làm nơi các ngươi mà được làm tại TyreSidon, thì họ đã mặc áo vải thô từ lâu, ngồi trên tro tỏ lòng sám hối rồi. Vì thế, trong Ngày Phán Xét, TyreSidon sẽ được xử khoan hồng hơn các ngươi.”
(3) Capernaum được nhắc tới 16 lần bởi cả 4 Thánh Ký. Matthew và Mark tường thuật Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ rao giảng của Ngài sau khi bị cám dỗ trong sa mạc tại Capernaum (Mt 4:13, Mk 1:21); Ngài thường xuyên trở lại đây rao giảng (Mk 2:2, Lk 4:31); và diễn từ quan trọng nhất về Bí Tích Thánh Thể được nói trong hội đường của người Do-Thái tại đây (Jn 6). Nơi đây Chúa đã làm rất nhiều phép lạ (Lk 4:23): chữa lành người đầy tớ của viên Đại Đội Trưởng (Mt 8:5, Lk 7:10); chữa người bị quỉ ám (Mk 1:26, Lk 4:33); chữa lành người bất tọai (Mk 2:12); làm phép lạ đầu tiên cho nước hóa thành rượu tại Cana, rất gần Capernaum (Jn 2:11); chữa con trai của một công chức (Jn 4:52); bắt sóng biển phải im lặng (Jn 6:21). Nhưng cũng tại Capernaum Chúa gặp rất nhiều thử thách và chống đối (Mt 17:24, Mk 2:7). Dân chúng tại Capernaum đã được nghe Chúa giảng nhiều lần và chứng kiến rất nhiều phép lạ Ngài làm, nhưng họ vẫn cứng lòng, kiêu ngạo không chịu tin vào Ngài; đó là lý do tại sao có những lời của Chúa hôm nay: “Còn ngươi nữa, hỡi Capernaum, ngươi tưởng sẽ được nâng lên đến tận trời ư? Không, ngươi sẽ phải nhào xuống tận âm phủ!”
(4) Hậu qủa của sự chấp nhận hay khước từ các môn đệ: Chúa Giêsu tuyên bố: "Ai nghe anh em là nghe Thầy; và ai khước từ anh em là khước từ Thầy; mà ai khước từ Thầy là khước từ Đấng đã sai Thầy." Điều này cho chúng ta thấy sự quan trọng của các môn đệ. Chúa Giêsu đã ban cho các ông tất cả những gì cần thiết cho việc rao giảng Tin Mừng trước khi sai các ông đi. Các ông là đại diện cho Chúa Giêsu giống như Chúa Giêsu là đại diện cho Thiên Chúa; người được sai đi có đầy đủ uy thế và quyền hành như người sai đi. Chúng ta thường có khuynh hướng coi nhẹ những người đại diện, xem họ không có uy quyền bằng chủ nhân của họ. Chúng ta đừng quên những lời tường thuật của các môn đệ có khả năng làm Thiên Chúa khen thưởng hay đánh phạt chúng ta.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải học biết về Thiên Chúa để hiểu biết đường lối của Ngài và tránh được kiêu ngạo. Đừng có thái độ “ếch ngồi đáy giếng.”

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
****************

Thứ Sáu tuần 26 thường niên
Sứ điệp:Ai đón nhận Tin Mừng là đón nhận chính Thiên Chúa. Ai không tin, không đón nhận sẽ bị kết án và mất phần thưởng đời đời.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, bài Tin Mừng hôm nay làm con phải sững sờ. Các thành phố Kho-ra-dim, Bet-sai-đa, Ca-phac-na-um đã được nghe Chúa giảng dạy và thấy các việc Chúa làm. Nhưng họ đã không nhận ra và thực thi điều Chúa truyền dạy. Họ không hối cải, và đã làm ngơ trước các đòi hỏi của Tin Mừng. Lòng họ đã nên chai cứng. Họ đánh mất ân huệ lớn lao mà bao nhiêu thế hệ trông chờ. Cuối cùng, thay vì ân phúc và trọng thưởng, họ đã bị kết án nặng nề và bị loại trừ khỏi hạnh phúc trường sinh.
Hình ảnh các thành phố ngoại giáo Ty-rô và Sy-đon sẽ được đối xử khoan dung hơn trong ngày phán xét làm con xác tín: Ai không tin, không đón nhận Tin Mừng là chối bỏ Chúa, và hơn thế nữa là chối bỏ chính Cha trên trời. Lạy Chúa, xin giúp con luôn nhận ra điều Chúa truyền dạy và quyết tâm thi hành. Việc lắng nghe và thực hành Lời Chúa là lối mở dẫn đưa con về nhà Cha trên trời, là bảo đảm cuộc sống thật hạnh phúc đời sau.
Lạy Chúa, Giáo Hội đại diện Chúa tiếp tục loan báo Tin Mừng  cứu độ. Ai tin, ai gắn bó, ai đón nhận giáo huấn của Giáo Hội là đi vào con đường cứu rỗi. Xin giúp con cởi mở nội tâm để sống tâm tình  hiếu thảo trong lòng Giáo Hội. Xin thêm lòng yêu mến cho con, để Lời Chúa truyền và các điều Giáo Hội dạy, con thực hiện thật tốt đẹp. Xin đừng bao giờ để lòng con nên  chai cứng trước những lời mời gọi sống cho Chúa, sống yêu thương phục vụ anh em hằng ngày. Amen.
Ghi nhớ : "Ai tiếp đón Thầy, là tiếp đón Ðấng đã sai Thầy".

05/10/12 THỨ SÁU ĐẦU THÁNG TUẦN 26 TN
Lc 10,13-16
NHẬN BIẾT ƠN CHÚA BAN ĐỂ HOÁN CẢI
“Khốn cho ngươi, hỡi Khôradin! Khốn cho ngươi, hỡi Bétxaiđa!” (Lc 10,13)
Suy niệm: Cũng như Caphácnaum nằm ven bờ bắc của Biển Hồ Tibêria, vốn được gọi là “nhà của Chúa Giêsu” (Mc 2,1; 9,33), Khôradin cách đó khoảng 3 cây số về phía bắc cũng là nơi Chúa thường lui tới trong hành trình rao giảng. Bétxaiđa, cách Caphácnaum 3 cây số về phía đông, cũng không phải là nơi xa lạ vì là quê quán của các tông đồ Phêrô, Anrê và Philípphê (x. Ga 1,44). Cả ba nơi này đã nghe nhiều lời Chúa giảng dạy, đã chứng kiến nhiều phép lạ Chúa làm. Thế nhưng Ngài đã phải thốt lên lời than trách“Khốn cho ngươi” đầy thương xót pha lẫn giận dữ và cảnh báo nghiêm khắc, chỉ vì thái độ vênh vang trước những ơn đặc biệt đó trong khi vẫn cứng lòng chai đá mà không hối cải, là điều kiện tối cần để được cứu độ.
Mời Bạn: Nếu hôm nay Chúa Giêsu đến nói với bạn những lời như trên thì thử hỏi bạn sẽ có thái độ nào đây? Chúng ta đã nhiều lần được nghe Lời Chúa, đã được biết về Chúa, được lãnh nhận hồng ân tái sinh, nhưng chúng ta đã khước từ Chúa qua cách sống thiếu niềm tin trong cuộc sống hàng ngày, qua thái độ dửng dưng lạnh nhạt với lời mời gọi hoán cải. Như vậy chúng ta đâu khác gì những dân thành Bétxaiđa hay thành Khôradin ngày xưa!
Sống Lời Chúa: Nhớ lại những ơn lành Chúa đã ban cho mình và quyết tâm chừa bỏ một nết xấu.
Cầu nguyện: Lạy Thiên Chúa tối cao và vinh hiển, xin chiếu sáng chỗ tối tăm trong lòng con và ban cho con một đức tin chân thật, một đức cậy vững vàng và một đức mến hoàn hảo… để con chu toàn thánh ý Chúa trong mọi việc con làm. Amen. (Th. Phanxicô Átxidi)
Khốn cho ngươi.
Sám hối là trả lại chỗ cho Đức Giêsu trong mỗi góc phố vắng, là giữ cho thành phố xanh-sạch-đẹp theo nghĩa thiêng liêng nhất.

uy nim:
Tin Mừng hôm nay kể lại một kinh nghiệm không vui của Đức Giêsu,
Kinh nghiệm của một người tận tụy với công việc tông đồ
nhưng sau thời gian dài chờ đợi, kết quả lại không như ý.
Đức Giêsu là người vùng Galilê, hẳn Ngài yêu vùng đất này.
Ngài thường lui tới những thành phố quanh Hồ Galilê.
Khoradin, Bếtsaiđa, Caphácnaum nằm trong số đó.
Ngài đã rao giảng nhiều về sám hối (7, 36-50; 13, 1-5; 19, 1-10),
và Ngài cũng làm bao phép lạ kèm theo để gọi mời hoán cải.
Có thể nhiều người bị đánh động khi nghe lời Ngài giảng
và bị thu hút bởi các phép lạ Ngài làm.
Nhưng đối với Đức Giêsu, như thế vẫn chưa đủ.
Tất cả vẫn chỉ là hời hợt của cảm xúc bên ngoài.
Điều Ngài đòi hỏi là biến đổi tận căn bên trong cuộc sống.
“Khốn cho ngươi, hỡi Khoradin! Khốn cho ngươi, hỡi Bếtsaiđa!
Đức Giêsu đau đớn thốt lên như thế khi phải so sánh hai thành phố trên
với hai thành phố dân ngoại tội lỗi là Tia và Xiđôn (Is 23; Ed 26-28).
Hai thành phố ở Galilê chẳng đổi gì mấy dù đã biết Ngài từ lâu.
Dân ở đây sẽ bị xét xử nghiêm khắc hơn trong cuộc phán xét.
Thành phố Caphácnaum cũng chẳng khá hơn,
dù đây là nơi Đức Giêsu hay lui tới để phục vụ (Lc 4, 23. 31-37 ; 7,10).
Ngài đặt thẳng câu hỏi với thành phố này về tương lai của nó (c. 15).
Đừng mong được nâng đến tận trời, nhưng sẽ bị xuống tận âm phủ!
Đức Giêsu có kinh nghiệm về thất bại trong việc tông đồ.
Ngài cũng nhắc các môn đệ về chuyện đó (Lc 10, 10-12).
Không được tiếp đón, bị từ khước, không được người ta nghe (c.16),
thậm chí có khi bị bách hại, bị vu khống, bị giết chết.
Đó là những điều người môn đệ tín trung vẫn thường gặp,
vì Thầy của họ đã trải qua và vượt qua.
Trong bài Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu nói chuyện với các thành phố,
những nơi thân quen, đã mang dấu chân Ngài.
Ngài lấy làm tiếc vì những gì Ngài làm chưa thấm vào bề sâu,
chưa tạo ra được những thay đổi nơi lòng thành phố.
Một sám hối thật sự không phải chỉ là một sám hối cá nhân,
nhưng là sám hối nơi sinh hoạt của cả một thành phố.
Nếu hôm nay Ngài đến với thành phố của chúng ta Ngài sẽ nói gì?
Ngài có chỗ không ở mọi nơi người Kitô hữu đang sống,
đang làm việc, đang học hành, đang vui chơi, đang cầu nguyện?
Sám hối là trả lại chỗ cho Ngài trong mỗi góc phố vắng,
là giữ cho thành phố xanh-sạch-đẹp theo nghĩa thiêng liêng nhất.
Ước gì chúng ta biết xây dựng quanh ta
những khoảng không gian tràn ngập sự hiện diện của Giêsu.
Cầu nguyn:
Lạy Chúa Giêsu,
việc tông đồ của con phải là việc tông đồ diễn tả lòng tốt.
để khi thấy con, người ta phải nói:
“vì anh này tốt quá, nên đạo của anh phải là đạo tốt.”
Và nếu có ai hỏi con
tại sao con lại hiền lành và tốt như thế,
con sẽ trả lời
vì con là tôi tớ của một đấng tốt hơn con nhiều.
“Mong sao bạn biết được Chủ Giêsu của tôi tốt biết bao!”
Con muốn sống thật tốt, để người ta có thể nói:
“nếu tôi tớ mà tốt như vậy,
thì Chủ sẽ tốt đến ngần nào ?”

                                    Chân phước Charles Foucauld

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

"Ai tiếp đón Thầy, là tiếp đón Ðấng đã sai Thầy".


Nghe hay khước từ
“Ai nghe anh em là nghe Thầy; và ai khước từ anh em là khước từ Thầy, mà ai khước từ Thầy là khước từ Đấng đã sai Thầy.” (Lc. 10, 16)
Hôm qua Đức Giêsu đã ban một số huấn lệnh cho các môn đệ đi truyền giáo. Trường hợp gặp thất bại, hãy đến nơi khác. Đức tin không cưỡng bức ai. Đàng khác, dù muốn hay không, nước Thiên Chúa vẫn đến! Người ta có thể khước từ nhưng sẽ có ngày họ sẽ gia nhập, vì đó là thành ý Thiên Chúa. Chính Ngài định đoạt ngày giờ, chứ không phải người ta. Ước mong họ sẽ tin cậy vào Ngài. Họ nghe lời Chúa không tùy thuộc vào tài khéo léo thuyết phục của loài người.
Chính Đức Kitô, là Con Thiên Chúa, cũng không thành công khi thuyết phục mọi người tin vào sứ điệp chân chính và cần thiết của Người. Bản tính nhân loại của Người như đã che lấp mọi may mắn làm cho người ta tin Người. Ba thành Kho-ra-zim, Bét-sai-đa và Ca-pha-na-um Người kể tên ra đây, là những vùng hoạt động của Người, được đặc biệt hưởng những ân huệ lời Người và tận tình cứu giúp của Người. Họ sẽ giầu có, phong phú biết bao về tinh thần, nếu họ lắng nghe và sống theo lời Người. Nhưng khốn thay! Họ đã cùng túng và thảm bại vì đã từ chối lời Người kêu gọi. Nếu các thành dân ngoại khác như Sô-đô-ma, Ti-a và Si-đôn đã được may mắn gặp gỡ Đức Kitô thì họ đã mặc áo nhặm ngồi trên tro tàn tỏ lòng ăn năn sám hối lâu rồi.
Chúa không chúc dữ đâu! Người chỉ than phiền về sự đui mù và vô ơn của mọi người, như Người khóc thương thành Giê-ru-sa-lem đã ruồng bỏ Người. Khi nghe những lời đau khổ của Đức Giêsu như thế, người ta không khỏi nghĩ đến những nước, những tỉnh thành, làng xã trong quá khứ đã nhận được dồi dào ơn lành và ánh sáng của Đức Kitô, nay họ đã ruồng bỏ Người, trong ngày phán xét, chúng ta sống hối hận chừng nào!
Hôm nay nghe các ngôn sứ của Đức Kitô, chính là nghe chính Đức Kitô. Nếu khước từ các Ngài là khước từ chính Người. Để lời khiển trách của Đức Giêsu xưa đem lại phúc lợi cho chúng ta, mỗi người và tất cả chúng ta hãy vui vẻ đón nhận lời Người để nghiêm chỉnh, thẳng thắn hồi tâm trở về với Đức Kitô. Đừng để lời cảnh giác của Người như tiếng vang ngoài tai rồi biến tan theo mây khói, thật khốn cho chúng ta!
GF.

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng 10
5 THÁNG MƯỜI
Tính Nhân Bản Của Thánh Kinh
Từ khi Thiên Chúa tự biểu lộ chính Ngài cho Abraham – nghĩa là tái lập cuộc đối thoại giữa con người với Đấng Sáng Tạo vốn đã bị gãy đổ do tội Adam – tính nhân bản đích thực theo Thánh Kinh không ngừng khẳng định phẩm giá độc đáo nơi mỗi con người. Mỗi người đều được Thiên Chúa tạo dựng giống hình ảnh Ngài. Mỗi người đều được Chúa Kitô cứu chuộc và mời gọi đi vào trong mối hiệp thông với Ngài.
Đó là địa vị của con người trong thế giới này và trong bậc thang giá trị. Đành rằng văn chương và nghệ thuật thường đề cập đến tính yếu đuối, mỏng dòn, thú nhục dục, thói đạo đức giả và tính thô bạo của con người. Nhưng chúng ta cũng biết rằng, trên hết, con người thật kỳ diệu với lối suy nghĩ sáng sủa, với những khám phá khoa học, với những cảm hứng trữ tình trong thi ca, với những sáng tạo nghệ thuật trác tuyệt, với tính cách đạo đức anh hùng, và quan trọng nhất là với những chứng tá thánh thiện trong Đức Kitô.
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
G 38, 1. 12-21. 14-16; Lc 10, 13-16
LỜI SUY NIỆM: “Khốn cho ngươi, hỡi Khô-ra-dim! Khốn cho ngươi, hỡi Bét-xai-đa! Vì nếu các phép lạ đã làm nơi các ngươi mà được làm tại Tia và Xi-đon, thì từ lâu họ đã mặc áo vải thô, ngồi trên tro tỏ lòng sám hối rồi” (Lc 10,13).
          Trong cuộc sống của con người, nếu không biết quan tâm đến mình, đến người khác, cũng như các biến cố xãy ra cho mình hay cho những người khác thì sẽ không thấy có sự liên đới với chính cuộc sống của mình. Đặc biệt trong đời sống đức tin. Mỗi một người phải biết mình và mọi người đều là hình ảnh của Thiên Chúa. Chúng ta không thể làm hoen ố hay lu mờ hình ảnh ấy. Cần phải trân trọng, biết quan tâm đến mình và mọi người. Khi đó chúng ta mới biết tôn trọng nhân phẩm, nhân vị và nhân quyền của bản thân cũng như của mọi người; đặc biệt với người nghèo sống chung quanh chúng ta. Để khỏi bị Chúa lên án.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++

05 Tháng Mười
Sứ Ðiệp Của Một Người Tàn Tật

Hằng năm tổ chức có tên là "Tự nguyện chịu đau khổ" hành hương đến Lộ Ðức để chia sẻ kinh nghiệm của họ khi đối đầu với đau khổ. Năm 1982, khách hành hương đã chú ý đến lời chia sẻ của Jacques Lebreton, một phó tế vĩnh viễn không tay, mù mắt. Chúng ta hãy lắng nghe chứng từ của ông:
Sau trận đánh ở El Alamem, tôi và các bạn của tôi đang lo gỡ mìn. Một anh bạn tôi cầm một quả lựu đạn và vô tình mở chốt. Trong cơn hốt hoảng, anh trao cho tôi. Tôi cứ tự nhiên cầm lấy quả lựu đạn. Nó đã nổ tung trong tay tôi. Tôi tối tăm mặt mũi, không nói được nữa. Tôi cảm thấy mình đang chết. Tôi chỉ còn là một người không tay, không mắt... Tôi toan tự tử.
Trên giường bệnh ở nhà thương, tôi, một người đã không giữ đạo từ lâu, tôi bắt đầu cầu nguyện. Tôi xin được rước lễ. Tôi đã hiểu nguyên do sự đau khổ của tôi là tội lỗi nhân loại: đó là thù oán, kiêu căng, chiến tranh... Và tôi đã tìm lại được sự an vui và trông cậy.
Tôi cảm thấy một cái gì tương tự như Chúa Giêsu trong vườn Giêtsêmani. Ngài cũng không muốn chịu đau khổ. Ngài đã van xin: "Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi uống chén này", nhưng liền sau đó, Ngài lại thưa: "Lạy Cha, xin vâng theo ý Cha". Sau thảm kịch Golgotha, Ngài đã sống lại. Chính nhờ mầu nhiệm chết và sống lại mà Chúa Kitô muốn cho chúng ta cùng sống. Tôi đã đạt đến mức độ không phải là chịu đựng mà là chấp nhận. Chịu đựng là một thất bại. Chấp nhận là một chiến thắng. Trên giường bệnh, tôi đã khóc, khóc vì sung sướng với ý nghĩ ấy. Ðiều mà tự nhiên tôi cũng không thể chịu được, nay nhờ ơn Chúa tôi đã chịu được.
Như lời văn hào Mauriac nói: "Chúa Giêsu không đến để xóa bỏ đau khổ, nhưng để cùng hiện diện với những người đau khổ". Tôi đã cảm nghiệm được lời Chúa phán: "Phúc cho những kẻ khóc lóc, phúc cho những kẻ đau khổ".
Tại Evreux, tôi được gặp một người đàn bà hoàn toàn bất toại, đến nỗi không thể nói được. Nhưng nhờ ngón chân cái của bà, bà có thể máy động bàn chữ cái trên một miếng ván và bà đã tặng cho tôi một bài thơ có tựa đề "Nụ cười".
Tôi liên tưởng đến một người đàn ông khác, bị điếc lúc 14 tuổi, mù từ lúc lên 16 tuổi. Trên giường bệnh, lúc hấp hối, người đàn ông 87 tuổi này đã thốt lên như sau: "Tôi đã trải qua một cuộc đời tốt đẹp".
Ông Jacques Lebreton kết luận như sau: "Tôi, một người không tay, không mắt, tôi cũng thấy đời tươi đẹp. Cuối cùng, sự tàn tật lớn lao nhất là bị chia lìa với Thiên Chúa. Tôi không thể nói như vậy, nếu tôi lành lặn với đôi mắt và đôi tay. Nhưng tôi có thể nói như vậy vì tôi biết thế nào là sống xa Chúa. Và hôm nay, sau một chặng đường dài, tôi lớn tiếng kêu lên với tất cả các người anh em của tôi rằng: Thiên Chúa hằng sống. Ðức Kitô đã sống lại".
Ðã có khoảng 6,000 vụ lành bệnh lạ lùng được ghi nhận tại Lộ Ðức, trong số này chỉ có 64 vụ được Giáo Hội công nhận là phép lạ. Nhưng phép lạ cả thể nhất của Lộ Ðức cũng như của những trung tâm Thánh Mẫu khác: chính là phép lạ của lòng tin. Và trong những phép lạ của lòng tin ấy, kỳ diệu hơn cả vẫn là niềm tin, sự chấp nhận, tinh thần lạc quan của chính những người đau khổ. Trong niềm đau tột cùng trong thân xác cũng như tâm hồn, những con người ấy vẫn còn thấy được ý nghĩa của cuộc sống, tình yêu cao cả của Chúa. Ðó chính là phép lạ mà Chúa vẫn tiếp tục thực hiện qua những người có lòng tin. Và đó cũng là phép lạ mà chúng ta không ngừng kêu cầu Chúa thực hiện.
Nhìn lên thập giá Chúa, trong niềm hiệp thông với Mẹ Ngài, chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho chúng ta được tiếp tục tin yêu, được tiếp tục nhìn thấy ánh sáng phục sinh giữa những đêm tối của khổ đau, thử thách. Chúng ta cũng hãy cầu nguyện cho không biết bao nhiêu người đang quằn quại trong đau đớn của thể xác, trong cô đơn của tâm hồn. Xin cho họ được nâng đỡ, ủi an và tìm được niềm tin.
(Lẽ Sống)
Ngày 05

Thứ sáu đầu tháng

Điều làm động lòng con người là vì Thiên Chúa tự tỏ mình ra cho họ, không xét đoán, t cáo và kết án: "Thiên Chúa là Đấng từ bi và nhân hậu", Kinh Thánh nói với chúng ta như vậy (Ge 2,13).
Ân sủng này của lòng nhân hậu và tha thứ là cho không, chúng ta không xứng đáng gì... Thiên Chúa không nợ chúng ta điều gì, nhưng chính chúng ta mắc nợ Người khi nài xin ơn tha thứ mà chúng ta rất cần, vì tội đã phạm.
Thiên Chúa quan tâm đến tạo vật của Người bị truất phế và, với trái tim người Cha, Chúa ban và còn ban tình yêu của Người mỗi ngày: đây là lòng trắc ẩn vô hạn của trái tim Thiên Chúa.
Với lòng nhân hậu, Chúa chữa lành và tha thứ. Chúng ta cẩn sự cứu giúp của Thiên Chúa, trước hết vì chúng ta "là", rồi vì những gì chúng ta đã "làm", và nhiều lần làm sai.
Thánh Têrêsa Hài Đổng Giêsu, tiến sĩ Hội Thánh, dạy chúng ta "phó thác và biết ơn". Trước tinh yêu nhưng không của Chúa Cha, chúng ta phải có một trái tim trẻ thơ, biết phó thác và, không vong ân bội nghĩa, biết nói lời cám ơn!
Jacques Marín
Hạnh Các Thánh
Ngày 5 tháng 10
THÁNH PLACIĐÔ VÀ CÁC BẠN TỬ ĐẠO
Như Maisen xưa không bị chết đuối thì thánh Placiđô cũng được Chúa cứu thoát khỏi nước một cách lạ lùng. Bàn tay Quan phòng của Chúa luôn luôn hướng dẫn Placiđô đạt tới đích, mặc dầu phải qua bao nhiêu gian nguy hiểm trở. Sử liệu không cho ta biết rõ về sinh quán và gia đình của thánh nhân, nhưng theo tài liệu của thánh Grêgôriô Cả, chúng ta có thể biết cách sơ lược nhưng chắc chắn về đời sống thánh Placiđô như sau:
Placiđô là con một quận công tên là Tertulianô. Năm 522, ông đem con đến dâng cho cha Bênêđitô. Cha Bênêđitô nhận thấy Placiđô có một tâm hồn can đảm và nhiều đức hạnh tốt, nên mặc dầu Placiđô còn nhỏ, cha Bênêđitô cũng sẵn lòng nhận và huấn luyện cho cậu về học vấn cũng như về nhân đức. Ban đầu, cậu Placiđô thường được cha Bônoa dẫn lên núi cầu nguyện. Vì thế, Placiđô tiến rất nhanh trên đường tu thân luyện đức. Ngoài công việc học hành và tu luyện, Placiđô còn tỏ ra rất chăm chỉ và mẫn cán trong nhiều công chuyện khác. Lần kia, trong khi cha Bênêđitô cầu nguyện trong phòng, thì cậu một mình ra sông kín nước và không may té xuống sông, bị dòng nước chảy xiết cuốn đi. Đang đọc kinh tại nhà, cha Bênêđitô được Chúa soi sáng cho biết Placiđô đã lâm nạn. Lập tức cha gọi một thanh niên tên là Maurô, chạy thẳng ra sông đi ngay trên mặt nước như đi trên đất và cứu được Placiđô khỏi dòng nước lũ. Thoát nạn, Placiđô rất ngạc nhiên, tại sao Maurô lại có thể chạy trên mặt nước như thế. Cậu về thuật lại câu chuyện cho cha Bênêđitô và tỏ lòng tạ ơn ngài. Nhưng cha khiêm tốn khuyên Placiđô giữ kín, đó không phải là công trạng của ai, nhưng là do lòng Chúa nhân hậu muốn cứu thoát Placiđô thôi. Từ đó Placiđô càng nhận thấy tấm lòng yêu thương của Chúa, nên nguyện trót đời làm tôi Chúa, yêu mến Chúa và vâng lời các đấng bề trên. Châm ngôn của ngài là lời của Chúa: “Của Ta ăn là làm theo ý Đấng đã sai Ta”.
Để tăng thêm công trạng cho người con luôn nhiệt thành và phụng sự Chúa, Chúa đã muốn cho thánh nhân được triều thiên tử đạo. Vào tháng 9 năm 532, Placiđô bị bắt cùng với em gái là Plavia và một số bạn khác như Đônatô, Phaolô, Phinatô. Sau nhiều lần bị tra tấn và ra tòa, các ngài đều bị hành quyết.
Cuộc tử đạo của các thánh Placido,Flavia,và các bạn.

Ngày 04.8.1588, trong khi cải táng mồ các vị tử đạo tại lòng nhà thờ thánh Gioan Tẩy giả ở Messiniô, người ta đã khám phá ra xác thánh Placiđô và em gái ngài cùng với các bạn tử đạo khác. Cũng từ năm ấy, Giáo hội tuyên phong ngài lên bậc hiển thánh, đồng thời hằng năm dâng lễ kính vào ngày 05 tháng 10.
Mặc dầu vắn tắt, tiểu sử thánh Placiđô cũng cho chúng ta thấy thánh nhân luôn có một tinh thần vâng lời và một tâm hồn bình an thư thái, thứ bình an của một tâm hồn biết vượt mọi khó khăn vật chất, đoạn tuyệt với dục vọng và hân hoan trong biển tình ái Chúa. Đúng là sự bình an mà Chúa Giêsu đã phán: “Sự bình an của Thầy ban, thế gian không thể đem lại cho chúng con được” (Ga 14,37). Chỉ những tâm hồn trong sạch như thánh Placiđô mới hiểu được lời Chúa phán: “Ách của Ta êm ái, gánh Ta nhẹ nhàng”. Một khi đã thoát tục, xa tránh tội lỗi, người ta sẽ ngụp lặn trong tình ái Chúa, sẽ học hiểu được nguyên lý cao siêu huyền diệu mà thánh Placiđô và các bạn tử đạo của ngài đã học được nơi Chúa Giêsu Kitô: “Làm trọn ý Đức Chúa Cha”. Và chỉ có họ mới đáng Thiên Chúa “yêu thương và mặc áo cho vào vinh quang vĩnh cửu”.

Thứ Sáu 5-10

Chân Phước Phanxicô Xaviê Seelos

(1819-1867)
Chân phước FX.Seelos.

hiệt huyết của một nhà thuyết giảng và hăng say của một cha giải tội đã đưa đẩy Cha Seelos đến các công việc đầy tình thương.
Sinh ở miền nam nước Bavaria, ngài học triết thần ở Munich. Khi nghe biết về công việc của các Cha Dòng Chúa Cứu Thế người Ðức ở Hoa Kỳ, ngài đã đến quê hương này vào năm 1843. Ðược thụ phong linh mục vào cuối năm 1844, ngài được bổ nhiệm về giáo xứ Thánh Philomena ở Pittburgh trong sáu năm, và là phụ tá cho Cha Gioan Neuman (được phong thánh và lễ kính ngày 5 tháng Giêng). Ba năm sau đó, Cha Seelos làm giám đốc cho chính cộng đoàn này và bắt đầu việc trông coi đệ tử.
Cùng với trách nhiệm trông coi đệ tử viện, ngài còn hoạt động ở giáo xứ vùng Maryland. Trong thời Nội Chiến, ngài đến Hoa Thịnh Ðốn, D.C., và thành công trong việc thuyết phục Tổng Thống Lincoln đừng bắt các chủng sinh phải nhập ngũ.
Trong một vài năm ngài đi rao giảng bằng tiếng Anh và tiếng Ðức trong khắp vùng Trung Tây và các tiểu bang vùng Ðông Bắc Hoa Kỳ. Ðược bổ nhiệm đến Giáo Xứ Thánh Maria Hồn Xác Lên Trời ở New Orleans, ngài hăng say phục vụ giáo dân cũng như anh em trong dòng. Vào năm 1867, khi đi thăm kẻ liệt, ngài bị lây bệnh và chết vì bệnh sốt rét vàng da. Ngài được phong chân phước năm 2000.

Lời Bàn

Cha Seelos làm việc ở nhiều nơi khác nhau nhưng luôn luôn với cùng một nhiệt huyết: giúp dân chúng biết đến tình yêu cứu độ và lòng nhân từ của Thiên Chúa. Cha đã rao giảng về công việc bác ái và sau đó chính ngài đã bắt tay thi hành, dù nguy hiểm đến tính mạng.

Lời Trích

"Với những người bị bỏ rơi và lạc lối, ngài đã rao giảng tin mừng của Ðức Giêsu Kitô, là 'nguồn mạch ơn cứu độ vĩnh cửu' (Do Thái 5:9), và trong khi giải tội ngài đã thuyết phục nhiều người trở về với Thiên Chúa. Ngày nay, Chân Phước Phanxicô Xaviê Seelos mời gọi mọi phần tử trong Giáo Hội hãy kết hợp mật thiết hơn với Ðức Kitô trong Bí Tích Hòa Giải và Thánh Thể (Ðức Gioan Phaolô II, bài giảng lễ phong chân phước).


Hoa Mân Côi
Mỗi khi tháng Mười về, những người con thảo của Đức Mẹ lại rộn ràng với những điệu vãn lời kinh để cùng tôn vinh Mẹ và cùng Mẹ suy ngắm cuộc đời Chúa Cứu thế. Mỗi lời kinh “Ave Maria” được sánh ví như một đóa hồng dâng kính Đức Mẹ. Lời kinh Mân Côi muốn diễn tả với chúng ta biết bao điều tốt đẹp.
“Vườn Rôsa bao quanh lái (trái) đất,
Cảnh thiên nhiên thật rất diệu huyền” (Ngắm Rôsa)
Vườn Rôsa trong câu thơ trên chính là Giáo Hội. Giáo Hội của Chúa được sánh ví như một vườn hoa rộng lớn mênh mông, mà ở đó được trồng những cây hồng với muôn sắc hoa rực rỡ. Giáo Hội của Chúa thật đẹp biết bao. Vẻ đẹp ấy không thể hiện nơi những tòa nhà cổ kính khang trang kiến trúc cầu kỳ, mà là nơi những cộng đoàn tín hữu, nhất là khi họ hội họp nhau để cử hành phụng vụ: tất cả cùng một đức tin, một tình mến, một tâm hồn để tôn vinh và ca tụng Chúa. Vẻ đẹp của Giáo Hội được tỏa rạng từ nụ cười móm mém của các lão ông lão bà, đến những gương mặt rất thơ ngây của các em nhỏ trong những cuộc rước tôn vinh Chúa, Đức Mẹ hay các thánh. Vẻ đẹp của Giáo Hội còn được thể hiện nơi những người cha người mẹ, nơi các bạn trẻ công giáo, được thấm nhuần tinh thần Phúc âm, đang hăng hái nhiệt tình góp phần làm cho quê hương đất nước thêm tươi đẹp. Những nụ cười, những tâm hồn hy sinh ấy chính là những đóa hồng trong vườn Giáo Hội, làm cho Danh Chúa được rạng rỡ vinh quang.
Lời “Vãn Mân Côi” cũng đưa chúng ta về một thời của lịch sử Giáo Hội: vào thế kỷ 13, Giáo Hội gặp nhiều khủng hoảng, nhất là từ những nguy cơ đến từ một bè lạc giáo có tên là Albigeois ở miền nam nước Pháp. Năm 1213, Đức Mẹ đã hiện đến với Thánh Đaminh và trao cho ngài một cỗ tràng hạt. Mẹ hứa, nếu các tín hữu siêng năng lần hạt thì Giáo Hội sẽ được an bình trở lại. Thánh Đaminh vâng lời Đức Mẹ, nhiệt thành kêu gọi mọi người đọc kinh Mân Côi và đúng như lời Đức Mẹ hứa, bè lạc giáo đã tan rã và Giáo Hội được hưng thịnh. Chính từ biến cố lịch sử này mà Giáo Hội được gọi là “vườn Rôsa” - vườn của những đóa hoa hồng, vì nhờ kinh Mân Côi, Giáo Hội đã tìm lại được vẻ đẹp huy hoàng của mình. Ngày lễ Đức Mẹ Mân Côi vào ngày 7-10 hằng năm cũng được Đức Piô V thiết lập để ghi nhớ chiến thắng của Hải quân Kitô giáo với quân Thổ Nhĩ Kỳ tại trận Lepanto ngày 7-10-1571. Chiến thắng này có được là nhờ các tín hữu lần hạt Mân Côi trong ngày giao chiến.
Một câu chuyện kể rằng Thánh Đaminh đã có sáng kiến kết 150 bông hoa hồng thành một chuỗi dài, tượng trưng cho 150 thánh vịnh. Ngài đã dùng những cánh hồng thơm ngát, nén chặt như ép khuôn và làm thành từng hạt hình tròn, nối liền với nhau thành một tràng hạt. Từ đó, tràng hạt được gọi là chuỗi Mân Côi, tức chuỗi hoa hồng.
“Đức Bà như Hoa Hường (hồng) màu nhiệm vậy” (Kinh cầu Đức Bà)
Trong vườn Rôsa, tức vườn Giáo Hội, có một đóa hoa vượt trổi về màu sắc và hương thơm. Đóa hoa ấy mang tên là Maria. Đức Maria vừa là Mẹ của Giáo Hội, đồng thời cũng là chi thể của Giáo Hội. Mẹ là mẫu mực cho đời sống đức tin của các tín hữu. Nơi Mẹ, Giáo Hội chiêm ngưỡng hình ảnh của mình trong tương lai. Mẹ diễn tả một hình ảnh không tỳ ố, không vết nhơ của Giáo Hội. Mẹ là hy vọng của Giáo Hội đang vươn tới vinh quang rạng rỡ như Mẹ.
Là Mẹ của Đức Giêsu, Mẹ cũng là Mẹ của Giáo Hội. Bằng sự quan tâm hiền mẫu của mình, Mẹ luôn đỡ nâng chúng ta là môn đệ của Đức Giêsu. Cũng như tại Cana ngày nao, Mẹ đang dặn dò chúng ta: “Người bảo sao, các con hãy cứ làm như vậy” (Ga 2,5). Mẹ dạy chúng ta phó thác nơi Chúa, như Mẹ đã kiên trung tín thác suốt đời, để Thánh ý của Chúa được thực hiện, vì ơn cứu độ của toàn thể nhân loại.
Khi tôn vinh Đức Mẹ là Hoa Hồng, chúng ta ca tụng quyền năng của Chúa đã tác tạo nên Mẹ, như một tạo vật hoàn hảo, xứng đáng là ngai tòa cho Ngôi Lời nhập thể. Khi chiêm ngưỡng vẻ đẹp cao siêu của Mẹ, chúng ta nguyện ước noi gương Mẹ, trau dồi các nhân đức, mến Chúa yêu người, luôn lắng nghe và thực thi Lời Chúa.
“Mỗi người là một cành hoa, cùng đem về đây góp gió,
Làm thành vườn hoa, muôn màu muôn sắc tươi xinh” (Lời một bài hát)
Mỗi chúng ta, khi sinh vào cuộc đời, cũng giống như một loài hoa để tô điểm cho thế giới này tươi đẹp. Sự khác biệt về tuổi tác, giới tính, trình độ văn hóa hay điều kiện kinh tế không phải là những lý do gây mâu thuẫn, nhưng làm cho cuộc sống thêm phong phú. Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu đã nhận mình là một loài hoa được Thiên Chúa chăm sóc yêu thương một cách đặc biệt. Đã là hoa trong vườn, dù thuộc chủng loại nào, những bông hoa đều cống hiến hương sắc cho đời. Con người cũng thế, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, cũng có trách nhiệm góp phần làm cho cuộc sống thêm nhân ái hơn.

Kinh Mân Côi giúp ta gắn bó với Chúa. Hai mươi mầu nhiệm diễn tả cuộc đời của Chúa Cứu thế, đồng thời cũng phác họa đời sống chúng ta. Cuộc đời được dệt nên bằng một chuỗi những vui buồn. Những ai kiên trung cậy trông vào Chúa trong mọi biến có vui buồn ấy, sẽ trở thành môn đệ chân chính của Đức Giêsu. Đức Mẹ đã thực hiện điều ấy và Mẹ đang mời gọi chúng ta tiến bước theo Chúa Giêsu, Con của Mẹ.
Tràng hạt Mân Côi cũng tượng trưng cho tình liên đới giữa con người với nhau. Là những đóa hoa trong vườn hoa cuộc đời, chúng ta liên kết với nhau làm thành một chuỗi hoa hồng. Những đóa-hoa-cuộc-đời được gắn liền với nhau bằng tình mến Chúa yêu người, làm cho cuộc sống này thêm tươi đẹp và thi vị hơn.
Khi ước mong trở thành những đóa hồng dâng kính Đức Mẹ, mỗi người chúng ta cũng cần phải là một đóa hoa để trao tặng cho nhau. Những nghĩa cử thân thiện, những lời động viên khích lệ hoặc sự chia sẻ tinh thần vật chất mà chúng ta thực hiện xuất phát từ tình mến, đó chính là những đóa hoa lòng mà chúng ta trao tặng cho nhau. Những đóa hoa ấy không tàn phai theo thời gian, nhưng mãi mãi thắm sắc ngát hương, làm nên một cuộc sống an bình. Đó là ý nghĩa của Kinh Mân Côi mà chúng ta đọc hằng ngày.
Đức Chân phước Gioan Phaolô II đã nói: “Chuỗi Mân côi là lời cầu nguyện mà tôi yêu thích nhất. Đó là lời kinh tuyệt vời. Tuyệt vời trong sự đơn giản và sâu sắc. Với lời kinh này chúng ta lặp lại nhiều lần những lời mà Đức Trinh Nữ đã nghe sứ thần Gabriel và người chị họ Êlisabeth nói với Mẹ. Toàn thể Giáo Hội cùng liên kết với những lời kinh ấy” (Tông thư Kinh Mân Côi).
Lạy Mẹ Mân Côi, xin chúc lành và hướng dẫn chúng con trên mọi nẻo đường trần gian. Amen.


Gm Giuse Vũ Văn Thiên
Bài đọc 2 
Anh em hãy vui lên trong Chúa 
Trích khảo luận của thánh Am-rô-xi-ô, giám mục, về thư gửi tín hữu Phi-líp-phê.

Anh em thân mến, vì muốn cứu độ chúng ta, nên Thiên Chúa giàu lòng nhân từ đã kêu gọi chúng tới vui hưởng hạnh phúc muôn đời, như thánh Phao-lô nói trong đoạn thư anh em vừa nghe: Anh em hãy vui lên trong Chúa. Các sự vui thú đời này đưa tới buồn sầu muôn thuở, còn các niềm vui trong thánh ý Chúa, thì dẫn đưa những ai kiên trì trong niềm vui ấy, tới nguồn hoan lạc tồn tại muôn đời. Vì thế, thánh Phao-lô Tông Đồ nói: tôi nhắc lại: vui lên anh em ! 
Người khuyên chúng ta làm cho niềm vui trong Chúa mỗi ngày một gia tăng, và thực hành các điều răn của Chúa, bởi vì trên thế gian này, chúng ta càng phấn đấu để tuân hành lệnh truyền của Thiên Chúa, Chúa chúng ta, thì ở đời sau càng được hạnh phúc và vinh hiển hơn trước nhan Người. 
Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hoà rộng rãi, nghĩa là sao cho cách ăn ở thánh thiện của anh em không những tỏ hiện trước nhan Thiên Chúa, mà còn trước mặt người đời, để nêu gương hiền hoà, tiết độ cho mọi người đang sống với anh em trên trần gian, và hơn nữa, lưu lại một kỷ niệm tốt trước nhan Thiên Chúa và người đời.
Chúa đã gần đến, anh em đừng lo lắng gì cả. Chúa luôn ở gần tất cả những ai kêu cầu Người với lòng chân thành, với đức tin ngay thẳng, đức cậy vững vàng, đức mến hoàn hảo, vì Người biết anh em cần gì trước khi anh em xin. Người luôn sẵn sàng trợ giúp tất cả những ai trung thành phụng sự Người trong bất cứ nhu cầu nào. Vì vậy, trước những khốn khó sắp xảy ra, chúng ta đừng quá lo lắng, vì phải biết rằng Đấng bảo vệ chúng ta là Thiên Chúa hằng ở gần chúng ta như còn có lời chép: Chúa gần gũi những tấm lòng tan vỡ, cứu những tâm thần thất vọng ê chề. Người công chính gặp nhiều nỗi gian truân, nhưng Chúa giúp họ luôn thoát khỏi. Nếu chúng ta cố gắng chu toàn giữ điều Người truyền, thì Người sẽ ban cho chúng ta điều đã hứa mà không trì hoãn. 
Trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Chúa những gì anh em thỉnh nguyện. Nếu phải khốn cực, thì chúng ta hãy chịu đựng, nhưng đừng kêu ca hay buồn sầu; đừng làm như thế, mà phải nhẫn nại và hoan hỉ tạ ơn Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh và mọi sự. 

Lời nguyện 
Lạy Chúa, khi Chúa thương xót và thứ tha, chính là lúc Chúa biểu lộ quyền năng cách tỏ tường hơn cả, xin không ngừng ban ơn giúp chúng con đạt tới Nước Trời là hạnh phúc Chúa đã hứa ban và chúng con đang hết lòng theo đuổi. Chúng con cầu xin…
 
(trích bài đọc Giờ Kinh Sách Thứ Sáu Tuần 26TN-bản dịch của nhóm CGKPV)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét