Chúa Nhật 28 Quanh Năm Năm B
Bài Ðọc I: Kn 7, 7-11
"Ðem so sánh sự giàu
sang với sự khôn ngoan, tôi kể sự giàu sang như không".
Trích sách Khôn Ngoan.
Tôi đã ước ao được ban sự
hiểu biết, tôi cầu khẩn được thần trí khôn ngoan đến cùng tôi. Tôi lấy sự khôn
ngoan làm hơn vương quốc và ngai vàng: Ðem so sánh sự giàu sang với sự khôn
ngoan, tôi kể sự giàu sang như không. Tôi cũng không so sánh nó với kim cương,
vì mọi thứ vàng đem so sánh với nó thì kể như hạt cát nhỏ bé, và bạc đem để
trước nó thì kể như đất bùn.
Tôi yêu quý sự khôn ngoan hơn
sức khoẻ và sắc đẹp, tôi lấy nó làm hơn được sự sáng, vì sự sáng của nó không
hề tắt. Tất cả mọi sự tốt lành đều đến cùng tôi làm một với nó, và nhờ tay của
nó, tôi được đoan chính không kể xiết.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 89, 12-13.
14-15. 16-17
Ðáp: Xin cho chúng con sớm được no phỉ ân tình của Chúa, để
chúng con mừng rỡ hân hoan (c. 14).
Xướng: 1) Xin dạy chúng con
biết đếm ngày giờ, để chúng con luyện được lòng trí khôn ngoan. Lạy Chúa, xin
trở lại, chứ còn để tới bao giờ? Xin tỏ lòng xót thương tôi tớ của Ngài. - Ðáp.
2) Xin cho chúng con sớm được
no phỉ ân tình của Chúa, để chúng con mừng rỡ hân hoan trọn đời sống chúng con.
Xin ban niềm vui thế cho những ngày Chúa hạ nhục chúng con, thế cho những năm
chúng con mục kích nạn tai. - Ðáp.
3) Xin cho các bầy tôi nhìn
thấy sự nghiệp của Chúa, và cho con cháu họ được thấy vinh quang Ngài. Xin cho
chúng con được hưởng ân sủng Chúa là Thiên Chúa chúng con, sự nghiệp tay chúng
con làm ra, xin Ngài củng cố; xin Ngài củng cố sự nghiệp tay chúng con làm ra.
- Ðáp.
Bài Ðọc II: Dt 4, 12-13
"Lời của Chúa phân
tách tình cảm với ý nghĩ của tâm hồn".
Trích thư gửi tín hữu
Do-thái.
Anh em thân mến, lời Thiên
Chúa là lời hằng sống, linh nghiệm, sắc bén hơn mọi thứ gươm hai lưỡi, thấu suốt
đến nỗi phân rẽ linh hồn với thần trí, gân cốt với tuỷ não, phân tách tình cảm
với ý nghĩ của tâm hồn. Không một tạo vật nào ẩn khuất được trước mặt Chúa; tất
cả mọi sự đều phơi trần và tỏ ra trước mắt của Ðấng mà chúng ta phải trả lẽ.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Lc 19, 38
Alleluia, alleluia! - Chúc
tụng Ðức Vua, Ðấng nhân danh Chúa mà đến! Bình an trên trời và vinh quang trên
các tầng trời! - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 10, 17-27
"Ngươi hãy đi bán tất
cả gia tài rồi đến theo Ta".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Marcô.
Khi ấy Chúa Giêsu vừa lên
đường, thì một người chạy lại quỳ gối trước Người và hỏi: "Lạy Thầy nhân
lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời?" Chúa Giêsu trả lời: "Sao
ngươi gọi Ta là nhân lành? Chẳng có ai là nhân lành, trừ một mình Thiên Chúa.
Ngươi đã biết các giới răn: đừng ngoại tình, đừng giết người, đừng trộm cắp,
đừng làm chứng gian, đừng lường gạt; hãy thảo kính cha mẹ". Người ấy thưa:
"Lạy Thầy, những điều đó tôi đã giữ từ thuở nhỏ".
Bấy giờ Chúa Giêsu chăm chú
nhìn người ấy và đem lòng thương mà bảo rằng: "Ngươi chỉ thiếu một điều,
là ngươi hãy đi bán tất cả gia tài, đem bố thí cho người nghèo khó và ngươi sẽ
có một kho báu trên trời, rồi đến theo Ta". Nhưng người ấy nghe những lời
đó, thì sụ nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải. Lúc đó Chúa
Giêsu nhìn chung quanh và bảo các môn đệ rằng: "Những người giàu có vào
nước Thiên Chúa khó biết bao!" Các môn đệ kinh ngạc vì những lời đó. Nhưng
Chúa Giêsu lại nói tiếp và bảo các ông rằng: "Hỡi các con, những kẻ cậy
dựa vào tiền bạc, thật khó mà vào nước Thiên Chúa biết bao! Con lạc đà chui qua
lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào nước Thiên Chúa". Các ông càng kinh
ngạc hỏi nhau rằng: "Như vậy thì ai có thể được cứu độ?" Chúa Giêsu
chăm chú nhìn các ông, và nói: "Ðối với loài người thì không thể được,
nhưng không phải đối với Thiên Chúa, vì Thiên Chúa làm được mọi sự".
{Phêrô thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Ðây chúng con đã bỏ
mọi sự mà theo Thầy". Chúa Giêsu trả lời rằng: "Thầy bảo thật các
con, chẳng ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái, đồng ruộng vì Thầy
và vì Tin Mừng, mà ngay bây giờ lại không được gấp trăm ở đời này về nhà cửa,
anh em, chị em, cha mẹ, con cái và ruộng nương, cùng với sự bắt bớ, và ở đời
sau được sự sống vĩnh cửu. Nhưng có nhiều kẻ trước nhất sẽ nên rốt hết, và
những kẻ rốt hết sẽ nên trước nhất".}
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm:
Ðức Giêsu nhấn mạnh đến sự
chọn lựa của một người đi theo Chúa: chọn của cải dưới đất hay kho tàng trên
trời?
Người thanh niên trong bài
Tin Mừng là một người giàu có và giữ nền đạo đức từ thuở nhỏ. Nhưng khi Ðức
Giêsu đưa ra một điều kiện cao hơn: chia sẻ của cải cho tha nhân, thì anh ta
chán nản bỏ đi. Ðức Giêsu cho chúng ta thấy: để được vào Nước Trời, không chỉ
giữ đúng, giữ đủ các điều luật, không làm gì hại đến ai như anh nhà giàu kia,
mà còn phải thực thi bác ái. Vì chỉ ai sẵn sàng nên nghèo khó về bản thân để
mưu ích cho anh em mới xứng đáng đón nhận ơn cứu độ.
Cầu Nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, Chúa dạy
chúng con muốn theo Chúa, muốn vào được Nước Trời, phải từ bỏ tất cả. Mỗi người
chúng con đi theo Chúa nhưng vẫn muốn tích trữ cho mình thật nhiều của cải.
Tiền của đời này là một trở ngại, biến chúng con thành nô lệ, ích kỷ và khó
thoát ra được để đến với anh em. Xin cho chúng con hiểu rằng của cải trần gian
chóng qua mau hết. Ðược Chúa, được Nước Trời mới là hạnh phúc đích thực. Amen.
(Lời Chúa
trong giờ kinh gia đình)
Hãy Ði Theo Chúa
Suy Niệm:
Chúa Nhật XXVIII Thường
Niên Năm B
Khôn ngoan 7,7-11; Hipri
4,12-13; Marcô 10,17-30
Hằng tuần và có khi hằng
ngày, chúng ta họp nhau lại đây cử hành thánh lễ để làm gì? Có lẽ cuối cùng
chúng ta phải dựa vào các bài Thánh Kinh hôm nay để trả lời một cách thỏa đáng.
Chúng ta muốn bắt chước vua Salomon đến đây cầu xin ơn khôn ngoan để biết sống
ở đời. Và hơn nữa, chúng ta muốn như chàng thanh niên trong Phúc Âm xin Chúa
chỉ đàng cho chúng ta như lời bài Thánh Thư hôm nay không? Do đó những bài Kinh
Thánh chúng ta vừa nghe đọc, rất đáng suy nghĩ và phải được đem ra thực hành.
Chúng ta hãy đọc lại.
1. Cầu Xin Ơn Khôn Ngoan
Bài sách Khôn ngoan cho chúng
ta được nghe lại chính lời của Salomon. Ông nổi tiếng thông minh nhất đời, ít
là theo ý kiến người Dothái. Không phải tự ông có sự khôn ngoan vượt bực ấy.
Ông đã xin cùng Thiên Chúa và Người đã thương ban cho ông vì ông biết quý nó
hơn hết mọi sự ở đời. Về điểm này ông đã nói đúng. Sách Các Vua quyển I còn kể
(3,4-14): khi mới lên ngôi, Salomon đã đến Gabaon, một thánh điện nổi tiếng
thời bấy giờ. Ông dâng có cả hàng nghìn tế vật lên Thiên Chúa. Người đã hiện ra
với ông và hỏi ông xin gì? Ông khiêm tốn thú nhận mình còn trẻ trung mà phải
cai trị một dân tộc "đông đúc"; nên ông không xin điều gì khác ngoài
một lòng trí biết nghe lời Chúa để trị dân và phân biệt phải trái mà thôi. Ðiều
ông xin đã đẹp ý Chúa và Salomon đã nhận được ơn khôn ngoan.
Câu đầu của đoạn sách hôm nay
nhắc lại câu truyện ấy. Và những câu sau làm chứng Salomon đã nhớ kỹ những lời
Chúa phán hôm ở Gabaon. Người bảo: vì ngươi đã xin sự khôn ngoan chứ không xin
được sống lâu giàu bền hay là chiến thắng trên quân thù� nên Ta se cho ngươi
một lòng trí khôn ngoan đến nỗi trước và sau ngươi không có ai trong thiên hạ
khôn ngoan bằng ngươi. Salomon đã nhớ lời này. Ông hằng suy niệm. Và hôm nay
trong đoạn sách Khôn ngoan chúng ta vừa nghe, ông lặp đi nói lại rằng ông quý
sự khôn ngoan hơn hết. Sức khỏe và sắc đẹp, vàng bạc và ánh sáng, tất cả đều
như cát mạt sánh với sự khôn ngoan. Ðược nó là có mọi sự vì nó nắm giữ mọi sự
trong tay.
Ðối với Salomon, khôn ngoan
là một sự gì rõ rệt. Ðó là tài cai trị dân theo đúng ý Chúa. Nói đúng hơn đó là
ơn trung thành biết lắng nghe lời Chúa và hiểu ý Người để lãnh đạo dân. Sự khôn
ngoan đó chắc chắn không dành cho mọi người. Và không phải ai ai cũng cần cầu
xin ơn ấy. Khôn ngoan khuyên bảo hết thảy chúng ta ao ước sự khôn ngoan, thì nó
muốn nói đến sự khôn ngoan nào?
Không dễ trả lời câu hỏi này
đâu. Ðọc sách Khôn ngoan từ đầu tới cuối, chúng ta thấy tác giả không bao giờ
định nghĩa sự khôn ngoan bằng những công thức cụ thể. Dường như khôn ngoan là
một huyền nhiệm. Người ta phải cố gắng mon men tới gần. Và tùy như mức cải tạo
thực hiện được khi tiến lên với đức khôn ngoan, người ta mới hiểu thêm được và
lãnh nhận dần được ơn cao cả này. Cuối cùng chúng ta có thể nói, khôn ngoan
chính là Thiên Chúa, là thần trí của Người, là sự sống của Người, không phải
như một thực tại ở xa chúng ta, nhưng đang muốn đến với chúng ta để làm cho
chúng ta nên khôn ngoan hơn, tức là thánh thiện hơn và do đó hạnh phúc hơn.
Ðó mới thật là sự khôn ngoan
mà phụng vụ hôm nay mượn lời Salomon khuyên nhủ chúng ta hãy ao ước và cầu xin.
Ðừng quý gì hơn nó vì chỉ có nó là hạnh phúc đầy đủ cho chúng ta. Nếu muốn cụ
thể hơn, chúng ta hãy nói rằng sự khôn ngoan mà chúng ta phải cầu xin chính là
ơn cứu độ mà Ðức Kitô đã mang đến, là chính Ðức Yêsu là sự khôn ngoan của Thiên
Chúa đã giáng sinh làm người. Chúng ta hãy nhìn Người trong bài Tin Mừng hôm
nay.
2. Hãy Ði Theo Chúa
Thánh Marcô kể hôm ấy Ðức
Yêsu đang đi đường. Người lên Yêrusalem để thụ nạn cứu thế và ban hạnh phúc cho
mọi người. Một chàng thanh niên chạy đến, quỳ xuống trước mặt Người và thưa với
Người như một bậc "tôn sư": "Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì
để được sống đời đời làm cơ nghiệp". Anh chưa thấy Người khác mọi bậc thầy
và khác với mọi sư phụ. Anh tưởng Người cũng giống như bao luật sĩ hoặc nhà
truyền đạo đã thay lượt nhau đến dạy đường khôn ngoan cho loài người. Có lẽ anh
chỉ coi Người hơn họ một chút xíu thôi.
Nhưng Người không phải như
vậy. Người không đến dạy sự khôn ngoan, nhưng là chính sự khôn ngoan nhập thể.
Người không chỉ dạy đàng dẫn đến sự sống đời đời, nhưng có chính sự sống ấy để
ban cho những ai biết đón nhận... Thế nên Người đã nhắc nhở anh nghĩ tới điều
đó và phải nhận ra Người không phải là một bậc Thầy thông thường. Người bảo
anh: "Sao ngươi nói Ta tốt lành? Không có ai tốt lành trừ phi có một Thiên
Chúa". Nghĩa là nếu ngươi nói Ta là tốt lành, thì ngươi nên nhận ra thần
tính ở nơi Ta; Ta là Thiên Chúa giáng trần. Thế nên lời Ta nói đây không phải
là ý kiến của một luật sĩ hay của một nhà truyền đạo, nhưng là của chính Thiên
Chúa. Và Người đã nhắc lại cho anh những giới răn trong Luật pháp. Chàng thanh
niên vội thưa: "Lạy Thầy, mọi điều đó tôi đã giữ từ thuở bé". Lời anh
nói làm chúng ta liên tưởng tới ý kiến của Phaolô phát biểu sau này: "Ðời
tôi từ lúc thiếu thời... đã sống theo phái nhiệm nhặt trong tôn giáo chúng
tôi...". Hoặc chúng ta cũng có thể nghĩ tới lời tự tín của người biệt phái
nọ lên đền thờ cầu nguyện: "Lạy Thiên Chúa, tôi đội ơn Người, vì tôi không
phải như những người khác... mỗi tuần tôi ăn chay 2 lần, tôi nộp thuế thập
phân...".
Quả thật, chàng thanh niên
đang đứng trước mặt Chúa Yêsu, là hình ảnh của biệt phái, của những con người
tưởng rằng có thể chiếm được Nước Trời bằng cách giữ luật hoặc thi hàn các
nguyên tắc khôn ngoan này, khôn ngoan khác. Ðức Yêsu nhìn chàng thanh niên ấy;
Người muốn yêu những tâm hồn như vậy; Người muốn cứu độ họ thật sự. Người bảo
anh ta: ngươi chỉ thiếu một điều: đi đi! Có gì thì đem bán hết mà chi kẻ khó,
và ngươi sẽ có một kho tàng trên trời, đoạn hãy đến theo Ta.
Thánh Marcô kể tiếp:
"Người ấy sầm mặt xuống vì lời đó mà bỏ đi buồn rầu, vì nó có nhiều
của". Có thể thánh nhân đã viết như vậy để chuyển ý sang đoạn văn sau nói
về nguy hiểm do của cải, đối với Nước Trời. Ðúng hơn người đã áp dụng ý của
Chúa vào trường hợp cụ thể của độc giả tác phẩm của người. Những người này là
các tín hữu đã tin vào Ðức Kitô chứ không phải là các biệt phái nữa. Họ cũng
phải giữ Lời Chúa. Và cho được như vậy phải biết áp dụng Lời của Người vào
trường hợp của mình. Vậy lời của Người khi xưa, tức là lúc Người đang ở trần gian,
đã trực tiếp nói với chàng thanh niên đã giữ các giới răn từ thuở bé, tức là
vẫn tưởng rằng có thể dùng sức mình và theo sự khôn ngoan của mình mà được sự
sống đời đời. Không, người ta phải từ bỏ mọi ảo tưởng đó, phải khước từ hết,
phải bắt chước Salomon trông cậy nguyên vào Chúa. Người ta phải đi bán tất cả,
từ bỏ tất cả vì Nước Trời, rồi đến đi theo Chúa.
Lời Ðức Yêsu nói với chàng
thanh niên có giá trị tổng quát và triệt để. Chúng ta phải ghi nhớ tính cách
tuyệt đối này. Người ta không được cậy dựa gì ngoài Chúa. Của cải chỉ là một
diện phải từ bỏ, tuy là diện khá quan trọng.
Nhưng vì sao thánh Marcô lại
chú ý đến diện này? Phải chăng như lời Tin Mừng Luca viết: "Biệt phái vốn
tham tiền"? (16,14). Hay là tại vì ở thời Marcô viết sách Tin Mừng, của cải
đã trở thành vấn đề trong đời sống đạo? Tín hữu phải tự đồng hóa mình với hạng
"nghèo khó được rao giảng Phúc Âm". Như vậy sẽ không được giàu có
sao? Và như vậy sẽ được gì?
Chúng ta có thể coi lời Phêrô
hỏi Chúa hôm nay như phản ảnh tâm lý và những thắc mắc này. Và chúng ta thấy
câu trả lời thật khôn ngoan. Kẻ bỏ mọi sự mà theo Chúa vẫn có mọi sự ở đời này
và cộng thêm sự bị bắt bớ. Ðàng rằng chỉ có Marcô thêm chữ "bị bắt
bớ" này vào câu trả lời của Chúa. Có lẽ vì hoàn cảnh đặc biệt của Hội Thánh
thời Marcô viết tác phẩm Tin Mừng. Nhưng ai cấm chúng ta suy nghĩ rằng: theo
thánh nhân, môn đệ của Chúa ở đời này không tất nhiên phải biến mình trở thành
khố rách áo ôm. Như mọi người, họ vẫn có nhà để ở, áo để mặc, cơm để ăn, họ
hàng bè bạn để tương giao... và còn có hơn vì tình huynh đệ và tương trợ trong
Hội Thánh; nhưng họ hãy có như không có, hưởng như không hưởng, vì họ phải sống
mầu nhiệm thập giá Ðức Kitô mà viễn tượng "bị bắt bớ" luôn nhắc nhở
người ta phải có tinh thần từ bỏ tuyệt đối vì Nước Trời. Và của cải là diện khó
từ bỏ, đến nỗi con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào được
Nước Trời.
Các môn đệ của Ðức Yêsu đã
ngạc nhiên trước những đòi hỏi như vậy. Họ sợ ít người có thể vào được Nước
Thiên Chúa. Ðúng, với sức mình, với sự khôn ngoan của mình, loài người không
làm gì được đâu. Nhưng, "mọi sự đều là có thể nơi Thiên Chúa"; tức là
người ta phải trông cậy vào Chúa và chỉ trông cậy vào một mình Người mà thôi.
Salomon đã có thái độ như vậy trong bài sách Khôn ngoan hôm nay... Còn chàng thanh
niên kia, giống như các biệt phái, không muốn bỏ mọi sự và quan điểm của mình
mà theo Chúa và thi hành Lời của Người. Tại sao vậy? Chúng ta hãy nghe lời thư
Hipri.
3. Hãy Thi Hành Lời Chúa
Thư Hipri bàn rất nhiều và
sâu sắc về chức tư tế trong đạo mới. Ðạo cũ tức là Dothái giáo có hàng tư tế
đông đảo và lễ nghi sầm uất. Số lượng tế vật cùng khói hương và huyết chảy
không thể tưởng tượng được. Nhưng tất cả để làm gì? Chỉ là một thất bại hoàn
toàn; một bất lực không hơn không kém. Tội lỗi của dân chúng vẫn còn đó. Chính
vì vậy mà Cựu Ước cứ phải dâng lễ không ngừng.
Trong Tân Ước trái lại, máu
Ðức Yêsu đã rửa sạch mọi tội. Người chỉ dâng lễ một lần. Người đã đi vào cung
thánh của chính bản tính Thiên Chúa qua mầu nhiệm tử nạn của Người. Người ta
chỉ còn phải tham dự vào lễ tế vô giá ấy.
Nhưng đi vào lễ tế này sao
được khi không để thân thể mình nát ra như chính của lễ hy sinh trên thập giá?
Và phương tiện phân nát thân thể con người chính là Lời Chúa. Vì đây không phải
là ý tưởng, mà là sự sống. Ðó là sự sống bởi trời xuống, đi vào thân xác con
người, sắc bén hơn mọi thứ gươm hai lưỡi và đâm phập vào tận ranh giới hồn
phách... cùng biện phân ra được tình và ý tưởng của lòng dạ. Người ta cứ xem
Ngôi Lời đã thành nhục thể. Người đã sống một cuộc đời gian khổ như thế nào.
Cuối cùng Người đã chết trên thập giá để trở thành của lễ cứu độ và trở nên vị
Thượng tế của đạo mới. Người ta cũng phải để cho Lời Chúa thấm nhập tâm can...
đóng đinh dục vọng và xác thịt vào thập giá. Có như vậy con người mới trở nên
của lễ và mới tham dự vào chức tư tế của Ðức Kitô, mới được khỏi tội và ngang
qua các tầng trời đi vào nơi yên nghĩ ở trong Thiên Chúa.
Cái lầm của đạo cũ là thái độ
vụ hình thức, là não trạng tưởng rằng giữ được Luật pháp là có sự sống đời đời.
Thật ra điều quan trọng là phải từ bỏ "sự sống của mình", của con
người cũ ở nơi mình và nhận lấy sự sống mới đến từ Thiên Chúa. Salomon đã biết
từ bỏ mọi sự để được sự khôn ngoan; Ðức Yêsu bảo người thanh niên phải đi bán
tất cả để đến đi theo Người; tác giả thư Hipri khuyên chúng ta hãy để cho Lời
Chúa thấm nhập biện phân tình và ý tưởng của lòng dạ. Ai sẵn sàng làm như vậy?
Chúng ta hãy chạy đến Thánh
Thể, tham dự vào lễ tế của Ðức Kitô. Hãy hòa mình vào tâm tình xả kỷ cứu thế
của Người. Hãy sống chân thật theo lương tâm và Lời Chúa dạy bảo và thôi lấy
hình thức che đậy tâm can. Ai làm như vậy mà còn sợ sẽ không được sự sống đời
đời? Ðó là người khôn ngoan hơn hết, hơn cả Salomon, vì ở đây nơi bàn thờ, còn
có Ðấng trọng hơn Salomon và còn dạy đường khôn ngoan hơn Salomon. Chúng ta hãy
đến và nhận lấy Người.
(Trích dẫn từ tập sách
Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục
Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chủ Nhật 28 Thường Niên, Năm B
Bài đọc: Wis 7:7-11; Heb 4:12-13; Mk
10:17-30.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Phải làm gì để đạt được cuộc sống đời đời?
Nhiều người biết rất rõ
đích điểm của cuộc đời là cuộc sống hạnh phúc muôn đời bên Chúa; nhưng làm thế
nào để đạt được đích điểm đó, có nhiều ý kiến khác nhau. Có người cho chỉ cần
tin vào Đức Kitô là được cứu rỗi; có người cho chỉ cần đi lễ mỗi tuần, đọc kinh
mỗi ngày; có người cho chỉ cần ăn ngay ở lành... Nhưng thánh Giacôbê nói:
"đức tin không việc làm là đức tin chết." Chúa Giêsu cũng tuyên bố:
''không phải ai nói Lạy Chúa! Lạy Chúa! mà được vào Nước Trời; nhưng chỉ có
những ai lắng nghe và thực hành Lời Chúa.'' Và câu châm ngôn ăn ngay ở lành
cũng rất tổng quát và mơ hồ: Nếu chỉ giản lược trong đời sống chỉ biết lo cho
cá nhân hay gia đình mình, cuộc sống như thế có đủ đáp ứng lời mời gọi mà Chúa
dạy các môn đệ trong Kinh Lạy Cha không? Một cách cụ thể, con người đã góp phần
gì vào việc: xin cho danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý cha thể hiện dưới
đất cũng như trên trời?
Các Bài Đọc hôm nay chú
trọng đến câu hỏi: Phải làm thế nào để đạt được cuộc sống đời đời? và câu trả
lời: "Phải lắng nghe và thực hành Lời Chúa." Trong Bài Đọc I, tác giả
Sách Khôn Ngoan đề cao sự quan trọng của Đức Khôn Ngoan. Theo ông, Đức Khôn
Ngoan đáng quý trọng hơn mọi sự trên trần gian này, vì hai lý do: (1) Có Đức
Khôn Ngoan là có mọi sự; và (2) Chỉ có Đức Khôn Ngoan tồn tại muôn đời. Trong
Bài Đọc II, tác giả Thư Do-thái đồng nhất Đức Khôn Ngoan với Lời Chúa, hay Ngôi
Lời chính là sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Không như khôn ngoan của thế gian,
Lời Chúa luôn sống động, hiệu quả, và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi. Lời Chúa
đòi con người phải suy tư, thúc đẩy con người phải hành động, và làm chứng cho
con người trước tòa phán xét của Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, khi được người
thanh niên hỏi phải làm gì để đạt được cuộc sống đời đời, Chúa Giêsu tuyên bố:
phải giữ tất cả các điều răn.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Với
Đức Khôn Ngoan, mọi sự tốt lành đã đến với tôi.
1.1/ Hiểu biết khôn ngoan
đáng quí trọng hơn mọi sự: Theo truyền thống Do-thái, vua Solomon là "tác
giả" của các Sách Khôn Ngoan; vì vua Solomon được coi là người khôn ngoan
nhất trong lịch sử của nhân loại. Truyền thống kể lại truyện khi Thiên Chúa hỏi
nhà vua muốn xin bất cứ gì, thì Thiên Chúa cũng ban cho. Vua Solomon không xin
cho có uy quyền, cũng chẳng xin cho được giầu có, sức khỏe, sống lâu, hay bất
cứ điều gì khác; nhưng chỉ xin cho được khôn ngoan để biết sống và cai trị dân.
Thiên Chúa rất hài lòng với điều nhà vua xin; nên Ngài hứa sẽ ban cho vua
Solomon được khôn ngoan đến độ không có ai trước và sau vua được khôn ngoan như
thế.
+ Khôn ngoan quí trọng
hơn vương quyền: Nắm giữ vương trượng, ngai vàng, mà không biết cách cai trị dân
chúng; sớm muộn gì rồi vương quyền cũng vào tay người khác. Nếu có Đức Khôn
Ngoan, vua sẽ biết lòng dân mong ước gì, và cai trị họ theo những điều họ mong
ước, thì vương quyền sẽ tồn tại lâu dài, và vua không phải chịu trách nhiệm
trước tòa phán xét của Thiên Chúa.
+ Khôn ngoan quí trọng
hơn của cải:
Vua Solomon thú nhận: ''Đối với tôi, trân châu bảo ngọc chẳng sánh được với Đức
Khôn Ngoan, vì vàng trên cả thế giới, so với Đức Khôn Ngoan, cũng chỉ là cát
bụi, và bạc, so với Đức Khôn Ngoan, cũng kể như bùn đất.'' Có giàu có đến đâu
chăng nữa, mà không biết cách sống sao để được bình an và hạnh phúc, có lợi cho
người sở hữu nó đâu. Thực tế chứng minh: nhiều người giàu có, nhưng vẫn không
muốn sống, và có người còn tìm cách kết liễu đời mình nữa.
+ Khôn ngoan quí trọng
hơn sức khỏe và sắc đẹp: Đây phải là bài học khôn ngoan cho nhiều người trong xã hội chúng
ta, quá chú trọng đến việc tập luyện và nhịn ăn uống để có một thân thể cân đối
đẹp đẽ và khỏe mạnh. Dĩ nhiên chúng ta không đả kích những điều đó không quan
trọng; nhưng không đủ để mưu cầu hạnh phúc cho con người. Có đẹp đẽ khỏe mạnh
đến đâu chăng nữa, rồi cũng úa tàn theo thời gian. Vua Solomon cho biết lý do
ông quí trọng Đức Khôn Ngoan hơn: ''Tôi đã ham chuộng Đức Khôn Ngoan hơn sức
khoẻ và sắc đẹp, đã quý Đức Khôn Ngoan hơn ánh sáng, vì vẻ rực rỡ của Đức Khôn
Ngoan chẳng bao giờ tàn lụi.''
Nói tóm, vua Solomon đã
suy nghĩ rất nhiều khi xin cho được Đức Khôn Ngoan, vì khi có Đức Khôn Ngoan là
có tất cả: ''Nhưng cùng với Đức Khôn Ngoan, mọi sự tốt lành đã đến với tôi. Nhờ
tay Đức Khôn Ngoan, của cải quá nhiều không đếm xuể.''
1.2/ Làm sao để có Đức
Khôn Ngoan?
Khác với khôn ngoan của thế gian, ai muốn có phải cố gắng luyện tập; Đức Khôn
Ngoan mà vua Solomon có được là do Thiên Chúa ban: "Vậy tôi nguyện xin, và
Thiên Chúa đã ban cho tôi sự hiểu biết. Tôi kêu cầu, và thần khí Đức Khôn Ngoan
đã đến với tôi.''
2/ Bài đọc II: Đức
Khôn Ngoan chính là Lời của Thiên Chúa.
2.1/ Đặc tính trổi vượt
của Lời Chúa:
Tác giả Thư Do-thái liệt kê các đặc tính của Lời Chúa như sau: "Lời Thiên
Chúa là lời sống động, hữu
hiệu và sắc
bén hơn cả gươm hai lưỡi: xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh,
cốt với tuỷ; lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người."
(1) Sống động (zôn): Tất cả các tác phẩm nhân loại, dù hay đến đâu
chăng nữa, cũng bị thời gian đào thải, vì không theo kịp đà tiến của nhân loại;
nhưng Kinh Thánh lại khác, nó vẫn luôn sống động. Đã hơn hai ngàn năm qua, Kinh
Thánh vẫn là Sách được nhiều người đọc nhất, vì nội dung của Kinh Thánh vẫn
thích hợp và sống động với con người ở mọi thời và mọi nơi.
(2) Hữu hiệu (energês): Lời Chúa trong Kinh Thánh không phải chỉ
là những lời để suy niệm; nhưng thúc đẩy và cung cấp năng lực cho con người
hành động. Tiên-tri Isaiah nói rất hay về Lời Chúa như sau: "Cũng như mưa
với tuyết sa xuống từ trời không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm
cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc, cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói
có bánh ăn, thì lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không trở về
với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ
mạng Ta giao phó" (Isa 55:10-11). Hai câu này chắc chắn áp dụng cho Đức
Kitô là Ngôi Lời của Thiên Chúa, khi Ngài xuống trần gian nhập thể để cứu chuộc
con người. Hai câu đó cũng áp dụng cho chúng ta, vì tuy ơn cứu chuộc Đức Kitô
đã dọn sẵn cho con người; nhưng nó phải hoạt động nơi chúng ta để mang lại ơn
cứu chuộc cho cá nhân chúng ta.
(3) Sắc bén hơn cả gươm
hai lưỡi:
Như thanh gươm hai lưỡi có sức xuyên thủng cả hai bên, Lời Chúa sắc bén, có sức
xuyên thủng bất cứ con người nào, cho dù những người lạnh lùng và chai đá nhất.
+ xuyên thấu chỗ phân
cách tâm với linh: Truyền thống Hy-lạp tin con người là tập hợp của ba phần: tinh
thần (pneuma), đời sống thể lý
(psychê), và thân xác (sark). Psyche là đời sống thể lý của con
người, cái mà con người có chung với các tạo vật khác; nhưng cái làm con người
suy nghĩ và hành động khác nhau là tinh thần.
+ xuyên thấu chỗ phân
cách sụn (harmos) với tuỷ (muelos): Nếu thanh gươm có thể tách rời sụn với
tủy; Lời Chúa cũng có thể tách rời tinh thần ra khỏi đời sống thể lý của một
người. Lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người.
2.2/ Lời Chúa là chứng cớ
phán xét con người: "Vì không có loài thọ tạo nào mà không hiện rõ trước Lời
Chúa, nhưng tất cả đều trần trụi và phơi bày trước mặt Đấng có quyền đòi chúng
ta trả lẽ." Lời Chúa thúc đẩy con người phải hành động, các việc làm của
con người sẽ là những bằng chứng tố cáo con người. Ví dụ, Gioan nói về việc con
người phán xét chính mình như sau: "Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người
đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của
Người, mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ
không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên
Chúa" (Jn 3:17-18). Sự hiện diện của Đức Kitô buộc con người phải hành
động: tin hay không tin vào Ngài; và tùy vào việc tin hay không tin, con người
tự luận phạt chính mình. Con người không thể giữ thái độ trung dung, không chịu
phản ứng, trước sự hiện diện của Đức Kitô trong cuộc đời.
3/ Phúc Âm: Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời
làm gia nghiệp?
3.1/ Làm thế nào để đạt
được đích điểm của cuộc đời: Đức Giêsu vừa lên đường, thì có một người chạy đến, quỳ
xuống trước mặt Người và hỏi: "Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để
được sự sống đời đời làm gia nghiệp?" Đức Giêsu đáp: "Sao anh nói tôi
là nhân lành? Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa. Hai điều Chúa
đòi anh phải làm:
(1) Giữ các giới răn với
tha nhân:
''Hẳn anh biết các điều răn: Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ
làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ cha kính mẹ." Anh ta nói:
"Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ."
(2) Giữ các giới răn với
Thiên Chúa:
Đức Giêsu đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến. Người bảo anh ta: "Anh
chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ
được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi." Điều Chúa Giêsu đòi
hỏi anh ở đây không gì khác hơn giới răn thứ nhất: "Phải yêu mến Thiên
Chúa trên hết mọi sự." Nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ
đi, vì anh ta có nhiều của cải.''
3.2/ Giàu có khó vào Nước
Trời: Đức
Giêsu nói với các môn đệ: "Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa
biết bao! Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên
Chúa." Các ông lại càng sửng sốt hơn nữa và nói với nhau: "Thế thì ai
có thể được cứu?"
Đức Giêsu nhìn thẳng vào
các ông và nói: "Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với
Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể
được."
(1) Điều Chúa muốn nhấn
mạnh ở đây là
con người không được đặt của cải trên lòng mến Thiên Chúa, vì "của cải anh
ở đâu, lòng trí anh ở đó." Nếu lòng trí đã đặt vào của cải, còn lòng trí
đâu dành cho Thiên Chúa và các việc của Ngài? Chúng ta không nói của cải không
cần thiết; nhưng chúng ta phải đặt đúng thứ tự của nó: sau Thiên Chúa và sau
tha nhân.
(2) Phần thưởng cho
những môn đệ của Đức Kitô: Thiên Chúa là Đấng uy quyền và thương yêu, Ngài không bao
giờ bỏ đói những ai trông cậy và làm việc cho Ngài. Chúa Giêsu hứa với các môn
đệ: "Thầy bảo thật anh em: Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ
cha, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, mà ngay bây giờ, ở đời này,
lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, gấp trăm,
cùng với sự ngược đãi, và sự sống vĩnh cửu ở đời sau.'' Khi các môn đệ đi theo
Chúa, họ giả sử phải bỏ tất cả: nghề nghiệp, gia đình, nhà cửa, và mọi thứ tiện
nghi; nhưng họ không chết đói, và họ có nhiều thời gian dành cho việc mở mang
Nước Trời.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC
SỐNG:
- Chúng ta phải đặt đúng
thứ tự ưu tiên trong cuộc đời: Thiên Chúa, tha nhân, và của cải vật chất. Đảo
lộn thứ tự ưu tiên này sẽ gây bất an, chia rẽ, và làm cho con người mất hạnh
phúc.
- Tin như nào sẽ sống
như thế. Nếu chúng ta tin Đức Khôn Ngoan là điều đáng quí trọng hơn hết các giá
trị vật chất, hãy cầu nguyện để xin Thiên Chúa cho chúng ta hiểu được Lời Chúa.
- Để đạt được cuộc sống
đời đời, chúng ta phải giữ tất cả điều răn; chứ không chỉ giữ một số những gì
chúng ta thích, và bỏ lơ những gì chúng ta không thích.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
Chúa Nhật tuần 28 thường niên, năm B
Suy niệm: Ðức Giêsu nhấn mạnh đến sự chọn lựa của một
người đi theo Chúa: chọn của cải dưới đất hay kho tàng trên trời?
Người thanh niên trong bài Tin Mừng là một người
giàu có và giữ nền đạo đức từ thuở nhỏ. Nhưng khi Ðức Giêsu đưa ra một điều
kiện cao hơn: chia sẻ của cải cho tha nhân, thì anh ta chán nản bỏ đi. Ðức
Giêsu cho chúng ta thấy: để được vào Nước Trời, không chỉ giữ đúng, giữ đủ các
điều luật, không làm gì hại đến ai như anh nhà giàu kia, mà còn phải thực thi
bác ái. Vì chỉ ai sẵn sàng nên nghèo khó về bản thân để mưu ích cho anh em mới
xứng đáng đón nhận ơn cứu độ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa dạy chúng con muốn theo Chúa, muốn vào
được Nước Trời, phải từ bỏ tất cả. Mỗi người chúng con đi theo Chúa nhưng vẫn
muốn tích trữ cho mình thật nhiều của cải. Tiền của đời này là một trở ngại,
biến chúng con thành nô lệ, ích kỷ và khó thoát ra được để đến với anh em. Xin
cho chúng con hiểu rằng của cải trần gian chóng qua mau hết. Ðược Chúa, được
Nước Trời mới là hạnh phúc đích thực. Amen.
Ghi nhớ : "Ngươi hãy đi bán tất cả gia tài rồi đến
theo Ta".
14/09/12 CHÚA NHẬT TUẦN 28 TN – B
Mc 10,17-30
Mc 10,17-30
ĐỪNG THIỆN CHÍ NỬA VỜI
“Anh chỉ thiếu có một
điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho
tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.” Nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt và
buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải. (Mc 10,21-22)
Suy niệm: Chúa Giêsu thực sự hài lòng, Ngài “đưa mắt nhìn và đem lòng yêu mến” người thanh niên vừa giàu của cải, đạo
đức lại giàu thiện chí này: tuy anh đã chu toàn đầy đủ cả một chuỗi dài các
luật lệ nhưng anh cũng cảm nhận mình mới đi được nửa đường trên con đường hoàn
thiện. Anh còn muốn tiến xa hơn, đó là “được
sự sống đời đời làm gia nghiệp.” Thế
nhưng thiện chí của anh mới chỉ được nửa vời: Khi nghe Chúa nói về bước tiến
quyết liệt để đạt được điều đó thì anh đã “sa
sầm nét mặt” và rút lui. Mà
lý do chỉ là “vì anh ta có
nhiều của cải”!
Mời Bạn: Muốn nên hoàn thiện phải dám từ bỏ ý riêng để vâng theo
thánh ý Chúa cách triệt để. Trong những hoàn cảnh xuôi thuận, chúng ta có thể
tỏ ra mình là người ngoan đạo. Thế nhưng khi gặp tình huống phải lựa chọn: nếu
muốn trung thành với niềm tin, với Tin Mừng, chúng ta phải từ bỏ một số những
thuận tiện hay quyền lợi nào đó, liệu chúng ta có tránh được thái độ “sa sầm nét mặt” đáng tiếc này không?
Chia sẻ: Bạn có kinh nghiệm nào về “thiện
chí nửa vời” như vậy trong
đời sống đạo không? Mời bạn chia sẻ.
Sống Lời Chúa: Tôi quyết tâm sống theo đòi hỏi của Tin Mừng trong mọi hoàn
cảnh của cuộc sống, dù cho bị thiệt thòi, mất mát.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, có gì là của con mà không bởi do Chúa ban cho,
xin cho con luôn xác tín điều này để con luôn biết sống cho đi trọn vẹn theo ý
Chúa muốn. Amen.
Được gấp trăm
Theo
Ðức Giêsu, ta sẽ được lại cả những điều đã mất. Cái được quan trọng nhất là
được Ðức Giêsu.
Suy niệm:
Khi đọc bài Tin Mừng trên đây
ta nếm được nỗi buồn của Ðức Giêsu
và của anh nhà giàu.
Ðức Giêsu buồn vì bị từ chối bởi
người mà mình yêu mến,
Anh kia buồn vì có sự rạn nứt nơi
bản thân.
Anh đã phấn khởi gặp Chúa, rồi ra đi
đầy muộn phiền.
Thầy Giêsu đòi anh đúng điều anh
muốn giữ lại,
vì của cải vốn là chỗ dựa của đời
anh.
Anh sẵn sàng làm mọi điều Thầy đòi
hỏi,
trừ việc bỏ chỗ dựa này.
Bây giờ anh thấy rõ hơn mình nô lệ
cho điều gì.
Tiếc thay anh không có can đảm ra
khỏi sự nô lệ này
dù anh vẫn khát khao sự sống đời
đời.
Bi kịch của anh cũng là của chúng
ta.
Ai trong chúng ta cũng từng bị giằng
co
giữa ước mơ bay cao và sự kéo ghì
của vật chất.
Của cải vật chất có sức hấp dẫn mãnh
liệt.
Tôi làm chủ nó, nhưng sau đó nó lại
làm chủ tôi
và trở thành thịt xương mà tôi không
thể dứt bỏ.
Không chắc người giàu này sẽ bị luận
phạt,
nhưng chắc chắn anh ta khó hạnh
phúc.
Hạnh phúc chỉ đến với người dám sống
theo ý Chúa.
Người có của khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!
Vào thời Ðức Giêsu, giàu có được coi
là một phúc lành.
Vậy mà Ngài lại coi đây là một cản
trở nguy hiểm.
Của cải dễ làm người ta khép kín
trước Thiên Chúa
và nỡ tâm chà đạp lên quyền lợi anh
em.
Tệ nạn tham nhũng, hối lộ ở Châu Á
là một thí dụ về nguy hiểm của tiền
bạc.
Ðức Giêsu và các môn đệ đã sống
nghèo,
sống như những người lữ hành, không
chỗ cậy dựa,
để tín thác vào Cha và dễ dàng đến
với anh em.
Theo Ðức Giêsu là chấp nhận tay
trắng, bấp bênh.
Nhưng đừng quên theo Ngài cũng là
trở nên giàu có.
Không phải sự giàu có do ích kỷ giữ
lại,
nhưng là sự giàu có do mở ra trao
hiến.
Không phải sự giàu có do tìm kiếm
chiếm đoạt,
nhưng là sự giàu có đến như một quà
tặng biếu không.
Theo Ngài không phải chỉ là bỏ nhà
cửa, ruộng vườn,
bỏ những người thân yêu, bỏ đến cả
mạng sống.
Theo Ngài còn là được gấp trăm ngay
từ đời này,
và nhất là đời sống vĩnh cửu mai
hậu.
Khi Phêrô ra khỏi hồ Galilê, với
nghề đánh cá,
ông được biết những biển khơi mênh
mông hơn nhiều.
Khi Phêrô bỏ lại cha mẹ, vợ con,
ông đứng đầu một cộng đoàn đông đảo
là Hội Thánh.
Chắc Têrêxa Hài Ðồng không ngờ mình
trở nên Thánh Sư.
Chắc Têrêxa Calcutta không ngờ đám
tang của mình
sẽ có cả triệu người tham dự.
Theo Ðức Giêsu, ta sẽ được lại cả những điều đã
mất.
Cái được quan trọng nhất là được Ðức
Giêsu (x. Pl 3,8).
Cầu nguyện:
Lạy Chúa
Giêsu,
giàu
sang, danh vọng, khoái lạc
là những
điều hấp dẫn chúng con.
Chúng
trói buộc chúng con
và không
cho chúng con tự do ngước lên cao
để sống
cho những giá trị tốt đẹp hơn.
Xin giải phóng chúng con
khỏi sự
mê hoặc của kho tàng dưới đất,
nhờ cảm
nghiệm được phần nào
sự phong
phú của kho tàng trên trời.
Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi
bán tất
cả những gì chúng con có,
để mua
được viên ngọc quý là Nước Trời.
Và ước gì chúng con không bao giờ quay lưng
trước
những lời mời gọi của Chúa,
không bao
giờ ngoảnh mặt
để tránh
cái nhìn yêu thương
Chúa dành cho từng người trong chúng con.
Amen.
LM.An-tôn
Nguyễn Cao Siêu, SJ.
"Ngươi hãy đi bán tất cả gia tài rồi đến theo Ta".
Tiền hay phong bì cũng được
Nói
nhỏ với nhau mà nghe: ai cũng thích tiền. Tiền Việt, tiền Đô, Euro hay gì cũng
được, miễn tiền là khoái rồi. Càng nhiều càng tốt. Cả ngoài xã hội lẫn trong
Giáo Hội. Có ai mà không khoái tiền? Nhưng khoái tiền đâu phải tội. Chúa cho
phép mà. Giáo Hội mà không có tiền thì lấy gì mà làm những việc bác ái? Lấy gì
mà xây dựng nơi thờ tự? Nhưng có một điều quan trọng mà ta cần lưu ý, phải nhận
thức rõ ràng: thích tiền đó là điều tự nhiên, nhưng không được MÊ TIỀN. Bởi khi
đã mê tiền, nghĩa là đã bị đồng tiền mê hoặc, thì người ta đã trở thành nô lệ
cho nó. Khi đã mê tiền, người ta sẽ nghĩ ra nhiều cách, kể cả những thủ đoạn, để
kiếm cho được nhiều tiền. Giá Giuđa không bị tiền bạc mê hoặc thì có lẽ ông đã
không phản bội Thầy. Câu chuyện hôm nay là một minh họa rất hay và rõ ràng về
sức mạnh của đồng tiền. Đó là một thanh niên đạo đức, rất lễ phép khi đến trước
mặt Chúa. Anh quỳ xuống và thưa: “Lạy Thầy nhân lành”. Rồi khi được tra vấn về
đời sống đạo đức, anh đã trả lời với Chúa rằng anh đã có một đời sống đạo rất
tốt. Anh đã được cha mẹ dạy dỗ ngay từ nhỏ về các giới răn của Thiên Chúa. Anh
không ảo tưởng. Bởi đúng thực là thế. Vì sau khi nghe anh trả lời, Chúa Giêsu
đã đưa mắt âu yếm nhìn anh và đem lòng yêu mến anh. Hạnh phúc biết bao, khi đời
người được đón nhận lòng yêu thương của Chúa. Anh thanh niên ấy, đã đi đúng
đường, trên con đường để nên hoàn thiện. Nhưng con đường anh đã và đang đi, mới
chỉ dừng lại ở mặt bằng hoàn thiện cá nhân. Chúa muốn dắt anh lên cao hơn, về
đỉnh cao của sự hoàn thiện. Đó là, anh phải vượt cao hơn chính mình. “Con hãy
về nhà, bán hết của cải, phân phát cho người nghèo khó, rồi đến đây theo Ta”.
Khó
quá! Đồng tiền liền khúc ruột. Nó là tiên, là Phật cơ mà! Nó là điểm tựa rất
vững cho cuộc đời; là sự sống của cuộc sống anh. Bây giờ phải bỏ… Đời mình sẽ
hụt hẫng, trắng tay. Tự ta lại bỏ ta rồi, tự ta làm khổ ta rồi. Anh xụ nét mặt
nuối tiếc. Niềm tin của anh yếu quá! Anh quên mất một điều: được Chúa là được
tất cả. Tiền bạc có là gì, nếu so với Chúa. Bởi mọi mỏ vàng, mỏ bạc, kim cương
đều do Chúa tạo nên. Vậy nếu, anh đi theo Chúa, như Chúa bảo, anh sẽ nhận được
sự an toàn to lớn gấp vô vàn sự an toàn của tiền bạc cho anh. Không phải là sức
mạnh của tiền lớn, mà chính yếu là niềm tin của ta vào Chúa quá yếu đó thôi!
Gợi
ý suy niệm
1-
Bạn có tốt bằng người thanh niên đó chưa?
2-
Với bạn, tiền quan trọng hay Chúa quan trọng hơn?
(Suy
niệm của Lm Đaminh Đỗ Văn Thiêm - Trích trong ‘Tập San Tĩnh Tâm Giáo Phận Long
Xuyên số 10 & 11/2012’)
Người Tự Do
"Vì anh có nhiều của cải"
Nhân cơ hội này Chúa Giêsu đã nói về tiền của. Ngài không lên án
người có của. Ngài biết "đồng tiền nối liền khúc ruột", cần có tiền
để sống, để giữ đạo nữa, "có thực mới vực được đạo". Nhưng Ngài lên
án sự ham mê tiền bạc. Tiền của hay làm người ta ham mê dính bén. Tiền bạc hay
làm cho lòng người ta đen bạc, khó vào Nước Thiên Ðàng. Chúa phán: "Con
lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Thiên Chúa". Câu
nói ấy có nghĩa làm sao? Ðây là một từ ngữ Á đông để chỉ một việc làm rất khó.
Sách Talmud của Do thái cũng có một thành ngữ tương tự: "Khó như con voi
chui qua lỗ kim!"
Thật ra Chúa Giêsu không lên án người giàu cũng không chúc lành
cho người nghèo. Những người "đàn bà thánh thiện" đi theo Chúa, họ là
những người giàu có, đem tiền của trợ giúp Ngài và các môn đệ trong công việc
truyền giáo, họ đâu bị kết án. Cũng như khi Maria, em của Martha và chị của
Lagiarô, đem bình thuốc thơm mà Giuđa đánh giá đến 300 đồng (công nhật một
người thợ thời ấy là một đồng), Ngài không chối bỏ cử chỉ yêu mến đó. Cũng như
nhiều lần, Ngài đi dự những bữa ăn sang trọng của người biệt phái giầu có (Lc
7,36-38; Mc 14,3-9), hay những người thâu thuế có tiền (Lc 19,1-10). Vậy, Chúa
lên án sự gì?
Ngài lên án những người không biết dùng tiền của, làm nô lệ tiền
của. Thật khó cho người giầu, có thể trở nên một Kitô hữu chân thật khi họ coi
đồng tiền là chúa tể. Ðiển hình là người thanh niên hôm nay, anh không dám hay
không đành dấn thân theo chân Chúa, như Phêrô và các bạn ông đã làm.
Chỉ có những người có tinh thần nghèo khó Phúc Âm mới là những
người tự do, những chứng chân thật sự và quả cảm. Phaolô nói: "Chúng tôi
là những kẻ được coi là không mảy may, nhưng lại được mọi sự làm sở hữu"
(IICor 6,10). Và chị Thánh Têrêxa nói: "Từ khi tôi từ bỏ mọi sự, tôi sống
thật hạnh phúc, tôi như được sống lại".
Người từ bỏ tất cả được Chúa cho tất cả.
Thánh Giuse Corrodengo (1786-1842) là gương mẫu từ bỏ mọi sự,
sống phó thác vào tình yêu và sự quan phòng của Chúa. Mỗi ngày, tiền của người
ta bố thí, còn dư bao nhiêu, người dạy đem chia sẻ cho người nghèo. Người điều
khiển một cô nhi viện với 700 trẻ ở Turin
(Ý). Một hôm giờ cơm đã gần đến mà nhà bếp xem ra chưa "động tĩnh" gì
cả. vả lại túi tiền đã cạn. Chị nữ tu quản lý chạy vào báo động. Thánh nhân
bảo: "Cứ cho các em sắp hàng vào nhà cơm như thường lệ". Rồi ngài
chạy vào nhà thờ cầu nguyện. Bỗng dưng có tiếng chuông nhà khách vang reo. Một
tiểu đội lính hớt hải chạy vào thưa: "Lạy cha, tiểu đoàn chúng con đi hành
quân, gọi về cho ban ẩm thực biết sẽ không về kịp... Vậy xin cha nhận của ăn
chúng con đã nấu sẵn, cho các em cô nhi!"
Thánh nhân qua đời lúc 56 tuổi, sau khi đã lập hai dòng nữ Bác
Ái và hai dòng nam để tiếp tục công việc. Ngài được Ðức Piô XI tôn phong hiển
thánh ngày 19-5-1934.
"Thầy bảo thật các con, chẳng ai bỏ nhà cửa, anh em chị em,
cha mẹ, con cái, đồng ruộng vì Thầy và vì Phúc Âm... mà không được gấp trăm ở
đời này và đời sau được sự sống vĩnh cửu" (Mc 10,29-30).
Lm. Hồng Phúc.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng 10
14 THÁNG MƯỜI
Loan Báo Tin Mừng,
Một Nhu Cầu Cấp Bách Và Toàn Diện
Công Đồng Vatican II,
trong Sắc Lệnh Truyền Giáo, đã tổng hợp một cách tuyệt vời cả lý do lẫn trách
nhiệm loan báo Tin Mừng. Sắc Lệnh này đề cập đến các hoạt động truyền giáo của
Giáo Hội : “Lý do của sứ mạng truyền giáo phát xuất từ ý định của Thiên Chúa,
Ngài ‘muốn tất cả mọi người được cứu độ và được biết sự thật. Và sự thật là:
Thiên Chúa là Đấng Duy Nhất. Cũng chỉ có một Đấng Trung Gian duy nhất giữa
Thiên Chúa và loài người, đó là Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa làm người, Đấng đã
trao hiến chính mình làm giá chuộc cho mọi người’ (1Tm 2,4-6), và ‘không có ơn
cứu độ nơi bất cứ ai khác’ (Cv 4,12). Do đó, mọi người phải trở về với Ngài sau
khi đã nhận biết Ngài nhờ lời rao giảng của Giáo Hội, và phải kết hiệp mật
thiết với Ngài cũng như với Giáo Hội là thân thể của Ngài qua Phép Rửa…”
“Đành rằng Thiên Chúa –
bằng những cách thế chỉ một mình Ngài biết – có thể dẫn dắt những người có
lương tâm ngay thẳng nhưng không biết Tin Mừng đến với đức tin – ‘bởi người ta
không thể làm hài lòng Thiên Chúa được nếu không có đức tin’ (Dt 11,6); tuy
nhiên, bổn phận tất yếu của Giáo Hội phải là rao giảng Tin Mừng, nghĩa là hoạt
động truyền giáo của Giáo Hội luôn luôn còn đầy đủ tính khẩn thiết của nó – hôm
nay và mãi mãi” (TG, 7).
Loan báo Tin Mừng là
công việc thường xuyên của Giáo Hội. Nó luôn khẩn thiết và không bao giờ có thể
chước miễn. Ơn cứu độ của con người luôn là vấn đề nóng bỏng. Đó là lý do tại
sao Đức Phao-lô VI, trong Tông Huấn Evangelii nuntiandi, đã viết: “Người tông
đồ phải hiến dâng tất cả thời giờ, tất cả sức lực, và nếu cần, hy sinh cả sự
sống mình cho việc loan báo Tin Mừng” (EN, 5).
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 14-10
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN;
Kn 7, 7-11; Dt 4, 12-13; Mc 10, 17-30.
LỜI SUY NIỆM: Trong câu chuyện người thanh niên hỏi Chúa Giêsu: tôi phải
làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” Sau khi trao đổi. Chúa Giêsu
cho biết: “Anh chỉ thiếu một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người
nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.” (Mc 10,21b)
Đời sống của con người ai cũng muốn được sống cuộc sống hạnh phúc, nhất là đối
với sự sống đời đời, nhưng mấy ai chịu sự đổi chác những cái riêng tư của mình,
nhất là của cải vật chất mả mình đang chiếm hữu. Ai cũng biết sự sống của con
người trên trần gian này dài lắm là trăm năm, và sự sống mai sau là vĩnh cửu,
nhưng rồi với cái hữu hạn con người lại đầu tư vào đó rất nhiều, cả tâm trí,
sức lực và thời gian, mà rồi khi nhắm mắt chẳng đem theo được gì. Trong lúc đó
sự sống đời sau lại rất ít người quan tâm đến để đầu tư vào đó. Của cải chính
là vật cản lớn nhất của con người khi phải đánh đổi sự sống đời này và đời sau.
Hãy chọn một vị Chúa cho mình trong hiện tại, để được cùng sống mai sau.
Mạnh Phương
++++++++++++++++++
14 Tháng Mười
Lời Trăn Trối Của Người Mẹ
Thời cách mạng Pháp, người ta hay nhắc đến một khuôn mặt dữ tợn,
chuyên săn lùng các linh mục: đó là đại úy Laly.
Ông đã gia nhập vào đảng Jacobins đi khắp nơi để reo rắc kinh
hoàng cho dân chúng. Nhiều vị linh mục đã kín đáo đến khuyên nhủ để lôi kéo ông
ra khỏi tội ác. Nhưng tất cả mọi cố gắng của người khác đều vô ích. Con người
độc ác đó chỉ đáp lại bằng lãnh đạm và những lời lẽ thô tục.
Thế nhưng một hôm, khi mọi người tưởng như không còn một chút hy
vọng, Laly đã lần mò đến một linh mục để xin xưng tội và hòa giải với Giáo Hội.
Sau đó ông đã thú nhận: "Cả đời, ngày nào tôi cũng đọc một kinh Kính Mừng,
theo lời trăn trối của mẹ tôi trước khi chết".
Có
những câu ca dao, có những bài hát, có những bài học làm người, chúng ta tiếp
thu ngay khi còn ngồi trên gối mẹ. Trí óc non dại của chúng ta chưa đủ khả năng
để lĩnh hội ý nghĩa sâu xa của những bài học đó. Nhưng dần dà với thời gian,
khi bắt đầu chúng ta biết suy nghĩ, những bài học đó trồi lên một cách trong
sáng trong kiến thức của chúng ta. Có lẽ người mẹ nào cũng hiểu được giá trị
của câu: "Dạy con từ thuở còn thơ...".
Mẹ
Maria, Hiền Mẫu của chúng ta, vừa là một mẫu gương vừa là một nhà giáo dục
tuyệt hảo trong Ðức Tin. Lời kinh dâng Mẹ mà chúng ta bập bẹ khi vừa biết nói
là bài ca dao đẹp nhất không ngừng ngân vang trong cuộc sống Kitô chúng ta. Có
thể, đôi lúc chúng ta cũng ngâm nga một cách máy móc, nhưng Mẹ vẫn có đó và Mẹ
vẫn đeo đuổi, ấp ủ chúng ta trong Tình Yêu bao la của Mẹ.
(Lẽ Sống)
Ngày 14
CHÚA NHẬT XXVIII THƯỜNG NIÊN
Thánh Calittô I, giáo hoàng, tử đạo
Thánh Calittô I, giáo hoàng, tử đạo
Môi người đều có kinh nghiệm về sự lo lắng
Chúng ta đi đâu? Ngày mai không chắc chắn. Anh thanh niên giàu có hỏi Đức Kitô,
lại là người khôn ngoan. Khôn ngoan theo nghĩa Kinh Thánh là sùng đạo, là thuộc
một tôn giáo, và sở hữu cả Nước Trời. "Anh tuân giữ tất cả các điều răn từ
thuở nhỏ". Vậy phải xin gì nữa? Anh ta khôn ngoan, tuy nhiên loạn trí; anh
ta còn muốn hơn nữa:
thử liều vượt qua các
"điều răn". Anh ta muốn thừa kế Nước Trời và sự sống đời đời. Anh ta muốn, không phải một cuộc sống phù hợp, mà một cuộc sống theo nhịp của Thiên Chúa, theo hơi thở của Thiên Chúa.
Vậy là Người bắt anh ta theo đúng lời nói. Chúa coi trọng lời nói của chúng ta,
khi lời đó đến từ trái tim. Không ai đủ chính trực và quảng đại, không ai có đủ
tình yêu để đạt tới sự thành
công hoàn toàn của cuộc đời. Nhưng mỗi người có thể quên mình để tiến bước trên
những con đường của cuộc đời, nơi tình yêu Thiên Chúa chỉ còn là một với tình
yêu của những người khác.
Tình yêu Thiên Chúa làm cho chúng ta nên những người xây
dựng hoà bình, trong một thế giới rất cần hoà bình. Chính tình yêu làm cho chúng ta biết kính
trọng và yêu mến mọi sinh vật, bắt đầu từ những người không được bảo vệ.. Chính
tình yêu cho chúng ta hạnh phúc được phục vụ và yêu thương, khi đáp trả Tình
yêu bằng tình yêu.
Đức Cha André Lacrampe
Ngày 14 tháng 10
THÁNH CALLIXTÔ I
GIÁO HOÀNG TỬ ĐẠO
|
Theo
tiếng Hy lạp, Callixtô có nghĩa là rất đẹp. Đẹp hơn nữa vì nó là tên của một
trong những vị Giáo Hoàng thời danh thế kỷ thứ III.
Đọc
những điểm đại cương sau đây về đời sống của thánh Giáo Hoàng, chúng ta sẽ
thấy rõ vẻ toàn năng của Thiên Chúa, Đấng không sự gì không làm được. Nếu khi
còn sinh thời, Chúa Giêsu Kitô đã đào tạo những ngư phủ dốt nát thành những
tông đồ thông minh; nếu sau khi về trời, Chúa đã cải hóa Phaolô từ kẻ bách
hại cuồng nhiệt trở thành một chiến sĩ nhiệt huyết của đức tin, thì cũng thế,
Chúa đã dẫn đưa Callixtô từ một thân phận nô lệ, một kẻ gian thương lên đến
chức vị một chúa chiên đầy thánh thiện và bác ái...
Quả
thế, ít vị Giáo Hoàng nào có một trang sử ly kỳ như tiểu sử của Đức Callixtô.
Theo tài liệu của Hippôlitô, thì Đức Callixtô đầu tiên là một nô lệ của ông
Capôphôrê, một tín hữu thuộc gia đình Cêsarê. Vì thấy Callixtô lanh lẹ và
tinh khôn, ông Capôphôrê tín nhiệm và trao cho chức quản khố. Mấy năm sau,
Callixtô mánh khéo chiếm đoạt và làm chủ ngân khố. Từ đó Callixtô trở nên
giầu có và nghiễm nhiên là một kẻ buôn tiền xảo quyệt. Dư vốn, Callixtô xây
một ngân khố mới tại khu hồ tắm công cộng, tức về phía nam Rôma. Nhưng mấy ai
lưu manh mà thoát được lưới trời. Trong lúc hùn vốn buôn bán với nhiều kẻ tai
mắt, hầu hết là các quả phụ quý tộc, Callixtô đã ăn chơi phóng túng đến nỗi
sau cùng vỡ nợ và bị thưa trước tòa án. Vì quá sợ hãi, Callixtô đáp thuyền
trốn đi Portô. Trên đường bôn tẩu, bất ngờ gặp ông Capôphôrê, Callixtô túng
thế liền nhảy xuống sông tự tử. Nhưng người ta đã vớt Callixtô lên và bắt về
làm nô lệ với công việc quay máy đá. Đến sau vì biết Callixtô còn nhiều tiền
gửi nơi người Do thái, nên ông Capôphôrê quyết định phóng thích cho Callixtô
để thảnh thơi lo việc trang trải công nợ. Callixtô vui mừng chạy đến hội
đường đòi tiền người Do thái, những người này đã không trả tiền, còn bắt nộp
cho đô trưởng Rôma là Fuscianô. Họ tố cáo Callixtô về tội phá rối trật tự
chung và theo công giáo. Nhưng nhờ sự can thiệp của ông Capôphôrê, Callixtô
không bị kết án về tội theo đạo công giáo, nhưng vì tội vỡ nợ mà thôi. Ông đô
trưởng truyền đánh đòn Callixtô rồi đày đi làm phu mỏ tại
Hai
năm sau, bà Marcia, một người công giáo thành tâm và là người thân cận của
Hoàng đế Commođô biên thư xin Đức Giáo Hoàng Victôriô cho biết danh sách
những người công giáo bị lưu đầy tại Sarđinia để bà tìm cách cứu thoát họ.
Tuy sổ gửi đến không có tên của Callixtô, nhưng vì là người công giáo, nên
ông cũng được hưởng đặc ân phóng thích. Biết Callixtô là một gian thương mà
nhiều người đương bất mãn, nên để giữ hòa khí, Đức Victôriô điều đình cho ông
được gửi đi làm việc tại Antium với một số lương tháng đủ sống. Vốn là con
người có chí lập thân và biết cải thiện, Callixtô đã lợi dụng mười năm sống
tại Antium để gây lại sự nghiệp, và nhất là trau dồi về văn hóa và tu đức.
Ông đặc biệt nghiên cứu về Kinh thánh và thần học.
Hết
mười năm, Callixtô biên thư về xin Đức Giêraphinô, người kế vị Đức Victôriô,
cho trở về Rôma, và ghi tên nhập hàng đạc đức của địa phận. Sau một thời
gian, Đức Giêraphinô chấp thuận cho Callixtô chịu chức Phó tế và đảm nhiệm
việc quản trị nghĩa trang. Bấy giờ người công giáo có một nghĩa trang riêng
trên đường Salaria. Với tài kinh doanh, thầy Callixtô đã xây thêm một nghĩa
trang khác tại đường Appia. Với nghệ thuật kiến trúc mới mẻ, lại ở vào một vị
trí thuận tiện, nên chẳng bao lâu nghĩa trang mới này trở nên sầm uất, lấn át
nghĩa trang trước và mang tên là nghĩa trang Callixtô. Theo dòng thời gian,
cùng với sự hoạt động âm thầm của ơn Chúa, Callixtô nô lệ, gian thương, phu
mỏ và tiểu công chức xưa kia, đã dần dần trở thành một tu sĩ, một linh mục
hoạt động, có nhiều uy tín với chính quyền và rất thông thạo thần học. Hơn
thế, vì tín nhiệm tài đức của cha Callixtô, Đức Giêraphinô đã quyết định chọn
ngài làm kế vị ngôi Giáo Hoàng, mặc dầu có nhiều linh mục không bằng lòng.
Năm 217, Đức Giêraphinô tạ thế và Đức Callixtô lên thay quyền.
Lên
ngôi Giáo Hoàng, Đức Callixtô phải đương đầu với nhiều vấn đề khó khăn. Vấn
đề thứ nhất thuộc tín lý. Ngài đã sáng suốt theo ơn Chúa bảo vệ tín điều Chúa
Ba Ngôi: ngài kết án Sabelliô. Đối với ông Hippolitô, ngài không kết án minh
nhiên, nhưng cảnh cáo chủ trương nguy hiểm của ông về Chúa Giêsu. Ông này có
khuynh hướng về nhị nguyên thuyết. Đúng hơn, trong lúc các danh từ thần học
chưa được xác định, Đức Callixtô quyết trung thành với đức tin các tông đồ
truyền lại cho Giáo hội. Vấn đề thứ hai thuộc kỷ luật giáo hội. Nhiều người
phản đối vì thấy ngài quá dễ dãi với các linh mục lập gia đình. Nhưng với
lòng bác ái vị tha, Đức Callixtô đã âm thầm chịu đựng và tìm mọi cách làm vừa
lòng mọi người, nhưng vẫn phù hợp với tinh thần Phúc âm. Từ khi nhập hàng
giáo sĩ, nhất là từ khi lãnh sứ mệnh đại diện Thiên Chúa ở trần gian, Đức
Callixtô tỏ ra một đời sống thánh thiện sâu xa. Ngài bắt chước các thánh phụ,
luôn ăn chay và cầu nguyện. Theo sách giáo chủ, thì chính ngài đã ban cho sắc
lệnh giữ chay các ngày thứ tư bốn mùa. Với đời sống hối cải và gương mẫu, Đức
Callixtô đã có thể nói được như thánh Phaolô rằng: “Những cái từ trước đối
với tôi là lợi lộc, nay vì Chúa Kitô, tôi coi là tai họa. Tôi coi tất cả chỉ
là tai họa trước sự nhận biết cao cả của Chúa Kitô. Vì Người mà tôi hy sinh
tất cả và coi mọi sự như phân bớn...” (Phil 3,7-9).
Đức
Callixtô tạ thế năm 222. Tuy nhiên, ngài chết trong hoàn cảnh nào, bệnh tật
hay tử đạo, chúng ta không thể xác quyết, mặc dầu ngay từ đầu, phụng vụ Giáo
hội vẫn kính ngài như một vị thánh tuẫn giáo.
Lạy
Chúa, Chúa biết chúng con nản lòng vì yếu đuối, vì những tội lỗi trong quá
khứ. Nhưng việc Chúa làm đối với thánh Callixtô đã khích lệ chúng con rất
nhiều. Xin Chúa vì gương sáng và lời bầu cử của thánh Callixtô chúng con mừng
kính hôm nay, ban cho chúng con lòng tin mạnh mẽ, kiên trung tin vào sức mạnh
của ơn Chúa để cải hóa đời sống chúng con trong niềm yêu Chúa chân thành.
|
14-10
Thánh Giáo Hoàng Callistus I
(c. 223?)
C
|
húng ta có được những dữ kiện xác thực về vị thánh này là từ người
thù địch với ngài, đó là Hippolytus, vị giáo hoàng đối lập đầu tiên, sau này đã
tử đạo. Nguyên tắc phủ định được áp dụng: Nếu Callistus có làm điều gì sái
quấy, chắc chắn Hippolytus sẽ nhắc đến.
Callistus là một nô lệ trong đám gia nhân của triều đình Rôma.
Ðược giao cho công việc giữ tiền của chủ, ngài đánh mất tiền, bỏ trốn và bị
bắt. Sau khi phục dịch một thời gian, ngài được thả ra để tìm lại số tiền. Vì
quá hăng say, ngài lại bị bắt vì cãi nhau trong đền thờ người Do Thái. Lần này
ngài bị đầy đi làm hầm mỏ ở Sardinia . Sau đó
ngài được thả về nhờ sự can thiệp của bà vợ bé của hoàng đế, và sống ở Anzio .
Sau đó ngài được giao cho công việc quản lý nghĩa trang của người
Kitô ở Rôma, có lẽ đây là phần đất đầu tiên do Giáo Hội làm chủ. Ðức giáo hoàng
phong cho ngài làm phó tế, coi ngài là bạn và là người cố vấn.
Về sau chính ngài được bầu làm giáo hoàng với đa số phiếu của hàng
giáo sĩ và giáo dân ở Rôma, và do đó bị tấn công bởi Hippolytus, người thất cử,
là người tự đặt mình là giáo hoàng đối lập đầu tiên trong lịch sử Giáo Hội. Sự
phân ly này kéo dài 18 năm.
Hippolytus được kính trọng như một vị thánh. Ngài bị lưu đầy trong
thời kỳ cấm cách năm 235, và đã hòa giải với Giáo Hội. Ngài chết vì sự tra tấn
ở Sardinia . Hippolytus tấn công Callistus về
hai điểm -- học thuyết và kỷ luật. Dường như Hippolytus đã quá đáng khi phân
biệt giữa Chúa Cha và Chúa Con (hầu như hai chúa), có lẽ vì ngôn ngữ thần học
thời ấy chưa được rõ ràng. Ngài cũng kết án Callistus là quá khoan dung, vì
những lý do có thể khiến chúng ta ngạc nhiên: (1) Callistus cho phép những
người đã công khai sám hối về tội giết người, dâm dục và ngoại tình được Rước
Lễ; (2) ngài hợp thức hóa hôn nhân giữa người nô lệ và người tự do -- trái với
luật Rôma; (3) ngài cho phép truyền chức cho các ông đã lập gia đình hai hay ba
lần; (4) ngài chủ trương tội trọng không phải là lý do đầy đủ để cách chức một
giám mục; (5) ngài chủ trương chính sách khoan dung đối với những người đã từng
chối đạo trong thời kỳ bách hại.
Ðức Callistus bị tử đạo trong cuộc nổi loạn ở Trastevere, Rôma, và
là vị giáo hoàng đầu tiên (ngoại trừ Thánh Phêrô) được coi là tử đạo trong danh
sách tử đạo tiên khởi của Giáo Hội.
Lời Bàn
Ðời sống của thánh nhân cho thấy con đường lịch sử của Giáo Hội,
cũng như của một tình yêu chân chính, không bao giờ êm ả. Giáo Hội đã và đang
phải trải qua những phấn đấu cam go để xác định các mầu nhiệm đức tin trong một
từ ngữ, mà tối thiểu, phân biệt được với sự sai lầm. Về phương diện kỷ luật,
Giáo Hội phải giữ được lòng thương xót của Ðức Kitô đối với sự khắt khe, trong
khi vẫn giữ được lý tưởng phúc âm khi nói đến sự sám hối và kỷ luật tự giác.
Mỗi một giáo hoàng -- đúng hơn mỗi một Kitô Hữu -- phải đi trên con đường khó
khăn giữa sự khoan hồng "hợp lý" và sự nghiêm khắc "vừa
phải".
Lời Trích
Ðức Giê-su nói về những người thời ấy, "giống như lũ trẻ
ngồi ngoài chợ nói với nhau, 'Tụi tôi thổi sáo cho các anh, mà các anh không
nhảy múa; tụi tôi hát bài đưa đám, mà các anh không than khóc'. Vì ông Gio-an
[Tẩy Giả] đến, không ăn không uống, thì chúng bảo: 'Ông ta bị quỷ ám'. Con
Người đến, ăn uống như mọi người, thì chúng lại bảo: 'Ðây là tay ăn nhậu, bạn
bè với quân thu thuế và phường tội lỗi.'" (Matthew 11:16b-19a).
Lectio: Chúa Nhật XXVIII Thường Niên (B)
Chúa Nhật, 14 Tháng 10, 2012
Chúa Giêsu mời gọi người thanh niên giàu có
Gấp trăm ở đời này, nhưng với sự ngược đãi!
Mc 10:17-30
1. Lời nguyện mở đầu
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy sai Thần Khí Chúa đến giúp chúng con đọc Kinh Thánh với tâm tình mà Chúa đã đọc cho các môn đệ trên đường Emmau. Trong ánh sáng của Lời Chúa, được viết trong Kinh Thánh,
Chúa đã giúp các môn đệ khám phá ra được sự hiện diện của Thiên Chúa trong nỗi đau buồn về bản án và cái chết của Chúa. Vì thế, cây thập giá tưởng như là sự kết thúc của mọi niềm hy vọng, đã trở nên nguồn gốc của sự sống và sự sống lại.
Xin hãy tạo sự thinh lặng trong chúng con để chúng con có thể lắng nghe tiếng Chúa trong sự Tạo Dựng và trong Kinh Thánh,
trong các sự kiện của đời sống hằng ngày và trong những người chung quanh, nhất là những người nghèo khó và đau khổ. Nguyện xin Lời Chúa hướng dẫn chúng con để, giống như hai môn đệ từ Emmau, chúng con cũng
sẽ được hưởng sức mạnh sự phục sinh của Chúa và làm chứng cho những người khác rằng Chúa đang sống hiện hữu giữa chúng con như nguồn gốc của tình anh em, công lý và hòa bình. Chúng con cầu xin vì danh Chúa Giêsu, con của Đức Maria, Đấng đã mặc khải cho chúng con về Chúa Cha và đã gửi Chúa Thánh Thần đến với chúng con.
Amen.
2. Bài Đọc
a) Chìa khóa dẫn đến bài đọc:
· Bài Tin Mừng của Chúa Nhật XXVIII Thường Niên kể về câu chuyện của người thanh niên tìm hỏi Chúa Giêsu về cách để sống đời đời. Chúa Giêsu cho anh ta câu trả lời, nhưng người thanh niên ấy không thể chấp nhận nó, vì anh ta rất giàu có. Sự giàu sang cho người ta một loại an ninh và họ rất khó mà từ bỏ sự an ninh như thế. Bởi vì những người như vậy thì gắn liền với những thuận lợi mà tài sản của họ mang lại, họ lo lắng về việc bảo vệ lợi ích của họ. Người nghèo khó không có những điều lo lắng như thế và do đó thì tự do hơn. Nhưng
cũng có những người nghèo với tâm tính giàu
có. Họ nghèo, nhưng không có “tinh thần nghèo khó” (Mt 5:3). Không
chỉ vì tài sản, mà ước muốn giàu có cũng có thể thay đổi người ta và khiến cho họ trở nên nô lệ cho của cải ở thế gian này. Những người như vậy sẽ thấy khó mà chấp nhận lời mời gọi của Chúa Giêsu: “Hãy
đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo Ta” (Mc
10:21). Những người như thế sẽ không đi theo con đường đề nghị bởi Chúa Giêsu. Tôi có thể từ bỏ mọi thứ vì Nước Trời không?
· Trong văn bản của chúng ta, một vài người tìm gặp Chúa Giêsu để được những lời khuyên: người thanh niên giàu có, các môn đệ và Phêrô. Trong
bài đọc, chúng ta hãy nhìn
vào những mối bận tâm của từng mỗi người và vào câu trả lời của Chúa Giêsu cho họ.
b) Phần phân đoạn văn bản để trợ giúp cho bài đọc:
Mc 10:17: Điều kiện cho những ai muốn đi theo Chúa Giêsu
Mc 10:18-19: Câu trả lời đáng ngạc nhiên và đòi hỏi khắt khe của Chúa Giêsu
Mc 10:20-21: Cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và người thanh niên
Mc 10:22: Người thanh niên lo lắng và không đi theo Chúa Giêsu
Mc 10:23-27: Cuộc nói chuyện giữa Chúa Giêsu và các môn đệ liên quan đến người giàu có vào Nước Trời
Mc 10:28: Câu hỏi của Phêrô
Mc 10:29-30: Chúa Giêsu trả lời
c) Tin Mừng:
17 Khi ấy Chúa Giêsu vừa lên
đường,
thì một người chạy lại quỳ
gối trước Người và hỏi:
"Lạy Thầy nhân
lành, tôi phải làm
gì để được sống đời đời?" 18 Chúa Giêsu trả lời:
"Sao ngươi gọi Ta là nhân lành? Chẳng có ai là nhân lành, trừ một mình
Thiên Chúa. 19 Ngươi đã biết các
giới răn:
đừng ngoại
tình, đừng giết người, đừng trộm cắp, đừng làm
chứng
gian, đừng lường gạt; hãy
thảo kính
cha mẹ".
20 Người ấy
thưa: "Lạy Thầy, những điều đó
tôi đã giữ từ thuở nhỏ". 21 Bấy giờ Chúa
Giêsu chăm chú nhìn người ấy và đem lòng thương mà bảo rằng:
"Ngươi chỉ thiếu một điều, là ngươi hãy đi bán tất cả gia
tài, đem bố thí
cho người
nghèo khó và ngươi sẽ có một kho báu trên trời, rồi đến theo
Ta". 22 Nhưng người ấy nghe
những lời đó,
thì sụ nét mặt và
buồn rầu bỏ đi,
vì anh ta có nhiều của cải. 23 Lúc đó Chúa Giêsu nhìn chung
quanh và bảo các
môn đệ rằng:
"Những người giàu
có vào nước
Thiên Chúa khó biết bao!" 24 Các môn đệ kinh
ngạc vì
những lời đó.
Nhưng Chúa Giêsu lại nói tiếp và bảo các ông rằng: "Hỡi các con, những kẻ cậy dựa vào tiền bạc, thật khó mà vào nước Thiên Chúa biết bao! 25 Con lạc đà
chui qua lỗ kim
còn dễ hơn
người giàu
có vào nước
Thiên Chúa". 26 Các ông càng kinh ngạc hỏi nhau
rằng:
"Như vậy thì
ai có thể được cứu độ?" 27 Chúa Giêsu chăm chú nhìn các
ông, và nói: "Đối với loài người thì không thể được, nhưng không phải đối với
Thiên Chúa, vì Thiên Chúa làm được mọi sự". 28 Phêrô thưa cùng Chúa Giêsu rằng:
"Đây chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy". 29 Chúa Giêsu trả lời rằng:
"Thầy bảo thật các
con, chẳng ai
bỏ nhà cửa, anh
em, chị em,
cha mẹ, con
cái, đồng ruộng vì
Thầy và
vì Tin Mừng, 30 mà ngay bây giờ lại
không được gấp trăm
ở đời này
về nhà cửa, anh
em, chị em,
cha mẹ, con
cái và ruộng
nương, cùng với sự bắt bớ, và ở đời sau
được sự sống
vĩnh cửu.
Nhưng có nhiều kẻ trước nhất sẽ nên rốt hết, và
những kẻ rốt hết sẽ nên
trước nhất".
3. Giây phút thinh lặng cầu nguyện:
Để Lời Chúa có thể thấm nhập và soi sáng đời sống chúng ta.
4. Một vài câu hỏi gợi ý:
Để giúp chúng ta trong phần suy gẫm cá nhân.
a) Điểm nào trong bài Tin Mừng này đánh động bạn nhất? Tại sao?
b) Người thanh niên lo lắng về điều gì và cái gì đã đánh lừa anh ta?
c) Điều sau đây có ý nghĩa gì đối với chúng ta ngày nay: “Hãy đi bán tất cả gia tài và đem bố thí cho người nghèo khó”? Chúng ta có thể thực hiện điều này theo nghĩa đen
không?
d) Chúng ta hiểu sự so sánh giữa cây kim và con lạc đà ra sao?
e) Chúng ta hiểu như thế nào về việc được gấp trăm ở đời này, nhưng cùng với sự bắt bớ?
f) Ngày nay chúng ta hiểu và thực hành những lời đề nghị của Chúa Giêsu với người thanh niên giàu có bằng cách nào?
5. Dành cho những ai muốn đào sâu vào trong chủ đề
a) Bối cảnh xưa và nay.
* Phần Tin Mừng của Chúa Nhật tuần này mô tả việc hoán cải đang xảy ra, thể theo lời kêu gọi của Chúa Giêsu, phải xảy ra trong mối quan hệ của chúng ta với của cải vật chất. Vì vậy, để hiểu được đầy đủ tầm quan trọng của lời giáo huấn của Chúa Giêsu, chúng ta
nên nhớ lại bối cảnh rộng lớn hơn trong đó tác giả Máccô đã đặt viết những dòng chữ này. Chúa
Giêsu đang trên đường đến Giêrusalem, nơi Người sẽ bị đóng đinh (xem Mc 8:27; 9:30,33; 10:1,17,32). Người sắp sửa hiến mạng sống mình. Chúa biết rằng Người sắp sửa bị giết, nhưng Người không chùn bước. Chúa
phán: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người!” (Mc 10:45). Thái độ này của lòng trung thành và sự tận hiến cho sứ vụ được nhận lãnh từ nơi Chúa Cha đã khiến cho Người có thể thấy những gì thực sự quan trọng trong cuộc sống.
* Lời đề nghị của Chúa Giêsu luôn luôn
có giá trị, vào thời Chúa Giêsu và vào thời tác giả Máccô cũng như trong
thế kỳ thứ 21 ngày nay. Chúng
giống như những tấm gương phản chiếu lại những gì thực sự quan trọng trong cuộc sống, hôm qua và ngày nay: để bắt đầu lại từ đầu, việc xây dựng Nước Trời, đổi mới mối quan hệ của loài người trên mọi tầng lớp, giữa chúng ta với Thiên Chúa, cũng như với của cải vật chất.
b) Lời bình luận về văn bản
Mc 10:17-19: Những giới răn và sự sống đời đời
Có người tìm đến và hỏi: "Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời?" Tin Mừng Mátthêu nói rằng đó là một thanh
niên (Mt
19:20,22). Chúa Giêsu trả lời một cách khá gay gắt: "Sao
ngươi gọi Ta là nhân lành? Chẳng có ai là nhân lành, trừ một mình Thiên
Chúa!” Đức Giêsu đã chuyển sự chú ý từ mình sang Thiên Chúa,
vì Người muốn thi hành theo thánh ý Chúa Cha, để mặc khải chương trình của Chúa Cha. Sau
đó, Đức Giêsu nói tiếp: “Ngươi đã
biết các giới răn: đừng ngoại tình, đừng giết người, đừng trộm cắp, đừng làm chứng gian, đừng lường gạt; hãy thảo kính cha mẹ". Người thanh niên đã hỏi anh taphải làm gì để được sống đời đời. Anh ta muốn sống gần với Thiên Chúa! Nhưng Chúa Giêsu chỉ nhắc nhở anh ta về những điều răn liên quan đến cuộc sống gần với tha nhân! Người không đề cập đến ba điều răn đầu tiên nói về mối quan hệ với Thiên Chúa! Đối với Chúa Giêsu, chúng ta
chỉ có thể được sống gần với Thiên Chúa nếu chúng ta sống gần với tha nhân. Chúng
ta không nên tự lừa dối mình. Cánh cửa dẫn lối đến Thiên Chúa là những người chung quanh ta. Không có cách nào khác!
Mc 10:20: Việc tuân giữ các giới răn có lợi ích gì?
Người thanh niên thưa lại rằng anh ta đã tuân giữ các giới răn từ thuở nhỏ. Những gì xảy ra sau đó mới kỳ lạ. Người thanh niên muốn biết cách để được sự sống đời đời. Bây giờ,cách để được sự sống đời đã và vẫn là: làm theo ý muốn của Thiên Chúa như được diễn đạt trong các giới răn. Điều này có nghĩa là người thanh niên tuân giữ các điều răn mà không biết lý do tại sao! Anh ta không biết rằng việc tuân giữ các điều răn của mình từ thuở nhỏ là đường dẫn đến Thiên Chúa, đến sự sống đời đời. Ngày nay
nhiều người Công Giáo không biết lý do tại sao họ là người Công Giáo. “Tôi sinh ra ở Ý, tôi sinh ra ở Ái-nhĩ-lan, nên tôi là người Công Giáo!” Chỉ là một thói quen!
Mc 10:21-22: Chia
sẻ của cải với người nghèo khó
Chúa Giêsu chăm chú
nhìn người ấy và đem lòng thương mà bảo rằng: "Ngươi chỉ thiếu một điều, là ngươi hãy đi bán
tất cả gia tài, đem bố thí cho người nghèo khó và ngươi sẽ có một kho báu trên trời, rồi đến theo Ta". Chúa
Giêsu đã không xét đoán người thanh niên, cũng
không phê phán anh ta, nhưng lại kiếm cách giúp đỡ anh tiến thêm một bước nữa trong đời sống. Việc hoán cải mà Chúa Giêsu đòi hỏi là một việc đang xảy ra. Việc tuân giữ các giới răn chỉ là bước đầu tiên trên bậc thang đi xa hơn và cao hơn. Chúa Giêsu đòi hỏi phải tiến thêm nữa! Việc tuân giữ các giới răn chuẩn bị cho chúng ta có thể hoàn toàn quên mình vì tha nhân. Mười Điều Răn là phương cách để thực hành hoàn hảo hai giới răn yêu thương Thiên
Chúa và yêu thương tha nhân (Mc 12:29-31; Mt 7:12). Chúa Giêsu đòi hỏi hơi nhiều, nhưng Người yêu cầu điều ấy với rất nhiều yêu thương. Người thanh niên không đáp lại lời mời gọi của Chúa Giêsu và bỏ đi bởi vì “anh ta là người có nhiều của cải”.
Mc 10:23-27: Con
lạc đà và lỗ kim
Sau khi người thanh niên bỏ đi, Chúa Giêsu bình phẩm về quyết định của anh ta: Những người giàu có vào nước Thiên Chúa khó biết bao! Các môn đệ kinh ngạc. Đức Giêsu lặp lại những gì Người đã nói và thêm vào một câu tục ngữ được dùng vào thời bấy giờ để nói về một điều gì đó mà con người không thể làm được. Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào nước Thiên Chúa! Mỗi dân tộc có các câu thành ngữ và tục ngữ mà không thể được hiểu theo nghĩa đen. Ví dụ, ở Ba-tây, để bảo một ai đó đừng nên quấy rầy người khác, người ta nói: “Hãy đi tắm đi!” Nếu một người hiểu câu nói này theo
nghĩa đen thì người ấy bị nhầm lẫn và không nhận thức được thông điệp! Chuyện con lạc đà phải chui qua lỗ kim cũng tương tự như thế. Không thể nào xảy ra được!
Các môn đệ đã kinh ngạc về những lời của Chúa Giêsu! Điều này có nghĩa là các ông đã không hiểu câu trả lời của Chúa Giêsu nói với người thanh niên giàu
có: “Ngươi hãy đi bán tất cả gia tài, đem bố thí cho người nghèo khó và ngươi sẽ có một kho báu trên trời, rồi đến theo Ta!" Người thanh niên đã tuân giữ những giới răn mà không hiểu lý do tại sao. Điều tương tự đang xảy ra cho các môn đệ. Đi theo
Chúa Giêsu, các ông đã bỏ lại đằng sau mọi thứ (Mc 1:18,20), mà không
hiểu biết lý do tại sao các ông đã từ bỏ tất cả! Nếu các ông hiểu được lý do tại sao, thì các ông sẽ không ngạc nhiên lời yêu cầu của Chúa Giêsu đến thế. Khi của cải hoặc lòng mong muốn được giàu có xâm chiếm trái tim và lòng mơ ước của con người, thì người ta khó mà hiểu được ý nghĩa của cuộc sống và của Tin Mừng. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể giúp một người như thế! “Đối với loài người thì không thể được, nhưng không phải đối với Thiên Chúa, vì Thiên Chúa làm được mọi sự”.
Khi Chúa Giêsu nói rằng “người giàu có vào nước Thiên Chúa khó biết bao”, Người không đề cập đến trường hợp đầu tiên vào thiên đàng
sau khi chết, mà là bước vào cộng đoàn chung quanh anh
ta. Cho đến ngày nay, rất khó biết bao cho một người giàu có bỏ lại tất cả mọi thứ và bước vào một cộng đoàn giáo hội nhỏ bé đơn sơ sống bên cạnh những người nghèo khó, cùng với họ, và do đó để theo Chúa Giêsu.
Mc 10:28-30: Cuộc đàm luận giữa Chúa Giêsu và Phêrô
Ông Phêrô đã hiểu được rằng “để vào nước Thiên Chúa” cùng đồng nghĩa như đi theo Chúa Giêsu trong sự nghèo khó. Vì
vậy, ông hỏi: “Đây chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy. Sau này chúng con sẽ nhận được những gì?" Mặc dù đã bỏ mọi sự, Phêrô vẫn còn mang tâm lý
cũ. Ông đã chưa hiểu được ý nghĩa của sự phục vụ và tưởng thưởng. Ông và các bạn của ông đã bỏ mọi sự để được nhận lại một cái gì đó: “Sau
này chúng con sẽ nhận lại được gì?” Câu trả lời của Chúa Giêsu thì tượng trưng. Người gợi ý rằng các ông không nên mong mỏi sẽ nhận lại được bất kỳ điều gì, bất kỳ bảo đảm nào, hay bất kỳ thăng quan tiến chức nào. Vâng, các ông sẽ nhận được gấp trăm! Nhưng cùng với sự bắt bớ ở đời này! Và ở đời sau được sự sống vĩnh cửu mà người thanh niên nói tới. “Thầy bảo thật các con, chẳng ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái, đồng ruộng vì Thầy và vì Tin Mừng, mà lại không được gấp trăm ở đời này về nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái và ruộng nương - cùng với sự bắt bớ - ngay bây giờ, và ở đời sau, được sự sống vĩnh cửu.”
c) Phần phụ chú:
Chúa Giêsu và sự lựa chọn cho người nghèo
Một chế độ lưỡng nô lệ đánh dấu tình trạng người dân ở miền Galilêa vào thời Chúa Giêsu: (i)
Chế độ nô lệ chính trị của vua Hêrôđê, được đế chế La Mã hỗ trợ, áp đặt một hệ thống khai thác và đàn áp toàn diện; (ii) Chế độ nô lệ của hệ thống tôn giáo chính thức, được duy trì bởi những người có thẩm quyền về tôn giáo thời ấy. Bởi vì điều này, gia đình, cộng đoàn, gia tộc đã bị phân hóa và hầu hết mọi người sống bị khước từ, sống ngoài lề, không nơi cố định, không tôn giáo vá không xã hội. Để chống trả lại sự phân hóa này của cộng đoàn và gia đình, đã có một số phong trào, trong đó,
giống như Chúa Giêsu, đã
thử cách sống mới và chung sống với nhau trong cộng đoàn. Những nhóm như phái Essence, những người Biệt Phái, và sau đó, những người phái Nhiệt Thành, tất cả họ sống trong cộng đoàn. Tuy nhiên, trong cộng đoàn của Chúa Giêsu, có điều gì mới mẻ và khác biệt với hai nhóm kia. Đó
là thái độ đối với người nghèo khó và những người bị gạt ra ngoài xã hội.
Cộng đồng người Biệt Phái sống biệt lập. Từ ngữ “Pharisêu” có nghĩa là
“riêng biệt”. Họ sống biệt lập khỏi những người không tinh sạch. Nhiều người Biệt Phái coi người ta như những kẻ dốt nát và quân bị nguyền rủa (Ga 7:49), tội lỗi ngập đầu (Ga 9:34). Họ đã không học được gì nơi người ta (Ga 9:34). Mặt khác, Chúa Giêsu và cộng đoàn của Người sống ở giữa những người bị khinh miệt những kẻ bị xem là ô uế: kẻ thu thuế, tội nhân, gái điếm và người phong cùi (Mc 2:16; 1:41; Lc 7:37). Chúa Giêsu trông thấy sự phong phú và giá trị nơi họ (Mt 11:25-26; Lv
21:1-4). Chúa công bố người nghèo khó hạnh phúc bởi vì Nước Trời thuộc về họ (Lc 6:20; Mt 5:3). Người xác định sứ vụ của mình là “loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó” (Lc
4:18). Người đã sống như người nghèo khó. Người không sở hữu vật gì, ngay cả viên đá gối đầu (Lc 9:58). Đối với những ai muốn đi theo mình, Chúa
cho họ một sự chọn lựa: Thiên Chúa hay là tiền của! (Mt 6:24). Người bảo họ hãy làm sự chọn lựa hướng về người nghèo! (Mc 10:21). Sự thanh bần đặc trưng cho đời sống của Chúa Giêsu và của các môn đệ Người, cũng đã đặc trưng cho sứ vụ của Người. Trái với các nhóm rao giảng khav1 (Mt 23:15), các môn đệ của Chúa Giêsu không được mang theo mình một thứ gì, không vàng, không
bạc, không mặc hai áo, không bao bị và không đi dép (Mt 10:9-10). Họ phải tin tưởng nơi sự đón tiếp của tha nhân (Lc 9:4;
10:5-6). Và nếu các ông không được người ta đón tiếp, họ phải làm việc như mọi người khác và sống bằng những gì người ta dọn cho (Lc 10:7-8). Các
ông phải săn sóc người bệnh tật và túng thiếu (Lc 10:9; Mt
10:8). Sau đó các ông có thể nói với người ta: “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông” (Lc 10:9).
Mặt khác, khi nói về vấn đề quản lý của cải, điều mà đánh động chúng ta trong các dụ ngôn của Chúa Giêsu là sự nghiêm túc mà Người yêu cầu trong việc xử dụng những của cải này (Mt 25:21,26; Lc
19:22-23). Chúa Giêsu muốn tiền của phải được dùng để phục vụ đời sống (Lc 16:9-13). Đối với Chúa Giêsu, nghèo khó
không đồng nghĩa với sự lười biếng và cẩu thả. Lời chứng khác biệt này thiên về người nghèo là những gì đã thiếu vắng trong các phòng trào
phổ biến thời những người Biệt Phái, phái Essence và phái Nhiệt Thành. Trong Kinh Thánh, mỗi lần một phong trào phát sinh để lập lại lời Giao Ước, thì nó lại bắt đầu bằng việc tái thiết lập quyền lợi của người nghèo và bị hắt hủi. Nếu không có điều này, thì bản Giao Ước là điều không thể thực hiện được. Do đó các
tiên tri đã làm như thế và Đức Giêsu cũng làm như vậy. Người lên án chế độ cũ nhân danh Thiên Chúa mà khinh rẻ người nghèo. Đức Giêsu công bố một khởi đầu mới mà, nhân danh Thiên
Chúa, tập họp lại những kẻ bị loại trừ. Đây là ý
nghĩa và lý do cho việc lồng vào sứ mệnh cộng đoàn của Đức Giêsu ở giữa những người nghèo khó. Người tìm hiểu về cội nguồn và mở đầu cho một Giao Ước Mới.
6. Thánh Vịnh 15 (14)
Người cư ngụ trong nhà Chúa!
Lạy CHÚA, ai được vào ngụ trong nhà Chúa,
được ở trên núi thánh của Ngài?
Là kẻ sống vẹn toàn, luôn làm điều ngay thẳng,
bụng nghĩ sao nói vậy,
miệng lưỡi chẳng vu oan, không làm hại người nào,
chẳng làm ai nhục nhã.
Coi khinh phường gian ác, trọng ai kính CHÚA TRỜI,
lỡ thề mà bị thiệt, thì cũng chẳng rút lời,
cho vay không đặt lãi, chẳng nhận quà hối lộ
mà hại đến người ngay.
Phàm ai làm những điều này
không hề nao núng chuyển lay bao giờ.
được ở trên núi thánh của Ngài?
Là kẻ sống vẹn toàn, luôn làm điều ngay thẳng,
bụng nghĩ sao nói vậy,
miệng lưỡi chẳng vu oan, không làm hại người nào,
chẳng làm ai nhục nhã.
Coi khinh phường gian ác, trọng ai kính CHÚA TRỜI,
lỡ thề mà bị thiệt, thì cũng chẳng rút lời,
cho vay không đặt lãi, chẳng nhận quà hối lộ
mà hại đến người ngay.
Phàm ai làm những điều này
không hề nao núng chuyển lay bao giờ.
7. Lời Nguyện Kết
Lạy Chúa
Giêsu, chúng con xin cảm tạ Chúa về Lời Chúa đã giúp chúng con hiểu rõ hơn ý muốn của Chúa
Cha. Nguyện xin
Thần Khí
Chúa soi sáng các việc làm của chúng con và ban cho chúng con sức mạnh để thực thi
Lời Chúa
đã mặc khải cho
chúng con. Nguyện xin
chúng con, trở nên
giống như
Đức
Maria, thân mẫu
Chúa, không những chỉ lắng nghe mà còn thực hành Lời
Chúa. Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Đức Chúa Cha trong sự hiệp nhất với Chúa
Thánh Thần đến muôn
thuở muôn
đời. Amen.
Bài đọc 2
Danh Ta thật cao cả giữa chư dân
Trích bài chú giải của thánh Xy-ri-lô,
giám mục A-lê-xan-ri-a, về sách ngôn sứ Khác-gai.
Thời Đấng cứu độ chúng ta ngự đến, đã xuất
hiện một Đền Thánh vinh quang, huy hoàng và cao trọng hơn bội phần so với Đền
Thờ cũ. Càng thẩm định được sự khác biệt giữa phụng tự theo Luật cũ và phụng tự
trong Đức Ki-tô theo Tin Mừng, giữa hình bóng và thực tại, thì người ta còn
thấy điều đó rõ ràng hơn.
Về điều này, tôi nghĩ có thể nói như sau :
Xưa kia chỉ có một đền thờ và chỉ ở Giê-ru-sa-lem mà thôi ; trong đền thờ đó,
một mình dân Ít-ra-en tiến dâng hy lễ. Nhưng sau khi Con Một Thiên Chúa đã làm
người như chúng ta - vì Người là Đức Chúa, là Thượng Đế. Người giãi
sáng trên ta, - thì từ đó, trái đất đầy dẫy những đền thánh, và có vô số những
kẻ thờ phượng, biết kính tôn Thiên Chúa của muôn loài bằng những nghi lễ và
hương thơm thiêng liêng. Tôi thiết nghĩ đó là điều ngôn sứ Ma-la-khi đã tiên
báo nhân danh Thiên Chúa : Chúa phán : Ta là Đại Vương, danh Ta thật cao
cả giữa muôn dân ; ở khắp nơi người ta dâng lễ hy sinh và lễ vật tinh tuyền
kính danh Ta.
Vậy, vinh quang của đền thờ cánh chung,
tức là Hội Thánh thì lớn lao hơn : đó là điều có thật. Còn những ai lo lắng và
vất vả xây dựng đền thờ này thì được Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ, ban Đức Ki-tô là
sự bình an cho mọi người làm tặng phẩm, làm món quà từ trời xuống,nhờ Người,
chúng ta được liên kết trong một Thần Khí duy nhất mà đến cùng Chúa Cha. Thiên
Chúa tuyên bố với những người ấy khi nói : Tại nơi này, Ta sẽ ban tặng
bình an, bình an trong tâm hồn làm của riêng cho mọi người đóng góp xây dựng
ngôi đền thờ này. Quả nhiên, nơi khác Đức Ki-tô cũng nói : Thầy ban cho
anh em bình an của Thầy. Điều này ích lợi cho những người yêu mến Chúa thế nào
thì thánh Phê-rô đã nói : Bình an của Đức Ki-tô, bình an vượt lên trên mọi
hiểu biết, sẽ giữ gìn lòng trí anh em. Ngôn sứ I-sai-a là người khôn ngoan
từng cầu nguyện rằng : Lạy Đức Chúa, Ngài cho chúng con được an cư lạc
nghiệp, vì hết mọi việc chúng con làm cũng nhờ Ngài mà được hoàn tất, bởi lẽ
những ai đã một lần được Đức Ki-tô thương ban bình an thì dễ giữ linh hồn mình
và có thể hướng dẫn tâm trí tập tành nhân đức cho đến cùng. Vậy, Chúa tuyên bố
sẽ ban bình an cho bất cứ ai góp phần vào việc xây dựng đền thờ. Quả thật, hoặc
họ là kẻ xây dựng Hội Thánh và được đặt lên làm người khải đạo trong nhà Thiên
Chúa, cũng gọi là kẻ giải thích cho mầu nhiệm thánh ; hoặc họ là kẻ lo lợi ích
cho linh hồn mình mà trở thành viên đá sống động và thiêng liêng vươn lên
thành ngôi đền thánh, thành ngôi đền Thiên Chúa ngự, nhờ Thần Khí. Con người
như thế hẳn sẽ được hưởng mối lợi là có thể đạt tới ơn cứu độ chẳng khó khăn
gì.
Lời nguyện
Lạy Thiên Chúa toàn năng, ước gì ân sủng Chúa vừa mở đường cho
chúng con đi, vừa đồng hành với chúng con luôn mãi, để chúng con sốt sắng thực
hành những điều Chúa truyền dạy. Chúng con cầu xin...
(trích bài
đọc Giờ Kinh Sách CN28TN-bản dịch của nhóm CGKPV)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét