Thánh Công Ðồng Chung Vaticanô II
Hiến Chế Tín Lý
Về Mạc Khải Của Thiên Chúa
(Dei Verbum)
--------------------
Lời Giới Thiệu
I. Lịch Sử Bản Văn:
Hiến
chế Dei Verbum là một trong những văn kiện quan trọng nhất của Công Ðồng
Vaticano II về phương diện giáo thuyết cũng như về thái độ khác biệt giữa các
nghị phụ; Thật vậy, chính trong khi bàn cãi về Lược đồ này, các nghị phụ đã nhận
thức về sự phân chia khuynh hướng thần học giữa các ngài. Lược đồ về Mac Khải nằm
ở ngoài quyển sách đã được Ủy Ban Trung ương xuất bản năm 1962. Và như vậy người
ta tưởng sẽ được bàn cãi trước tiên. Nhưng Ðức Gioan XXIII nhận thấy đã có những
bất đồng ý kiến trong bản văn "về Mạc Khải", nên ngài không muốn khởi
đầu Công đồng với bản văn gai góc này, và đã quyết định bàn cãi về Phụng vụ trước
tiên, vì các nghị phụ dễ đồng ý về vấn đề này hơn.
Bản
văn trình bày trong sách trên thật ra là bản văn thứ năm mà Ủy ban và các nghị
phụ đã soạn thảo. Ngày 12.7.1962, Ðức Gioan XXIII truyền lệnh gửi cho các nghị
phụ bàn cãi loạt Lược đồ lần thứ nhất. Trong số đó, có Lược đồ "Hiến chế
Tín lý về các nguồn Mạc khải". Lược đồ này được bàn cãi từ ngày 14 đến
21.11.1962. Chính trong các cuộc bàn cãi này mà Công đồng Vaticano II đã tự
chia ra phe "đa số" và "thiểu số" theo luồng tư tưởng và
theo lối diễn tả thần học của các nghị phụ. Từ đó các khuynh hướng khác biệt
này chi phối tất cả các công việc của Công đồng.
Trong
diễn văn khai mạc ngày 11.10.1962 (Khóa I từ 11.10 đến 08.12.1962), Ðức Gioan
XXIII đã nói: "Bản chất của giáo thuyết cổ truyền chứa trong kho tàng đức
tin là một chuyện, còn việc định thức bản chất lại là chuyện khác, vì việc định
thức căn cứ trên những hình thức và sự tương xứng với những nhu cầu giáo huấn,
nhất là về mục vụ". Sự phân biệt giữa "bản chất" và "định
thức" sẽ giữ một vai trò quan trọng trong cuộc bàn cãi lược đồ này. Lược đồ
đã được các Hồng y Ottaviani, Ruffini, Siri... bênh vực, và bị các Hồng y
Liénart, Frings... kết án, còn các Hồng y Bea, Léger, Tisserant... thì chỉ
trích. Người ta cho rằng cách nói quá kinh viện, lối hành văn phản mục vụ, phản
Kinh Thánh và phản hiệp nhất. Chủ tịch đoàn Công đồng quyết định bỏ thăm bản
văn (ngày 20.11.1962), và bản văn bị loại bỏ với 1,368 phiếu chống, 822 phiếu
thuận, và 18 phiếu bất hợp lệ. Buổi họp trải qua vài giờ lộn xộn vì chưa đủ đa
số 2/3 để loại bỏ một lược đồ (cần phải 1,473 phiếu mới đủ 2/3). Nhưng có nên
chấp nhận một lược đồ bị một đa số như trên loại bỏ không? Khi ấy, Ðức Giáo
Hoàng Gioan XXIII đích thân can thiệp; ngài quyết định trao trả lược đồ cho một
Ủy ban Thần học và của Văn phòng Hợp nhất Kitô giáo.
Ủy
ban này khởi công bằng việc đồng ý về nhiều điểm quan trọng, như bỏ Tựa đề
"về hai nguồn..." (vì nó sẽ gây ra nhiều hiểu lầm), đặt lại Tựa đề
cho chương I: "Về Lời Chúa được Mạc khải..." (như thế, nó Tổng quát và
dễ dàng chấp nhận hơn). Tuy nhiên vẫn còn những bất đồng, nhất là về tương quan
giữa Thánh Kinh và Thánh Truyền. Lược đồ được hoàn thành vào tháng 3.1963 và được
gửi cho các nghị phụ vào tháng 5.1963. Bản văn sẽ không được bàn cãi trong kỳ họp
thứ hai, nhưng vẫn không thiếu những phê bình được gửi Tới. Thật vậy, các vị soạn
thảo muốn "Cố ý tránh vấn đề Hai nguồn Mạc khải mà không xác nhận hay chối
bỏ rằng Thánh Truyền chứa những gì mà Thánh Kinh không có" (Relatio...,
tr.5). Ðiều đó làm cho bản văn trở nên nhạt nhẽo, thiếu màu sắc và hàm hồ... Mạc
khải được hiểu như là "nội dung" của Mạc khải hơn là "hành động"
Chúa Mạc khải. Thánh Truyền duy nhất bị lẫn lộn với các truyền thống, điều này
gây nhiều hiểu lầm...
Ðến
ngày 31.1.1964, các nghị phụ hết hạn gửi các nhận xét. Như thế, người ta có thể
lợi dụng được các ý kiến trong các cuộc bàn cãi đang diễn ra "về Lược đồ
Giáo Hội", vì Mạc khải và Giáo Hội không thể tách rời nhau. Những lời than
phiền Tủa các nghị phụ hầu như chỉ quy về hai điểm: các bản văn chưa đánh giá đầy
đủ tầm quan trọng Của Mạc khải và Của Thánh Truyền, cũng như chưa được cân nhắc
đầy đủ. Ngày 07.3.1964, người ta thành lập Một tiểu ban phụ trách tu chỉnh bản
văn dưới sự chủ Tọa Của Ðức Giám Mục Charue với sự Cộng tác Của nhiều chuyên
viên. Ủy ban này chia làm 2 nhóm: Nhóm thứ nhất phụ trách chương I và II (chủ Tịch:
Ðức Giám Mục Florit và các chuyên viên Congar, Rahner, Moeller, Ramirez...),
Nhón thứ hai phụ trách chương III đến chương VI (chủ Tịch: Ðức Giám Mục
Semmonelroth...). Từ 20 đến 24.4.1964, các ngài bổ túc bản văn Mới, và đưa ra bản
Tối hậu. Sau đó, bản văn được trình lên Văn phòng Hợp nhất để xem có phải sửa đổi
gì không. Ngày 30.6.1964, Văn phòng trả lời chấp thuận; Ðức Hồng Y Bea xét rằng
không Cần phải hợp hai cơ quan để tu chỉnh. Sau đó, Ủy ban Giáo thuyết Cứu xét
bản văn (Từ ngày 3 đến 5.6.64). Chương II Tạm được chấp nhận (17 phiếu thuận, 7
chống), vì 7 nghị phụ đòi phải nói: Thánh Truyền khách quan rộng hơn Thánh Kinh
(x. Relatio..., tr.6).
Cuộc
bàn cãi bản văn bắt đầu Từ ngày 30.9.1964 Tại đền Thánh Phêrô. Có hai bản phúc
trình: Một Của nhóm đa số trong Ủy ban (Ðức Giám Mục Florit đọc), và Một Của
nhóm thiểu số (Ðức Giám Mục Franic trình bày). Vấn nạn quan trọng nhất do nhóm
thiểu số đưa ra là ý tưởng về "Thánh Truyền Cấu thành" (Traditio
constitutive). Ðó là giảng thuyết và đức tin Của toàn thể Giáo Hội tông đồ, dưới
sự tác động Của Thánh Thần Mạc khải, chứa đựng những chân lý thật ra không có
trong Thánh Kinh. Ðó là trường hợp các tín điều về Ðức Mẹ (Ðức Giám Mục Beras).
Ngoài ra, nếu hạ giá Thánh Truyền, như Lược đồ đã làm, người ta sẽ rơi vào Một
thứ Tân Thời thuyết. Tuy thế, đa số chấp nhận và khen ngợi ý tưởng Của bản văn.
Dầu vậy, những phê bình Của nhóm thiểu số cũng rất hữu ích vì nó xác định rõ
ràng nhiều ý niệm.
Theo
Ủy ban, kết quả cuộc can thiệp Của các nghị phụ như sau:
1)
Ðiểm tích cực:
a.
Ngôn ngữ rõ rang, cẩn thận và có tính cách trình bày.
b.
Cơ cấu bản văn được sắp đặt kỹ lưỡng và cân đối.
c.
Giáo thuyết chắc chắn phát xuất Từ cổ truyền và Thánh Kinh.
d.
Quan niệm Mạc khải quy về Chúa Kitô và con người cũng như cách thức trình bày
tương quan giữa Thánh Kinh và Thánh Truyền.
2)
Ðiểm tiêu cực:
a.
Cách hành văn phức tạp và đôi khi tối nghĩa.
b.
Im lặng trước những sai lạc và lạm dụng hiện có.
c.
Trình bày khiếm khuyết về Cựu Ước.
d.
Thiếu chiều hướng Giáo Hội trong Mạc khải.
e.
Phải trình bày vai trò Của Chúa Thánh Thần trong hoạt động của Huấn quyền Giáo
Hội.
Các
tiểu ban bắt tay làm việc để Tổng hợp đề nghị của các nghị phụ. Nhờ đó Một bản
văn thứ tư được thành hình và đã được gửi tới cho các nghị phụ trong phiên họp
khoáng đại cuối cùng của kỳ họp thứ ba (20.11.1964). Có thể tóm tắt các thay đổi
chính như sau:
a.
Nhấn mạnh đến truyền thống "phát nguyên từ các tông đồ" thay vì Thánh
Truyền "sống" (có thể phát xuất từ đời sống Giáo Hội).
b.
Vấn đề phát triển tín lý, bản văn trước nói rằng kinh nghiệm của các tín hữu là
một yếu tố phát triển, nhưng bản văn tới nhắc thêm đến lý trí (số 8b) để tránh
chủ quan thuyết hiện tượng luận.
c.
Nhắc đến việc nhờ Thánh Thần mà Giáo Hội biết được bản chính lục Thánh Kinh (số
8c).
d.
Phân biệt rõ ràng hơn nội dung của Thánh Truyền thời các tông đồ (số 9).
e.
Xác định vai trò Của Huấn quyền bằng cách bãi bỏ danh Từ uy quyền "Tối thượng"
và không nhắc đến ơn bất khả ngộ, hơn nữa còn nói rằng quyền giáo huấn phải
"thành kính lắng nghe" Lời Chúa (số 10). Trong kỳ họp thứ ba, các nghị
phụ không bỏ phiếu bản văn này, nên các ngài có thể viết các nhận xét gửi về Ủy
ban.
Sau
cùng, ngày 21.9.1965, các nghị phụ đã bỏ phiếu Lược đồ này. Các chương đều được
chấp thuận với vài sửa đổi. Ủy ban phụ trách kết nạp các tu chỉnh, cố gắng dung
hòa ý kiến mọi người bằng cách sửa đổi từng tiểu tiết của bản văn. Chính Ðức
Phaolô VI cũng đã đề nghị một vài thay đổi. Sau khi Ủy ban Giáo thuyết xem xét,
bản văn được phát cho các nghị phụ ngày 25.10.1965, và bỏ phiếu ngày
29.10.1965. Ở vòng bỏ phiếu chót, trong số 2,115 nghị phụ bỏ phiếu, có 2,081
phiếu thuận, 27 phiếu chống, và 7 phiếu bất hợp lệ. Ngày
18.11.1965 là ngày công bố với 2,344 phiếu thuận, và 06 phiếu chống.
II. Cơ Cấu Hiến Chế:
Những
nét chính của bản sơ thảo đầu tiên được giữ lại đến cùng: Một phần nói về Mạc
khải tổng quát, một phần dành cho Thánh Kinh. Lược đồ thứ nhất được chia như
sau: Chương I: Hai nguồn Mạc khải; Chương II: Linh hứng, bất ngộ và cấu tạo văn
chương của Thánh Kinh; Chương III: Cựu Ước; Chương IV: Tân Ước; Chương V: Thánh
Kinh trong Giáo Hội.
Như
trong Lược đồ thứ nhất, Lược đồ thứ hai giữ lại Chương I như Một lời Mở đầu giới
thiệu Thánh Kinh, các Chương khác cũng chứa đựng chất liệu tương tự như Lược đồ
thứ nhất. Chính trong lần soạn thảo thứ ba mà giáo thuyết về Mạc khải chiếm vai
trò ưu thắng. Như vậy, phần thứ nhất của bản văn trở thành quan trọng nhất, vì
chứa đựng giáo thuyết "chi phối" Mọi việc khai triển khác. Nội dung của
Lược đồ thứ ba là: Chương I: Về chính Mạc Khải; Chương II: Sự lưu truyền Mạc khải;
Chương III: Linh hứng Của Thiên Chúa và việc chú giải Thánh Kinh; Chương IV: Cựu
Ước; Chương V: Tân Ước; Chương VI: Thánh Kinh trong đời sống Giáo Hội.
Như
thế, chúng ta có một bản văn chia làm hai phần lớn, được soạn thảo dưới sự hướng
dẫn của hai tiểu ban. Phần nhất bàn về Mạc khải Tổng quát, gồm chương I bàn về
diễn tiến Mạc khải mà Thiên Chúa đã Tự biểu lộ cho con người và phó mình cho họ,
đến Mức độ trọn vẹn trong Chúa Kitô; Chương II trình bày tính cách liên Tục
trong việc Thiên Chúa Tự biểu lộ và phó mình cách trọn vẹn trong Giáo Hội bằng
tất cả những gì tạo thành đời sống Giáo Hội, qua tiến trình lịch sử.
Phần
hai bàn về Thánh Kinh, một hình thức đặc biệt của sự biểu lộ và phó mình của
Thiên Chúa: chương III trình bày những khía cạnh tổng quát của Thánh Kinh: đó
là một tác phẩm Của Thiên Chúa, Ðấng hạ mình đến với chúng ta, nhưng cũng là một
tác phẩm của con người; chương IV bàn về giá trị của Cựu Ước; chương V bàn về Tân
Ước; chương VI trình bày ý nghĩa Của Thánh Kinh đối với Giáo Hội Mọi thời đại
và Mọi hoàn Cảnh.
III. Tầm Quan Trọng:
Hiến chế Mạc khải đã không giải quyết mọi vấn đề, đã không
có thái độ rõ ràng về nhiều vấn đề, và không làm thoả mãn mọi người. Hiến chế
không thể làm điều đó. Dầu vậy, Hiến chế cũng nói lên một bước tiến rất tích cực
trong công cuộc tìm hiểu Mạc khải, cũng sẽ có một tầm ảnh hưởng lớn lao trong nền
thần học Công giáo và cuộc đối thoại hợp nhất.
Công
đồng tiến hành công việc trong nỗ lực hòa giải. Hiến
chế Mạc khải đã phải tổng hợp nhãn quan của nhiều trường phái không luôn luôn
phù hợp nhau, phải tóm lược các ý tưởng (dù làm như vậy có vẻ đơn giản hóa vấn
đề). Bản văn phải được
nghiên cứu cẩn thận chứ không chỉ đọc thoáng qua. Tuy nhiên, không được vì thế
mà lãng quên tâm điểm của toàn thể giáo thuyết, tâm điểm đó chính là tác động cứu
độ của Thiên Chúa đang diễn tiến trên thế gian và trong lịch sử nhờ Lời của
Ngài là Chúa Kitô.
Cũng nên chú ý là bản văn sau cùng đã được đại đa số nghị phụ
trong Công đồng chấp thuận, như thế bản văn nói lên đức tin Của Giáo Hội về vấn
đề này. Dù không đồng tâm về những chi tiết, nhưng phần giáo thuyết căn bản thì
không ai có thể bàn cãi được nữa.
Người
ta có thể lấy làm tiếc là Thánh Truyền và Huấn quyền lại đứng bên Cạnh Thánh
Kinh. Nhưng như thế là vì đã có thành kiến luôn đối chiếu ba thực thể trên.
Trong khi đó, Công đồng đã quan niệm và thành công trong việc dung hòa: Cả ba đều
mang Lời Chúa, tuy mỗi thực thể theo một cách thức riêng và với một tước vị riêng.
Bản
văn này phải thúc đẩy các nhà thông thái nghiên cứu Thánh Kinh và giúp tín hữu
say mê Thánh Kinh. Theo đường hướng cởi mở của Thông điệp Divino afflante
Spiritu, Hiến chế về Mạc khải mở ra những chân trời mới cho công việc chú giải. Người
ta được tự do nghiên cứu để khai thác các "văn loại" và các khám phá
mà lịch sử và khoa học đem lại, mà không sợ những cấm đoán đè nặng từ bên ngoài
như trường hợp các đồng nghiệp của họ thời trước. Nhưng cùng Một lúc Hiến chế cũng xác định
những điều ta không thể chối bỏ mà không triệt tiêu Mạc khải. Do đó, không được nghi ngờ lịch sử tính của Phúc Âm và nguồn
gốc tông đồ của các sách đó. Công
đồng đã không kết án phương pháp văn hình sử (formgeschichte) nhưng đã nêu ra
những giới hạn của phương pháp ấy; không phải tất cả những ý tưởng "giải
huyền thoại" Của R. Bultmann là sai, nhưng phải cẩn thận để khỏi rơi vào
thuyết duy tín mà phương pháp này đưa đến. Còn về Tầm quan trọng thực tế của những
lời khuyên mục vụ ở chương VI thì chỉ có tương lai mới có thể trả lời chúng ta.
Việc
xác định chân lý Thánh Kinh ở số 11 là một điều rất quan trọng. Người
ta không thể tìm thấy trong Thánh Kinh bất cứ loại chân lý nào (khoa học, lịch
sử, địa lý, nhân chủng học...) nhưng chỉ có thứ chân lý cứu thoát chúng ta, và
ta cũng nên lưu ý Công đồng không nói những chân lý, nhưng nói chân lý ở số ít;chân
lý ấy đồng thời cũng là sự sống, là đường dẫn đến sự Cứu độ. Ðiều đó muốn nói rằng:
chân lý của chúng ta không phải chỉ là một điều ta biết suông, nhưng là một bổn
phận phải thực hành: "Thực Hành Chân Lý" (x. Ep 4,15) và phải tiến tới
trong chân lý: "Ði trong Chân Lý". Công đồng muốn giải phóng thần học
khỏi quan niệm Hy Lạp về chân lý quá tĩnh để trở về với ý niệm Do Thái linh động
hơn, hiện sinh hơn, cởi mở hơn đối với mầu nhiệm Thiên Chúa.
Một
số người công kích, số khác lại ca tụng về tầm quan trọng hợp nhất Của Hiến chế
về Mạc khải. Người ta đã chỉ trích "sự hàm hồ" về mối tương quan giữa
Thánh Kinh và Thánh Truyền. Nhưng có người lại thấy ở đó một cánh cửa đưa đến đối
thoại, nhất là vào thời đại các Giáo Hội phát sinh sau khi Phong Trào Cải cách
đặt lại vấn đề Thánh Truyền. Việc tự do tìm hiểu đã chiếm được một địa vị, nhờ
đó sự cộng tác giữa các nhà chú giải Công giáo và Tin lành cùng dễ dàng và đáng
khích lệ hơn. Ngoài ra, việc khuyến khích đọc Thánh Kinh đã Tạo nên một nền tảng
vững chắc đưa các Kitô hữu xích lại gần nhau hơn, vì họ cũng lắng nghe một Lời
Chúa. Dù bản chính lục Thánh Kinh vẫn còn đôi chút khác biệt, nhưng sự kiện này
không có tầm quan trọng thực tiễn nào.
Ủy Ban Giáo Lý Ðức Tin
Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam
Saigon, ngày 2 tháng 11 năm 2005
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------
Lời Mở Ðầu
1. Trong niềm thầm kính lắng nghe và tin tưởng công bố Lời
Thiên Chúa, 2* Thánh Công Ðồng lặp lại lời Thánh
Gioan: "Chúng tôi loan truyền cho anh em sự sống đời đời, đã có nơi Chúa
Cha và đã hiện đến với chúng tôi: điều chúng tôi đã thấy, đã nghe, chúng tôi
loan truyền cho anh em, để anh em cũng được hiệp nhất với chúng tôi, và chúng
tôi hiệp nhất với Chúa Cha và với Chúa Giêsu Kitô Con Ngài" (1Gio 1,2-3).
Bởi thế noi gương Công Ðồng Trentô và Vaticanô I, Công Ðồng này muốn trình bày
giáo lý chân thực về mạc khải của Thiên Chúa và lưu truyền mạc khải ấy, để khi
nghe công bố ơn cứu độ, toàn thể nhân loại tin theo, để nhờ tin mà hy vọng, và
nhờ hy vọng mà yêu mến 1. 3*
Chương I
2. Bản
tính và đối tượng của mạc khải. Thiên Chúa nhân lành và khôn ngoan đã muốn mạc khải chính mình
và tỏ cho mọi người biết mầu nhiệm thánh ý Ngài (x. Eph 1,9). Nhờ đó, loài người
có thể đến cùng Chúa Cha, nhờ Chúa Kitô, Ngôi Lời nhập thể trong Chúa Thánh Thần,
và được thông phần bản tính của Thiên Chúa (x. Eph 2,18; 2P 1,4). Trong việc mạc
khải này, với tình thương chan chứa của Ngài, Thiên Chúa vô hình (x. Col 1,15;
1Tm 1,17) ngỏ lời với loài người như với bạn hữu (x. Xac 33,11; Gio 15,14-15).
Ngài đối thoại với họ (x. Bar 3,38) để mời gọi và đón nhận họ hiệp nhất với
Ngài. Công cuộc mạc khải này được thực hiện bằng các hành động và lời nói liên
kết mật thiết với nhau. Nên các việc Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử cứu rỗi
bày tỏ, củng cố giáo lý và những điều được giải thích qua lời nói. Còn lời nói
thì công bố các việc làm và khai sáng mầu nhiệm chứa đựng trong đó 5*.
Nhờ mạc khải này, chân lý thâm sâu về Thiên Chúa cũng như về phần rỗi con người,
được sáng tỏ nơi Chúa Kitô, Ðấng trung gian, đồng thời là sự viên mãn của toàn
thể mạc khải 2. 6*
3. Chuẩn
bị mạc khải Phúc Âm. 7* Thiên Chúa, Ðấng tạo dựng và bảo tồn mọi
sự nhờ Ngôi Lời (x. Gio 1,3), không ngừng làm chứng về Mình trước mặt loài người
qua các tạo vật (x. Rm 1,19-20). 8* Và vì muốn mở đường cứu rỗi cao trọng,
nên từ đầu Ngài còn tỏ Mình ra cho tổ tông chúng ta. Sau khi tổ tông sa ngã,
qua lời hứa ban ơn cứu chuộc, Ngài đã nâng đỡ họ dậy trong niềm hy vọng cứu rỗi
(x. Stk 3,15). Ngài không ngừng săn sóc nhân loại, để ban sự sống đời đời cho tất
cả những ai tìm kiếm sự cứu rỗi nhờ kiên tâm làm việc thiện (x. Rm 2,6-7). 9* Khi đến giờ đã định, Ngài gọi Abraham
để qua ông, Ngài tạo lập một dân tộc lớn mạnh (x. Stk 12,2-3), một dân tộc mà
sau thời các Tổ Phụ, Ngài đã dùng Môisen và các Tiên Tri dạy dỗ, để họ nhận biết
Ngài là Chúa duy nhất, hằng sống và chân thật, là Cha quan phòng, là thẩm phán
chí công, để họ trông đợi Ðấng Cứu Thế được hứa ban và nhờ vậy, qua bao thế kỷ,
Ngài đã dọn đường 10* cho Phúc Âm.
4. Ðức
Kitô hoàn tất mạc khải. 11* Sau khi phán dạy nhiều lần, nhiều
cách qua các Tiên Tri, "nay là thời cuối cùng, Thiên Chúa đã nói với chúng
ta qua Chúa Con" (Dth 1,1-2). 12* Thực vậy, Ngài đã sai Con Ngài là Ngôi
Lời vĩnh cửu, Ðấng sáng soi mọi người, đến sống giữa loài người và nói cho họ
nghe những điều kín nhiệm nơi Thiên Chúa (x. Gio 1,1-18). Bởi vậy, Chúa Giêsu
Kitô, Ngôi Lời nhập thể "là người đã được sai đến với loài người" 3,
"nói tiếng nói của Thiên Chúa" (Gio 3,34) và hoàn thành công trình cứu
rỗi của Chúa Cha đã giao phó cho Ngài thực hiện (x. Gio 5,36; 17,4). Vì thế,
chính Ngài, Ðấng mà ai thấy, tức là thấy Chúa Cha (x. Gio 14,9), đã đến bổ túc
và hoàn tất mạc khải, bằng tất cả sự hiện diện và tỏ mình qua lời nói cũng như
việc làm, dấu chỉ và phép lạ, nhất là qua cái chết và sự sống lại vinh quang từ
kẻ chết, sau cùng bằng việc phái Thần Chân Lý đến, bằng chứng tích của một
Thiên Chúa, Ngài xác nhận Thiên Chúa hằng ở với chúng ta để giải thoát chúng ta
khỏi bóng tối tội lỗi và sự chết, rồi phục sinh chúng ta để được sống đời đời.
Vậy nhiệm
cuộc Kitô giáo, vì là giao ước mới và vĩnh viễn, sẽ không bao giờ mai một.
Chúng ta không phải chờ đợi một mạc khải công cộng nào khác nữa trước khi Chúa
Giêsu Kitô Chúa chúng ta hiện đến trong vinh quang (x. 1Tm 6,14; Tit 2,13). 13*
5. Mạc
khải phải được đón nhận bằng đức tin. Phải bày tỏ "sự vâng phục của đức tin" (x.
Rm 16,26; Rm 1,5; 2Cor 10,5-6) đối với Thiên Chúa mạc khải. Nhờ sự vâng
phục đó, con người phó thác toàn thân cho Thiên Chúa một cách tự do "dâng
lên Thiên Chúa mạc khải sự qui phục hoàn toàn của lý trí và ý chí" 4,
đồng thời sẵn lòng chấp nhận mạc khải Ngài ban cho. Ðể được
niềm tin này, cần có ân sủng Thiên Chúa đi trước giúp đỡ và sự trợ giúp bên
trong của Chúa Thánh Thần: Ngài thúc đẩy và quy hướng con tim về cùng Thiên
Chúa, mở mắt lý trí và làm cho "mọi người cảm thấy dịu ngọt khi đón nhận
và tin theo chân lý" 5.
Và để việc hiểu biết mạc khải được sâu rộng thêm mãi, cũng chính Chúa Thánh Thần
không ngừng kiện toàn đức tin qua các ơn của Ngài. 14*
6.
Tương quan giữa tri thức tự nhiên và siêu nhiên về Thiên Chúa. Thiên Chúa đã muốn dùng mạc khải 15* để bày tỏ và thông ban chính mình Ngài
cùng những ý định muôn đời của Ngài liên quan đến phần rỗi nhân loại,
"nghĩa là cho họ được tham dự vào các ân thiêng hoàn toàn vượt khỏi trí
khôn loài người" 6. 16*
Thánh Công Ðồng
tuyên xưng rằng: "Con người nhờ ánh sáng tự nhiên của lý trí, có thể từ
các tạo vật nhận biết cách chắc chắn có Thiên Chúa như nguyên lý và cứu cánh mọi
sự" (x. Rm 1,20). Công Ðồng còn dạy: chính nhờ Thiên Chúa mạc khải mà "tất cả những
gì thuộc về Thiên Chúa, tự nó vốn không vượt quá khả năng lý trí con người,
trong hoàn cảnh hiện tại của nhân loại, đều có thể biết được cách dễ dàng, chắc
chắn mà không lẫn lộn sai lầm" 7. 17*
Chương II
Sự Lưu Truyền Mạc Khải
7. Tông
đồ và các người kế vị loan truyền Phúc Âm. Những gì Thiên Chúa đã mạc khải để cứu rỗi muôn dân, Ngài
đã ân cần sắp đặt để luôn được bảo toàn và lưu truyền 19* nguyên vẹn cho mọi thế hệ. Bởi thế
Chúa Kitô, nơi Người Thiên Chúa tối cao hoàn tất trọn vẹn nguồn mạc khải (x.
2Cor 1,20 và 3,16-4,6), đã truyền dạy các Tông Ðồ rao giảng cho mọi người Phúc
Âm được hứa trước qua miệng các Tiên Tri, được chính Người thực hiện và công bố;
các Ngài rao giảng Phúc Âm như nguồn mọi chân lý cứu độ và lề luật luân lý 1,
đồng thời thông ban cho họ các ân thiêng. Việc này đã được thực hiện cách trung
thành, một phần do các Tông Ðồ: hoặc qua lời giảng dạy, gương lành và các thể
chế các ngài đã truyền lại những gì đã nhận lãnh từ miệng Chúa Kitô khi chung sống
với Người và thấy Người hành động, hoặc đã học biết được nhờ Chúa Thánh Thần gợi
ý; một phần do chính các ngài và những người phụ tá các ngài đã viết lại 20* tin mừng cứu rỗi dưới sự linh ứng của
cùng một Chúa Thánh Thần 2.
Nhưng để Phúc Âm được giữ gìn toàn vẹn và sống động mãi trong Giáo Hội 21*,
các Tông Ðồ đã để lại những người kế vị là các Giám Mục, và "trao lại cho
họ quyền giáo huấn của các ngài" 3.
Bởi vậy, Thánh Truyền đó cùng với Thánh Kinh Cựu và Tân Ước, là như tấm gương
mà Giáo Hội lữ thứ trên trần gian nhìn vào để chiêm ngưỡng Thiên Chúa, nơi Ngài
Giáo Hội nhận lãnh tất cả, cho đến khi được dẫn tới để nhìn thấy Ngài, diện đối
diện, như Ngài hiện thực (x. 1Gio 3,2).
8.
Thánh Truyền. 22* Vì vậy, những lời giảng dạy của các
Tông Ðồ được đặc biệt ghi lại trong các sách linh ứng, phải được bảo tồn và
liên tục lưu truyền cho đến tận thế. Do đó khi truyền lại những gì chính mình
đã lãnh nhận, các Tông Ðồ khuyến cáo tín hữu phải giữ gìn các truyền thống họ
đã học biết qua lời chỉ giáo hay bằng thư từ (x. 2Th 2,15), và phải chiến đấu để
bảo vệ đức tin chỉ được truyền dạy cho họ một lần thôi (Gđa 3) 4.
Và những điều các Tông Ðồ truyền lại bao gồm tất cả những gì góp phần vào việc
giúp Dân Thiên Chúa sống một đời thánh thiện và làm tăng triển đức tin. Như vậy,
Giáo Hội qua giáo lý, đời sống và việc thờ phượng của mình, bảo tồn và lưu truyền
cho mọi thế hệ tất cả thực chất của mình và tất cả những gì mình tin. 23*
Thánh Truyền
do các Tông Ðồ truyền lại được tiến triển trong Giáo Hội dưới sự trợ giúp của
Chúa Thánh Thần 5.
Thật vậy, các sự việc và lời nói truyền lại được hiểu biết thấu đáo hơn, nhờ sự
chiêm ngắm và học hỏi của các tín hữu, những người đã ghi nhận các điều đó
trong lòng (x. Lc 2,19 và 51); nhờ sự thông hiểu những điều thiêng liêng họ cảm
nghiệm được, hoặc nhờ việc giảng dạy của những người lãnh nhận một đoàn sủng chắc
chắn về chân lý, do việc kế vị trong chức Giám Mục. Nói cách khác, qua bao thế
kỷ Giáo Hội luôn hướng tới sự viên mãn của chân lý Thiên Chúa, cho đến khi lời
Chúa được hoàn tất nơi chính Giáo Hội. 24*
Lời các Thánh Giáo Phụ chứng thực sự có mặt sống động của Thánh Truyền.
Và sự phong phú của Thánh Truyền đã thâm nhập vào thực hành và đời sống của
Giáo Hội hằng tin tưởng và cầu nguyện. Nhờ Thánh Truyền ấy, Giáo Hội biết được
toàn bộ chính lục Thánh Kinh và cũng nhờ Thánh Truyền, Thánh Kinh được hiểu biết
thấu đáo hơn, cũng như Thánh Truyền đã làm cho Thánh Kinh không ngừng hoạt động. Như vậy Thiên Chúa, Ðấng xưa đã phán dạy,
nay vẫn không ngừng ngỏ lời với Hiền Thê của Con yêu dấu mình; và Thánh Thần, Ðấng
làm cho tiếng nói sống động của Phúc Âm vang dội trong Giáo Hội và nhờ Giáo Hội
làm vang dội trong thế giới, hướng dẫn các tín hữu nhận biết toàn thể chân lý
và làm cho lời Chúa Kitô tràn ngập lòng họ (x. Col 3,16). 25*
9.
Tương quan giữa Thánh Truyền và Thánh Kinh. Bởi vậy Thánh
Truyền và Thánh Kinh liên kết, phối hiệp mật thiết với nhau vì cả hai phát xuất
từ một nguồn mạch là Thiên Chúa, có thể nói kết hợp làm một duy nhất và cùng hướng
về một mục đích. Thực vậy, Thánh Kinh là lời Chúa nói, vì được ghi chép
lại dưới sự linh ứng của Chúa Thánh Thần; còn lời Chúa, mà Chúa Kitô và Chúa
Thánh Thần đã ủy thác cho các Tông Ðồ, thì Thánh Truyền lưu lại toàn vẹn cho những
kẻ kế vị các ngài, để nhờ Thần Chân Lý soi sáng, họ trung thành gìn giữ, trình
bày và phổ biến qua lời rao giảng. Do đó, Giáo Hội không chỉ nhờ Thánh Kinh mà biết cách xác thực
những điều mạc khải. Chính vì thế cả Thánh Kinh lẫn Thánh Truyền đều phải được
đón nhận và tôn kính bằng một tâm tình quý mến và kính trọng như nhau 6. 26*
10.
Tương quan giữa Thánh Truyền, Thánh Kinh, Dân Chúa và Huấn Quyền. Thánh Truyền và Thánh Kinh họp thành một kho tàng
thánh thiện duy nhất chứa đựng lời Thiên Chúa và được ủy thác cho Giáo Hội. Trong khi gắn bó với kho tàng ấy, toàn
thể dân thánh hiệp nhất với các chủ chăn, 27* luôn được vững bền trong giáo lý các
Tông Ðồ, trong niềm hiệp thông, trong việc bẻ bánh và lời cầu nguyện (x. CvTđ
2,42, bản Hy lạp), đến nỗi trong việc tuân giữ, thực hành và tuyên xưng đức tin
lưu truyền, các Giám Mục và tín hữu hiệp nhất với nhau cách lạ lùng 7.
///Nhiệm vụ chú giải chính thức lời Chúa đã được viết ra hay lưu truyền 8 chỉ được ủy thác cho Quyền Giáo Huấn sống
động của Giáo Hội 9,
và Giáo Hội thi hành quyền đó nhân danh Chúa Giêsu Kitô 28*. Tuy nhiên Quyền Giáo Huấn này không vượt
trên Lời Chúa, nhưng để phục vụ Lời Chúa, chỉ dạy những gì đã được truyền lại,
vì thừa lệnh Chúa và với sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội thành tâm lắng
nghe, gìn giữ cách thánh thiện và trung thành trình bày Lời Chúa. Và từ kho
tàng duy nhất ấy, Giáo Hội rút ra mọi chân lý, mà dạy phải tin là do Thiên Chúa
mạc khải.
Bởi thế, hiển
nhiên là Thánh Truyền, Thánh Kinh và Quyền Giáo Huấn
của Giáo Hội, theo ý định vô cùng khôn ngoan của Thiên Chúa, liên kết và phối
hiệp với nhau đến nỗi không thực thể nào trong ba có thể đứng vững một mình được.
Và dưới tác động của một Chúa Thánh Thần duy nhất, cả ba, theo phương cách
riêng, cùng góp phần hữu hiệu vào việc cứu rỗi các linh hồn.
-------------------------------------
Chương III
Sự Linh Ứng Của Thiên Chúa
Và Việc Chú Giải Thánh Kinh
11. Sự
linh ứng và chân lý trong Thánh Kinh. Những gì Thiên Chúa đã mạc khải Thánh Kinh chứa đựng
và trình bày, đều được viết ra dưới sự linh ứng của Chúa Thánh Thần 29*.
Thực vậy, Mẹ Giáo Hội, nhờ đức tin tông truyền, xác nhận
rằng toàn bộ sách Cựu Ước cũng như Tân Ước với tất cả các thành phần đều là
sách thánh và được ghi vào bản chính lục Thánh Kinh: bởi lẽ được viết ra dưới sự
linh ứng của Chúa Thánh Thần (x. Gio 20,31; 2Tm 3,16; 2P 1,19-21; 3,15-16) nên
tác giả của các sách ấy là chính Thiên Chúa và chúng được lưu truyền cho Giáo Hội
với tình trạng như vậy 1. Nhưng để viết các sách thánh, Thiên Chúa
đã chọn những người và dùng họ trong khả năng và phương tiện của họ 2, để khi chính Ngài hành động trong họ và
qua họ 3, họ viết ra như những tác giả đích thực tất
cả những gì Chúa muốn, và chỉ viết những điều đó thôi 4.
Vì phải xem
mọi lời các tác giả được linh ứng viết ra, tức các thánh sử, là những lời của
Chúa Thánh Thần, nên phải công nhận rằng Thánh Kinh dạy ta cách chắc chắn, trung
thành và không sai lầm, những chân lý 30* mà
Thiên Chúa đã muốn Thánh Kinh ghi lại vì phần rỗi chúng ta 5. Bởi vậy "mọi sự trong Thánh Kinh được
Thiên Chúa linh ứng có ích lợi cho việc dạy dỗ, biện luận, sửa trị và rèn luyện
trong công chính: để người của Thiên Chúa trở nên trọn hảo và sẵn sàng thực hiện
mọi việc lành" (2Tm 1, 16-17 bản Hy lạp).
///12.
Cách thức giải thích Thánh Kinh. 31* Tuy
nhiên vì trong Thánh Kinh, Thiên Chúa đã nhờ loài người và dùng cách nói của
loài người mà phán dạy6,
nên để thấy rõ điều chính Ngài muốn truyền đạt cho chúng ta, nhà chú giải Thánh
Kinh phải cẩn thận tìm hiểu điều các thánh sử thực sự có ý trình bày và điều
Thiên Chúa muốn diễn tả qua lời lẽ của họ.
Ðể tìm ra chủ
ý của thánh sử, giữa những phương pháp khác, cũng cần phải xét đến văn loại 32*.
Vì chân lý được trình bày và diễn tả qua nhiều thể văn khác nhau, như thể văn lịch
sử, tiên tri, thi phú hoặc những thể văn diễn tả khác. Hơn nữa, nhà chú giải
còn có bổn phận tìm hiểu ý nghĩa mà trong những trường hợp xác định, thánh sử
đã muốn diễn tả và thực sự đã diễn tả trong hoàn cảnh thời đại và văn hóa của họ,
qua các lối văn được dùng trong thời đó 7.
Thực vậy, để hiểu đúng ý nghĩa tác giả Thánh Kinh muốn quả quyết trong bản văn,
chúng ta phải chú tâm đúng mức đến các cách thức cảm nghĩ, diễn tả, tường thuật do bẩm sinh,
được thịnh hành trong thời của họ, cũng như phải để ý đến các hình thức mà người
thời ấy thường dùng khi giao tế với nhau 8.
Nhưng Thánh
Kinh đã được viết ra bởi Chúa Thánh Thần, nên cũng phải được đọc và chú giải
trong Chúa Thánh Thần 9.
Và để hiểu đúng ý nghĩa của sách Thánh, chúng ta cũng phải
ân cần lưu ý đến nội dung và sự thống nhất toàn bộ Thánh Kinh, dựa trên truyền
thống sống động của toàn Giáo Hội và trên sự tương hợp toàn bộ đức tin. 33* Theo các qui tắc ấy, nhà chú giải có
nhiệm vụ nỗ lực tìm hiểu và trình bày ý nghĩa Thánh Kinh cách sâu rộng hơn, hầu
sự học hỏi của họ, như một việc làm chuẩn bị, giúp phán quyết của Giáo Hội được
chính chắn. Thực vậy, mọi điều liên hệ đến việc chú giải Thánh Kinh cuối
cùng đều phải tùy thuộc vào phán quyết của Giáo Hội, vì Giáo Hội được Thiên
Chúa giao cho sứ mệnh và chức vụ gìn giữ và giải thích lời Chúa 10.
13. Sự
"hạ mình" của Ðấng Khôn Ngoan. Cho nên, trong Thánh Kinh, vừa luôn được bảo toàn sự chân
thật và thánh thiện của Thiên Chúa, vừa diễn tả sự "hạ mình" kỳ diệu
của Ðấng khôn ngoan muôn đời, "để chúng ta học biết lượng nhân từ vô biên
của Chúa, và trong sự quan phòng săn sóc đến bản tính chúng ta, Ngài đã thích ứng
lời nói của Ngài đến mức nào" 11.
Vì lời nói của Chúa diễn tả qua ngôn ngữ nhân loại, được đồng hóa với tiếng nói
loài người, cũng như xưa Lời Nói của Chúa Cha Hằng Hữu đã trở nên giống loài
người, sau khi nhận lấy sự yếu đuối của xác thịt.
----------------------------------------------
Chương IV
Cựu Ước
14. Lịch
sử cứu độ trong các sách Cựu Ước. Thiên Chúa chí ái, khi ân cần trù liệu và chuẩn bị việc cứu độ
toàn thể nhân loại theo một kế hoạch lạ lùng, Ngài đã tuyển chọn một dân tộc để
ủy thác những lời ước hẹn. Thực vậy, sau khi ký giao ước với Abraham (x. Stk
15,18) và với dân Israel qua Môisen (x. Xac 24,8) Ngài đã dùng lời nói, việc
làm mạc khải cho dân Ngài đã chọn để họ biết Ngài là Thiên Chúa độc nhất, chân
thật và hằng sống, để Israel nghiệm thấy đâu là đường lối Thiên Chúa đối xử với
loài người, và để nhờ chính Ngài phán dạy qua miệng các Tiên Tri, ngày qua
ngày, họ thấu hiểu các đường lối ấy cách sâu đậm và rõ ràng hơn, để rồi đem phổ
biến rộng rãi nơi các dân tộc (x. Tv 21,28-29; 95,1-3; Is 2,1-4; Gier 3,17). Vì
vậy chương trình cứu độ được các thánh sử tiên báo, thuật lại và giải thích
trong các sách Cựu Ước như là lời nói chân thật của Chúa. Bởi vậy các sách được
Thiên Chúa linh ứng này luôn có một giá trị vĩnh viễn: "vì những gì đã được
ghi chép là để dạy dỗ chúng ta, hầu chúng ta được hy vọng nhờ sự kiên nhẫn và
nhờ sự ủi an của Thánh Kinh." (Rm 15,4) 34*.
15. Tầm
quan trọng của Cựu Ước đối với các Kitô hữu. Lý do sự hiện hữu của chương trình cứu rỗi
thời Cựu Ước, là để chuẩn bị và tiên báo ngày xuất hiện của Chúa Kitô, Ðấng Cứu
Chuộc muôn loài (x. Lc 24,44; Gio 5,39; 1P 1,10) và ngày khai nguyên nước Thiên
Sai, đồng thời biểu thị các biến cố ấy dưới nhiều khuôn mẫu khác nhau (x. 1Cor
10,11). Thích ứng với hoàn cảnh nhân loại sống trước thời cứu độ do Chúa Kitô
thiết lập, các sách Cựu Ước trình bày cho mọi người biết Thiên
Chúa là ai và con người là ai, đồng thời trình bày Thiên Chúa công bình và nhân
từ đối xử với loài người như thế nào, tuy có nhiều khuyết điểm và tạm bợ,
nhưng các sách ấy minh chứng khoa sư phạm đích thực của Thiên Chúa 1.
Do đó, các Kitô hữu phải thành kính đón nhận các sách này, vì chúng diễn tả một
cảm thức sâu sắc về Thiên Chúa, tàng trữ những lời giáo huấn cao siêu về Ngài,
những tư tưởng khôn ngoan và hữu ích về đời sống con người, những kho tàng kinh
nghiệm tuyệt diệu, và sau cùng ẩn chứa mầu nhiệm cứu rỗi chúng ta. 35*
16. Sự
thống nhất giữa Cựu và Tân Ước. Bởi thế, Thiên Chúa Ðấng linh ứng và là tác giả các sách Cựu Ước
cũng như Tân Ước, đã khôn ngoan sắp xếp cho Tân Ước được tiềm ẩn trong Cựu Ước,
và Cựu Ước trở nên sáng tỏ trong Tân Ước 2.
Thực vậy, dù Ðức Kitô thiết lập Giao Ước Mới trong máu Ngài (x. Lc 22,20; 1Cor
11,25), nhưng các sách Cựu Ước vẫn được xử dụng trọn vẹn trong sứ điệp Phúc Âm 3,
đạt được và bày tỏ đầy đủ ý nghĩa trong Tân Ước (x. Mt 5,17; Lc 24,27; Rm
16,25-26; 2Cor 3,14-16). Ngược lại Tân Ước cũng được sáng tỏ và giải thích nhờ
Cựu Ước. 36*
--------------------------
Chương V
17. Sự
trổi vượt của Tân Ước.
Là sức thiêng cứu rỗi mọi tín hữu (x. Rm 1, 16), lời Chúa được trình bày cách
tuyệt diệu trong các sách Tân Ước, và diễn tả quyền năng của Ngài. Thực vậy,
khi đến thời viên mãn (x. Gal 4,4). Ngôi Lời đầy tràn ân sủng và chân lý đã nhập
thể và ở giữa chúng ta (Gio 1,14). Chúa Kitô đã thiết lập Nước Thiên Chúa trên
trần gian. Người mạc khải Cha Người và Chính Mình qua lời nói, việc làm và hoàn
tất công trình Người khi Người chết, sống lại, lên trời vinh hiển và khi Người
sai Chúa Thánh Thần đến. Bị treo lên khỏi đất (x. Gio 12,32, bản Hylạp), Người
kéo mọi người đến với Mình, Người là Ðấng duy nhất có những lời ban sự sống
vĩnh cửu (x. Gio 6,68). Nhưng mầu nhiệm này chưa bao giờ được tỏ cho các thế hệ
khác biết, nay đã được mạc khải trong Thánh Thần cho các Thánh Tông Ðồ Người và
cho các Tiên Tri (x. Eph 3,4-6, bản Hylạp), để họ rao giảng Phúc Âm, cổ võ lòng
tin vào Chúa Giêsu, Ðấng được xức dầu và là Chúa, để đoàn tụ Giáo Hội. Những việc
này, các sách Tân Ước đã minh chứng với một bằng chứng có giá trị vĩnh viễn và
thần linh 38*.
18.
Sách Phúc Âm bắt nguồn từ các Tông Ðồ. Mọi người đều biết rằng trong tất cả các
sách thánh, kể cả những sách Tân Ước, các sách Phúc Âm xứng đáng chiếm địa vị
ưu đẳng, vì Phúc Âm là chứng tá chính yếu về đời sống và giáo lý của Ngôi Lời
Nhập Thể, Ðấng Cứu Chuộc chúng ta.
Trong mọi thời
và khắp nơi, Giáo Hội đã và đang quả quyết rằng bốn sách Phúc Âm bắt nguồn từ
các Tông Ðồ 39*.
Thực vậy, những gì các Tông Ðồ rao giảng theo lệnh Chúa Kitô, sau này nhờ Chúa
Thánh Thần soi sáng, chính các ngài và những người sống bên các ngài viết lại
và lưu truyền cho chúng ta như nền tảng đức tin: đó là Phúc Âm trình bày dưới bốn
hình thức: theo Thánh Mattheô, Thánh Matcô, Thánh Luca và Thánh Gioan 1.///
19.
Phúc Âm có tính cách lịch sử. 40* M thánh Giáo Hội luôn luôn quả quyết lịch
sử tính của bốn Phúc Âm, cũng như đã mạnh mẽ và liên lỉ xác nhận bốn sách Phúc
Âm trung thành ghi lại những gì Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, khi sống giữa loài
người, thực sự đã làm và đã dạy vì phần rỗi đời đời của họ, cho tới ngày Người
lên trời (x. CvTđ 1,1-2). Thực vậy sau khi Chúa về trời, những gì Người đã nói,
đã làm thì các Tông Ðồ, sau khi đã được hiểu biết cách đầy đủ hơn 2 - sự hiểu biết mà chính các ngài hưởng
thụ được nhờ các biến cố vinh hiển của Chúa Kitô và ánh sáng của Thần Chân Lý 3 - các ngài đã truyền lại cho những ai
nghe các ngài. Phần các thánh sử đã viết bốn Phúc Âm: các ngài chọn một ít
trong số chất liệu được truyền lại bằng miệng hay bằng sách vở, tóm tắt một số
khác hay tùy hoàn cảnh của các Giáo Hội mà giải thích thêm, nhưng vẫn giữ hình
thức của bài giảng thuyết và như vậy để luôn chân thành truyền đạt cho chúng ta
những điều chân thật về Chúa Giêsu 4.
Thực vậy, dựa trên trí nhớ hay kỷ niệm riêng tư, hoặc dựa trên chứng tá của những
người "đã chứng kiến từ buổi đầu và trở nên thừa tác viên của lời
Chúa", các thánh sử đã viết các sách Phúc Âm với mục đích giúp chúng ta nhận
biết rằng các lời mà chúng ta đã nghe dạy dỗ đều là "chân thật" (x.
Lc 1,2-4).
20. Các
sách khác của Tân Ước.
Ngoài bốn Phúc Âm, danh sách Tân Ước còn ghi lại các thư Thánh Phaolô và những
bút tích khác của các Tông Ðồ đã được viết dưới sự linh ứng của Chúa Thánh Thần.
Các bút tích này, theo ý định khôn ngoan của Thiên Chúa chứng thực những gì đã
được nói về Chúa Kitô, trình bày giáo lý đích thực của Người ngày một rõ ràng
hơn, rao truyền sức mạnh cứu độ của công trình thần linh của Chúa Kitô, và kể lại
những bước đầu, sự bành trướng kỳ diệu cùng tiên báo sự kết thúc vinh hiển của
Giáo Hội. 41*
Thực vậy,
Chúa Giêsu đã hiện diện bên các Tông Ðồ như Người đã hứa (x. Mt 28,20) và đã
sai Thánh Thần An Ủi đến để dẫn dắt họ đến sự viên mãn của Chân Lý (x. Gio
16,13).
---------------------
Chương VI
21. Tầm quan trọng của Thánh Kinh đối với Giáo Hội. 43* Giáo Hội luôn tôn kính Thánh Kinh như
chính Thân Thể Chúa, nhất là trong Phụng Vụ Thánh, Giáo Hội không ngừng lấy
bánh ban sự sống từ bàn tiệc Lời Chúa cũng như từ bàn tiệc Mình Chúa Kitô để
ban phát cho các tín hữu. Cùng với Thánh Truyền, Thánh Kinh đã và đang được
Giáo Hội xem như là quy luật tối cao hướng dẫn đức tin, được Thiên Chúa linh ứng
và đã được ghi chép một lần cho muôn đời, Thánh Kinh phân phát cách bất di bất
dịch lời của chính Chúa và làm vang dội tiếng nói của Chúa Thánh Thần qua các
Tiên Tri cùng với các Tông Ðồ. Bởi vậy, mọi lời giảng dạy trong Giáo Hội cũng
như chính đạo thánh Chúa Kitô phải được Thánh Kinh nuôi dưỡng và hướng dẫn. Thực
thế, trong các sách thánh, Chúa Cha trên trời bằng tất cả lòng trìu mến đến gặp
gỡ con cái mình và ngỏ lời với họ. Lời Chúa còn có một sức mạnh và quyền năng
có thể nâng đỡ và tăng cường Giáo Hội, ban sức mạnh đức tin cho con cái Giáo Hội,
là lương thực linh hồn, nguồn sống thiêng liêng, tinh tuyền và trường cửu cho
con cái Giáo Hội. Bởi thế, lời nói sau đây thật xứng hợp cho Thánh Kinh:
"Thực vậy, lời Thiên Chúa sống động và linh nghiệm" (Dth 4,12).
"có khả năng gây dựng và ban gia tài cho mọi người đã được thánh hóa"
(CvTđ 20,32; x. 1Th 2, 13).
22. Cần
có bản văn và bản dịch. 44* Phải mở rộng lối vào Thánh Kinh cho
các Kitô hữu. Chính vì thế mà từ buổi đầu, Giáo Hội đã công nhận như của riêng
mình bản dịch Cựu Ước bằng tiếng Hy lạp, một bản văn rất cổ và được gọi là bản
dịch do bảy mươi người. Ngoài ra Giáo Hội còn luôn tôn trọng các bản dịch của
Ðông Phương hay các bản dịch Latinh, nhất là bản thường gọi là bản "Phổ
Thông". Vì phải đem lời Chúa đến cho mọi thời đại, Giáo Hội như một người
m ân cần lo liệu cho các sách thánh được dịch ra các thứ tiếng cách thích hợp
và đứng đắn, đặc biệt dịch từ nguyên bản. Mọi Kitô hữu có thể xử dụng những bản
dịch được thực hiện chung với cả những anh em ly khai trong trường hợp thuận tiện
và được giáo quyền chấp thuận.
23. Nhiệm
vụ tông đồ của các nhà Thánh Kinh học. 45* Hiền thê của Ngôi Lời nhập thể, tức
Giáo Hội, được Chúa Thánh Thần dạy dỗ, hằng cố gắng hiểu biết Thánh Kinh ngày
càng sâu rộng hơn, hầu không ngừng lấy lời Chúa nuôi dưỡng con cái mình. Do đó,
Giáo Hội có lý khi khuyến khích việc học hỏi các thánh Giáo Phụ Ðông Phương và
Tây Phương cũng như các Phụng Vụ thánh. Phần các nhà chú giải Thánh Kinh công
giáo và những người chuyên về Thần Học Thánh phải ân cần lo lắng, dưới sự trông
nom của Quyền Giáo Huấn Thánh, và dùng những phương thế thích hợp, để nghiên cứu
và trình bày Thánh Kinh, để cung ứng nhiều thừa tác viên lời Chúa hết sức có thể,
hầu lương thực Thánh Kinh được dồi dào ban bố cho dân Chúa, để soi sáng trí
khôn, kiên trì ý chí và nung đốt lòng người yêu Chúa 1.
Thánh Công Ðồng khuyến khích các con cái Giáo Hội đang chuyên cần học hỏi những
khoa học Thánh Kinh, hãy tiếp tục theo đuổi công trình đã khởi sự cách tốt đẹp
với những năng lực ngày được đổi mới, và tất cả hăng say hợp với cảm thức của
Giáo Hội 2.
24. Tầm
quan trọng của Thánh Kinh đối với thần học. 46* Khoa Thần Học dựa trên Thánh Kinh và
Thánh Truyền như dựa vào một nền tảng vĩnh viễn. Trên nền tảng này, thần học được
củng cố hết sức chắc chắn và mãi mãi được trẻ trung trong khi tìm kiếm, dưới
ánh sáng đức tin, mọi chân lý tiềm ẩn trong mầu nhiệm Chúa Kitô. Thánh Kinh chứa
đựng lời Chúa và thực sự là lời của Chúa, vì được linh ứng. Nên nghiên cứu
Thánh Kinh phải là linh hồn của Khoa Thần Học Thánh 3.
Thừa tác vụ lời Chúa - nghĩa là việc rao giảng thuộc mục vụ, dạy giáo lý và huấn
dụ Kitô giáo, trong đó bài giảng phụng vụ phải chiếm một chỗ quan trọng - phải
được nuôi dưỡng cách an lành và gia tăng sinh lực cách thánh thiện, nhờ lời
Thánh Kinh.
25.
Khuyên nhủ năng học hỏi và đọc Thánh Kinh. 47* Vì thế, tất cả các giáo sĩ, trước hết
là các linh mục của Chúa Kitô và những người có bổn phận phục vụ lời Chúa, như
các phó tế và những người dạy giáo lý, phải gắn bó với Thánh Kinh nhờ việc chăm
đọc và ân cần học hỏi, để khi họ phải truyền đạt kho tàng bao la của lời Chúa,
nhất là trong phụng vụ thánh, cho các giáo hữu được ủy thác cho họ, không ai
trong họ sẽ trở thành "kẻ huênh hoang rao giảng lời Thiên Chúa ngoài môi
miệng bởi không lắng nghe lời Thiên Chúa trong lòng" 4.
Thánh Công Ðồng cũng tha thiết và đặc biệt khuyến khích mọi Kitô hữu, cách
riêng các tu sĩ hay năng đọc Thánh Kinh để học biết "khoa học siêu việt của
Chúa Giêsu Kitô" (Ph 3,8). "Vì không biết Thánh Kinh là không biết
Chúa Kitô" 5.
Vậy ước gì họ hăng hái tiếp xúc với chính bản văn Thánh Kinh, nhờ Phụng Vụ
Thánh dồi dào lời Thiên Chúa, hoặc nhờ sốt sắng đọc Thánh Kinh hay nhờ những tổ
chức học hỏi thích hợp, hoặc bất cứ phương thế nào mà ngày nay đã được các Chủ
Chăn trong Giáo Hội chấp thuận và ân cần phổ biến khắp nơi. Nhưng mọi người
cũng nên nhớ rằng kinh nguyện phải đi đôi với việc đọc Thánh Kinh, để có sự đối
thoại giữa Thiên Chúa và con người, vì "chúng ta ngỏ lời với Ngài khi cầu
nguyện, và chúng ta nghe Ngài nói lúc chúng ta đọc các sâm ngôn thần linh" 6.
Các Giám Mục
là những người "gìn giữ giáo lý tông truyền" 7 có phận sự tùy nghi dạy các tín hữu đã
được ủy thác cho các ngài, cho biết xử dụng đúng đắn sách thánh, nhất là Tân Ước
và trước tiên các sách Phúc Âm, nhờ các bản dịch, và các bản dịch này phải được
kèm theo những lời giải thích cần thiết và đầy đủ, để con cái Giáo Hội có thể xử
dụng Thánh Kinh cách bảo đảm và ích lợi, và được thấm nhuần tinh thần Thánh
Kinh.
Hơn nữa,
cũng cần thực hiện những ấn bản Thánh Kinh với lời chú giải thích hợp cho cả những
người ngoài Kitô giáo và thích hợp với hoàn cảnh của họ. Các vị Chủ Chăn linh hồn
cũng như các Kitô hữu, dù trong bậc sống nào, cũng phải ân cần lo lắng phổ biến
các ấn bản ấy.
26. Kết
luận. 48* Vì thế, ước gì nhờ việc đọc và học hỏi
sách thánh, "Lời Thiên Chúa được trôi chảy và sáng sủa" (2Th 3,1), và
ước gì kho tàng Mạc Khải, đã được ủy thác cho Giáo Hội, ngày một tràn ngập tâm
hồn con người. Nếu đời sống Giáo Hội được tăng triển nhờ năng nhận lãnh Bí Tích
Thánh Thể, cũng thế, cũng có thể hy vọng đời sống thiêng liêng được đổi mới nhờ
thêm lòng sùng kính lời Chúa, là lời "hằng tồn tại muôn đời" (Is
40,8; 1P 1,23-25).
Tất cả và từng
điều đã được ban bố trong Hiến Chế tín lý này đều được các Nghị Phụ Thánh Công
Ðồng chấp thuận. Và, dùng quyền Tông Ðồ Chúa Kitô trao ban, hiệp cùng các Nghị
Phụ khả kính, trong Chúa Thánh Thần, Chúng Tôi phê chuẩn, chế định và quyết nghị,
và những gì đã được Thánh Công Ðồng quyết nghị, Chúng Tôi truyền công bố cho
Danh Chúa cả sáng.
Roma, tại Ðền
Thánh Phêrô, ngày 18 tháng 11 năm 1965
Tôi, Phaolô
Giám Mục Giáo Hội Công Giáo.
Tiếp theo là
chữ ký của các Nghị Phụ.
------------------------
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét