Thứ Sáu sau Chúa Nhật 28 Quanh Năm
Bài Ðọc I: (Năm
II) Ep 1, 11-14
"Chúng tôi trước kia
đã trông cậy vào Ðức Kitô, và anh em được ghi dấu Thánh Thần".
Trích thư Thánh Phaolô tông
đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Anh em thân mến, trong Ðức
Kitô, chúng tôi được kêu gọi làm thừa tự, và anh em (là con cái Israel) cũng
được tiền định theo ý định của Ngài là Ðấng tác thành mọi sự theo thánh ý Ngài,
để chúng tôi trở thành lời ca vinh quang của Ngài, chúng tôi là những kẻ trước
kia đã trông cậy vào Ðức Kitô. Trong Người, cả anh em nữa, sau khi anh em đã
nghe lời chân thật là Tin Mừng cứu rỗi anh em, anh em đã tin và được ghi dấu
Thánh Thần, như đã hứa. Người là bảo chứng phần gia nghiệp chúng ta, để chúng
ta được ơn cứu chuộc, được ca ngợi vinh quang Ngài.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 32, 1-2. 4-5.
12-13
Ðáp: Phúc thay dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình!
(c. 12b).
Xướng: 1) Người hiền đức, hãy
hân hoan trong Chúa! Ca ngợi là việc của những kẻ lòng ngay. Hãy ngợi khen Chúa
với cây đàn cầm, với đàn mười dây, hãy xướng ca mừng Chúa. - Ðáp.
2) Vì lời Chúa là lời chân
chính, bao việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu chuộng điều công minh chính
trực; địa cầu đầy ân sủng của Chúa. - Ðáp.
3) Phúc thay quốc gia mà Chúa
là chúa tể, dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình. Từ trời cao Chúa
nhìn xuống, Người xem thấy hết thảy con cái người ta. - Ðáp.
*
* *
Alleluia: Dt 4, 12
Alleluia, alleluia! - Lời
Thiên Chúa là lời hằng sống, linh nghiệm, phân rẽ tư tưởng và ý muốn của tâm
hồn. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 12, 1-7
"Mọi sợi tóc trên đều
các con cũng đã được đếm cả rồi".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Luca.
Khi ấy, có nhiều đám đông dân
chúng đứng chung quanh, đến nỗi chen đạp lẫn nhau, nên Chúa Giêsu bắt đầu dạy
các môn đệ trước tiên rằng: "Các con hãy ý tứ giữ mình khỏi men biệt phái,
nghĩa là sự giả hình. Không có gì che đậy mà không bị tiết lộ ra, và không có
gì giấu kín mà chẳng biết được. Vì vậy, những điều các con nói trong nơi tối
tăm, sẽ được nói ra nơi sáng sủa, và điều các con nói rỉ tai trong buồng kín,
sẽ được rao giảng trên mái nhà.
"Thầy bảo các con là
những bạn hữu của Thầy rằng: Các con đừng sợ chi những kẻ giết được thân xác,
rồi sau đó không thể làm gì hơn được nữa. Thầy sẽ chỉ cho các con biết phải sợ
ai: Hãy sợ Ðấng, sau khi đã giết chết, còn có quyền ném vào địa ngục. Phải,
Thầy bảo các con hãy sợ Ðấng ấy.
"Chớ thì năm con chim sẻ
không bán được hai đồng tiền sao? Thế mà không một con nào bị bỏ quên trước mặt
Thiên Chúa. Hơn nữa, mọi sợi tóc trên đầu các con cũng đã được đếm cả rồi. Vậy
các con đừng sợ: các con còn trọng hơn nhiều con chim sẻ".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm:
Bài Phúc Âm hôm nay là bài
học gồm những lời chỉ dạy của Ðức Giêsu cho các môn đệ của Ngài.
Bài học được bắt đầu với lời
cảnh cáo về sự giả hình, dối trá, nơi những biệt phái và thông luật. Nhưng nó
cũng không loại trừ đâm rễ nơi những ai không hết lòng cảnh giác. Còn người môn
đệ phải rao loan Tin Mừng cho mọi nơi, nhưng với một thái độ yêu thương, khiêm
nhường. Và cuối cùng là lời an ủi, khuyến khích của Ðức Giêsu để làm cho các
môn đệ của Ngài luôn can đảm, tín thác.
Cầu Nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là
Ðường, là sự Thật. Chúng con, người môn đệ của Chúa cũng phải luôn đi trong sự
thật. Thành thật trong tâm hồn, thành thật trong lời nói và thành thật trong
hành động của chúng con. Chính cách sống chân thành của chúng con là một lời
loan báo về Chân Lý là chính Chúa. Ðể sống theo sự thật, chắc chắn chúng con sẽ
phải trả giá. Nhưng chúng con tin tưởng Chúa luôn đồng hành và trợ giúp chúng
con. Amen.
(Lời Chúa trong giờ kinh gia đình)
Các Con Ðừng Sợ
(Lc 12,1-7)
Suy Niệm:
Các Con Ðừng Sợ
Thánh Justinô là một triết
gia nổi tiếng của Kitô giáo vào thế kỷ thứ 2; ngài đã bị bắt giam tại Rôma cùng
với một số Kitô hữu khác, vì tội tuyên truyền tôn giáo trong trường học do ngài
điều khiển. Ra trước tòa, khi được hỏi về hành động của mình, thánh nhân dõng
dạc tuyên bố:
- Suốt đời tôi, tôi đã đi tìm
kiếm chân lý; tôi đã nghiên cứu sâu xa các triết lý Ðông Phương, Hy Lạp và
Rôma; thế nhưng cuối cùng tôi đã tìm được giáo thuyết chân thật.
Quan tòa liền hỏi giáo thuyết
chân thật đó là gì ? Thánh nhân giải thích:
- Thưa là giáo thuyết của
Chúa Giêsu Nazaret, giáo thuyết này nhằm giải phóng chúng ta khỏi các ngẫu
tượng và dạy chúng ta thờ phượng một Thiên Chúa độc nhất, hằng sống và chân
thật, là Ðấng tạo thành trời đất, là Ðấng cứu rỗi nhân loại.
Quan tòa lại hỏi:
- Vậy ông là một Kitô hữu ư?
Thánh nhân liền tuyên xưng:
- Phải, tôi là một Kitô hữu
và tôi lấy làm vinh dự được làm Kitô hữu cùng với các bạn tôi đây.
Quan tòa ra lệnh cho thánh
nhân và các bạn của ngài phải tế thần, thánh nhân trả lời một cách cương quyết:
- Chúng tôi không tôn thờ
ngẫu tượng, nhưng điều đó không có nghĩa là chúng tôi là những người vô thần.
Chúng tôi thờ lạy một Thiên Chúa thiêng liêng, Cha của Chúa Giêsu. Một người có
đầu óc lành mạnh không thể từ bỏ tôn giáo chân thật để chạy theo một tôn giáo
giả.
Thấy không thể thuyết phục
được thánh nhân bỏ đạo, quan tòa ra lệnh đánh đòn rồi xử trảm thánh nhân và các
bạn.
Ðứng trước cái chết, ai cũng
run sợ. Chúa Giêsu đã không thoát khỏi tâm trạng ấy: Ngài run sợ đến toát mồ
hôi máu. Vậy đâu là sức mạnh giúp Chúa Giêsu thắng vượt sự sợ hãi ấy? Thưa,
chính là sự kết hiệp với Chúa Cha. Niềm tín thác vào sự hiện diện và tình yêu
của Chúa Cha đã giúp Chúa Giêsu thắng vượt mọi thử thách và yếu hèn trong thân
phận làm người.
Ðó cũng là bí quyết của tất
cả các thánh tử đạo. Sách Công vụ Tông Ðồ kể lại đầy đủ chi tiết cái chết của
vị tử đạo tiên khởi là thánh Stêphanô. Thánh nhân cũng phải trải qua những giây
phút kinh hãi như chính Chúa Giêsu; nhưng sách Công vụ Tông đồ mô tả thái độ
của ngài như sau: "Ngài được đầy Thánh Thần, đăm đăm nhìn trời cao thấy
vinh quang của Thiên Chúa và thấy Chúa Giêsu đứng bên hữu Thiên Chúa". Chỉ
bằng một ánh mắt luôn hướng về trời cao như thế, con người mới có thể lướt qua
thử thách và sợ hãi. Thánh Justinô đã có được sự bình thản trước cái chết, bởi
vì ngài luôn tin tưởng vào Thiên Chúa hằng sống và chân thật.
Nhìn lại cung cách của một số
vị tử đạo, chúng ta có được sức mạnh của Lời Chúa trong đời sống con người. Sứ
điệp Tin Mừng hôm nay tập trung vào hai chữ: "Ðừng sợ" được Chúa
Giêsu lặp lại nhiều lần. Ðây chính là một mệnh lệnh của Chúa Giêsu chạy xuyên
suốt toàn bộ Tin Mừng. Trong biến cố Truyền tin, thiên sứ đã nói với Ðức Maria:
"Ðừng sợ". Khi Chúa Giêsu sinh ra, các thiên sứ đã loan báo tin vui
bằng lời trấn an các mục đồng: "Ðừng sợ". Ðây là công thức sẽ được
Chúa Giêsu lặp lại nhiều lần với các môn đệ, và cao điểm là lúc Ngài tuyên bố:
"Các con đừng sợ, vì Thầy đã thắng thế gian".
Khi được bầu làm Giáo Hoàng,
trong diễn văn đầu tiên tại quảng trường thánh Phêrô, Ðức Gioan Phaolô II đã
dõng dạc tuyên bố: "Ðừng sợ, hãy mở rộng cửa cho Chúa Kitô". Thật
thế, khi con người mở rộng cửa cho Chúa Kitô, khi con người để Chúa Kitô sinh
động trong tâm hồn, khi con người chỉ sống bằng sự sống của Chúa Kitô, thì lúc
đó con người sẽ lướt thắng được mọi sợ hãi, và chỉ lúc đó, con người mới có thể
lên tiếng công bố Lời Chúa cho mọi người.
Nguyện xin sức sống của Chúa
Kitô tràn ngập tâm hồn chúng ta, để cả cuộc đời chúng ta trở thành lời ca tụng
Chúa trước mặt mọi người.
(Veritas Asia)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Sáu Tuần 28 TN2
Bài đọc: Eph 1:11-14; Lk
12:1-7.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Tin
vào sự Quan Phòng của Thiên Chúa
Trong
cuộc sống, chúng ta rất hoang mang sợ hãi và không dám hành động nếu chúng ta
không biết những gì sẽ xảy đến trong tương lai. Nhưng nếu biết trước những gì
sẽ xảy ra, chúng ta sẽ không sợ hãi và tự tin hơn để tiến tới. Ví dụ: nền kinh
tế của thế giới ngày nay. Trong cuộc đời của con người cũng vậy, nếu không biết
đích điểm cuộc đời và những gì sẽ xảy ra sau khi chết, con người sẽ dễ dàng
hoang mang và sợ đủ mọi thứ; nhưng nếu biết đích điểm cuộc đời và những gì xảy
ra sau khi chết, con người sẽ không còn hoang mang sợ hãi và sẵn sàng chấp nhận
những gì xảy đến trong cuộc đời ngay cả chấp nhận cái chết. Các Bài đọc hôm nay
chỉ cho chúng ta thấy sự Quan Phòng và Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa, để giúp
chúng ta luôn tin tưởng nơi Thiên Chúa và biết cách hành động khi phải đương
đầu với những thử thách của cuộc đời.
KHAI
TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài
đọc I: Tin vào
Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa
Đọan
văn chúng ta đang nghiên cứu vẫn thuộc Bài Thánh Ca chúng ta đã phân tích hôm
qua (Eph 1:1-14). Vài điểm cần lưu ý khi chúng ta đọc đọan văn này: khi dùng
chủ từ “chúng tôi,” Thánh Phaolô có ý ám chỉ người Do-Thái; khi dùng chủ từ
“anh em,” thánh nhân muốn ám chỉ các tín hữu Dân Ngọai. Điểm chính trong đọan
văn hôm nay là thánh Phaolô muốn chỉ cho mọi người thấy: trong Kế Họach Cứu Độ
của Thiên Chúa, Ngài không chọn tất cả mọi người một lúc, nhưng chọn người
Do-Thái trước. Sau đó, Thiên Chúa mở rộng Kế Họach Cứu Độ đến tất cả mọi dân
mọi nước.
1.1/
Thiên Chúa chọn người Do-Thái đầu tiên: Kinh nghiệm cho thấy hầu hết
mọi kế họach, nếu muốn thành công, phải bắt đầu từ một số nhỏ, rồi mới lan rộng
từ từ đến số lớn hơn. Lý do là vì huấn luyện số nhỏ dễ dàng hơn là huấn luyện
đám đông; và số nhỏ này, sau khi được huấn luyện, sẽ trở thành những cán bộ
nòng cốt giúp cho việc phát triển được dễ dàng hơn. Thiên Chúa cũng thế, Ngài
đã chọn người Do-Thái làm cơ nghiệp riêng theo kế hoạch của Người. Ngài đã huấn
luyện và chuẩn bị cho họ là những người đầu tiên đặt hy vọng vào Đức Kitô. Tất
cả các Tông Đồ và môn đệ của Chúa Giêsu đều là người Do-Thái.
1.2/
Thiên Chúa mở rộng sự lựa chọn đến các Dân Ngọai: Sau khi Chúa Giêsu đã
chọn và huấn luyện họ, Ngài sai họ đi đến với các người Do-Thái khác và với các
Dân Ngọai. Bổn phận của các Tông Đồ và các môn đệ là làm cho muôn dân nhận biết
Thiên Chúa và Kế Họach Cứu Độ của Ngài qua 2 việc:
(1)
Qua việc rao giảng Tin Mừng: Đây là cách duy nhất giúp cho muôn dân
nhận biết Chúa. Tất cả những gì Thiên Chúa muốn nói với con người đã được Đức
Kitô mặc khải cho các môn đệ của Ngài. Giờ đây họ truyền lại cho Dân Ngọai tất
cả những gì họ đã học được nơi Đức Kitô như lời Thánh Phaolô loan báo: “Trong
Đức Ki-tô, cả anh em nữa, anh em đã được nghe lời chân lý là Tin Mừng cứu độ
anh em.”
(2)
Qua việc đóng ấn Thánh Thần: Sau khi đã nghe và học biết về Thiên Chúa
và về Kế Họach Cứu Độ của Ngài, Dân Ngọai có tự do chọn lựa để tin hay không
tin. Nếu họ tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa và vào Đức Kitô, họ được đóng ấn
Thánh Thần qua Phép Rửa Tội và chính thức trở thành nghĩa tử của Thiên Chúa. Ấn
tín Thánh Thần chứng minh 2 điều: Chúa muốn con người tin nơi Ngài và con người
có thể làm được với sự trợ giúp của Thánh Thần (Không ai có thể tuyên xưng Đức
Kitô là Thiên Chúa mà không do Thánh Thần thúc đẩy).
Một khi
đã tuyên xưng đức tin vào Đức Kitô và được đóng Ấn Tín Thánh Thần, con người
được bảo đảm để hưởng mọi đặc ân và gia nghiệp của Thiên Chúa. Thánh Phaolô
nói: “Thánh Thần như bảo chứng (arrabon) phần gia nghiệp của chúng ta, chờ ngày
dân riêng của Thiên Chúa được cứu chuộc.” Bảo chứng này giống như món tiền cọc
đặt khi đi mua nhà; một khi đã đặt tiền cọc, căn nhà đó thuộc quyền sở hữu của
người mua dù chưa trả hết tiền.
2/ Phúc
Âm: Tin vào
sự Quan Phòng của Thiên Chúa
2.1/
Tránh cuộc sống gỉa hình như các Kinh-sư: Mặc dù các Kinh-sư là những
người hiểu biết và tuyên xưng đức tin của họ nơi Thiên Chúa, nhưng cuộc sống
giả hình của họ đã không chứng minh sự hiểu biết và niềm tin của họ vào Ngài.
Nếu họ hiểu biết Thiên Chúa là Đấng thấu suốt mọi sự thì làm sao họ có thể giấu
Ngài lối sống gỉa hình của họ. Vì thế, Chúa Giêsu dặn các môn đệ phải đề phòng:
“Anh em phải coi chừng men Pharisêu, tức là thói đạo đức giả. Không có gì che
giấu mà sẽ không bị lộ ra, không có gì bí mật mà người ta sẽ không biết. Vì
thế, tất cả những gì anh em nói lúc đêm hôm, sẽ được nghe giữa ban ngày; và
điều anh em rỉ tai trong buồng kín, sẽ được công bố trên mái nhà.”
2.2/
Đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác: Khuynh hướng của con người là
ham sống và sợ chết; nhưng nếu con người hiểu những gì sẽ xảy ra sau khi chết,
con người sẽ dễ dàng chấp nhận cái chết hơn. Chúa Giêsu dạy cho các môn đệ biết
những điều này: “Thầy nói cho anh em là bạn hữu của Thầy được biết: Anh em đừng
sợ những kẻ giết thân xác, mà sau đó không làm gì hơn được nữa. Thầy sẽ chỉ cho
anh em biết phải sợ ai: hãy sợ Đấng đã giết rồi, lại có quyền ném vào hoả ngục.
Thật vậy, Thầy nói cho anh em biết: anh em hãy sợ Đấng ấy.” Vì thế, nếu phải
chấp nhận cái chết để làm chứng cho Chúa, thì con người cũng phải làm vì biết
họ sẽ nhận lại cuộc sống trong Vương Quốc đời sau.
2.3/ Tin
vào sự Quan Phòng của Thiên Chúa: Ngòai cái chết, con người còn
lo sợ về những nhu cầu sinh sống hay bệnh tật. Chúa Giêsu dạy các môn đệ cũng
phải vứt đi những lo sợ này và tin tưởng hòan tòan nơi tình yêu và sự quan
phòng của Thiên Chúa. Ngài bảo các ông: “Năm con chim sẻ chỉ bán được hai hào,
phải không? Thế mà không một con nào bị bỏ quên trước mặt Thiên Chúa. Ngay đến
tóc trên đầu anh em cũng được đếm cả rồi. Anh em đừng sợ, anh em còn quý giá
hơn muôn vàn chim sẻ.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Không
hiểu biết, thiếu hiểu biết, hay hiểu biết sai là những nguyên nhân làm cho đức
tin con người lung lạc và hay lo sợ viển vông. Chúng ta cần học hỏi để hiểu
biết sự Quan Phòng và Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa.
- Có
những điều xảy ra trong cuộc đời trong sự Quan Phòng của Thiên Chúa, nhưng
ngòai sự kiểm sóat của con người: bệnh tật, già yếu, sự chết… Con người có lo
sợ cũng chẳng thóat khỏi, chi bằng phó thác hòan tòan vào tình yêu Thiên Chúa
và Kế Họach Cứu Độ của Ngài.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
****************
Thứ Sáu tuần 28 thường niên
Sứ điệp: Chúng ta có những nỗi băn khoăn lo lắng cho ngày hôm nay, và
cũng có những âu lo sợ hãi cho ngày mai, Thiên Chúa biết rõ tất cả. Ngài sẽ trợ
giúp chúng ta vượt qua những trở ngại ấy.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, trước mặt
Chúa, con không phải chỉ là con số vô danh, mất hút trong số sáu tỷ người trên
thế giới, nhưng con là một cá nhân riêng biệt, được Chúa biết đến, được Chúa
quan tâm và yêu thương vô vàn. Điều này làm con an tâm cho số phận mình và luôn
tin tưởng phó thác nơi lòng thương yêu quan phòng của Chúa. Chúa chăm sóc cả
đến những tạo vật nhỏ bé nhất. Chúa nhớ đến những con chim bé bỏng. Chúa quan
tâm đến những vật rất tầm thường. Chúa để ý đến mọi sự…, huống chi là con. Lạy
Chúa, con xin cảm tạ lòng thương vô biên Chúa.
Lạy Chúa, với lòng tin tưởng ấy, con hoàn
toàn phó thác nơi Chúa cuộc đời con. Bởi vì khi sống điều Chúa dạy, con
sẽ phải đối diện với bao thử thách, con sẽ gặp những khó khăn từ chính bản thân
mình. Những vui buồn sướng khổ có thể dẫn con lạc hướng. Con cũng gặp những đe
dọa từ phía những người khác. Con bị cản ngăn sống Lời Chúa, con bị chê cười
khi thực hiện điều Chúa dạy. Nhưng Chúa ơi, con luôn đặt mình trước mặt Chúa để
chỉ sống theo ý Chúa mà thôi. Con không sợ những đe dọa kia, con cũng không sợ
người khác, nhưng con chỉ kính sợ một mình Chúa là Đấng xét xử con.
Lạy Chúa, con tin rằng Chúa thương yêu con cách
riêng tư. Xin Chúa giúp con can đảm thực hành điều Chúa dạy như một đáp trả
tình thương ấy. Amen.
Ghi nhớ :"Mọi sợi tóc trên
đều các con cũng đã được đếm cả rồi".
19/10/12 THỨ SÁU TUẦN 28 TN
Th. Phaolô Thánh giá, linh mục
Lc 12,1-7
Th. Phaolô Thánh giá, linh mục
Lc 12,1-7
KHÔNG THỂ CHE GIẤU!
“Không có gì che giấu
mà không bị lộ ra.” (Lc 12,2)
Suy niệm: Khi nhắc đến Chân phước Giáo hoàng Gioan Phaolô II, nhiều
người sẽ nhớ câu nói của ngài:“Đừng sợ!” Ngài đã lặp lại lời của Chúa Giêsu để
củng cố đức tin, nung nấu niềm hy vọng cho các Kito hữu. Thế nhưng, bản tính
yếu nhược của chúng ta là vẫn cứ sợ. Chúa Giêsu đến giải thoát chúng ta khỏi
nỗi sợ này. Ngài nói với chúng ta: “Đừng
sợ” sống theo Lời Chúa thì đi
ngược dòng đời, đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác! “Đừng sợ” vì Thiên Chúa, Đấng có toàn quyền trên
xác hồn của ta, lại là Cha nhân hậu, yêu thương săn sóc quan phòng. Nhỏ bé,
không có giá trị gì như chim sẻ còn được Chúa chăm sóc, huống chi con người.
Ngay cả bao nhiêu sợi tóc của con người cũng được Ngài đếm cả rồi!
Mời Bạn: “Không có gì che giấu mà không bị lộ ra.” Bạn có tin lời đó của Chúa Giêsu không? Một việc sai trái,
bạn có thể che giấu trước mặt mọi người, nhưng có một người biết rõ bạn, đó là
Chúa. Chúa biết mọi sự, nhưng cách sửa lỗi của Chúa là dùng lời của Ngài mời
gọi chúng ta đến với chân lý, yêu chuộng lẽ phải, thuộc về sự thật. Bạn có dám
“liều mình” một lần nói hết những nỗi sợ cho Chúa không?
Chia sẻ: Những thiệt hại nào xảy đến với tôi, khi tôi sống trong sợ
hãi?
Sống Lời Chúa: Một trong những cách giải thoát chúng ta khỏi sợ hãi là nói
sự thật về mình với Chúa nơi tòa giải tội.
Cầu nguyện: Lạy Chúa! người ta đã tìm cách giết hại người rao giảng Lời
Chúa, nhưng Lời ấy hôm nay vẫn đến được với chúng con. Quả thật, không có gì
che giấu mà không bị lộ ra. Xin cho chúng con mạnh dạn sống theo Lời Chúa dạy,
để không còn sợ hãi. Amen.
Môn đệ và bạn hữu
Thầy
Giêsu còn khuyên các môn đệ đừng sợ... Phải sợ chính Thiên Chúa, Đấng có quyền
ném anh em vào hỏa ngục. Các vị tử đạo đều tin, hiểu và sống các câu Tin Mừng
này.
Suy niệm:
Trước một đám đông kinh khủng chen lấn để đến
gần Ngài,
Thầy Giêsu vẫn muốn ngỏ lời trước hết với các
môn đệ dấu yêu.
Lần duy nhất trong Tin Mừng Nhất lãm, Thầy gọi
họ là bạn hữu (c. 4).
Thầy dặn dò họ cảnh giác kẻo lây nhiễm men của
người Pharisêu,
đó là thái độ đạo đức giả (c. 1).
Thái độ này luôn bao hàm một che giấu nào đó về
sự thật,
khiến người nhìn bên ngoài dễ bị đánh lừa bởi
những mặt nạ đạo đức.
Việc che giấu khéo léo này có thể xuôi chèo mát
mái một thời gian.
Nhưng đối với Thầy Giêsu, nó không thể kéo dài mãi.
Sớm muộn gì sự thật cũng sẽ lộ diện, như chiếc
kim trong bọc thò ra.
“Không có gì che giấu mà sẽ không bị lộ ra,
không có gì bí mật mà sẽ không bị người ta
biết” (c. 2).
Nếu con người mãi mãi không biết, thì Thiên
Chúa vẫn biết.
Chúng ta có thể tránh được máy kiểm tra nói dối
của người đời,
nhưng không tránh được cái nhìn xuyên thấu tâm
can của Thiên Chúa.
“Tất cả những gì anh em nói lúc đêm hôm, sẽ
được nghe giữa ban ngày;
điều anh em rỉ tai trong buồng kín, sẽ được
công bố trên mái nhà” (c. 3).
Như thế điều tưởng như không thể lọt ra ngoài,
điều kín như bưng,
vẫn có thể bị đưa ra ánh sáng,
mặt nạ bị rơi xuống, và bản chất thật của con
người được vén mở.
Đây là một lời đe dọa, hay đúng hơn, một lời
khuyên hãy sống thực lòng.
Thầy Giêsu còn khuyên các môn đệ đừng sợ.
Chuyện bị bách hại và sát hại là chuyện có thể
xảy ra.
Chuyện ấy sẽ xảy ra với Thầy và với các môn đệ
nữa.
Điều quan trọng là đừng sợ kẻ sát nhân lấy đi
mạng sống thân xác (c. 4).
Dù mạng sống thân xác thật đáng quý, đáng
trọng,
nhưng con người không phải chỉ có thân xác hay
chỉ là thân xác.
Thầy dạy cho các môn đệ biết phải sợ ai (c. 5).
Phải sợ chính Thiên Chúa, Đấng có quyền ném anh
em vào hỏa ngục.
Các vị tử đạo đều tin, hiểu và sống các câu Tin
Mừng này.
Họ đã chịu bao đớn đau nhục hình và cái chết
thân xác,
nhưng họ đã tránh được hỏa ngục, và được đón
vào lòng Thiên Chúa.
Kitô hữu phải đối diện với những thách đố cam
go.
Lúc chịu bách hại lại tưởng mình bị Thiên Chúa
bỏ rơi, ruồng rẫy.
Chim sẻ là thức ăn rẻ tiền cho người nghèo,
tiền lương một ngày mua được những 40 con chim
sẻ.
Nếu Thiên Chúa không quên một con sẻ nào,
thì Ngài lại càng không thể quên được những
người bạn của Con Ngài.
Nếu từng sợi tóc của chúng ta đã được Thiên
Chúa biết,
thì chuyện mạng sống của ta hẳn được Ngài quan
tâm hơn nhiều.
Hãy để lòng mình bình an vì sống không gian
dối, nên không sợ bị lộ.
Hãy để lòng mình bình an vì cái chết chẳng phải
là dấu chấm hết.
Hãy hạnh phúc vì biết mình là môn đệ và là bạn
hữu của Thầy Giêsu.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con được ơn khôn
ngoan
để con biết sợ điều phải sợ.
Cho con đừng sợ những đe dọa đến thân xác,
tiếng tăm,
nhưng biết sợ mất đi vĩnh viễn toàn bộ con
người mình.
Cho con đừng sợ những kẻ làm hại con ở đời
này,
nhưng biết sợ phải xa Đấng yêu con và muốn
con hạnh phúc mãi.
Xin giải phóng con khỏi những nỗi sợ đã ăn
sâu vào cuộc sống,
những nỗi sợ ngấm ngầm mà chính con không
dám thú nhận,
những nỗi sợ làm con chẳng bao giờ được tự
do và an vui.
Nhờ đó con dám sống thật sự là mình,
tươi tắn và hồn nhiên, nhẹ nhàng và không lo
lắng.
Xin dạy con ngắm những bông hoa dại vệ đường
để thấy chúng được điểm trang lộng lẫy,
và ngắm chính mình mỗi ngày,
để thấy vẻ đẹp nơi mình như một quà tặng của
tình yêu.
Xin dạy con ngắm đàn chim sẻ ríu rít buổi
sáng,
để biết mình chẳng nên quá lo về chuyện cơm
áo gạo tiền,
nhưng nên phó thác như em thơ ngồi trong
lòng mẹ.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đặt đời mình trong
tay Cha.
Xin cho con cũng đặt đời con trong tay Chúa.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
"Mọi
sợi tóc trên đều các con cũng đã được đếm cả rồi".
Men Pharisiêu
Ðoạn
Tin Mừng chúng ta nghe hôm nay là những câu đầu tiên trong chương 12 Phúc Âm
theo thánh Luca. Nơi chương này, tác giả quy góp lại những lời dạy của Chúa
Giêsu cho các môn đệ, mặc dù đám đông dân chúng đang hiện diện nơi đó không bị
loại ra bên ngoài. Như chúng ta đọc thấy ngay câu thứ nhất của chương 12: “Dân
chúng qui tụ quanh Chúa đông đảo đến độ dẫm chân lên nhau. Họ đến để nghe Lời
Chúa giảng dạy và được gặp Chúa”. Tuy nhiên nơi câu kế tiếp (tức câu thứ hai),
tác giả sách Phúc Âm cho thấy là Chúa Giêsu chú ý nhiều hơn đến các môn đệ, nên
ghi thêm chi tiết: “Chúa Giêsu bắt đầu nói trước hết với các môn đệ”, lời giảng
của Chúa Giêsu là cho tất cả mọi người nhưng đối với các môn đệ thì càng có giá
trị bắt buộc nhiều hơn nữa.
Nếp
sống mà Chúa muốn cho các môn đệ Ngài sống là hoàn toàn mới mẻ, khác với nếp
sống của những biệt phái và thông luật bị Chúa nặng lời khiển trách trước đó:
“Các con hãy giữ mình đừng bị men Pharisiêu tức sự sống giả hình”. Các môn đệ
Chúa sẽ dấn thân sống sự thật và phục vụ cho sự thật với hết lòng thành thật.
Những
hành động, nếp sống hàng ngày của môn đệ cần phải phù hợp với tâm hồn bên
trong, không thể nào che đậy giấu diếm tâm hồn xấu xa mãi được, không gì ẩn
khuất bên trong mà không bị lộ ra; nhưng không phải chỉ có nếp sống thành thật
không mà thôi. Nếp sống đó là một chứng tá công khai cho Chúa: “Ðiều tốt tự
nhiên được loan truyền phổ biến”. Ðiều các môn đệ nghe, nhận lãnh từ Chúa cần
được loan báo cho mọi người. Người Kitô môn đệ Chúa không thể giấu diếm tài
năng, những nén bạc Chúa ban cho mà cần phải rao giảng trên mái nhà, công khai
cho mọi người được biết. Nếp sống chứng tá này không phải là điều dễ dàng đối
với Chúa cũng như đối với các môn đệ. Sự hăm dọa và bách hại đã không thiếu
trong đời sống của môn đệ làm cho các ngài nhiều khi phải có thái độ im lặng
làm ngơ, không dám lên tiếng trình bày sự thật, làm chứng cho sự thật.
Chúa
Giêsu khuyên các môn đệ hãy can đảm và tin tưởng vào sự chăm sóc của Thiên
Chúa: “Chúng con đừng sợ những kẻ chỉ làm hại được trên thể xác, nhưng hãy có
lòng kính sợ Chúa”. Ðây là sự kính sợ của lòng yêu thương con thảo đối với
Thiên Chúa Cha, là Ðấng luôn luôn hiện diện với con người, với những môn đệ:
“Này, Ta sẽ ở cùng chúng con mỗi ngày cho đến tận thế”. Lo sợ trước những thử
thách, những bách hại, là phản ứng tự nhiên của con người, nhưng Chúa Giêsu
muốn cho chúng ta vượt qua những phản ứng tự nhiên này bằng tình yêu mạnh mẽ
đối với Chúa.
Lạy
Chúa,
Chúng
con cảm tạ Chúa vì đã muốn và huấn luyện chúng con trở thành những chứng nhân
của Chúa nhưng chúng con tự nhiên lo sợ trước những thử thách. Xin thương giúp
chúng con tin tưởng vào lời Chúa và sẵn sàng tuân theo ơn soi sáng của Chúa
Thánh Thần để làm chứng cho Chúa, sống đức tin và niềm hy vọng trong mọi hoàn cảnh.
(Trích
trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Nhưng
Chân Lý Đã Chiến Thắng
“Thầy nói cho
anh em là bạn hữu của Thầy được biết: Anh em đừng sợ những kẻ giết được thân
xác, và sau đó không làm gì được hơn nữa. Thầy sẽ chỉ cho anh em biết phải sợ
ai: Hãy sợ Đấng đã giết rồi, lại có quyền ném vào hỏa ngục. Thật vậy, Thầy nói
cho anh em biết: Anh em hãy sợ Đấng ấy.” (Lc. 12, 4-5)
Dân chúng chen
lấn xô đẩy nhau chung quanh không thể chú ý được nên trước hết Đức Giêsu bắt
đầu nói với các môn đệ, Người gọi các ông bằng bạn hữu vì Người bày tỏ những
mầu nhiệm Thiên Chúa cho các ông. Nhưng phải coi chừng đừng sợ chi!
Những biệt phái
giả hình nhấn mạnh đến hình thức giữ đạo bên ngoài không đặt nền tảng trên tình
yêu Thiên Chúa. Đức Giêsu lưu ý các môn đệ phải loại bỏ lối giữ đạo đó. Những
khuynh hướng thầm kín nhất của con tim muốn bộc lộ bằng lời nói và hành động
một cách tự nhiên và như thế dễ hời hợt sai lầm. Vậy không nên để nó điều đình
với chân lý, dù để được kết quả rực rỡ.
Cũng không phải
quan tâm lựa chọn nơi chốn mình tuyên xưng đức tin, Các môn đệ phải làm chứng
liên tục luôn luôn mọi nơi mọi chỗ; dù trong hầm tối hay mộ hang toại đạo, dù
trong phòng khách hay nơi bàn giấy, dù trong tù ngục hay trại lính, bằng cách
rỉ tai đến cách công khai, đều có thể giúp làm chứng cho chân lý. Dù bằng cách
nào, chân lý sẽ tự bộc lộ ra giữa ban ngày, không có chi ngăn cản được.
Hãy làm
chứng đừng sợ
Chắc hẳn, như
các ngôn sứ, các môn đệ phải liều mất mạng khi làm chứng, nếu kính sợ Thiên
Chúa, thì không còn sợ chết nữa. Chính Chúa sẽ ban sự sống đời đời cho các ông.
Chỉ sợ Ngài là Đấng có quyền giết rồi lại ném vào lửa ngục. Vậy Thiên Chúa đáng
kính sợ hơn mọi công an cảnh sát chìm, hơn mọi kẻ hành quyết công chúng. Nhưng
Đức Giêsu không đối lập hai thứ sợ hãi, Thiên Chúa là tình yêu và luôn săn sóc
những kẻ bé mọn yếu hèn, nên càng có lý do tin tưởng Ngài yêu thương họ. Chính
vì trông cậy vững chắc vào lòng thương yêu của Chúa mà các môn đệ phải sống làm
chứng cho tình yêu của Ngài.
Lời Đức Giêsu
nói với tất cả các bạn hữu của Người, những người đã chịu phép rửa của Hội
thánh ở mọi nơi mọi thời, điều quan trọng là phải sống xứng đáng với ơn gọi để
trở nên làm con Chúa Cha, chứ đừng thỏa hiệp với thế gian vì sợ hay vì kính tin
nó.
Mọi Kitô hữu
phải luôn nhớ rằng mình đang sống dưới ánh mắt của Thiên Chúa.
RC.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng 10
19 THÁNG MƯỜI
Chứng Từ Của Tình Yêu Huynh Đệ
Sau khi ghi nhận những
công việc xuất phát từ tình yêu lớn lao dành cho Chúa Kitô trong trái tim của
người phụ nữ này – một tôi tớ nhỏ bé của Thiên Chúa – tôi liên tưởng đến giáo
huấn mà Tông Đồ Phao-lô đã viết cho các tín hữu Philipphê: “Nếu quả thật sự
liên kết với Đức Kitô đem lại cho chúng ta một niềm an ủi, nếu tình bác ái
khích lệ chúng ta, nếu chúng ta được hiệp thông trong Thần Khí, nếu chúng ta
sống thân tình và biết cảm thương nhau, thì xin anh em hãy làm cho niềm vui của
tôi được trọn vẹn, là hãy có cùng một cảm nghĩ, cùng một lòng mến, cùng một tâm
hồn, cùng một ý hướng như nhau” (Pl 2,1-2).
Phải chăng những lời này
của vị Tông Đồ Dân Ngoại chỉ dành cho giáo đoàn ở Philipphê? Hay chỉ gởi cho
giáo hội ở Calcutta ?
Không! Đó là những lời được gởi cho toàn thể Giáo Hội ở mọi nơi trên thế giới,
gởi cho mọi người Kitô hữu! Có thể nói, đó là những lời được gởi cho mọi tín đồ
thuộc mọi niềm tin tôn giáo, cho tất cả những con người thiện chí. Đó là một
chứng từ của tình yêu huynh đệ: “Xin anh em hãy làm cho niềm vui của tôi được
nên trọn vẹn, là hãy có cùng một cảm nghĩ, cùng một lòng mến, cùng một tâm hồn,
cùng một ý hướng như nhau. Đừng làm gì vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy
lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình” (Pl 2,2-3).
Đừng! Chúng ta đừng bao
giờ hành động theo hướng nuôi dưỡng hận thù, bất công, hoặc gây ra đau khổ!
Đừng bao giờ hành động để chạy đua vũ trang! Đừng bao giờ hành động theo hướng
áp bức các dân tộc yếu kém! Đừng bao giờ hành động theo những dạng trá hình của
chủ nghĩa đế quốc và những ý thức hệ bất nhân chà đạp tinh thần người ta.
Cuối cùng, hãy cho phép
những người thấp cổ bé miệng được lên tiếng nói! Hãy cho phép những người nghèo
của Mẹ Têrêsa – cũng như mọi người nghèo trên thế giới – được lên tiếng nói!
Bởi tiếng nói của họ chính là tiếng nói của Đức Kitô! Amen.
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 19-10
Thánh gioan Brêbeup Linh mục;
Ep 1, 11-14; Lc 12, 1-7.
LỜI SUY NIỆM: “Thầy nói cho anh em
là bạn hữu của Thầy được biết: Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác, mà sau đó
không làm gì hơn được nữa” (Lc 12,4).
Chúa Giêsu cho chúng ta biết: Tất cả chúng ta là bạn hữu của Ngài, như chúng ta
đã sống tình bạn với một ai đó; trong tâm tình bạn hữu thì luôn muốn cho bạn
của mình những điều tốt lành nhất, hơn cả chính mình. Đồng thời Chúa Giêsu cũng
cho chúng ta biết: mỗi một người trong chúng ta đều có trách nhiệm phải loan
báo Tin Mừng. Trong việc loan báo Tin Mừng sẽ gặp nhiều khó khăn và thử thách,
có thể bị người ta giết chết bản thân mình, Nhưng Ngài bảo đừng sợ, đừng sợ
nhũng con người, những tập thể giết chết thân xác mình, rồi sau đó chẳng làm
hơn những gì họ đã làm. Phải sợ Đấng đã giết rồi, lại có quyền ném vào
hỏa ngục. Chúa còn cho chúng ta biết giá trị của mỗi chúng ta còn lớn hơn loài
chim sẻ rất nhiều, trong khi loài chim sẻ bé nhỏ như vậy, thế mà Thiên Chúa
không bỏ quên chúng, trong khi chúng ta là con người, mang hình ảnh của Ngài
Mỗi người đều có quyền tự do hoàn toàn để chọn lựa và quyết định cho số
phận của mình ngay ở đời này lẫn đời sau. Mọi sự lựa chọn, sẽ có ân
thưởng hay sẽ bị án phạt
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
19 Tháng Mười
Ôi Giêsu, Ôi Giêsu!
Jeanne D'Arc, một cô gái quê, đã nghe theo tiếng gọi từ trời cao
để cầm quân đánh đuổi người Anh ra khỏi đất Pháp. Nhờ chiến thắng này, hoàng tử
Charles đã được đăng quang làm vua nước Pháp.
Nhưng sau đó trong một trận chiến khác, Jeanne D'Arc bị bại trận,
cô bị người Anh bắt giữ và kết án hỏa thiêu. Trong những giờ phút cuối cùng cô
chỉ còn trơ trọi một mình: người mẹ thân yêu ở cách xa ngàn dặm, vua Charles
không muốn bỏ tiền ra để chuộc cô, các tướng lãnh và binh lính đã từng sát cánh
bên cô cũng đã bỏ chạy trốn hết. Chỉ còn lại âm thanh lúc nào cũng trung thành
với cô: đó chính là tiếng kêu của cô.
Trong cơn đau đớn cùng cực, người thiếu nữ đã kêu lớn: "Ôi
Giêsu, ôi Giêsu!". Quả thật, dù lòng người có bội bạc phôi pha, Chúa Giêsu
vẫn luôn ở với cô và luôn an ủi đỡ nâng cô.
Tin
tưởng là tiếp tục yêu mến cho dù trong từng phút giây ta có bị người đời bỏ
rơi, phản bội. Yêu là tin rằng ta có thể trung thành trước những bất trung của
người khác và những thăng trầm của cuộc sống. Chúng ta đứng vững trong niềm tin
vì cho dù xung quanh ta không còn một bóng người, Thiên Chúa vẫn luôn ở đó.
(Lẽ Sống)
Ngày 19
Thánh
Isaác Giogơ, linh mục, và các bạn, tử đạo
Thánh
Phaolô Thánh Giá, linh mục
Thánh
Gioan Bơrêbớp, linh mục
Tình yêu, mà tôi được mòi sông, giông như tình yêu trong
trái tim Thiên Chúa.
Marc Donzé
Xin hiệp nhất con với
Chúa, không chia lìa,
Thánh
Isaác Giogơ
Lạy Chúa
Giêsu, Đấng con muốn yêu mến với niềm vui thúc đẩy con, ngay từ bây giờ, con xin
dâng lên Chúa máu của con, thân xác và cuộc sống của con.
Con chỉ muốn chết cho Chúa thôi, nếu Chúa cho con ơn đó, bởi vì Chúa đã chết cho con.
Xin cho con biết sống, để được Chúa ban cho con ơn được chết một cách có lợi
như thế.
Vâng, lạy Thiên Chúa là Đấng Cứu độ con, con sẽ nhận chén đau khổ từ tay Chúa và
con sẽ cầu khẩn thánh danh:
Giêsu, Giêsu, Giêsu!
Thánh Gioan Bơrêbốp
Hạnh Các Thánh
Ngày 19 tháng 10
THÁNH PHAOLÔ
THÁNH GIÁ LINH MỤC
THÁNH GIOAN
BRÉBEUF LINH MỤC
THÁNH ISAAC
JOGUES LINH MỤC VÀ CÁC BẠN TỬ ĐẠO
|
THÁNH
PHAOLÔ THÁNH GIÁ LINH MỤC
(1694-1755)
Ít
có biến cố đẹp mắt để ghi lại cuộc đời của Phaolô Pranes Đaniel. Ngài dành
trọn đời cho cầu nguyện, sám hối và tôn sùng cuộc tử nạn của Chúa. Ngài là
dụng cụ phổ biến lòng tôn sùng này với dòng tu ngài thiết lập: “DÒNG THƯƠNG
KHÓ”. Ngài sinh tại Ovađa, miền bắc Italia, năm 1694, trong một gia đình
trung lưu đạo đức. Dầu cuộc sống ngài cho tới tuổi 15 đã diễn ra như cuộc
sống bình thường của người kitô hữu, nhưng vào thời kỳ này, ngài đã trải qua
một loạt trở ngại khiến ngài dâng trọn đời cho việc cầu nguyện, hãm mình:
ngài quỳ gối lâu giờ, thực hành những việc phạt xác, như ngủ trên đất và ăn
chay liên tục, nhờ đó gây ảnh hưởng rất nhiều đối với những người đương thời,
khiến nhiều người đi tu dòng hay làm linh mục triều.
Vào
năm 20 tuổi, việc gia nhập đạo quân Venitia để bảo vệ Kitô giáo chống lại
người Hồi giáo, nhưng sau một thời gian, lý tưởng ngài đã khác. Ngài đã trở
lại đời sống cầu nguyện hãm mình.
Sáu
năm qua đi và đến lúc 26 tuổi, ngài mới thấy rõ hơn chuỗi ngày tương lai của
mình trong một loạt các thị kiến. Ngài hiểu rằng mình phải lập một dòng tu
đặc biệt tôn sùng “cuộc khổ nạn Chúa Giêsu”. Trước hết, ngài đã bắt đầu nếp
sống mà tu sĩ dòng Thương Khó sẽ phải sống, trong khi phác thảo một quy luật
gửi về Rôma xin phê chuẩn. Sau một ít khó khăn, luật này đã được chuẩn nhận.
Ngài và em mình là Gioan Tẩy Giả đã lập dòng ở Montê Argentarô và nhận những
tập sinh đầu tiên. Đức Bênêđictô XIV đã buộc giảm nhẹ đôi chút sự khắc khổ
trong đời sống tu và đi rao giảng trong các miền lân cận. Phaolô là một nhà
truyền giáo nhiệt thành rao giảng cuộc Thương Khó Chúa khắp nơi, và gây được
nhiều cuộc trở lại. Những năm cuối đời, ngài đã lập dòng các nữ tu Thương
Khó. Bấy giờ ngài đã được dân chúng coi như là một vị thánh và mỗi khi đi qua
đâu, ngài phải chịu đựng đám đông, những người lo kiếm miếng vải áo ngài làm
thánh tích, họ chạm tới ngài hay xin ngài chữa bệnh hoặc một ân huệ nào
khác... Ngài qua đời ngày 18.10.1755 vào tuổi 80 và được phong thánh khoảng
năm 1865.
Điều
lạ lùng là vị thánh người Italia này không hề rời xa quê hương mình sinh
trưởng, lại rất quan tâm tới việc trở lại của nước Anh mà ngài biết đến rất
ít. Ngài nói: “Nước Anh luôn ở trước mặt tôi, và nếu nước Anh trở lại Công
giáo thì ích lợi cho Giáo hội vô kể”. Dầu bản thân ngài đã không thể đi bước
tích cực nào để cải tiến vấn đề, cũng cần ghi lại rằng: sáu mươi lăm năm sau,
khi ngài qua đời, một tu sĩ dòng Thương Khó, anh Đaminh Barbeni đã tới nước
Anh và trở thành dụng cụ đưa Jobn Henry Newman và nhiều người khác nữa về
hiệp thông với Giáo hội. Như thế là góp phần vào việc phục hồi đạo công giáo
tại xứ sở này.
-o0o-
*
THÁNH GIOAN BRÉBEUF LINH MỤC
*
THÁNH ISAAC JOGUES LINH MỤC VÀ CÁC BẠN TỬ ĐẠO
Việc
truyền giáo cho thổ dân Bắc Mỹ (
Vì
thiếu nhân sự và hoàn cảnh khắc nghiệt, các tu sĩ dòng Tên tập trung vào mấy
bộ lạc thuộc dân Hurons trên lãnh thổ
Trước
hết là ba vị tử đạo tại Auresville, bang Neu You, Hoa kỳ là:
*
Thánh Rênatô Goupil, một thanh niên thiện nguyện theo giúp các thừa sai, sinh
năm 1608 tại Angens, tử đạo ngày 29.9.1642.
*
Thánh Isaac Jogues, một linh mục, sinh năm 1607 tại Orléans, tử đạo ngày
18.10.1646.
*
Thánh Gioan Lalande, một thanh niên thiện nguyện, sinh năm 1622 tại Dieppe,
tử đạo ngày 10.10.1646.
Tiếp
đó là năm linh mục tử đạo tại Midland ngày nay ở
*
Thánh Antôn Danill, sinh năm 1601 tại
*
Thánh Gioan Brébeuf, sinh năm 1593 tại Bayeuse, tử đạo ngày 16.3.1649.
*
Thánh Gabruis Lallement, sinh năm 1610, tại
*
Thánh Carôlô Garnies, sinh năm 1606 tại
*
Thánh Noel Chabanel, sinh năm 1613 tại Mendes, tử đạo ngày 08.12.1649.
*
* *
Tiếp
nhận vùng truyền giáo năm trước thì năm sau, 1633, linh mục bề trên dòng Tên
tại Pháp là Phaolô Le Jeune cùng với hai linh mục Brébeuy và Daniel mạo hiểm
đến Ennemond Massé. Các nhà tiên phong này rút được một kinh nghiệm là: khi
theo thổ dân Algonaguin đi săn bắn, lời rao giảng của các vị bị phá hoại vì
dân da đỏ ra reo hò, chế diễu bằng những từ độc ác đặt ngang với những từ chỉ
đức tin công giáo. Cha Le Jeune cũng nhận ra bốn yếu tố tệ hại nhất trong đời
sống thổ dân da đỏ là: lạnh, nóng, khói và chó. Trong một căn lều chật ních
đàn ông đàn bà túm tụm với nhau tránh rét, họ đốt lửa sưởi cháy bừng bừng tỏa
ra những làn khói khét lẹt, gây nên tật mù lòa, bên cạnh một đàn chó hôi hám
và rất dữ. Tình trạng đó khiến ông nêu lên nhận sét này: “Những lương dân da
đỏ bất hạnh sống ở thế gian trong đám khói mù mịt, để rồi chôn vùi cuộc sống
vĩnh cửu trong lửa cháy bừng bừng”.
Cha Le
Jeune kết luận: không hy vọng truyền giáo được, nếu không đến với những bộ
lạc đã định cư. Trong vùng bấy giờ chỉ có dân Hurons đã định cư ở phía đông
đại hồ Hurons, và đã liên kết với người Pháp. Các cha quyết định lập trung
tâm truyền giáo tại đó. Dân Hurons bấy giờ gần hơn hai chục nghìn người, chia
đồng đều thành ba mươi làng, mỗi làng chừng bảy trăm người. Năm 1634, các cha
Brébeuf và Đaniel đã hòa đồng được với sắc dân đó. Họ là những người lịch sự,
nhưng trừ trẻ em và những người hấp hối, họ hầu như không thể trở lại đạo
được. Họ coi công giáo chỉ là đạo của người da trắng. Họ hỏi: “Lên thiên
đàng, các ông có săn bắn, có chiến tranh không, có mừng hội lễ không?” Được
trả lời là không, họ đáp lại: “Thế thì chúng tôi không lên đâu. Nhàn cư vi
bất thiện mà”. Ngoài ra, các vị truyền giáo còn nhận thấy họ có những tập tục
trái hẳn với nếp sống công giáo, chẳng hạn: khi cưới xin, các chàng trai phải
tranh đấu với nhau đến mất mạng mới được nhà gái bằng lòng gả con; hành hạ kẻ
thù chiến bại; và ăn thịt người. Nhưng các vị quyết định tập trung họ lại,
không những coi họ là đồng minh, mà còn hy vọng khuyến khích họ kết hôn với
dân gốc Pháp.
Quyết
định này được coi là sáng suốt. Năm 1638, hai linh mục nữa được gửi đến tăng
cường, đó là Carôlô Gornien và Isaac Jogus. Dân da đỏ Iroquois bắt đầu tỏ ra
thù nghịch với các thừa sai dòng Tên, coi các vị như những nhà phù thủy đến
nguyền rủa dân tộc họ. Khi thấy bóng áo dài của các vị vừa in trên nền tuyết
trắng, trẻ em đã khóc thét lên, như là bị đói, bị bệnh dịch tễ. Thời gian đó,
cha Gioan Brébeuf thị kiến thấy một thập giá vĩ đại từ miền đất của dân
Iroquois đến với mình. Khi được hỏi thập giá ấy giống gì, cha đã trả lời: “Nó
to lớn đủ để đóng đinh tất cả chúng ta”.
*
* *
Đó có
thể là một thị kiến tiên báo, và lời cha nói có thể là một sứ ngôn nói trước
những gian nan đang chờ đón các vị. Thật vậy, ba mươi năm trước, dân Iroquois
đã bị lực lượng Pháp đánh bại. Từ đó họ vẫn nuôi căm hờn với người Pháp,
trong đó có cả các thừa sai. Tháng 8 năm 1642, Jogues và Goupil đi với một
nhóm thổ dân từ Québu, đem thực phẩm cần thiết về cho các vị thừa sai và
những người dân nghèo đói. Họ bị dân Iroquois tấn công và bắt giữ. Dân này
gặm tay họ như một đàn chó dại, rút hết móng tay, và mỗi khi dẫn đi qua làng
nào, bắt họ phải chạy giữa hai hàng người để bị đánh đập. Họ còn bị hành hạ
vì than đỏ đã cháy, giáo mác đâm chọc, cắt xẻo để diễu cợt. Họ bị chết dần
trong một bầu không khí quỷ quái: bị thiêu sống rồi phân thây phát làm thức
ăn cho mọi người...
Rênatô
Gougil bị hành hạ tồi tệ nhất. Sau cùng người ta lấy búa chẻ đầu anh vì anh
đã dám rửa tội cho một em bé. Jogues thì bị giam giữ nhiều tuần với một bản
án tử hình treo. Cuối năm 1643, cha đã trốn được về Pháp nhờ mấy nhà buôn Hòa
lan giúp đỡ. Năm 1644, ngài lại trở lại trụ sở truyền giáo; chính quyền Pháp
ở
*
* *
Nhưng
về phía dân Hurons thì đã bắt đầu đón nhận đức tin công giáo. Tinh thần họ
hoảng loạn vì những cuộc tấn công liên lỉ của dân Iroquois. Các cuộc tử đạo
lại kế tiếp xảy ra. Ngày 04.7.1648, pháo đài chính của giáo xứ thánh Giuse bị
Iroquois phá hủy, linh mục Antôn Đaniel đã ở đây liên tục bốn năm, đem được
chừng 26 ngàn người về lập thành giáo xứ. Hôm đó, lúc dân Iroquois phá hủy
pháo đài thì cha vừa làm lễ xong. Cha bảo đám người bảo vệ cha, tiễn đi và
nói: “Tôi sẽ cứ ở lại đây, chúng ta sẽ gặp nhau trên thiên đàng”. Măïc nguyên
lễ phục, cha tiến ra gặp người Iroquois. Họ bỡ ngỡ nhìn cha một lát, rồi đồng
loạt bắn tên vào cha. Họ xúm vào bắt cha tắm mặt vào máu cha và ném xác cha
vào ngôi nhà thờ đang bốc cháy.
Mùa
xuân năm sau, người Ironquois tăng gấp đôi lực lượng đánh phá dân Hurons. Họ
đem một nghìn người tấn công vào làng Saint Luis, bắt hai linh mục Brébeuf và
Lallement. Cha Brébeuf bị hành hạ ghê rợn, kiệt sức, chết sau bốn tiếng đồng
hồ. Họ nung đỏ những chiếc rìu, xếp thành một vòng quanh cổ ngài. Một người
Hurons bội giáo uống máu ngài; trái tim ngài được dành cho thủ lĩnh của họ
nhấm nháp. Cha Lallement ốm yếu, cũng sống được sau 17 giờ bị hành hạ mới chết.
Còn
sót lại hai vị trong đoàn vị thừa sai. Người Iroquois gào lên đòi mạng sống
hai vị khi họ đến khủng bố sắc dân Trobaccô sống tại thung lũng núi Blue. Họ
tấn công giáo xứ Saint Jeon vào tháng 12.1469. Cha Carôlô Garmin bị giết lúc
ngài cố gắng giải tội cho một giáo dân da đỏ hấp hối. Là công dân của đô
thành ánh sáng
*
* *
Cuộc
truyền giáo cho người dân da đỏ Hurons, như vậy ở bước đầu thật là gian khổ,
chỉ thấy chán nản, thất vọng và loạn lìa. Tuy vậy, mồ hôi, nước mắt và máu
của các vị thừa sai ấy đã thay đổi nếp sống của dân da đỏ, dầu về sau còn
hoang dã nhưng đã hết độc ác. Và đã gây được một cộng đoàn tín hữu da đỏ
nhiệt thành, trong đó có nữ trinh chân phúc Kateri Tekakuitha mà Giáo hội Mỹ
châu hiện nay kính vào ngày 14 tháng 7.
Các vị
thừa sai tử đạo nói trên được Đức Piô XI phong thánh năm 1930. Trước kia chỉ
kính nhớ tại địa phương, sau này Đức Phaolô VI đã truyền kính chung trong cả
Giáo hội vào ngày hôm nay.
|
Thứ Sáu 19-10
Các Thánh Tử Ðạo Bắc Mỹ Châu
Isaac Jogues (1607-1646): Thánh Isaac Jogues và các bạn là những
người tử đạo đầu tiên của Bắc Mỹ Châu. Khi còn là một linh mục dòng Tên trẻ
tuổi, ngài là một người có học thức và văn hóa, dạy văn chương ở Pháp. Nhưng
ngài đã từ bỏ công việc này để phục vụ người da đỏ Huron ở Tân Thế Giới, vào
năm 1636 ngài và các bạn, dưới sự lãnh đạo của Cha Jean de Brebeuf, đã đến
Québec. Thời ấy, người Huron thường hay giao chiến với người Iroquois, và chỉ
sau vài năm Cha Jogues và các linh mục khác đã bị người Iroquois bắt và cầm tù
trong 13 tháng. Các lá thư và nhật ký của ngài cho thấy các ngài đã bị đưa từ
làng này sang làng khác, bị đánh đập, bị tra tấn và buộc phải nhìn thấy cảnh
những người Huron trở lại đạo bị xẻo thịt và giết chết.
Một cơ hội bất ngờ đã giúp Cha Isaac Jogues vượt thoát đến Hòa
Lan, và ngài trở về Pháp với những chứng tích của sự tra tấn. Những ngón tay bị
cứa, bị bầm dập và bị cháy nám. Ðức Giáo Hoàng Urbanô VIII đã cho phép ngài cử
hành Thánh Lễ với bàn tay tàn tật: "Thật hổ thẹn nếu một vị tử đạo của Ðức
Kitô không được phép uống Máu Thánh Ðức Kitô." Sau khi được chào đón như
một vị anh hùng, người ta nghĩ Cha Jogues có thể nghỉ ngơi và và sống an nhàn
cho đến tuổi già. Nhưng nhiệt huyết rao giảng Tin Mừng lại thúc giục ngài trở
về với ước mơ ban đầu. Trong một vài tháng sau, ngài lại dong buồm sang truyền
giáo cho người Huron.
Vào năm 1646, Cha Jogues và Cha Jean de Lalande đến phần đất của
người Iroquois với sự tin tưởng rằng người da đỏ sẽ tôn trọng hiệp ước hòa bình
mới được ký kết. Nhưng ngay lập tức, các ngài đã bị phe gây chiến Mohawk bắt
giữ, và vào ngày 18-10 Cha Jogues đã bị tra tấn bằng rìu và bị chặt đầu. Cha
Jean de Lalande bị chết vào ngày hôm sau ở Ossernenon, một làng gần Albany , Nữu Ước.
Một trong các vị thừa sai dòng Tên tử đạo đầu tiên là Cha Rene
Goupil, là người cùng với Cha Lalande đã hy sinh mạng sống như của tế lễ. Ngài
bị tra tấn cùng với Cha Isaac Jogues, và bị chém bằng rìu vì đã làm dấu Thánh
Giá trên trán các trẻ em.
Thánh
Jean de Brebeuf (1593-1649): Jean de Brebeuf là một linh mục dòng Tên người Pháp, đến Gia Nã
Ðại lúc 32 tuổi và làm việc ở đây trong vòng 24 năm. Khi nước Anh xâm chiếm
Québec năm 1629 và trục xuất các linh mục dòng Tên thì ngài trở về Pháp, và bốn
năm sau ngài trở lại hoạt động. Lúc ấy, người Huron bị dịch đậu mùa và người
thầy thuốc của họ đổ lỗi cho các cha dòng Tên, nhưng Cha Jean vẫn ở lại đó.
Ngài đã soạn bộ giáo lý và tự điển tiếng Huron, và được nhìn thấy
7,000 người trở lại đạo trước khi ngài từ trần. Ngài bị người Iroquois bắt và
sau bốn giờ tra tấn dã man, ngài đã trút hơi thở cuối cùng ở Sainte Marie, gần Georgian Bay , Gia Nã Ðại.
Cha Anthony Daniel, cũng phục vụ cho người Huron và bị người
Iroquois giết chết vào ngày 4 tháng Bảy, 1648. Thi thể của ngài bị ném vào nhà
nguyện và sau đó bị đốt cháy.
Thầy Gabrien Lalemant, sau khi chịu chức bốn cũng đã hy sinh mạng
sống cho người da đỏ. Cùng với Cha Brebeuf, ngài bị tra tấn cho đến chết.
Cha Charles Garnier bị bắn chết khi ngài rửa tội cho các trẻ em và
người dự tòng trong một cuộc tấn công của người Iroquois.
Cha Noel Chabanel bị giết trước khi được gọi về Pháp. Ngài thấy
thật khó khăn để thích ứng với đời sống truyền giáo. Ngài không thể học được
tiếng thổ âm, và ghê tởm thức ăn và đời sống của người da đỏ, và ngài cảm thấy
tinh thần thật khô khan trong thời gian ở Gia Nã Ðại. Tuy nhiên ngài đã giữ lời
hứa ở lại đây cho đến chết trong sứ vụ truyền giáo.
Tám vị linh mục dòng Tên tử đạo đầu tiên ở Bắc Mỹ Châu này đã được
phong thánh vào năm 1930.
Lời Bàn
Ðức tin và đặc tính anh hùng đã in sâu niềm tin nơi thập giá Ðức
Kitô trên quê hương Mỹ Châu. Giáo Hội Bắc Mỹ được phát sinh từ dòng máu tử đạo.
Nhưng liệu chúng ta có còn hăng hái để giữ thập giá ấy vươn cao giữa chúng ta
hay không? Chúng ta có còn can đảm để làm chứng cho đức tin đã ăn sâu nơi chúng
ta, làm chứng cho Tin Mừng của thập giá cứu độ nơi gia đình, sở làm, và ngoài
xã hội hay không?
Lời Trích
"Tôi tín thác vào Thiên Chúa là Ðấng không cần đến sự giúp
đỡ của chúng ta để hoàn thành công trình của Người. Mỗi một nỗ lực của chúng ta
là để giúp lập công và trung tín với Người, vậy chúng ta đừng làm hư hại công
trình của Người bằng những khiếm khuyết của chúng ta" (trích từ lá thư
Thánh Isaac Jogues gửi cho một linh mục bạn ở Pháp, ngày 12-9-1646, một tháng
trước khi ngài tử vì đạo).
Bài đọc 2
Ngày 19 tháng 10: Thánh Gio-an Bơ-rê-bớp,
linh mục và thánh I-xa-ác Gio-gơ, linh mục và các bạn, tử đạo.
Hai vị thánh này là thủ lãnh của tám tu sĩ
Dòng Tên người Pháp, đã bị giết vì Chúa Ki-tô ở Bắc Mỹ vào thế kỷ thứ XVII.
Thánh I-xa-ác Gio-gơ chịu tử đạo ở miền đất người I-rô-qua (Miền đất gần tiểu
bang Niu Y-oóc ngày nay) ngày 18 tháng 10 năm 1647, còn thánh Gio-an đệ
Bơ-rê-bớp vào ngày 16 tháng 10 năm 1648 trong miền đất người Hu-rông.
Lạy Chúa Giê-su, chớ gì con chỉ chết cho
một mình Chúa, vì Chúa đã đoái thương chịu chết cho con
Trích nhật ký thiêng liêng của thánh
Gio-an Bơ-rê-bớp, linh mục, tử đạo.
Trong suốt hai ngày, con luôn cảm thấy
mình có một ước ao mãnh liệt là được tử đạo và chịu mọi cực hình mà các vị tử
đạo đã từng phải chịu.
Lạy Chúa Giê-su, Chúa là Chúa và là Đấng
cứu độ con, con có thể làm gì để đền đáp những hồng ân Chúa đã ban tặng cho con
? Từ tay Chúa, con sẽ đón nhận chén khổ đau của Chúa và kêu cầu Thánh Danh. Lạy
Chúa Giê-su là Đấng cứu độ con, con xin hứa trước mặt Chúa Cha hằng có đời đời
và Chúa Thánh Thần, trước mặt Mẹ rất thánh của Chúa và hiền phu vô cùng thanh
khiết của Mẹ là thánh Giu-se, trước mặt các thiên thần, các tông đồ và tử đạo,
trước mặt cha thánh I-nha-xi-ô và Phan-xi-cô Xa-vi-ê của con, con thực sự xin
khấn cùng Chúa : Với sức mạnh Chúa ban, con sẽ không bao giờ trốn chạy hồng ân
tử đạo, mà nếu một ngày nào đó, Chúa lấy lòng thương xót hải hà mà khấn ban cho
người tôi tớ vô cùng bất xứng này của Chúa.
Vì thế, con tự buộc mình là trong suốt
quãng đời còn lại, con sẽ không bao giờ muốn được phép hay tự do trốn tránh cơ
hội được chết và đổ máu ra cho Chúa, trừ khi con xét thấy lúc bấy giờ con hành
động cách khác thì sẽ mang lại vinh quang lớn hơn cho Chúa. Ngoài ra, con còn
đoan hứa với Chúa điều này nữa là khi con bị cái chết hành hạ, con sẽ lãnh nhận
nó từ tay Chúa với tất cả niềm vui và sự sung sướng trong tâm hồn. Và vì thế,
lạy Chúa Giê-su đáng mến của con, nhờ tình yêu mãnh liệt thức đẩy, bây giờ con
xin dâng hiến máu huyết của con, thân xác và sự sống của con cho Chúa ; con chỉ
muốn chết cho một mình Chúa, nếu Chúa ban cho con ân huệ đó, vì Chúa đã đoái
thương chịu chết cho con. Xin giúp con sống thế nào để đáng được lãnh nhận ơn
này là được chết một cách thật hạnh phúc. Nhờ thế, lạy Thiên Chúa và lạy Đấng
Cứu Độ của con, từ tay Chúa, con sẽ đón nhận chén khổ đau của Chúa và kêu cầu
Thánh Danh ; Giê-su, Giê-su, Giê-su !
Lạy Thiên Chúa của con, con đau khổ biết bao khi Chúa chưa được nhận biết, khi miền đất man di này chưa hoàn toàn trở lại với Chúa, khi tội lỗi chưa bị đẩy lui khỏi họ. Vâng, lạy Thiên Chúa của con, nếu tất cả mọi cực hình, những cực hình tàn bạo ghê gớm mà các tù nhân trong miền này phải chịu, ập xuống trên mình con, thì con rất sẵn sàng hiến thân chịu thay cho họ, một mình con sẽ hứng chịu tất cả.
Lạy Thiên Chúa của con, con đau khổ biết bao khi Chúa chưa được nhận biết, khi miền đất man di này chưa hoàn toàn trở lại với Chúa, khi tội lỗi chưa bị đẩy lui khỏi họ. Vâng, lạy Thiên Chúa của con, nếu tất cả mọi cực hình, những cực hình tàn bạo ghê gớm mà các tù nhân trong miền này phải chịu, ập xuống trên mình con, thì con rất sẵn sàng hiến thân chịu thay cho họ, một mình con sẽ hứng chịu tất cả.
Lời nguyện
Lạy Chúa, Chúa đã sai hai thánh Gio-an và I-xa-ác cùng các bạn đi rao giảng Tin Mừng, và cuối cùng các ngài đã hy sinh mạng sống để thánh hoá Giáo Hội miền bắc Mỹ châu ngay từ những bước đầu. Xin nhận lời các ngài cầu thay nguyện giúp mà cho Giáo Hội khắp mọi nơi luôn được mùa trên cánh đồng truyền giáo. Chúng con cầu xin...
Lạy Chúa, Chúa đã sai hai thánh Gio-an và I-xa-ác cùng các bạn đi rao giảng Tin Mừng, và cuối cùng các ngài đã hy sinh mạng sống để thánh hoá Giáo Hội miền bắc Mỹ châu ngay từ những bước đầu. Xin nhận lời các ngài cầu thay nguyện giúp mà cho Giáo Hội khắp mọi nơi luôn được mùa trên cánh đồng truyền giáo. Chúng con cầu xin...
(trích
bài đọc Giờ Kinh Sách ngày 19/10-bản dịch của nhóm CGKPV)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét