Thứ Sáu sau Chúa Nhật 27 Quanh Năm
Bài Ðọc I: (Năm
II) Gl 3, 7-14
"Những ai cậy dựa vào
đức tin, sẽ được chúc phúc với Abraham, con người tin tưởng".
Trích thư Thánh Phaolô Tông
đồ gửi tín hữu Galata.
Anh em thân mến, anh em hãy
nhận biết rằng: những ai cậy dựa vào đức tin, thì họ là con cái của Abraham.
Thực Kinh Thánh thấy trước rằng Thiên Chúa sẽ dùng đức tin làm cho các dân
ngoại được công chính, nên đã tiên báo cho Abraham rằng: "Nơi ngươi tất cả
dân ngoại sẽ được chúc phúc". Vậy những ai cậy dựa vào đức tin sẽ được
chúc phúc với Abraham, con người tin tưởng.
Thực ra, những người cậy dựa
vào lề luật, họ mắc phải điều vô phúc, vì có lời chép rằng: "Vô phúc những
ai không trung thành với những điều ghi trong Sách Luật, để thi hành những điều
đó". Ðàng khác, không ai được công chính hoá trước mặt Chúa bởi lề luật,
đó là điều hiển nhiên, vì lẽ rằng: "Người công chính sẽ sống bởi đức
tin". Lề luật không căn cứ ở đức tin, nhưng là "Ai thực hành những
khoản ấy, sẽ nhờ đó mà được sống".
Ðức Kitô đã cứu chuộc chúng
ta khỏi điều vô phúc của lề luật, bởi Người đã vì chúng ta, biến thành điều vô
phúc, như lời chép rằng: "Hễ ai bị treo trên cây gỗ, đều là vô phúc",
để phúc lành của Abraham được chuyển tới các dân ngoại trong Ðức Giêsu Kitô,
hầu chúng ta nhờ đức tin mà lãnh nhận Thánh Thần Chúa đã hứa".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 110, 1-2. 3-4.
5-6
Ðáp: Cho tới muôn đời Chúa vẫn nhớ lời minh ước (c. 5b).
Xướng: 1) Tôi sẽ ca tụng Chúa
hết lòng, trong nhóm hiền nhân và trong Công hội. Vĩ đại thay công cuộc của Chúa
tôi, thực đáng cho những người mến yêu quan tâm học hỏi! - Ðáp.
2) Công cuộc của Chúa là sự
hùng vĩ oai nghiêm, và đức công minh của Người muôn đời tồn tại. Chúa đã làm
những điều lạ lùng đáng nhớ, Người thực là Ðấng nhân hậu từ bi. - Ðáp.
3) Chúa đã ban lương thực cho
những ai tôn sợ Người, cho tới muôn đời Người vẫn nhớ lời minh ước. Chúa tỏ cho
dân Người thấy công cuộc quyền năng của Người, hầu ban cho họ được phần sản
nghiệp của chư dân. - Ðáp.
*
* *
Alleluia: Lc 19, 38
Alleluia, alleluia! - Chúc
tụng Ðức Vua, Ðấng nhân danh Chúa mà đến! Bình an trên trời, và vinh quang trên
các tầng trời! - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 11, 15-26
"Nếu Ta nhờ ngón tay
Thiên Chúa mà trừ quỷ, ắt là nước Thiên Chúa đã đến giữa các ngươi rồi".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Luca.
Khi ấy, (lúc Chúa Giêsu trừ
quỷ), thì có mấy người trong dân chúng nói rằng: "Ông ta nhờ tướng quỷ
Bêelgiêbút mà trừ quỷ". Mấy kẻ khác muốn thử Người, nên xin Người một dấu
lạ từ trời xuống.
Nhưng Người biết ý của họ,
liền phán: "Nước nào tự chia rẽ, sẽ diệt vong, và nhà cửa sẽ sụp đổ chồng
chất lên nhau. Vậy nếu Satan cũng tự chia rẽ, thì nước nó làm sao đứng vững
được? Bởi các ngươi bảo Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, vậy nếu Ta nhờ Bêelgiêbút
mà trừ quỷ, thì con cái các ngươi nhờ ai mà trừ? Bởi đó chính con cái các ngươi
sẽ xét xử các ngươi. Nhưng nếu Ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, ắt là
nước Thiên Chúa đã đến giữa các ngươi rồi.
"Khi có người khoẻ mạnh
và võ trang đầy đủ canh giữ nhà mình, thì của cải người đó được an toàn. Nhưng
nếu có người mạnh hơn xông đến đánh bại hắn, thì sẽ tước hết khí giới hắn tin
tưởng, và làm tiêu tán hết những gì đã tước đoạt. Ai không thuận với Ta là
nghịch cùng Ta, và ai không thu góp với Ta là phân tán.
"Khi thần ô uế ra khỏi
người nào, thì nó đi dông dài những nơi khô ráo, tìm chỗ nghỉ ngơi, nhưng không
tìm được, nên nó nói rằng: "Ta sẽ trở lại nhà ta, nơi ta đã ra đi".
Khi đến nơi, nó thấy nhà đó đã được quét sạch và sắp đặt ngăn nắp. Bấy giờ nó
đi rủ bảy tà thần khác hung ác hơn nó, chúng vào cư ngụ ở đó. Và tình trạng sau
cùng của người ấy trở nên tệ hại hơn trước".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm:
Ðức Giêsu mạc khải rõ sứ mệnh
của Ngài khi Ngài dùng quyền năng mà trừ quỷ. Ngài đến để bảo vệ và bênh vực
chúng ta, cứu chúng ta thoát khỏi ách thống trị của ma quỷ và tội lỗi.
Ðức Giêsu còn cho ta biết
thêm: ma quỷ là kẻ thù rất mạnh thế, chúng luôn tìm cách lôi kéo trói buộc
chúng ta bằng đủ mọi mưu chước. Vì thế, chúng ta cần tỉnh táo và sáng suốt
trước những thử thách.
Cầu Nguyện:
Lạy Cha, Chúa Giêsu Con Cha,
đã dạy chúng con phải cầu nguyện luôn để khỏi sa chước cám dỗ. Giữa cuộc sống
đầy hấp dẫn và lôi kéo của thế trần. Xin cho chúng con cũng biết noi gương
Ngài: Luôn gắn bó với Cha, cầu nguyện cùng Cha. Ðể chúng con được sức mạnh
chiến thắng trong cuộc chiến với ma quỷ. Chúng con cầu xin nhờ Ðức Giêsu Kitô,
Chúa chúng con. Amen.
(Lời Chúa trong
giờ kinh gia đình)
Nương Tựa Vào Chúa
(Lc 11,15-26)
Suy Niệm:
Nương Tựa Vào Chúa
Dù với công thức dài như ở
Tin Mừng Matthêu hay ngắn gọn nơi Tin Mừng Luca, Kinh Lạy Cha được kết thúc
bằng câu: "Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ". Nhắc nhở các môn đệ
cầu xin cho khỏi sa chước cám dỗ, Chúa Giêsu cũng muốn nói đến một thực tại
luôn có mặt trong thế giới này để làm hại con người, đó là sự dữ hay ma quỉ. Ở
bên cạnh con người, nhưng ma quỉ không hiện nguyên hình, mà lại mượn chính hình
dạng con người để quyến rũ và lôi kéo con người đến điều ác.
Ðó cũng là sự kiện đã xảy ra
như được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay: sau khi Chúa Giêsu chữa cho một người
bị quỉ ám được khỏi, trong đám đông có mấy người nói rằng Ngài đã nhờ thế của
quỉ vương Beelzebul mà trừ quỉ. Chúa Giêsu đã nhân cơ hội này để mạc khải về
Nước Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa đã đến và trong đó có bóng dáng của ma quỉ.
Một Phêrô vừa được khen thưởng vì đã tuyên xưng đúng tước hiện của Chúa Kitô,
thì lập tức đã bị khiển trách là Satan khi ông căn ngăn Chúa Giêsu lên
Yêrusalem để chịu khổ nạn.
Chúa Giêsu đã đến để chiến
thắng ma quỉ và tội lỗi, đồng thời Ngài cũng đòi hỏi những kẻ theo Ngài phải có
một thái độ dứt khoát: "Ai không theo tôi, là chống tôi, và ai không cùng
tôi thu góp, là phân tán". Hình ảnh người võ trang canh giữ nhà của mình
là một lời mời gọi những kẻ theo Chúa biết hoàn toàn đặt tin tưởng, phó thác
vào Ngài. Tìm một người hùng mạnh để canh giữ cho mình được an toàn thì có ai
bằng Thiên Chúa; kiếm một nơi ẩn náu trước những tấn công của kẻ thù, thì có
đâu vững chắc cho bằng núp bóng dưới cánh tay Ngài.
Chúng ta phải tìm nơi nương
tựa mạnh mẽ, vững chắc, vì ma quỉ như sư tử luôn gầm thét rảo quanh tìm mồi cắn
xé, làm hại chúng ta. Một lần thất bại, nó không nản lòng, nó sẽ trở lại với
một lực lượng hùng mạnh hơn. Bởi đó, chúng ta phải kiên trì trong lời cầu
nguyện: "Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho
khỏi sự dữ". Cám dỗ là vũ khí ma quỉ dùng để đánh bại chúng ta, nhưng
chúng ta vẫn không nao núng, nếu biết đứng vững trong đức tin để chống cự và
biết ẩn núp dưới sự che chở của Chúa.
Nguyện xin Chúa gìn giữ chúng
ta luôn kiên vững trong niềm xác tín đó.
LỜI
CHÚA MỖI NGÀY
Thứ Sáu Tuần
27 TN2
Bài đọc: Gal 3:7-14; Lk 11:15-16.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Nên công chính nhờ đức tin
Làm sao con người có thể
trở nên công chính trước mặt Thiên Chúa là trọng tâm của Thư gởi tín hữu Galat.
Đối phương của thánh Phaolô cho rằng con người có thể trở nên công chính bằng
việc giữ trọn vẹn các Lề Luật. Thánh Phaolô cho rằng con người chỉ có thể trở
nên công chính bằng đức tin vào Chúa Giêsu Kitô. Hiểu câu trả lời của thánh
Phaolô rất cần cho sự đối thọai giữa Kitô Giáo và Do Thái Giáo cũng như Hồi
Giáo.
Chỉ có Thiên Chúa và
những ai Thiên Chúa ban cho mới có quyền trên quỷ. Chúa Giêsu trừ quỷ bằng ngón
tay của Thiên Chúa. Điều này chứng minh cho mọi người thấy Ngài là Thiên Chúa;
thế mà một số người lại cho Ngài nhờ thế của tướng quỷ Bêel-zebul mà trừ quỷ.
Kẻ khác lại đòi thêm dấu lạ từ trời trước khi có thể tin vào Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Nên
công chính nhờ đức tin
1.1/ Abraham nên công
chính nhờ đức tin hay bằng thi hành những gì Thiên Chúa dạy? Đây là lý luận chính
của của cả Phaolô và những người Do-Thái vì cả hai đều tin vào Abraham.
Cách tốt nhất để hiểu
một nguyên tắc là xem nó áp dụng làm sao vào một người. Vì thế, thánh Phaolô
hướng lòng các tín hữu Galat vào tổ phụ Abraham. Ông là người mà Thiên Chúa đã
làm một lời hứa vĩ đại là qua ông tất cả các dân tộc trên địa cầu sẽ được chúc
lành (Gen 12:3). Ông là người mà Thiên Chúa đã chọn cách đặc biệt là bạn tâm
phúc của Ngài. Bằng cách nào Abraham đã làm hài lòng Thiên Chúa? Chắc chắn là
không bằng việc giữ cẩn thận các Lề Luật vì ở thời gian đó chưa có Luật (Luật
chỉ xuất hiện từ thời ông Môsê trở đi). Ông Abraham đã làm hài lòng Thiên Chúa
bằng việc tin tưởng hòan tòan vào tất cả những gì Chúa nói với ông.
Ai là con cháu hay giòng
dõi của Abraham? Người Do-Thái tin họ là giòng dõi đích thực của Abraham theo
di truyền và hãnh diện vì điều này làm họ khác biệt với các Dân Ngọai. Phaolô
không tin như thế, ngài tuyên bố: “Những ai dựa vào đức tin, những người ấy là
con cái ông Áp-ra-ham. Đàng khác, Kinh Thánh thấy trước rằng Thiên Chúa sẽ làm
cho Dân Ngoại nên công chính nhờ đức tin, nên đã tiên báo cho ông Áp-ra-ham tin
mừng này: Nhờ ngươi, muôn dân sẽ được chúc phúc. Như vậy, những kẻ dựa vào đức
tin thì được chúc phúc làm một với ông Áp-ra-ham, người có đức tin.” Vì thế,
các tín hữu Galat là con cháu đích thực của tổ phụ Abraham vì họ đã tuyên xưng
đức tin của họ vào Thiên Chúa; chứ không cần phải giữ Luật mới có thể trở thành
con cháu của Abraham.
1.2/ Lề Luật đặt con
người dưới lời nguyền rủa: Lý luận của Phaolô sau đây sẽ đưa đối phương vào góc tường
và hết đường trốn thóat. Ngài nói: giả sử anh quyết định anh sẽ nên công chính
trước mặt Thiên Chúa bằng việc giữ cẩn thận các Lề Luật của Ngài; đâu là hệ quả
mà anh phải gánh chịu: Trước tiên, anh phải thực hành những gì Luật dạy; nếu
không anh phải chịu các hậu quả của nó. Thứ đến, anh phải giữ tất cả những gì
Luật dạy; và từ xưa tới giờ, chưa có ai dám vỗ ngực tự xưng mình đã giữ trọn
vẹn tất cả mọi Lề Luật. Vì thế, “những ai dựa vào những việc Luật dạy phải làm
thì đều chuốc lấy lời nguyền rủa, vì Kinh Thánh viết: Đáng nguyền rủa thay mọi
kẻ không bền chí thi hành tất cả những gì chép trong sách Luật” (Dt 27:26).
Kinh Thánh có lời ngược
lại: “Người nào mà trở nên công chính với Chúa bằng đức tin sẽ thực sự sống”
(Hab 2:4). Vì thế, không ai được nên công chính trước mặt Thiên Chúa nhờ Lề
Luật. Chỉ còn một cách nên công chính trước mặt Chúa là bằng con đường đức tin.
Người công chính nhờ đức tin sẽ được sống. Dĩ nhiên, những ai thực hành trọn
vẹn những điều Lề Luật dạy, thì nhờ đó sẽ được sống; nhưng thực tế cho thấy
không ai có thể đi theo con đường ấy cả.
1.3/ Đức Ki-tô đã cứu
chuộc chúng ta cho khỏi bị nguyền rủa bởi Lề Luật: Vì mọi người đã vi phạm
Luật, nên hậu quả là mọi người phải chết; nhưng ai có thể cứu con người khỏi
chết? Đó chính là nguyên nhân tại sao Con Thiên Chúa nhập thể và chịu chết thay
cho mọi người.
(1) Khi Ngài
chịu treo trên Thập Giá: Đức Ki-tô đã chuộc chúng ta cho khỏi bị nguyền rủa vì
Lề Luật, khi vì chúng ta chính Người trở nên đồ bị nguyền rủa, vì có lời chép: Đáng nguyền rủa thay
mọi kẻ bị treo trên cây gỗ! (Dt 21:23).
(2) Dân Ngoại cũng
được hưởng phúc lành dành cho ông Abraham: Như thế, nhờ Đức Giêsu Kitô, các Dân Ngoại cũng
được hưởng phúc lành dành cho tổ phụ Abraham; và để nhờ đức tin, mọi người nhận
được ơn Thiên Chúa đã hứa tức là Thánh Thần.
2/ Phúc Âm: Chúa
Giêsu trừ quỷ bằng ngón tay Thiên Chúa.
Chứng kiến phép lạ Chúa
Giêsu trừ quỷ, có 3 phản ứng của con người:
- Có mấy người vì ghen
tương bảo: "Ông ấy dựa thế quỷ vương Bê-el-dê-bun mà trừ quỉ." Đối
với hạng người này, Chúa hỏi họ 2 câu: (1) Nếu Ta dựa thế quỉ vương Beelzebul
mà trừ quỉ, thì con cháu các ngươi nhờ ai mà trừ quỉ; (2) Nếu Satan cũng tự
chia rẽ chống lại chính mình, thì nước nó tồn tại sao được?
- Kẻ khác lại muốn thử
Người, nên đã đòi Người một dấu lạ từ trời. Phép lạ Chúa làm là để khơi dậy
niềm tin. Nếu đã chứng kiến phép lạ rồi mà vẫn chưa tin thì chẳng có gì bảo đảm
sẽ tin khi chứng kiến phép lạ nữa. Hơn nữa, đức tin dựa trên phép lạ sẽ không
bền vững.
- Đa số đám đông đều tin
vào Ngài vì họ tin chỉ Thiên Chúa mới có thể làm được phép lạ như vậy.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Không một ai trong
chúng ta có thể trở nên công chính trước mặt Thiên Chúa bằng việc giữ cẩn thận
các giới răn vì không ai có thể giữ tất cả mọi điều.
- Chúng ta chỉ có thể
trở nên công chính bằng cách tin vào Chúa Giêsu Kitô, chính Ngài đã chịu chết
thay cho chúng ta; và nhờ Ngài chúng ta được giao hòa với Thiên Chúa và lãnh
nhận mọi ơn cần thiết cho đời này và đời sau.
- Khi chứng kiến những
việc kỳ diệu của người khác làm, chúng ta hãy thành thật khen ngợi tài năng của
họ. Đừng để tính kiêu ngạo ghen tương làm mờ mắt khiến chúng ta khinh thường họ
hay phủ nhận những gì họ đã làm.
Thứ Sáu tuần 27 thường niên
Sứ điệp: Chúa Giêsu dùng quyền năng Thiên Chúa xua trừ ma
quỷ và thực hiện triều đại Thiên Chúa. Ai thuộc về Thiên Chúa phải xa lánh tội
lỗi và ma quỷ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dùng uy quyền Thiên Chúa cứu chữa
bao kẻ bệnh tật, xua trừ ma quỷ. Con xác tín rằng Chúa đến khai mở một kỷ
nguyên mới, kỷ nguyên Thiên Chúa cứu độ loài người. Chúa đến thiết lập một
triều đại mới và vĩnh tồn, triều đại Thiên Chúa. Từng việc Chúa làm, từng lời
Chúa nói, đều tỏ lộ quyền năng và tình thương cứu độ Chúa dành cho con. Lạy
Chúa, con xin dâng lời cảm tạ và chúc tụng Chúa đến muôn đời.
Lạy Chúa, khi Chúa khai mở thời đại cứu độ cũng
là lúc Chúa chấm dứt thời kỳ của ma quỷ. Nhưng chúng vẫn chưa hoàn toàn chịu
khuất phục quyền uy Chúa. Chúng vẫn còn muốn khuấy động và gieo rắc vào lòng
mọi người sự thù hằn, chống đối và phản nghịch Chúa. Có người đã coi Chúa như
một thầy ma thuật, lấy quyền tướng quỷ để trừ quỷ, có kẻ đã đòi những dấu lạ
như thách thức quyền năng Chúa. Ma quỷ vẫn còn đó, chúng ghen tức với hạnh phúc
và ơn cứu độ dành cho chúng con. Chúng vẫn luôn tiếp tục gây chia rẽ, thù hằn,
chống đối giữa chúng con với Thiên Chúa, giữa chúng con với nhau ngay trong thế
giới hôm nay.
Lạy Chúa, xin biểu lộ quyền năng giúp con thắng
vượt mọi mưu chước ma quỷ. Xin cho con ơn thức tỉnh ngay với bản thân để đừng
khi nào con cố tình phạm tội, hay đồng lõa với cơn cám dỗ. Xin cứu con
khỏi mọi sự dữ. Amen.
Ghi nhớ : "Nếu Ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ,
ắt là nước Thiên Chúa đã đến giữa các ngươi rồi".
THÁI ĐỘ TRƯỚC NHỮNG
NGƯỜI ĐỘC MIỆNG
“Nếu tôi dùng ngón
tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là triều đại Thiên Chúa đã đến giữa các
ông.” (Lc 11,15-16)
Suy niệm: Gán những phép lạ tốt lành Chúa Giê-su thực hiện cho chúng
có nguồn gốc từ quỉ Bêendêbun, đó quả là một lời xuyên tạc hiểm độc. Đối lại,
Chúa Giêsu cho thấy không có gì phải làm ầm ĩ. Một cách bình thản, Ngài đưa ra
những lập luận lành mạnh và vững chắc để bẻ gãy những lời nguỵ biện kia: “Nước nào tự chia rẽ thì sẽ điêu
tàn… Nếu Xatan cũng tự chia rẽ chống lại chính mình, thì nước nó tồn tại sao
được?” Nhưng, phản bác những
lời xuyên tạc kia chưa phải là mối bận tâm lớn nhất của Chúa, trọng tâm duy
nhất của Ngài đó là loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa: “Nếu tôi dùng ngón tay Thiên Chúa
mà trừ quỷ thì quả là triều đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông.”
Mời Bạn: Tôi có cái nhìn đầy thành kiến “trông cò ra quạ”, nhìn
những dấu chỉ của Nước Thiên Chúa ra biểu hiện của quỷ Bêendêbun hay không? Tôi
có xu hướng xét đoán ý xấu cho người khác không? Mặt khác, ơn gọi và sứ mạng
của người môn đệ Chúa là loan báo Tin Mừng trước tiên bằng đời sống của mình
giữa thế gian, tôi đã phản ứng thế nào khi làm điều tốt mà lại bị người khác công
kích, xuyên tạc?
Sống Lời Chúa: Nhìn ngắm
thật kỹ mẫu gương của Chúa Giê-su hôm nay. Mỗi khi tôi định nói xấu về ai hoặc
tôi bị ai nói xấu hãy nhớ lại thái độ này của Chúa và xin ơn bắt chước Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã biến tội lỗi chúng con thành dịp để ban
cho chúng con điều tốt đẹp nhất, đó là ơn cứu độ. Xin giúp con biết bắt chước
Chúa để con có thể khám phá những điều tốt đẹp nơi anh em con.
Ngón tay Thiên Chúa
Chúng
ta không đứng ngoài cuộc chiến giữa Đức Giêsu với Xatan. Chúng ta cùng chiến
đấu với Giêsu cho một thế giới không còn tội ác, một thế giới không còn bạo
lực, bất công...
Suy niệm:
Nếu đời người là một cuộc chiến đấu không ngừng
thì Đức Giêsu khi sống ở đời, cũng không tránh
khỏi cuộc chiến ấy.
Cha sai Ngài đến để khai mở Nước Thiên Chúa
trên trần gian.
Để làm việc đó, Nước của Xatan cần bị triệt
tiêu.
Cuộc đối đầu giữa Đức Giêsu và Xatan là điều
không tránh khỏi.
Ngay trước khi bắt đầu sứ vụ,
Đức Giêsu đã phải đối diện với những mồi chài
khôn khéo của Xatan.
Và Ngài đã thắng, đã bắt Xatan phải xéo đi cho
khuất mắt (Mt 4, 10).
Khi làm việc Cha giao, khi gần gũi với con
người,
Đức Giêsu thấy rất rõ sự hiện diện đầy quyền
lực của tên tướng quỷ.
Xatan và Nước của nó chi phối và tác động trên
con người.
Đức Giêsu là Đấng giải phóng con người khỏi nô
lệ bởi Xatan.
Một công việc không ai chối cãi được của Ngài
là trừ quỷ.
Nhưng có nhiều cách giải thích chuyện trừ quỷ
của Ngài.
Có người coi Đức Giêsu đã trừ quỷ dựa vào thế lực
của Bêendêbun.
Bêendêbun là một vị thần xứ Canaan ,
ở đây được coi là Xatan.
Không thể nào tướng quỷ lại giúp Ngài diệt các
quỷ nhỏ của hắn.
Nếu thế Nước của Xatan chẳng thể nào tồn tại
đến nay (c. 18).
Đức Giêsu khẳng định mình dùng ngón tay Thiên
Chúa để trừ quỷ (c. 20).
Chỉ cần chút quyền năng Thiên Chúa cũng đủ để
xua đuổi ác thần,
và khai mở Nước Thiên Chúa giữa lòng thế giới.
Chúng ta thường quên Xatan là nhân vật có thật
và hùng mạnh,
có vũ trang đầy đủ để canh giữ lâu đài của hắn
cho an toàn (c. 21).
Nhưng Đức Giêsu chính là người hùng mạnh hơn và
thắng được hắn.
Ngài có khả năng tước vũ khí và phân chia chiến
lợi phẩm (cc. 21-22).
Cuộc chiến của Đức Giêsu chống lại Ác thần vẫn
còn kéo dài đến tận thế.
Có những lúc chúng ta tưởng Xatan là kẻ hùng mạnh
hơn,
và dường như thế giới nằm dưới móng vuốt của
hắn.
Nhưng chiến thắng cuối cùng thuộc về Đức Giêsu,
khi Ngài quang lâm.
Chúng ta không đứng ngoài cuộc chiến giữa Đức
Giêsu với Xatan.
Chúng ta cùng chiến đấu với Giêsu cho một thế
giới không còn tội ác,
một thế giới không còn bạo lực, bất công, thất
vọng, muộn phiền,
một thế giới không còn khổ đau, bệnh tật, đói
nghèo, mất hướng.
Đứng hẳn về phía Giêsu, đi với Giêsu, thu góp
với Giêsu:
đó là chọn lựa của người Kitô hữu (c. 23).
Ngay cả khi đã trục xuất được quỷ dữ khỏi đời
mình,
và khi ngôi nhà đời mình đã được quét tước, dọn
dẹp hẳn hoi,
ta cũng phải hết sức cảnh giác, vì có nguy cơ
quỷ trở lại.
Sự trở lại này có thể còn kinh khủng hơn trước
(c. 26).
Có vẻ quỷ thích ở lại với con người hơn là lang
thang nơi hoang mạc,
nên căn nhà tâm hồn của chúng ta cần được bảo
vệ bằng lũy hào Lời Chúa.
Xin Đức Giêsu dạy chúng ta biết cách nhận diện
kẻ thù,
biết cách đuổi Xatan ra khỏi đời mình và ngăn
không cho nó trở lại.
Cầu nguyện:
Lạy Cha
từ ái,
đây là
niềm tin của con.
Con tin
Cha là Tình yêu,
và mọi sự
Cha làm đều vì yêu chúng con.
Cả những
khi Cha mạnh tay cắt tỉa,
cả những
khi Cha thinh lặng hay vắng mặt,
cả những
khi Cha như chịu thua sức mạnh của ác nhân,
con vẫn
tin Cha là Cha toàn năng nhân ái.
Con tin
Cha không chịu thua con về lòng quảng đại,
chẳng để
con thiệt thòi khi dám sống cho Cha.
Con tin
rằng nơi lòng những người cứng cỏi nhất
cũng có
một đốm lửa của sự thiện,
được vùi
sâu dưới những lớp tro.
Chỉ một
ngọn gió của tình yêu chân thành
cũng đủ
làm đốm lửa ấy bừng lên rạng rỡ.
Con tin
rằng chẳng có giọt nước mắt nào vô ích,
thế giới
vẫn tồn tại nhờ hy sinh thầm lặng của bao người.
Con tin
rằng chiến thắng cuối cùng thuộc về Ánh sáng.
Sự Sống
và Tình yêu sẽ chiếm ngự địa cầu.
Con tin
rằng dòng lịch sử của loài người và vũ trụ
đang
chuyển mình tiến về với Cha,
qua trung
gian tuyệt vời của Chúa Giêsu
và sức
tác động mãnh liệt của Thánh Thần.
Con tin
rằng dần dần mỗi người sẽ gặp nhau,
vượt qua
mọi tranh chấp, bất đồng,
mọi dị
biệt, thành kiến,
để cùng
nắm tay nhau đi qua sa mạc cuộc đời
mà về nhà
Cha là nơi hạnh phúc viên mãn.
Lạy Cha,
đó là niềm tin của con.
Xin Cha
cho con dám sống niềm tin ấy. Amen.
"Nếu
Ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, ắt là nước Thiên Chúa đã đến giữa các
ngươi rồi".
Quyền Năng Trên Quỉ Dữ
Phép
lạ Chúa Giêsu thực hiện là một dấu chỉ để mạc khải nước Thiên Chúa và tình
thương giải phóng của Thiên Chúa đối với con người. Nhưng mọi dấu chỉ đều lưỡng
vị, hai nghĩa và người ta có thể giải thích cách này hay cách khác, tùy theo
tâm hồn họ như thế nào. Thiên Chúa chấp nhận để cho con người làm như vậy là vì
Ngài kính trọng tự do của người chứng kiến và giải thích dấu chỉ. Ðó là điều đã
xảy ra và được kể lại trong đoạn Phúc Âm chúng ta vừa đọc lại trên đây.
Nhiều
người kính phục quyền năng giải phóng và tình thương nhân từ của Thiên Chúa
được thể hiện nơi và qua hành động của Chúa Giêsu. Tuy nhiên, vài người khác
thì giải thích xấu đi, cho rằng Chúa Giêsu cấu kết với quyền lực của quỷ vương
để trừ quỷ con. Nhưng giải thích như vậy không hợp lý gì cả. Lòng gian tà và ý
xấu muốn bôi nhọ Chúa Giêsu làm cho họ ra mù quáng và lý luận không còn hợp lý
nữa. Chúa Giêsu chỉ cho họ thấy khuyết điểm này với những lời như sau:
"Vương quốc nào chia rẽ thì sẽ bị tan rã. Giờ đây, nếu Satan cũng chia rẽ
thì làm sao chúng đứng vững được". Giải thích duy nhất đúng là qua dấu lạ
đó mà nhìn nhận Ðấng thực hiện dấu lạ có quyền năng trên quỷ dữ và như thế là
Nước Thiên Chúa và hành động giải phóng của Ngài đã đến giữa con người trước
mặt họ.
Ðể
chấp nhận lời mạc khải của Chúa và trong trường hợp này, lời giải thích của
Chúa Giêsu về ý nghĩa của dấu lạ Chúa vừa thực hiện, con người cần nhờ đến ánh
sáng siêu nhiên hướng dẫn, cần có đức tin, cần có sự soi sáng của Chúa Thánh
Thần. Ðây là điều mà những kẻ thù của Chúa Giêsu không có được đức tin là hồng
ân của Thiên Chúa, chứ không phải là kết luận của suy tư. Vì thế, trước dấu lạ
Chúa Giêsu thực hiện, con người không nhất thiết có thể nhìn nhận ý nghĩa của
dấu lạ đó và tuyên xưng đức tin. Nếu đức tin là kết luận của suy tư lý trí thì
trước dấu lạ Chúa thực hiện, mọi người đều đã tin Chúa hết cả rồi.
Con
người cần khiêm tốn cầu xin Thiên Chúa ban cho ơn đức tin, để có thể nhận ra ý
nghĩa của dấu lạ và được củng cố trong đức tin. Trước dấu lạ của Chúa, con
người chỉ có một trong hai thái độ: tin hay không tin; chấp nhận hay chối từ mà
thôi. Và một khi đã tin rồi, người đồ đệ cần phải góp phần của mình để bồi
dưỡng thêm cho đức tin, góp phần làm cho đức tin được phát triển, được vững
mạnh hơn. Nếu không, tình trạng bị mất đức tin sau đó sẽ trở thành tồi tệ hơn
trước khi tin Chúa, ma quỷ tấn công trở lại mạnh mẽ hơn muôn vạn cho đến bảy
lần hơn.
Ðể
hiểu rõ một ai thì cần phải yêu mến người đó và thường xuyên trao đổi với người
đó. Ðối với Chúa Giêsu cũng vậy, để biết Chúa nhiều hơn, thì cần phải yêu mến
Ngài và có những trao đổi thường xuyên với Ngài qua việc cầu nguyện, lắng nghe
lời Chúa. Ðể có thể luôn luôn đứng về phe Chúa, luôn luôn trung thành theo Chúa
thì không có cách nào tốt hơn là hữu hiệu hơn là sống thân mật kết hiệp với
Chúa qua việc cầu nguyện và lắng nghe lời Ngài. Ðiều này đòi hỏi chúng ta phải
luôn sám hối, hoán cải, để có thể cùng với Chúa mà chiến thắng sức mạnh thần dữ
muốn chiếm đoạt chúng ta theo phe chúng.
Lạy
Chúa là Cha chúng con.
Chúng
con cảm tạ Chúa vì đã ban cho chúng con đức tin. Xin thương ban xuống tràn đầy
Chúa Thánh Thần trên chúng con để chúng con được củng cố mỗi ngày một thêm
trong đức tin.
Lạy
Chúa.
Xin
gia tăng đức tin cho chúng con.
(Trích
trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Không thuận là chống
“Ai
không đi với tôi là chống lại tôi, và ai không cùng tôi thu góp là phân tán.”
(Lc. 11, 23)
Đó
là lý luận đơn giản. Người ta không thể vừa thuận vừa chống cùng một lúc. Người
ta tố cáo Đức Kitô lấy quyền quỷ mà trừ quỷ! Thưa quý vị, quý vị nếu có một
chút thông minh, quý vị sẽ thấy rõ đó là cuộc nội chiến ghê gớm của Satan.
Thiên Chúa nhân lành đã làm rất nhiều để chống lại Satan và bè lũ của nó. Muốn
diệt chúng hoàn toàn, Chúa chỉ để chúng đánh nhau từ trong nội bộ là xong.
Nhưng khốn nỗi, không bao giờ Ngài làm thế.
Không,
không phải Đức Kitô nhờ tướng quỷ Bendêbút mà trừ quỷ. Người Aramê đã gọi
Bendêbút là “chúa phân bớn” “chúa ruồi nhặng”. Những tiếng khinh bỉ đó không
bao giờ dám gán cho Đức Kitô. Nhưng những kẻ dám gán cho Người rất quỷ quyệt,
tuy nhiên họ lại ngu dốt đến nỗi cho thấy họ đã tự mâu thuẫn với chính mình!
Chính
nhờ ngón tay Thiên Chúa có ý nghĩa là sức mạnh của Thiên Chúa mà Đức Kitô hành
động. Vì từ nay đi, nhờ Người triều đại Thiên Chúa đã tiếp tục trị đến trong
thế gian. Satan không thể nào chống được Con Thiên Chúa. Nó đã rình mò thám
thính thử đến thuê mướn Người lúc ăn chay 40 ngày trong sa mạc. Người mạnh hơn
nó trên thế gian, từ nay chính Người là Đấng Thiên Sai Cứu Thế! Người đến cứu
độ nhân loại. Người ở lại đây, không bỏ đi nữa. Ai ở với Người và không chống
lại Người thì được bảo vệ và được nâng đỡ mãi mãi trong tình yêu của Người.
Nhưng
xin chú ý, chú ý! Người ta có thể thuận theo Người, thành thật chọn Người, muốn
theo Người tới cùng, bằng mọi giá, tin cậy núp bóng Người luôn luôn! Nhưng đừng
tưởng Satan không còn nữa, thời của nó đã trôi vào quá khứ, nó không còn thể
chống lại loài người nữa; chối quyền lực của nó thì liều mình đi đến sa ngã
thất bại. Nó còn hoạt động hơn bao giờ hết! nó biết lừa cơ hội để khai thác
những yếu đuối sâu sa của chúng ta một cách đáng sợ! những làn sóng ngầm của sự
dữ lôi cuốn thế giới chúng ta là chứng cớ rõ ràng có bàn tay lầm ngầm của ma
quỷ. Sự đánh thức những bản năng hạ đẳng nhất của nhân loại là dấu chỉ chắc
chắn quỷ đang có mặt giữa chúng ta! đừng sợ, đừng đánh thức những thú hạ đẳng
đó, dù thần dữ không bao giờ đầu hàng, nhưng hãy tin cậy vững mạnh vào Đức Kitô
vì Người đã chiến thắng thế gian; Phần chúng ta phải sáng suốt đi theo Người.
GF.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng 10
12 THÁNG MƯỜI
Muối Và Ánh Sáng Cho Trần Gian.
Trước khi được tung vào
khắp thế giới, các Tông Đồ đã cùng với Đức Maria, Mẹ Giáo Hội, cầu nguyện và
chờ đợi để đón nhận Chúa Thánh Thần. Chúa Giêsu đã hứa gởi Thánh Thần, Đấng Phù
Trợ, đến đưa dẫn các Tông Đồ vào toàn bộ chân lý và ban cho các ngài ân sủng để
đáp lại tiếng gọi của Tin Mừng. Thật vậy, phải có sức mạnh của Thánh Thần, Giáo
Hội mới có thể soi sáng cho mọi người. Chỉ nhờ Thánh Thần, Giáo Hội mới có thể
trở thành muối và ánh sáng cho trần gian (Mt 5, 13-14). Chỉ nhờ Thánh Thần,
Giáo Hội mới có thể canh tân và cứu độ mọi người, đem họ đến cùng Chúa Kitô.
Khi Thánh Bộ Truyền Bá
Đức Tin lần đầu tiên được chính thức thành lập, đó cũng là giai đoạn sôi động
của những khám phá lớn lao về các vùng đất mới. Những thế giới mới mở ra vẫy
gọi bước chân các nhà truyền giáo của Giáo Hội. Và nhu cầu thiết lập một cơ chế
để phục vụ cho mục đích rao giảng Tin Mừng trở thành cấp thiết hơn bao giờ.
Ngày nay, chúng ta đang
ở trong một thời đại khác hẳn. Công cuộc thám hiểm trái đất đã hoàn tất. Tất cả
các lục địa đều đã mở ra sẵn sàng đón nhận sứ điệp của Tin Mừng, với những giáo
hội tươi trẻ và đầy triển vọng. Một mùa gặt bội thu đang mời gọi những thợ gặt
có khả năng là ánh sáng và muối cho trần gian.
Hai ngàn năm lịch sử
Giáo Hội, xét về mặt địa dư thì Tin Mừng đã được loan báo cho toàn thể thế
giới. Nhưng trong bối cảnh sứ vụ loan báo Tin Mừng của mình, Giáo Hội không
quên bổn phận thăng tiến con người, phát triển xã hội và bảo vệ các quyền của
con người.
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 12-10
Gl 3, 7-14; Lc 11, 15-26.
LỜI SUY NIỆM: “Ai không đi với tôi là
chống lại tôi, và ai không cùng tôi thu góp là phân tán” (Lc11,23)
Chúa Giêsu đang khẳng định với mỗi chúng ta. Nếu suốt đời sống của mỗi chúng ta
không chịu đi theo Ngài là chống đối Ngài. Trước khi đi theo Ngài, mỗi người
chúng ta phải học biết về Ngài, và sự học biết này phải liên lỉ suốt cuộc đời
của chúng ta chứ không phải chỉ một thời gian nào đó, hay những điều nào đó rồi
cho là đã đủ. Những giáo huấn của Ngài, mỗi người chúng ta không chỉ học thuộc
và hiểu mà thôi, nhưng còn phải tin và sống. Biết bao nhiêu người, họ thông
suốt cả Cựu Ước và Tân Ước, nhưng họ vẫn là những kẻ vô thần. Bởi họ biết mà
không tin và không sống với những gì đã biết. Mỗi người chúng ta phải tự kiểm
mình lại, chúng ta đang cùng đi với Ngài hay là những kẻ chống đối Ngài.
Mạnh Phương
++++++++++++++++++
12 Tháng Mười
Người Nữ Tu Khó Tính
Thánh nữ Têrêxa hài đồng Giêsu được trao phó cho công việc trông
coi một chị nữ tu già bị bất toại. Người nữ tu già này nổi tiếng là một người
khó tính trong nhà dòng. Têrêxa phải dìu bà đi từng bước. Một chút thiếu sót
cũng đủ cho Têrêxa bị trách móc. Bà không một lần nói lên một tiếng cám ơn. Thế
nhưng Têrêxa vẫn luôn tỏ ra vui tươi hồn nhiên và chịu đựng tất cả vì thánh nữ
yêu mến Chúa và vì Tình Yêu Chúa, thánh nữ yêu mến người nữ tu già đáng thương
này.
Tình
yêu đối với Chúa thường không tỏ hiện bên ngoài. Dấu hiệu bên ngoài của tình
yêu mến đối với Chúa chính là yêu mến tha nhân. Và chúng ta chứng tỏ tình yêu
đối với tha nhân không những bằng lời nói nhưng nhất là bằng hành động, bằng sự
nhẫn nhục, tha thứ và cảm thông.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Ngày 12
Thiên Chúa không thể bắt buộc con người đón nhận tình yêu
của Người. Vì như vậy, không còn tự do, cho nên không còn tình yêu.
Để thoát khỏi bế tắc này, Thiên Chúa đến gặp con người
trong bản chất người của họ, nghĩa là trong tình trạng bản thể hoá thân. Sách
Sáng Thế đã diễn tả điều này, khi kể: Sau sự "sa ngã" của người đàn
ông và của người đàn bà, Thiên Chúa đi dạo trong vườn lúc gió thổi trong ngày,
gọi con người và hỏi: "Ngươi ở đâu?" (St 3,8-9). Không phải chỉ có
con người mới “tìm kiếm
Thiên Chúa, may ra họ dò dẫm mà tìm thấy Người" (Cv 17,27). Trước hết, chính Thiên
Chúa đi tìm con người (Lc 15,4 -7).
Thiên Chúa luôn "hoạt động" trong nơi sâu kín
của trái tim con người. Quả thế, ở gốc rễ của mỗi con người, có một hành động
vĩnh cửu của tình
yêu làm cho họ xuất hiện trong cuộc sống. Hành động này hoàn toàn không
liên quan đến lương tâm và ý muốncủa con người. Nó đứng đầu tiên. Hành động đó, nghĩa là
tình yêu đó, Thiên Chúa không bao giờ lấy lại. Nói cách khác, Thiên Chúa luôn hiện diện nơi mỗi
con người. Chúa biết họ, nhân cách hoá họ, luôn nhìn họ qua tình yêu sáng tạo.
Con người không bao giờ có thể có lợi thế hơn sự hiện diện của Thiên Chúa nơi
họ.
Jean Civelli
Ngày 12 tháng 10
THÁNH SÊRAPHINÔ TRỢ SĨ
|
Montegranarô
ngày nay là một làng nhỏ nằm trên miền cao nguyên tỉnh Ascoli Picenô, thuộc
nước Ý. Dân cư ở đây được chừng năm ngàn rưởi người. Nhờ cảnh trí ngoạn mục
và dân chúng làm ăn trù phú Montegranarô là nơi dừng chân của rất nhiều du
khách. Tuy nhiên, lý do chính yếu khiến Montegranarô được nhiều người chú ý
chỉ vì nơi đây còn là tổ quán của một vị thánh thời danh, thánh Sêraphinô.
Cũng
chính trong lũy tre xanh đầm ấm này, một cậu bé tên là Felix, tiếng la tinh
có nghĩa là “Hạnh phúc” đã chào đời vào đầu mùa xuân năm 1540. Gia đình Felix
không mấy sung túc; cha cậu làm thợ hồ, còn mẹ thì buôn bán hàng vặt ở chợ
làng. Vì thế Felix không được may mắn cắp sách đi học như nhiều trẻ đồng
tuổi; trái lại, cậu phải nhận công tác chăn chiên đỡ cho gia đình. Cảnh đời
vất vả ấy, tuy vậy, vẫn không làm mất vẻ hồn nhiên của cậu bé có tiếng là
ngoan ngoãn nhất làng. Dù sớm phải lặn lội với đoàn chiên, bè bạn với những
trẻ mục đồng, Felix vẫn giữ được vẻ vui tươi trong sạch, nết na và thật thà
như một thiên thần. Người trong làng ai cũng đồng ý khen cậu như vậy. Dầu sao
nét trổi vượt hơn cả trong cuộc đời thơ ấu của Felix là lòng yêu mến Thánh
Thể. Ban ngày, lúc chăn chiên cậu hái nhiều hoa để chiều về, khi xong việc
dọn dẹp nhà cửa rồi, cậu đem hoa đến dâng cho Chúa Giêsu Thánh Thể và quỳ
hằng giờ trước nhà chầu. Với đôi mắt đăm chiêu, đôi môi tươi vui, cậu yên
lặng quỳ trước bàn thờ, nghiêm trang như một thiên thần...
Nhưng
rồi một biến cố bất ngờ xảy đến phũ phàng phủ tấm khăn tang lên đầu Felix.
Cha mẹ cậu đã lần lượt lâm bệnh và từ trần nội trong vòng hai tháng, để cậu
lại cho một người anh cả tàn nhẫn. Thực vậy, sau ngày cha mẹ mất, Felix phải
sống với người anh cả. Sáng ngày cậu phải lùa bày chiên ra đồng chăn dắt cẩn
thận, tối về lại phải canh thức bên lò bánh nóng nực. Không còn thời giờ tới
nhà thờ viếng Chúa, Felix vô cùng đau khổ. Thêm vào đó Felix còn hay bị anh
đánh mắng và nhiều khi cho ăn đói mặc rách. Nhiều lần Felix có ý định bỏ nhà
trốn đi, nhưng nghĩ đến lòng yêu Chúa và đức nhẫn nhục mà mẹ đã dạy khi còn
nhỏ, Felix lại trấn tĩnh được mình và quyết chí ở lại với anh. Từ đó, mỗi tối
khi ngồi canh lò bánh, Felix xin một người bạn giúp mình học và đọc Phúc âm.
Cậu đã học thuộc được những câu Kinh thánh dưới đây và thường dùng làm đề tài
suy niệm tối sáng:
“Các
con đừng thu tích những của cải dưới đất, vì mối mọt có thể làm hư và kẻ trộm
đào ngạch lấy mất, nhưng hãy tích trữ những của cải trên trời, ở đó, không có
sâu bọ làm hư, không có kẻ trộm đào ngạch lấy được”.
“Của
các con ở đâu thì lòng các con ở đó” (Mt 6,19-22).
“Các
con chớ quá bận tâm về của ăn áo mặc; cũng đừng quá lo về ngày mai, vì ngày
mai sẽ lo cho ngày mai, cái khó ngày nào sẽ đủ cho ngày ấy. Vậy trước hết các
con hãy lo tìm nước Thiên Chúa, còn những sự khác Người sẽ ban cho các con
sau” (Mt 6,25)...
Được
khích lệ bởi Lời Chúa, Felix không những can đảm chịu mọi vất vả, bị hành hạ
trong nhà anh, mà còn nẩy ra một ý tưởng muốn hiến thân sống theo gương khó
nghèo và khiêm hạ của thánh Phanxicô. Ý tưởng đó mỗi ngày một mãnh liệt và
cương quyết.
Thực
vậy, Chúa không bao giờ phụ lòng kẻ muốn thành tâm bước theo con đường nhỏ
hẹp của Người. Không bao lâu sau Felix đã được như sở nguyện, vì hai năm sau
cậu đã được anh cho phép vào dòng. Sau một thời gian tập luyện, cậu được mặc
áo dòng và đổi tên là Sêraphinô. Danh từ này trong Kinh thánh (Is 6,2) có ý
ám chỉ những bậc thiên thần được hầu cận Đức Giavê. Áp dụng vào trường hợp
của thầy, người ta bảo thầy rất quý chuộng những công việc giúp bàn thờ như
lau chùi, đốt đèn chầu, nến, chưng hoa... Ngoài ra, khi giúp lễ, thầy còn rất
sốt sắng lạ thường. Theo cuốn truyện còn lưu lại trong dòng thánh Phanxicô,
thì nhiều lần thầy Sêraphinô được ơn xuất thần ngay khi đang giúp lễ. Vì
những lý do đó, bề trên đã chọn đặt tên cho thầy là Sêraphinô vậy.
Ngoài
công việc bàn thờ, thầy Sêraphinô còn ưa chọn những việc hèn hạ nhất trong
nhà. Thầy làm vừa nhanh nhẹn, vừa cẩn thận hơn mọi anh em. Thầy còn có tài
đặc biệt về cách làm vườn như cấy rau, trồng cây và gieo lúa. Càng làm việc
cần mẫn, thầy càng âm thầm kết hợp với Chúa như lời thầy thường nói với anh
em: “Tôi chỉ kể là đã làm được một việc, khi tôi làm việc ấy mà lòng trí tôi
kết hợp khăng khít với Chúa”.
Chính
nhờ sự kết hợp ấy, Chúa đã thông ban sự khôn ngoan thông thái cho tôi tớ của
Người. Vì thế, mặc dầu mù chữ, thầy Sêraphinô vẫn có thể làm được những việc
kết quả không kém những anh em có học lực uyên bác. Người ta kể rằng: thầy đã
thuộc lòng rất nhiều lời Kinh thánh, giảng thuyết rất hùng hồn và đúng tín
lý, ngay cả trong những vấn đề khúc mắc nhất trong đạo. Thầy còn có khoa dạy
giáo lý rất hấp dẫn và thích hợp với tâm trí thính giả không kém thánh tổ
Phanxicô. Bàn về đức tính hồn nhiên của thầy, một tác giả đã viết: “Thầy tuy
nhiều tuổi và luôn làm việc vất vả, nhưng tinh thần vẫn luôn luôn vui tươi.
Không
kể những lần được ơn ngất trí mà nhiều người đã được mục kích tỏ tường, thầy
Sêraphinô còn được ơn làm nhiều phép lạ. Điều đáng chú ý là những người thụ
hưởng ơn lạ của ngài thường là những trẻ em mồ côi và nghèo khổ như chính
ngài hồi còn thơ ấu. Số phép lạ Chúa đã dùng qua thánh nhân có tới hằng trăm.
Sau đây chỉ là vài trường hợp tượng trưng:
Một
hôm, trên đường đi dạy giáo lý ở một họ đạo về, thầy gặp một em bán bánh ngồi
khóc bên vệ đường. Thầy đứng lại hỏi thăm tại sao em khóc. Em trả lời: “Em bị
kẻ cướp lấy hết bánh và sợ về bị mẹ đánh!” Không hỏi thêm, thầy Sêraphinô
liền quỳ xuống, hai tay bưng giỏ bánh sốt sắng nguyện cầu. Lạ thay, chỉ vài
phút sau, giỏ trống liền đầy bánh thơm ngon và có vẻ còn nhiều hơn trước nữa.
Thầy đứng dậy, trao giỏ bánh cho em bé rồi tiếp tục về nhà, miệng còn ngâm
nga bài ca ‘Te Deum’. Lần khác, đang khi làm vườn, thầy thấy người ta phá cửa
nhà dòng ùa chạy vào và la lối ầm ĩ. Thầy chạy lại hỏi truyện thì được biết,
một hầm rượu vừa bị nổ làm thiệt mạng nhiều phu khuân rượu. Như được ơn Chúa
thôi thúc, thầy xin phép bề trên, theo họ đến tận nơi xảy ra tai nạn. Thầy
quỳ xuống cầu nguyện giữa năm xác chết đặt ngổn ngang. Sau hai giờ cầu
nguyện, thầy lần lượt đến đặt tay lên mỗi xác chết và nói: “Nhân danh Thiên
Chúa toàn năng, ngươi hãy hồi sinh lại để đem an vui đến cho mọi người”.
Nguyện đoạn, lập tức các tử thi lần hồi nóng lên, tỉnh lại và rồi lành mạnh
như không xảy ra tai nạn gì. Trong số năm người được hồi sinh này, có ba
thanh niên mồ côi cha mẹ, một người góa vợ và một người bị điếc từ khi mới
sinh.
Nếu
trước mắt người đời ơn làm phép lạ là phần thưởng Chúa ban cho kẻ khiêm nhường
thánh thiện, thì trái lại, với thánh Sêraphinô ơn trọng ấy là nguyên do thúc
đẩy ngài phải khiêm hạ hơn. Thầy thường nói: “Khiêm tốn không phải chỉ là
nhân đức tôi phải tập vì là môn đệ của cha tổ, mà còn vì những lời dạy nghiêm
nhặt của Chúa trong Phúc âm”. Vì thế, suốt đời thầy sống rất khiêm nhường.
Nhân đức ấy đạt đến mức độ thẳm sâu, nhất là khi thầy biết mình gần chết. Lúc
ấy thầy xin phép bề trên cho gặp từng anh em trong nhà và quỳ gối xin lỗi
từng người. Thầy qua đời tại Acôli cuối năm 1604, hưởng thọ 64 tuổi.
Để kỷ
niệm cái chết êm ái và lòng sùng mộ của giáo dân đối với thầy, người ta khắc
trên bia mộ ngài lời Kinh thánh sau đây: “Xác các vị thánh nghỉ yên trong sự
bằng an của Thiên Chúa và tên các ngài tồn tại đến muôn đời” (Ac 44,14).
Vì lòng
sùng mộ của giáo dân và những sự lạ hằng xảy ra trên mộ ngài, năm 1610, Đức
Phaolô V cho phép đốt đèn đêm ngày trên mộ ngài, và năm 1728, Đức Bênêđitô
XIII truyền đem hài cốt thánh nhân về kính tại làng Montegranarô, và đến năm
1767, Đức Clêmentê XIII truy phong ngài lên bậc hiển thánh.
|
Thứ Sáu 12-10
Thánh Seraphin ở Montegranaro
(1540-1604)
inh
trong một gia đình nghèo ở Ý, khi còn nhỏ Seraphin phải đi chăn cừu và ngài
dành nhiều thời giờ để cầu nguyện. Sau khi cha mẹ qua đời, ngài bị người anh
đối xử cách tệ hại, Seraphin đã gia nhập dòng Capuchin lúc 16 tuổi và khiến
nhiều người kinh ngạc vì sự khiêm tốn và độ lượng của ngài.
Phục vụ
như một thầy trợ sĩ, Seraphin theo gương Thánh Phanxicô ăn chay, mặc áo nhặm
và đối xử tử tế với mọi người. Ngài muốn theo gương Thánh Phanxicô cả về vấn
đề truyền giáo, nhưng cha bề trên không chọn ngài trong công việc này.
Mỗi
ngày, Seraphin trung thành dành ba giờ đồng hồ để cầu nguyện trước Thánh Thể.
Những người nghèo đến gõ cửa tu viện đều được ngài ân cần tiếp đón. Mặc dù
cuộc đời của ngài thật bình dị, ngài đã đạt được chiều kích tâm linh đáng kể
và làm được nhiều phép lạ.
Thánh
Seraphin từ trần ngày 12-10-1604, và được phong thánh năm 1767.
Lời
Bàn
Ðối với
nhiều người ngày nay, công việc làm không có ý nghĩa gì khác hơn là để kiếm
tiền cho cuộc sống. Có bao người nghĩ rằng chúng ta phải cộng tác với Thiên
Chúa trong việc chăm sóc trái đất này, như được viết trong sách Sáng Thế?
Những công việc của Thánh Seraphin không có gì là kinh thiên động địa mà rất
tầm thường, nhưng ngài đã thi hành với một tinh thần phi thường.
Lời
Trích
Trong
cuốn Brothers of Men, Rene Voillaume của tu hội Tiểu Ðệ Ðức Giêsu nói về công
việc tầm thường và sự thánh thiện: "Giờ đây sự thánh thiện này [của
Chúa Giêsu] được thể hiện trong mọi hoàn cảnh thông thường của đời sống, của
công việc, của gia đình và xã hội làng mạc, và đó là một xác định rõ ràng
rằng các sinh hoạt tẻ nhạt và không ai biết đến thì hoàn toàn thích hợp với
sự tuyệt hảo của Con Thiên Chúa." Ngài viết, người Kitô tin tưởng rằng
"sự thánh thiện của con cái Thiên Chúa thì có thể đạt được trong mọi
hoàn cảnh bình thường của một người nghèo hèn và buộc phải làm việc để sinh
sống."
|
|
Bài đọc 2
Sự tiến bộ về đạo lý của Ki-tô giáo
Trích bài huấn dụ thứ nhất của thánh
Vinh-sơn Lê-ranh, linh mục.
Phải chăng trong Hội Thánh của Đức Ki-tô
không có tiến bộ nào về đạo ? Hẳn là có và có rất nhiều.
Thật vậy, ai là kẻ ghen với loài người và
nghịch với Thiên Chúa mà dám ra sức ngăn cản các điều ấy ? Thực sự đó phải là
một tiến bộ về đức tin, chứ không phải là một biến đổi. Quả thế, đặc tính của
tiến bộ là mỗi vật phải phát triển mà vẫn là chính mình, còn đặc tính cái biến
đổi là một vật đó thay hình đổi dạng từ cái này sang cái khác.
Vậy, sự hiểu biết, thông hiểu và khôn
ngoan của mỗi người cũng như mọi người, của cá nhân cũng như của toàn thể của
Hội Thánh phải lớn lên, phải tiến triển rộng rãi và mạnh mẽ trải qua các giai
đoạn tuổi tác và thời đại, nhưng mỗi thứ chỉ trong loại của mình, tức là theo
cùng một đạo lý, cùng một ý nghĩa và cùng một tư tưởng. Đạo của tâm hồn phải
phỏng theo quy luật của thể xác : mặc dù trải qua năm tháng, các yếu tố thể xác
có biến đổi và phát triển, nhưng chúng vẫn tồn tại y nguyên như trước. Có sự
khác biệt lớn giữa tuổi hoa niên và tuổi lão thành, nhưng chính những người bây
giờ là lão thành thì trước kia đã là thiếu niên. Tuy vóc dáng và tác phong của
cùng một người, nhưng bản thân và nhân vị vẫn chỉ là một.
Các bộ phận của trẻ thơ măng sữa thì nhỏ,
của thanh niên thì lớn, nhưng chính những bộ phận ấy vẫn là một. Trẻ nhỏ có bao
nhiêu đốt xương thì người lớn cũng có bấy nhiêu. Nếu bộ phần nào được hình
thành trong tuổi già, thì chúng đã tiềm ẩn nơi bào thai rồi, khiến cho không
cái gì mới mẻ sau này xuất hiện nơi người già mà trước đó đã không tiềm tàng
nơi con trẻ.
Bởi đó, không có hồ nghi điều gì nữa là
quy luật tiến bộ này thật chính đáng và ngay thẳng, quy tắc tăng trưởng này
thật hoàn hảo và tuyệt mỹ, nếu các bộ phận và hình thể mà Đấng Hoá Công khôn
ngoan đã phác hoạ trước nơi con trẻ luôn luôn được kiện toàn cùng với số tuổi
nơi người lớn.
Nếu có một người nào biến đổi thành một
hình tượng khác với loại của mình, hoặc tăng thêm hay giảm bớt bộ phận, thì tất
nhiên toàn thân phải chết hoặc ra kỳ dị hay yếu đi ; cũng vậy, đạo lý Ki-tô
giáo phải theo những quy luật tiến bộ này, là với năm tháng, đạo lý được củng
cố, với thời gian được lan rộng, với tuổi tác nên thâm thuý.
Thuở xưa, cha ông chúng ta đã gieo hạt
giống đức tin trong thửa đất này của Hội Thánh, thật là vô cùng bất công và
không xứng hợp, nếu chúng ta là con cháu các ngài, thay vì gặt lúa miến là chân
lý đích thực, lại lượm cỏ lùng là sai lầm tai hại. Trái lại, nếu đầu và đuôi
không khác nhau thì chúng ta cũng gặt được mùa lúa miến là đạo lý từ hạt lúa
miến lớn lên nhờ việc tổ chức dạy đạo ; ngoài ra có một cái gì đó từ những hạt
giống đầu tiên phát triển theo dòng thời gian, nay được chăm sóc và mọc lên
tươi tốt. Cả hai điều đó thật là đúng và hợp lý.
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, tình thương Chúa thật là cao cả, vượt xa mọi công trạng và ước muốn của con người, xin rộng tình tha thứ những lỗi lầm cắn rứt lương tâm chúng con, và thương ban những ơn trọng đại, lòng chúng con chẳng dám mơ tưởng bao giờ. Chúng con cầu xin…
(trích bài đọc giờ Kinh Sách Thứ Sáu Tuần 27 TN-bản dịch của nhóm CGKPV)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét