Thứ Tư sau Chúa Nhật 29 Quanh Năm
*
* *
Bài Ðọc I: (Năm
II) Ep 3, 2-12
"Hiện nay mầu nhiệm
của Ðức Kitô đã được mạc khải, các Dân ngoại được đồng thừa tự lời hứa".
Trích thư Thánh Phaolô Tồng
đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Anh em thân mến, anh em đã
nghe biết Thiên Chúa ban phát ân sủng để cho tôi mưu ích cho anh em: vì nhờ ơn
mạc khải mà tôi biết được sự mầu nhiệm, như tôi vừa mới viết ra trong ít lời
trên kia. Ðọc những lời đó, anh em có thể nhận thức được sự am hiểu của tôi
trong mầu nhiệm Ðức Kitô. Mầu nhiệm đó chưa hề tỏ ra cho con cái loài người ở
các thế hệ khác được biết, nhưng hiện nay, đã được mạc khải cho các thánh Tông
đồ và các tiên tri của Người, trong Thánh Thần. Và nhờ Tin Mừng, các Dân ngoại
được nên đồng thừa tự, đồng một thân thể, và đồng thông phần lời hứa của Người
trong Chúa Giêsu Kitô.
Tôi đã được nên người phục vụ
Tin Mừng đó, do ân huệ Thiên Chúa đã ban cho tôi, bằng cách thi thố sức mạnh
của Người. Tôi là kẻ hèn nhất trong các thánh, nhưng đã được ơn này là rao
giảng cho Dân ngoại những sự giàu có không thể thấu hiểu được của Ðức Kitô, và
soi sáng cho mọi người biết cách thức phân phát mầu nhiệm đã được ẩn giấu từ
muôn thuở trong Thiên Chúa, Ðấng tạo thành vạn vật: khiến các chủ thần và quyền
thần thiên quốc đều phải nhờ Hội Thánh mới biết được sự khôn ngoan muôn hình
vạn trạng của Thiên Chúa, thể theo dự định từ trước muôn đời mà Ngài đã thi
hành trong Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Trong Người, chúng ta được cậy trông
và nhờ lòng tin vào Ngài, chúng ta mạnh dạn đến cùng Ngài.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Is 12, 2-3. 4bcd-5.
5-6
Ðáp: Các ngươi sẽ hân hoan múc nước nơi suối Ðấng Cứu Ðộ (c. 3).
Xướng: 1) Ðây Thiên Chúa là
Ðấng Cứu Chuộc tôi, tôi sẽ tin tưởng mà hành động và không khiếp sợ: vì Chúa là
sức mạnh, là Ðấng tôi ngợi khen, Người sẽ trở nên cho tôi phần rỗi. - Ðáp.
2) Hãy ca tụng Chúa và kêu
cầu danh Người, hãy công bố cho các dân biết kỳ công của Chúa, hãy nhớ lại danh
Chúa rất cao sang. - Ðáp.
3) Hãy ca tụng, vì Chúa làm
nên những việc kỳ diệu, hãy cao rao việc đó trên khắp hoàn cầu. Hỡi người cư
ngụ tại Sion, hãy nhảy mừng ca hát, vì Ðấng cao cả là Ðấng Thánh Israel
ở giữa ngươi. - Ðáp.
*
* *
Alleluia: Tv 118, 18
Alleluia, alleluia! - Lạy
Chúa, xin mở rộng tầm con mắt của con, để quan chiêm những điều kỳ diệu trong
luật Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 12, 39-48
"Người ta đã ban cho
ai nhiều, thì sẽ đòi lại kẻ ấy nhiều".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng
các môn đệ rằng: "Các con hãy hiểu biết điều này, là nếu chủ nhà biết giờ
nào kẻ trộm đến, ắt sẽ tỉnh thức, không để nó đào ngạch nhà mình. Cho nên các
con hãy sẵn sàng: vì giờ nào các con không ngờ, thì Con Người sẽ đến".
Phêrô thưa Người rằng:
"Lạy Thầy, Thầy nói dụ ngôn đó chỉ về chúng con hay về mọi người?"
Chúa phán: "Vậy con nghĩ ai là người quản lý trung tín khôn ngoan mà chủ
đã đặt coi sóc gia nhân mình, để đến giờ phân phát phần lúa thóc cho họ? Phúc
cho đầy tớ đó, khi chủ về, thấy nó đang làm như vậy. Thầy bảo thật các con, chủ
sẽ đặt người đó trông coi tất cả gia sản mình. Nhưng nếu đầy tớ ấy nghĩ trong lòng
rằng: "Chủ tôi về muộn", nên đánh đập tớ trai tớ gái, ăn uống say
sưa: chủ người đầy tớ ấy sẽ về vào ngày nó không ngờ, vào giờ nó không biết,
chủ sẽ loại trừ nó, và bắt nó chung số phận với những kẻ bất trung. Nhưng đầy
tớ nào đã biết ý chủ mình mà không chuẩn bị sẵn sàng, và không làm theo ý chủ,
thì sẽ bị đòn nhiều. Còn đầy tớ nào không biết ý chủ mình mà làm những sự đáng
trừng phạt, thì sẽ bị đòn ít hơn. Vì người ta đã ban cho ai nhiều, thì sẽ đòi
lại kẻ ấy nhiều, và đã giao phó cho ai nhiều, thì sẽ đòi kẻ ấy nhiều hơn".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm:
Mỗi người chúng ta, tùy theo
công việc và địa vị đều có trách nhiệm phải chu toàn những bổn phận Chúa trao
cho chúng ta. Như người đầy tớ trung thành với chủ, họ biết chăm sóc và bảo vệ
tài sản của chủ mình. Chúng ta cũng có bổn phận phải xây dựng và làm cho Giáo
Hội thêm xinh đẹp, cụ thể nơi Giáo Xứ, trong hội đoàn, và gia đình chúng ta để
chuẩn bị đón Ðức Giêsu trở lại trong vinh quang.
Cầu Nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã thiết
lập Giáo Hội và dùng nhiều phẩm trật để phục vụ Giáo Hội. Xin Chúa hãy thánh
hóa, ban tràn đầy ơn khôn ngoan của Chúa trên Ðức Giáo Hoàng, các Ðức Giám Mục,
và các cộng tác viên của các ngài, để các ngài được trung thành trong sứ vụ xây
dựng Nước Chúa. Xin cho các bậc bề trên và cha mẹ cũng chu toàn bổn phận trong
địa vị của mình, biết chăm sóc và giáo dục con cái, để chúng trở thành những
phần tử hữu dụng cho Nước Trời. Amen.
(Lời Chúa
trong giờ kinh gia đình)
Tỉnh Thức Trong Phục Vụ
(Lc 12,39-48)
Suy Niệm:
Tỉnh Thức Trong Phục Vụ
Danh họa Ý Leonard de Vinci
có kể một dụ ngôn: Giữa một ngôi vườn xinh tươi, có một cây sồi cao, chung
quanh là một rừng cây. Cây sồi ngày một lên cao ngạo nghễ. Một hôm, từ trên
nhìn xuống, nó ra lệnh cho người làm vườn đốn những cây chung quanh, vì chúng
làm vướng víu, quấy rầy và che bóng của nó. Và như thế, cây sồi loại hết mọi
cây cỏ để chỉ còn một mình bá chủ ngôi vườn. Thế nhưng một ngày kia, một trận
cuồng phong nổi lên, không còn cây cối chung quanh chống đỡ cho bớt gió, cây
sồi ngả rạp giữa vườn và chết một cách thê thảm.
Số phận của những người chà
đạp người khác để tiến thân cũng giống như cây sồi trong dụ ngôn trên đây.
Người ta thường nói: "Trèo cao, té nặng", bởi vì để lên cao, họ đã
đạp đổ tất cả người khác, đến độ khi trượt chân té ngã, họ không còn ai nâng đỡ
họ.
Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu đã
nói lên quan niệm của Ngài về quyền bính. Các Tông đồ không ngừng tranh luận
với nhau về quyền bính; cái giấc mộng công hầu khanh tướng luôn ám ảnh các ông,
ai trong các ông cũng muốn ngồi chỗ cao trong Vương Quốc mà họ tưởng Chúa Giêsu
đã đến để thiết lập. Nhưng đối lại với tham vọng ấy, Chúa Giêsu cho thấy rằng
quyền bính là để phục vụ; trong Nước Ngài, kẻ càng được trao nhiều quyền hành,
càng phải là người phục vụ, mà phục vụ theo đúng nghĩa là hoàn toàn quên mình
để sống cho người khác.
Do phép Rửa, người Kitô hữu
chúng ta được tham dự vào chức vị vương giả của Chúa Kitô. Chúa Kitô là Vua,
nhưng là Vua của phục vụ. Cung cách vương giả của Ngài là quì trước các môn đệ
và rửa chân cho họ. Do đó, tham dự chức vụ vương giả của Chúa Kitô, chúng ta
cũng được trao cho một thứ quyền bính, và quyền bính ấy tương đương với phục
vụ. Người ta không thể là Kitô hữu, không thể là môn đệ Chúa Kitô mà lại khước
từ phục vụ.
Lời Chúa hôm nay mời gọi
chúng ta tỉnh thức. Sự tỉnh thức đích thực của người Kitô hữu chính là phục vụ.
Càng phục vụ, họ càng nhận ra được Nước Chúa đang đến; càng phục vụ, họ càng
nên giống Chúa trong cung cách vương giả của Ngài. Ai lãnh nhận nhiều sẽ bị đòi
nhiều. Ân sủng dồi dào mà chúng ta lãnh nhận qua Bí Tích Rửa Tội là để san sẻ;
tình yêu chúng ta cảm nhận được trong đức tin là để trao ban. Sự thức tỉnh đích
thực của người Kitô hữu chính là ý thức rằng sống là để yêu thương và phục vụ,
và đó cũng là hạnh phúc đích thực, vì "cho thì có phúc hơn là nhận".
Ước gì chúng ta luôn thức tỉnh trong hướng đi ấy.
(Veritas
Asia)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Tư Tuần 29 TN2,
Năm Chẵn
Bài đọc: Eph 3:2-12; Lk 12:39-48.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Rao giảng Tin Mừng là một đặc
quyền.
Hiểu biết được Mầu Nhiệm
Cứu Độ của Thiên Chúa là một đặc ân vì không phải ai cũng có thể biết và hiểu
được. Một khi đã hiểu biết Mầu Nhiệm Cứu Độ, con người nắm được chìa khóa vào
Nước Trời. Nhưng nhiệm vụ của những người đã hiểu biết là phải rao giảng Mầu
Nhiệm Cứu Độ này cho người khác. Trong Bài đọc I, Thánh Phaolô coi đó như một
đặc quyền được rao giảng Mầu Nhiệm Cứu Độ. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu khen
thưởng những người biết trung thành phân phối Mầu Nhiệm Cứu Độ cho người khác;
đồng thời, Chúa cũng cảnh cáo những người bất trung, lười biếng không chịu phân
phối Mầu Nhiệm Cứu Độ cho mọi người.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Mầu nhiệm Cứu Độ của
Thiên Chúa được thực hiện và mặc khải qua Đức Kitô.
1.1/ Đức Kitô mặc khải
Mầu nhiệm Cứu Độ của Thiên Chúa cho các Tông Đồ và Thánh Phaolô: Trong 4 Phúc Âm, chính
Chúa Giêsu mặc khải cho các Tông Đồ về Mầu Nhiệm Cứu Độ của Thiên Chúa. Tuy
Phaolô không thuộc Nhóm Mười Hai và không được mặc khải bởi Chúa Giêsu khi Ngài
còn mang thân xác con người, nhưng Phaolô cũng được mặc khải về Mầu Nhiệm này
bởi chính Đức Kitô Phục Sinh. Mầu nhiệm đó là: trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin
Mừng, các Dân Ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-Thái, cùng làm
thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa.
Hiểu được Mầu Nhiệm Cứu
Độ là một đặc ân Chúa ban, vì không phải ai cũng có thể hiểu được Mầu Nhiệm đó,
như lời Thánh Phaolô nói: “Mầu nhiệm này, Thiên Chúa đã không cho những người
thuộc các thế hệ trước được biết, nhưng nay Người đã dùng Thánh Thần mà mặc
khải cho các thánh Tông Đồ và ngôn sứ của Người.”
1.2/ Đức Kitô đã trao phó
cho Phaolô nhiệm vụ phân phát ân sủng qua việc rao giảng Tin Mừng: Đức Kitô Phục Sinh
không chỉ mặc khải Mầu Nhiệm Cứu Độ cho Phaolô mà Ngài còn sai ông đi rao giảng
Mầu Nhiệm Cứu Độ này cho các Dân Ngọai: “Tôi đã trở nên người phục vụ Tin Mừng
đó, nhờ ân sủng đặc biệt Thiên Chúa ban cho tôi, khi Người thi thố quyền năng
của Người.”
Thánh Phaolô ý thức được
sở dĩ Ngài được mặc khải và được sai đi để rao giảng Mầu Nhiệm Cứu Độ, không
phải vì công đức của Ngài, nhưng hòan tòan vì lòng thương xót của Thiên Chúa.
Ngài thú nhận: “Tôi là kẻ rốt hết trong toàn thể dân thánh, thế mà Thiên Chúa
đã ban cho tôi ân sủng này là loan báo cho các dân ngoại Tin Mừng về sự phong
phú khôn lường của Đức Kitô, và soi sáng cho mọi người được thấy đâu là mầu
nhiệm Thiên Chúa đã an bài.”
Một câu truyện có thể
dùng để nói lên cảm nghĩ của Thánh Phaolô khi được Thiên Chúa sai đi rao giảng
Mầu Nhiệm Cứu Độ: Nhà điều khiển hòa tấu lừng danh Toscanini nói với anh nhạc
công đang sửa sọan hòa tấu nhạc Beethoven: Tôi chẳng là gì, anh cũng chẳng là
gì, nhưng chúng ta hãy cố gắng để cho những giòng nhạc của thiên tài Beethoven
được trào dâng.
2/ Phúc Âm: Ông chủ trao cho người
quản gia sản nghiệp và ban quyền phân phát.
2.1/ Ông chủ trao cơ
nghiệp và quyền phân phát cho người quản gia: Người quản gia là người được ông chủ
chọn; tuy ông có quyền trên các đầy tớ khác nhưng đối với chủ, ông vẫn là một
đầy tớ. Nhiệm vụ của quản gia là coi sóc mọi sự trong nhà và mọi đầy tớ khi chủ
vắng mặt; trong đó có nhiệm vụ cung cấp của ăn cho các gia nhân đúng giờ đúng
lúc. Nhưng ai là quản gia trong câu truyện Chúa muốn nói ở đây?
Bấy giờ ông Phêrô hỏi:
"Lạy Chúa, Chúa nói dụ ngôn này cho chúng con hay cho tất cả mọi
người?" Chúa đáp: “Vậy thì ai là người quản gia trung tín và khôn ngoan,
mà ông chủ sẽ đặt lên coi sóc kẻ ăn người ở, để cấp phát phần thóc gạo đúng giờ
đúng lúc?” Câu trả lời của Chúa Giêsu muốn ám chỉ các Tông Đồ. Các ông là những
người được Chúa Giêsu tin tưởng, huấn luyện, và sai đi để rao giảng Tin Mừng.
Các ông phải chịu trách nhiệm với Chúa về những người mà Chúa sai các ông đến
để rao giảng. Nhưng câu trả lời cũng có thể mở rộng đến các Kitô hữu.
2.2/ Thái độ của người
quản gia:
Ông có thể rơi vào một trong 2 thái độ:
(1) Thái độ trung
thành và phần thưởng: Người quản gia trung thành là người biết chu tòan nhiệm vụ của
mình khi chủ có mặt cũng như lúc chủ vắng mặt. Vì thái độ luôn trung thành nên
không lạ khi chủ về mà thấy đầy tớ ấy đang làm như vậy. Chúa Giêsu khen: “Thật
là phúc cho anh ta. Thầy bảo thật anh em, ông sẽ đặt anh ta lên coi sóc tất cả
tài sản của mình.” Ai trung thành trong việc nhỏ thì cũng sẽ trung thành trong
việc lớn.
(2) Thái độ bất trung
và hình phạt: Nhưng nếu người đầy tớ ấy nghĩ bụng: "Chủ ta còn lâu
mới về," và bắt đầu đánh đập tôi trai tớ gái và chè chén say sưa, chủ của
tên đầy tớ ấy sẽ đến vào ngày hắn không ngờ, vào giờ hắn không biết, và ông sẽ
loại hắn ra, bắt phải chung số phận với những tên thất tín.
Và Chúa Giêsu tuyên án: Đầy tớ nào đã biết ý
chủ mà không chuẩn bị sẵn sàng, hoặc không làm theo ý chủ, thì sẽ bị đòn nhiều.
Còn kẻ không biết ý chủ mà làm những chuyện đáng phạt, thì sẽ bị đòn ít. Hễ ai
đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi nhiều, và ai được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi
hỏi nhiều hơn.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC
SỐNG:
- Rao giảng Tin Mừng là
một đặc quyền chứ không phải chỉ là bổn phận. Thiên Chúa đã ban cho chúng ta
thấu hiểu Mầu Nhiệm Cứu Độ và Ngài sai chúng ta đi phân phát ân sủng bằng việc
rao giảng Tin Mừng.
- Không phải công ơn của
chúng ta cũng chẳng phải sự xứng đáng của người nghe, nhưng hòan tòan là do
tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa mà chúng ta thấu hiểu được Mầu Nhiệm
Cứu Độ được thực hiện qua Đức Kitô.
- Vì đã được trao phó
kho tàng Tin Mừng, nhiệm vụ của mỗi người được trao là phải trao ban Tin Mừng
lại cho những người khác thì sẽ được Thiên Chúa thưởng công xứng đáng. Nhưng
nếu chúng ta xao lãng bổn phận để người khác phải hư đi, chúng ta sẽ lãnh nhận
hình phạt từ Thiên Chúa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
Thứ Tư tuần 29 thường niên
Sứ điệp: Tỉnh thức đón chờ Chúa đến là chu toàn bổn phận đối
với những người và những công việc đã được trao phó. Thưởng hay phạt đều theo
đó mà định đoạt.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, mỗi
người trong chúng con đều là tôi tớ của Chúa, được Chúa trao phó cho một số
công việc để chu toàn.
Con muốn sống cho bản thân mình, muốn xây dựng
cuộc sống và lo lắng cho tương lai của mình. Nhưng Lời Chúa hôm nay còn cho con
hiểu rằng: con thuộc về Chúa và là tôi tớ của Chúa, nên Chúa muốn con đảm nhận
công việc mà Chúa trao cho. Chúa đã trao cho con công việc để thực hiện, và con
có sứ mệnh hoàn tất công việc ấy. Nếu con ốm đau, bệnh tật của con có thể phục
vụ Chúa. Nếu con đau khổ, nỗi đau của con có thể phụng sự Chúa.
Việc của người đầy tớ có lẽ không có gì là lớn
lao, to tát. Điều mà người đầy tớ thực hiện chỉ vì đó là do chủ muốn như
vậy. Con muốn phục vụ Chúa trong kẻ khác, tại gia đình con, tại trường học, tại
nơi làm việc, ở chợ búa.
Sống cho kẻ khác, phục vụ kẻ khác trong những
chuyện lớn lao, có lẽ không được dành cho con, nhưng còn nhiều việc nhỏ bé hằng
ngày: một lời an ủi, một giúp đỡ nhỏ, một sự cảm thông …, những điều ấy ở trong
tầm tay và khả năng của con.
Lạy Chúa, xin cho con luôn ý thức con là tôi tớ
của Chúa. Xin giúp con sống cho Chúa và thực thi Ý Chúa, để con sống cho kẻ
khác, giúp đỡ và yêu thương mọi người. Amen.
Ghi nhớ :"Người ta đã ban cho ai
nhiều, thì sẽ đòi lại kẻ ấy nhiều".
24/10/12 THỨ TƯ TUẦN 29 TN
Th. Antôn Maria Clarét, giám mục
Lc 12,39-48
Th. Antôn Maria Clarét, giám mục
Lc 12,39-48
ĐEM ĐỜI VÀO ĐẠO, ĐEM
ĐẠO VÀO ĐỜI
“Nhưng nếu người đầy
tớ ấy nghĩ bụng : ‘Còn lâu ông chủ mới về,’ thế rồi hắn bắt đầu đánh đập tôi
trai tớ gái và chè chén say sưa. Chủ hắn sẽ đến vào ngày hắn không ngờ, vào giờ
hắn không biết, ông sẽ tống cổ hắn đi, bắt chung số phận với những tên phản
bội.” (Lc 12,45-46)
Suy niệm: Hiện diện như không hiện diện, có vẻ đang vắng mặt nhưng
thực ra vẫn ở bên cạnh ta, đó là cách thế tế nhị Chúa dùng để giúp ta trưởng
thành. Vì thế, lúc nào Chúa cũng có mặt trong cuộc đời ta, nhưng một cách kín
đáo. Tiếc thay ta lại hay quên điều quan trọng này! Ta thường chia cuộc đời
thành nhiều ô hộc, đời và đạo không hề dính líu, quan hệ gì với nhau: ô hộc này
có Chúa hiện diện như ô hộc nhà thờ, ô hộc đọc kinh, v.v… còn ô hộc kia thì
Chúa không có mặt hay chỉ có mặt một cách mơ hồ, như ô hộc lao động, ô hộc sinh
hoạt hằng ngày, ô hộc nghỉ ngơi… Trong những ô hộc này, ta không hề nghĩ đến
Chúa, thậm chí còn mời Chúa đi chơi chỗ khác cho mình dễ làm ăn!
Mời Bạn: Chúa không bao giờ đi vắng, nhưng luôn hiện diện trong cuộc
đời bạn để khích lệ, nâng đỡ, an ủi, ban ơn… Bạn luôn sống dưới cái nhìn yêu
thương và bàn tay che chở của Chúa.
Sống Lời Chúa: Để luôn nhớ của Chúa hiện diện, bạn hãy: 1) đem đạo vào đời: sống
Lời Chúa trong mọi sinh hoạt trần thế như gia đình, lao động, học hành… 2) và đem đời vào đạo: dâng
lên Chúa những vui buồn của đời thường trong thánh lễ, kinh nguyện …
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa vẫn luôn hiện diện bên cạnh chúng con,
nhưng bằng cách vô hình, kín đáo, để giúp chúng con trưởng thành. Xin cho chúng
con luôn sống trưởng thành dưới cái nhìn yêu thương của Chúa.
Trung tín
và khôn ngoan
Kitô
hữu là những người đã biết ý Chúa, mà không làm theo, sẽ bị phạt nặng hơn những
người không biết.
Suy niệm:
Kẻ trộm xưa cũng như nay đều đến mà không báo
trước,
bất ngờ khoét vách nhà khi gia chủ còn ngủ say.
Đức Giêsu, qua một dụ ngôn, đã dám so sánh mình
với kẻ trộm,
chỉ vì Ngài giống anh ta ở nét bất ngờ (cc.
39-40).
“Anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ anh em không
ngờ, Con Người sẽ đến.”
Ông chủ có thể trở về khi trời gần sáng, lúc
canh ba.
Sẵn sàng là mở cửa ngay cho chủ, vì vẫn còn
thức, còn chờ, còn đèn sáng.
Thiếu sẵn sàng là ngủ mê, không nghe được tiếng
gõ cửa.
Ngủ mê làm chủ nhà không biết kẻ trộm đang
khoét vách.
Thiếu tỉnh thức để đón Chúa Giêsu, cũng đem lại
hậu quả khôn lường.
Tỉnh thức sẵn sàng là thái độ cần có của chủ
nhà, của người lãnh đạo.
Khi Phêrô hỏi Đức Giêsu xem dụ ngôn trên áp
dụng cho ai (c. 41),
cho dân chúng hay cho nhóm Mười Hai là những
người lãnh đạo,
Ngài đã kể cho họ một dụ ngôn khác về người
quản gia.
Vì ông chủ đi vắng nên anh được ông đặt lên coi
sóc gia nhân trong nhà,
tuy anh vẫn là một đầy tớ giữa những đầy tớ
khác (c. 43).
Chính sự vắng nhà của ông chủ đã làm lộ ra thực
chất của người quản gia.
Người quản gia trung tín sẽ chăm chỉ làm tròn
bổn phận được giao.
Việc quan trọng là cấp phát phần thóc gạo đúng
giờ đúng lúc (c. 42).
Anh này chẳng để ý gì đến chuyện khi nào chủ
mình về.
Khôn ngoan đối với anh là làm theo đúng ý của
chủ.
Anh chỉ tập trung vào việc phục vụ những người
được chủ giao phó,
và phục vụ đúng giờ.
Hẳn anh sẽ được ông chủ khen ngợi và đặt ở một
vị trí cao hơn,
nếu bất ngờ ông về mà thấy anh đang phục vụ
chăm chỉ.
Nhưng quản gia lại có thể là một người thiếu
trách nhiệm.
Thời gian ông chủ vắng nhà cũng là thời gian
anh ta có quyền.
Anh đã tận dụng quyền hành có trong tay để áp
chế các đầy tớ khác,
và sống một cuộc sống buông thả, vô độ.
“Anh bắt đầu đánh đập các tôi trai tớ gái, và
chè chén say sưa” (c. 45).
Lý do hư hỏng của anh này rất đơn giản.
Anh nghĩ “chủ ta còn lâu mới về”, nên ta cứ
thoải mái ăn chơi.
Anh chỉ cố làm sao khi chủ về, chủ thấy anh
đang làm việc tử tế.
Tiếc thay chủ về sớm hơn anh nghĩ,
“vào ngày anh không ngờ, vào giờ anh không
biết” (c. 46).
Sự thật ê chề được phơi bày không thể chối cãi.
Những đầy tớ bị anh hành hạ và bỏ đói, những
phung phí tài sản,
là bằng chứng cho sự thất tín của anh.
Kitô hữu là những người đã biết ý Chúa, mà
không làm theo,
sẽ bị phạt nặng hơn những người không biết.
Những nhà lãnh đạo được trao quyền hành và
trách nhiệm
cũng phải trả lời trước mặt Chúa về cách phục
vụ của mình.
Chúng ta đều sợ khi nghe những lời này của Đức
Giêsu:
“Ai được cho nhiều, sẽ bị đòi nhiều.
Ai được giao phó nhiều sẽ bị đòi hỏi nhiều
hơn.”
Cầu nguyện:
Lạy Chúa
Giêsu,
xưa Chúa
đã sai các môn đệ ra khơi thả lưới,
nay Chúa
cũng sai chúng con đi vào cuộc đời.
Chúng con
phải đối diện
với bao
thách đố của cuộc sống,
của công
ăn việc làm, của gánh nặng gia đình,
của nghề
nghiệp chuyên môn.
Xin đừng để chúng con sa vào cạm bẫy
của vật
chất và quyền lực,
nhưng cho
chúng con
giữ
nguyên lý tưởng thuở ban đầu,
lý tưởng
phục vụ quê hương và Hội Thánh.
Lạy Chúa Giêsu,
xin dạy
chúng con sống thực tế,
nhưng không
thực dụng ;
biết xoay
xở nhưng không mưu mô ;
lo cho
tương lai cá nhân,
nhưng
không quên bao người bất hạnh cần nâng đỡ.
Giữa cơn lốc của trách nhiệm và công việc,
giữa
những xâu xé trước bao lựa chọn,
xin cho
chúng con biết tìm những phút giây trầm lắng,
để múc
lấy ánh sáng và sức mạnh,
để mình
được thật là mình trước mặt Chúa.
Nhờ lời Đức Trinh Nữ Maria chuyển cầu,
xin cho
chúng con thật sự trở nên chứng nhân,
làm tất
cả để Thiên Chúa được tôn vinh,
và phẩm
giá con người được tôn trọng. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
"Người
ta đã ban cho ai nhiều, thì sẽ đòi lại kẻ ấy nhiều".
Tỉnh Thức Và Sẵn Sàng
Với
thắc mắc của tông đồ Phêrô: “Lạy Thầy, Thầy nói dụ ngôn đó chỉ về chúng con hay
chỉ về cho mọi người”, Chúa Giêsu khai triển thêm về chủ đề tỉnh thức và sẵn
sàng, và có vẻ như trong lần khai triển này Ngài nhắm đến những người có trách
nhiệm trong cộng đồng.
Chủ
đề tỉnh thức và sẵn sàng được nối tiếp với những giáo huấn của Chúa Giêsu dành
cho giới có trách nhiệm trong cộng đồng dân Chúa. Và dĩ nhiên trước tiên là
những người có trách nhiệm trong cộng đồng dân Chúa, họ phải gương mẫu trong
thái độ tỉnh thức và sẵn sàng vì không những là sự tỉnh thức, sẵn sàng cần
thiết cho ơn cứu độ của bản thân họ mà họ còn phải tỉnh thức và sẵn sàng để
người khác có được ân sủng của Chúa nữa.
Công
việc của một người có trách nhiệm trong dân Chúa thì muôn vẻ, muôn mặt và
thường là những công việc không tên, không tuổi. Họ sống cho dân Chúa và ở giữa
dân Chúa để mọi người có thể thấy Chúa qua họ. Trong cuộc sống rao giảng của
Chúa Giêsu, Ngài liên tục kiếm tìm, khuyên lơn, an ủi, thánh hóa và giải cứu
cho con người. Ngài không có thời khóa biểu cho công việc của mình mà trọn vẹn
Ngài sống là cho đi, là trao ban, là sứ mệnh. Dĩ nhiên, chúng ta không thể đòi
hỏi những người có trách nhiệm của chúng ta làm như Chúa Giêsu được, nhưng đòi
hỏi phải tỉnh thức và sẵn sàng hơn những người khác để xứng đáng là môn đệ,
xứng đáng là những người gần Chúa hơn, hầu có thể đem Chúa đến cho mọi người,
vì dù sao đi nữa thì các vị ấy cũng được gọi và bản thân của họ tình nguyện để
đi theo Chúa.
Anh
chàng thanh niên khi nghe Chúa nói: “Anh hãy về bán của cải cho người nghèo rồi
hãy đến theo Ta”. Anh đã lẳng lặng bỏ đi vì anh không thể làm được chuyện ấy.
Chúa Giêsu có buồn đôi chút nhưng Ngài tôn trọng tự do của anh, nếu anh vẫn
sống trọn vẹn các giới răn như anh đã thưa với Chúa thì anh vẫn là người rất
tuyệt. Thế nhưng, theo rồi mà không dành tất cả cho Chúa và cho anh chị em của
mình như Chúa dạy thì thế nào cũng bị Chúa khiển trách. Thỉnh thoảng, có những
vị phân bua: “Là gì đi chăng nữa thì cũng phải có những khoản riêng cho mình
chứ, có những thứ thuộc đời tư của mình chứ”. Không đâu, quí vị không còn đời
tư nữa, quí vị không còn gì là riêng rẽ nữa. Tất cả đã là của Chúa và của anh
chị em mình, ban cho ai nhiều thì đòi kẻ ấy nhiều; giao phó cho ai nhiều thì
đòi kẻ ấy nhiều hơn.
Lạy
Cha,
Tất
cả chúng con đều là những đầy tớ phải biết thức tỉnh và sẵn sàng, nhưng hôm nay
thì Chúa Giêsu, Con Cha, nói về những vị đầy tớ đặc biệt. Ðiều đó quá đúng, vì
dù sao thì trong một tổ chức, một cơ cấu, cũng có nhiều công tác khác nhau, và
mỗi người đều có một cách phục vụ tùy theo chỗ đứng, tùy theo công việc được
giao phó. Chúng con cầu nguyện cho những người được giao cho những trách nhiệm
đặc biệt ấy, để các ngài năng giống Con Cha hơn, không có thời khóa biểu cho
riêng mình nhưng có thời khóa biểu để phục vụ Cha nơi những anh chị em được
trao phó.
(Trích
trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Đầy Tớ Chè
Chén Say Sưa
“Anh em hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến,
hẳn ông đã không để nó khoét vách nhà mình đâu. Anh em cũng vậy, hãy sẵn sàng,
vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến.” (Lc. 12, 39-40)
Đức Giêsu tiếp tục khuyên nhủ các môn đệ phải luôn luôn tỉnh thức
chờ ngày Chúa trở lại. Điều chắc chắn: Đức Giêsu sẽ trở lại. Nhưng khi nào?
“Vào giờ các bạn không ngờ”, không được thông báo trên đài phát thanh. Thông
báo được người ta chờ đợi rất vắn và là tin cuối cùng, nếu người ta không luôn
luôn lắng nghe, người ta sẽ bỏ lỡ.
Đầy tớ
trung tín:
Phê-rô và phần lớn Kitô hữu, được rửa tội, giữ đạo đều đều, không
làm hại ai. Vậy họ sẽ được bảo đảm ơn cứu độ. Thế mà tại sao Đức Giêsu vẫn liên
tục nhắc nhở họ phải tỉnh thức chờ Người trở lại một cách bất ngờ? Như đài
ra-đa luôn luôn chờ nghe những tin báo khẩn cấp. Thế thì việc gì Đức Giêsu phải
nói: “Hỡi đoàn chiên nhỏ, đừng sợ, Cha các con hảo tâm ban cho các con nước
trời rồi”.
Nếu Thầy chí thánh trao cho chúng ta nhiệm vụ quản gia, chúng ta
phải có trách nhiệm lo phân phát của ăn thiêng liêng cũng như lương thực tạm
thời. Chúng ta càng nhận biết thánh ý Chúa, chúng ta càng phải có trách nhiệm
hướng dẫn gia đình sao cho mọi sự được trật tự, không bị một trục trặc sai trái
nào, để bất kỳ lúc nào chủ về xem xét và thấy hài lòng trọn vẹn. Lúc đó, chủ an
tâm về chúng ta đã được Ngài chọn lựa tốt và cho chúng ta được đời sống phong
phú đời đời.
Không tha cho kẻ chè chén say sưa:
Nếu chúng ta không lo tỉnh thức, lại lạm dụng địa vị để say sưa chè
chén lãng phí, chủ bất ngờ trở về, chúng ta sẽ bị băm ra trăm miếng, như tập
tục của người Ba-tư đối với đầy tớ bất trung. Sự tuyển chọn ban đầu không che
chở chúng ta khỏi những xét xử đó, vì chúng ta đã sống vô trách nhiệm, nên hoàn
toàn phải chịu tội. Mức độ bị xử phạt tùy theo sự hiểu biết về thánh ý Chúa và
chức quyền đã được trao phó. Lỗi của chúng ta là thiếu đức tin, đức cậy, đức
mến đối với lời kêu gọi liên tục mà Chúa rất nhân từ quảng đại ban cho chúng ta
được phúc sống trước tôn nhan Chúa.
RC.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng 10
24 THÁNG MƯỜI
Xin Cho Chúng Nên Một
Chiều hôm trước khi vào
cuộc Khổ Nạn, trong bữa Tiệc Ly với các môn đệ, Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho sự
hiệp nhất của tất cả những ai tin vào Ngài. Ngài nói: “ Lạy Cha, con không chỉ
cầu xin cho những người này – tức các tông đồ- nhưng còn cho những ai nhờ họ mà
tin vào con, để tất cả nên một như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để họ
cũng ở trong chúng ta” (Ga 17, 20-21).
Chúng ta cùng hiệp thông
trong lời cầu nguyện này với chính Chúa Kitô – vị Thượng tế của Giao Ước Mới.
Chúa Kitô hiến trao chính bản thân mình làm hy lễ. Ngài trao hiến chính Thịt và
Máu của Ngài. Ngài trao hiến cuộc sống và cái chết của Ngài. Và với hy tế này,
hy tế thánh thiện vô song, Ngài giao hòa thế giới với chính Ngài. Đức Kitô chết
trên Thập Giá để “quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mát khắp nơi về một mối”
(Ga 11,52).
Lời nguyện hiến tế của
Chúa Giêsu được thốt ra từ chính trọng tâm của hy tế này. Cả lời cầu nguyện và
cái chết hy tế của Ngài đều có cùng một mục đích là “Xin cho chúng nên MỘT”.
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 24-10
Thánh Antôn Maria Clarets, Giám mục;
Ep 3, 2-12; Lc 12, 39-48.
LỜI
SUY NIỆM: “Hễ ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi nhiều, và ai được giao phó
nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn” (Lc 12,48b).
Chúa Giêsu đang nhấn mạnh trách nhiệm của các vị lãnh đạo trong Giáo Hội của
Ngài, đồng thời cũng cho tất cả những ai đã lãnh nhận ơn thánh của Ngài. Không
ai là không lãnh nhận hồng ân của Ngài, nhiều hay ít là tùy thuộc khả năng đón
nhận của mỗi một người. Những hồng ân của Ngài như là những đồng vốn Ngài đã
ban cho chúng ta, và Ngài buộc chúng ta phải làm cho nó sinh ra lời, lời cho
chính mình và lời giúp ích cho người khác nữa. Chứ không được lừng khừng, đắn
đo. Bởi sau một thời gian được sống với những ân ban đó, Ngài sẽ đòi hỏi những
gì là cân xứng với những ân ban mà Ngài đã ban cho. Nên trong đời sống của mỗi
Ki-tô hữu chúng ta phải sống tích cực với những hồng ân của Chúa để làm phong
phú cho cuộc sống của mình, của gia đình và của cả xã hội mà mình đang sống để
góp phần vào ơn cứu độ của Chúa.
Mạnh Phương
++++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày 24-10
Thánh ANTÔN MARIA CLARET
Giám mục - Tổ phụ dòng
Trái tim vẹn sạch mẹ Maria (1807 - 1870)
"Tình yêu Chúa
Kitô thúc bách tôi"
Đó là châm ngôn và
chương trình đời sống thánh ANTÔN MARIA CLARET. Ngài sinh năm 1807 tại Sallent
Bắc Tây Ban Nha, trong một gia đình khiêm tốn làm nghề dệt. Là con thứ 5 trong
10 anh em, thánh nhân tỏ ra nhanh nhẹn thông minh có khiếu đối với nghề nghiệp
của cha anh và được gởi đi Barcelone trong một xưởng máy lớn. Ban chiều, Ngài
dự lớp học Pháp văn, nghiên cứu La văn và luyện nghề ấn loát, không có gì Ngài
xao lãng cả. Ơn gọi đi tu sống sâu trong đáy lòng Ngài, kèm theo mọi hành động
và sắp trở thành mạnh mẽ nhất: cuối cùng Ngài đã bước qua cổng chủng viện ở
Vich năm 1829.
Trước tâm hồn phong
phú của thánh nhân, Đức cha Corcue ra đã rút ngắn chương trình thần hoc. Ngài
thụ phong linh mục 6 năm sau và cử hành thánh lễ đầu tiên tại giáo xứ Ngài đã
được rửa tội. Được cử làm cha sở, Ngài đã thánh hóa địa hạt của mình. Nhưng
việc tông đồ của Ngài cần một điạ hạt rộng lớn hơn. Ngài đi Roma, muốn gia nhập
dòng Tên nhưng một vết thương ở chân buộc Ngài từ bỏ ý định trở về Tây Ban Nha.
Bản chất nóng nảy của Ngài tỏ lộ những ân huệ siêu nhiên mới, tài hùng biện
thánh của Ngài tăng bội số những cuộc trở lại, chủ đề được ưa chuông của Ngài
là: đường thẳng và chắc để về trời" và ngày càng thêm nhiều người dấn thân
vào đường hẹp sỏi đá mở ra ánh sáng. Đức Trinh Nữ hình như hiện diện khi Ngài
trình bày các bổn phận của bậc sống nhạt nhẽo nhưng có nét đẹp ẩn giấu trước
mặt Chúa, các từ bỏ liên tiếp... Ngài đã đi giảng như vậy qua một tỉnh với hành
trang gồm có cuốn sách Thánh Kinh và sách nguyện gói trong khăn, Ngài từ chối
tất cả tiền bạc, ngủ dưới vòm trời, giải tội ngày đêm và dâng lễ khi ánh sao
cuối cùng vừa lặn. Ngài đã đặt tay chữa bệnh, chiêm ngắm các cuộc hiện ra.
Antôn rất gần gũi tự
do đến nỗi đã gây nên những ghen tương, những lời chế nhạo ngắt ngang bài giảng
của Ngài. Mạng sống bị đe dọa, Ngài phải giã từ quê hương thân yêu để rồi chỉ
trở lại 15 năm sau để được đề cử và tấn phong Tổng giám mục Santiago, Cuba, tại
nhà thờ chính toà Vich, Ngài đã dùng khoảng thời gian giao thời này để Phúc âm
hoá các đảo Camari và đặt nền móng tu hội thừa sai Trái tim vẹn sạch Đức Mẹ,
Ngài nỗ lực dưới mọi hình thức để cứu vớt các linh hồn. Đây là lúc Ngài thêm
danh hiệu MARIA vào tên mình.
Vị tổng giám mục
truyền giáo cập bến, Ngài sắp gặp thấy một giáo xứ đầy thương tâm gồm một ít
linh mục thiếu học nghèo túng, Ngài thiết lập một nhóm học hiểu biết và tiếp
tục vai trò người bao bọc vì Chúa Kitô, Ngài mất 6 năm để rảo qua các điạ phận
mênh mông của mình, những con số sau đây nói lên hoạt động của Ngài: 11.000 bài
giảng, 120.000 lễ Thêm sức, 40.000 phép rửa tội, 12.000 lễ hôn phối. Còn mệt
nhọc hơn cả những khó khăn trên đường, thánh nhân hòa mình với các bệnh nhân
ngã gục vì dịch tả. Các chủ nhân buôn bán nô lệ tố cáo Ngài đã xúi giục các
người bị tàn phá nổi loạn. Mười lăm lần Ngài đã thoát chết. Ngài mơ lập một trường
nông nghiệp nhưng gặp những chống đối mạnh mẽ.
Theo lời thỉnh cầu của
hoàng hậu Isabelle II, đức giáo hoàng đã cử thánh Antôn Maria làm tuyên úy cho
bà. Ngài nhận lời sau nhiều do dự, với điều kiện là sẽ đứng ra ngoài mọi chuyện
chính trị và không sống trong hoàng cung. Từ Maddrid, Ngài tiếp tục cai quản Cuba .
Nhưng sự ghen tương không dứt. Sự vu khống đã đưa đến chỗ các kẻ thù ký tên khả
kính của Ngài dưới những danh sách bần tiện, trong khi chính Ngài đã là tác giả
xây dựng của 150 pho sách hay những tập rời. Cuộc cách mạng đã xua đuổi hoàng
hậu tới Pan, rồi Paris
là nơi cha giải tội đã theo bà và lo lắng cho thuộc điạ Tây ban Nha và vẫn theo
đuổi phát triển của tu hội truyền giáo, Ngài dự cộng đồng bàn về giáo thuyết
bất khả ngộ của tòa thánh. Sự ghen ghét của những thù địch người Tây ban Nha
theo đuổi Ngài mãi. Thánh nhân một thời rút lui về một trong những nhà dòng của
Ngài ở Prades, rồi ở L'Audes, nơi các thày dòng Xitô ở Phontfroide là nơi không
hề phàn nàn kêu trách năm 1870.
Antôn Maria Claret vị
thánh rất tân thời đã tỏ ra là nhà tiên phong với nhà sách đạo của Ngài. Trước
khi có các tu hội triều ngày nay, Ngài đã sáng nghĩ ra "các nữ tu tại
gia" là học giả uyên bác, Ngài đã xếp các văn sĩ có giá trị, các nghệ sĩ
công giáo vào "hàn lâm viện thánh Micae".
(daminhvn.net)
++++++++++++++++++
24 Tháng Mười
Ngày Liên Hiệp Quốc
Vào năm 1945, ba quốc
gia gây chiến Ðức, Italia, Nhật mang bộ mặt tan tác tả tơi của những nước bại
trận. Ða số những thành phố lớn tại Ðức, cũng như hai thành phố Hiroshima và Nagasaki
tại Nhật chỉ còn là những đống gạch vụn, những thành phố chết.
Hình ảnh của thế giới,
nhất là tại các quốc gia bị chiến tranh tàn phá trong những năm
"39-45" có lẽ không khác gì bộ mặt của trái đất sau trận lụt Ðại Hồng
Thủy, khi trận lụt vĩ đại gây ra do những trận mưa lũ kéo dài 40 ngày đêm đã
giết hại mọi sinh vật, như tác giả sách Khởi Nguyên viết: "Mọi loài xác
thịt động đậy trên đất đều tắt thở: chim chóc, thú vật, mãnh thú... tất cả các
vật trên cạn đều bị xóa sạch trên mặt đất từ người cho đến xúc vật, côn trùng
và chim trời...".
Từ đống tro tàn của
thế chiến thứ hai, một ý nghĩa đã được manh nha và Liên Hiệp Quốc đã thành hình
với mục đích bảo vệ an ninh và xây dựng hòa bình. Vì như một chính trị gia đã
phát biểu: "Nếu con người không hủy diệt chiến tranh, chiến tranh sẽ hủy
diệt con người".
Nhưng từ ngày tổ chức
Liên Hiệp Quốc được thành lập vào năm 1945 đến nay không biết bao nhiêu cuộc
chiến song phương cũng như nội bộ đã xảy ra. Những bàn tay con người vẫn được
dùng để giơ gươm, để lảy cò, để bấm nút nhữntg khí giới giết người. Vì thế súng
vẫn nhả đạn và máu tươi vẫn tuôn rơi, lòng đất mẹ vẫn thấm máu con người.
Ngày 24 tháng 10 hằng
năm, bao nhiêu lá cờ của mọi quốc gia đã được trưng lên trong những buổi lễ kỷ
niệm ngày Liên Hiệp Quốc được thành lập, bao nhiêu sinh hoạt đã được tổ chức để
nhắc nhở con người, không phân biệt màu da, tiếng nói, không phân biệt tín
ngưỡng hay quan niệm về thể chế chính trị, ý nghĩa của tổ chức mang mục đích
bảo vệ an ninh và xây dựng hòa bình.
Nhưng thiết nghĩ, hòa
bình thế giới không thể được thiết lập nếu lòng người chưa đạt được sự an bình,
vì nếu những tâm tình ganh ghét, ghen tuông, nghi kỵ, nếu những tư tưởng lợi
dụng, đàn áp, bóc lột vẫn còn âm ỉ cháy trong lòng chúng ta, thì ngọn lửa chiến
tranh vẫn còn có thể bùng cháy bất cứ lúc nào.
(Lẽ Sống)
Ngày 24 tháng 10
Thánh
Antôn-Maria Cờlarét, giám mục
Có một
cách sống thân
phận làm người của chúng ta, cách ước lượng thời gian, đánh giá cuộc sống. Cho dù cuộc đời có một khởi đầu
nhưng cũng có một kết thúc, tôi có thể sống trọn thời gian này, được tặng như một món quà, với
những gì vượt quá thời gian, những gì làm nó bùng lên, những gì đem lại một
thiên chức và một hương vị vĩnh cửu. (...)
Nhờ ơn
Chúa, trong tinh thần của sự sống lại
không chỉ là một cuộc hẹn hò sau cái chết, mà là khả năng lắp đầy cuộc sống với hạt giống phục sinh, chúng ta có thể chuộc
lại thời gian, biến đổi cuộc sống, vẽ về
vĩnh cửu với mực của thời gian. Khi, không tránh khỏi, những tờ lịch rơi xuống từng tờ một, thì điều mà Thiên Chúa đã viết trên các trang
với sự cộng tác của chúng ta, được Thần Khí lưu trữ trong cuốn sách lớn của Đấng mà "trong
Người chúng ta có sự sống, sự
chuyển động và tồn
tại". Và chúng ta sẽ tìm lại cuốn sách đó để cùng đọc lại với nhau, trong
tình thương của lòng nhân hậu Thiên Chúa.
Lúc đó, các bạn sẽ nói với tôi: phải làm gì trong khi chờ đợi lần gặp gỡ cuối cùng của cuộc
vượt qua của chúng ta? Trước hết là yêu, vâng, yêu thực sự, bởi vì thánh Phaolô
tông đồ đã nói
với chúng ta: "đức mến không
bao giờ mất được". Vì vậy, có vĩnh cửu như ngọn đèn túc trực, trong mỗi cử
chỉ yêu thương đích
thực.
Claude Ducarroz
Hạnh Các Thánh
Ngày 24 tháng 10
THÁNH ANTÔN
MARIA CLARET GIÁM MỤC
|
Thánh
Antôn Maria Claret xuất thân trong một gia đình đạo đức ở Sallenti nước Tây
Ban Nha. Ngay từ nhỏ, Antôn đã tỏ ra rất thích những việc phụng vụ như giúp
lễ, dự các giờ kinh trong thánh đường. Antôn có lòng kính mến Đức Mẹ đặc
biệt. Chiều nào tan học cậu cũng đến trước bàn thờ Đức Mẹ cầu nguyện.
Lên 15
tuổi, Antôn phải thôi học về nhà giúp cha mẹ buôn bán tơ sợi. Vì có tài buôn
bán lại làm việc có phương pháp, nên chả bao lâu Antôn đã cùng cha mẹ gây
được một gia tài kếch sù. Nhưng thời gian qua đi không đem lại cho thánh nhân
sự thỏa mãn gì hạnh phúc trần gian, trái lại, càng tiếp xúc với thế nhân,
càng sống theo tiền bạc, ngài càng khám phá ra trần gian không phải là nơi
ngài hoạt động. Chính lúc này, mầm mống ơn thiên triệu triển nở trong tâm hồn
thánh nhân. Ngài muốn làm linh mục để mở nước Chúa. Và thánh nhân đã mạnh dạn
xin cha mẹ cho vào đại chủng viện thừa sai, mặc dầu tuổi đã khá cao và tiền
tài danh vọng không thiếu.
Sẵn tư
chất thông minh và đạo đức, Antôn tiến rất nhanh trên đường học vấn và tu
đức. Năm 32 tuổi, ngài chịu chức linh mục và làm cha phó xứ nhà thờ chính
tòa. Cha Antôn rất tận tụy với nhiệm vụ, mặc dầu phải đảm đang bao nhiêu công
việc. Ngài đặc biệt chú ý đến việc rao giảng Lời Chúa, và làm các phép bí
tích. Thái độ và việc làm của cha giúp giáo dân hiểu biết và hâm mộ việc nghe
giảng, tham dự các lễ nghi. Cha rất chăm lo việc dạy giáo lý cho trẻ em học
sinh trong xứ. Ngài sống với chúng theo đúng tinh thần của Chúa Giêsu. Cộng
tác với cha chính xứ và các cha phó khác, ngài đã gây được tinh thần truyền
giáo cho xứ đạo với nhiều tổ chức, nhiều phong trào. Tất cả đều được chuẩn bị
bằng việc học hỏi Phúc âm.
Nhưng
đang lúc công việc tiến hành mạnh mẽ, cha phải vâng lời bề trên sang Rôma
nhận chức Giám đốc sở quản lý của hội “Truyền bá đức tin”. Tám năm sau, cha
lại được cấp trên gọi về và phụ trách truyền giáo tại hai giáo xứ Cataluna và
Photunata. Trong thời gian này, mặc dù bề bộn bao nhiêu công việc, cha cũng
dành thời giờ soạn nhiều sách tu đức có giá trị. Cha có lòng sùng kính Trái
Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ cách riêng. Đêm ngày ngài chỉ mong sao nhóm lên trong
lòng giáo dân ngọn lửa yêu mến đó. Tất cả hoạt động mở nước Đức Mẹ của cha đã
được kết tinh lại trong việc lập hội dòng “Con Đức Mẹ Vô Nhiễm”.
Đây là
những chiến sĩ nhiệt tâm cộng tác với cha trong công cuộc truyền giáo. Về nhận
chức vụ chưa đầy ba năm, cha đã đổi hẳn bộ mặt hai giáo xứ với đầy đủ các hội
đoàn, các cơ sở cần thiết, nhất là đời sống đức tin và khả năng giáo lý của
mọi tầng lớp giáo dân. Nhờ ơn Chúa và hoạt động của cha và của con cái cha,
hằng năm Giáo hội sung sướng được thêm mấy chục tân tòng lĩnh nhận nhiệm tích
Rửa tội.
Việc
truyền giáo càng kết quả, cha Antôn càng để lộ đức khiêm nhường sâu xa. Cha
thường nói với các chị em dòng Con Đức Mẹ: “Hỡi các con, cha xin đừng ai hãnh
diện vì những kết quả thu được. Có hãnh diện chăng là hãnh diện vì đó là vinh
danh Thiên Chúa. Riêng các con cũng như cha, chúng ta chỉ là những đầy tớ vô
ích, giúp việc ông chủ toàn năng và nhân hậu là Thiên Chúa. Bổn phận của
chúng ta không phải là tính toán thành quả, nhưng là cố sức mỗi ngày làm việc
cho vừa ý Chúa và theo đúng tinh thần Giáo hội. Mỗi người chúng ta phải là
ngọn đèn sáng về đức khiêm nhường Phúc âm”.
Tiếng
tăm nhân đức và tài ba lẫy lừng của cha đã khiến Tòa thánh tuyển trạch cha
lên làm Tổng Giám mục
Sau
những năm hoạt động đắc lực cho Chúa, Đức Mẹ và Giáo hội, thánh Giám mục
Antôn ngã bệnh và qua đời năm 1870. Như để tưởng thưởng công lao khó nhọc của
ngài, Chúa đã làm nhiều phép lạ trên mộ thánh nhân, cứu giúp những ai chạy
đến nhờ ngài bầu cử. Những phép lạ ấy cũng là những bằng chứng bảo đảm việc
Giáo hội cất ngài lên bậc hiển thánh.
Lạy
Chúa, xin vì lời bầu cử của thánh Antôn chúng con kính nhớ hôm nay, ban cho
chúng con lòng khiêm nhường, biết khinh chê tiền bạc và những sự giả dối trần
gian, hầu nâng lòng lên sống theo chân lý Phúc âm để đời này phụng sự Chúa và
ngày sau đáng được chung phần phúc với thánh Antôn.
|
Giuse Lê Ðăng Thị (1925-186
Giuse Lê Ðăng
Thị, Sinh năm 1825 tại Kẻ Văn, Quảng Trị, Giáo dân, Cai Ðội, bị xử giảo ngày
24/10/1860 tại An Hòa dưới đời vua Tự Ðức. Đức Piô X suy tôn ông Giuse Lê
Đăng Thị lên hàng Chân Phước ngày 02.05.1909. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan
Phaolô II suy tôn ngài lên hàng Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 24/10.
|
Cùng bạn
về trời
Đúng ngày bị hành
quyết, cai đội Giuse Lê Đăng Thị thức dậy rất sớm. Ông đánh thức một tù nhân
bị xử tử cùng ngày, rồi đưa anh vào một gócnhà giam. Sau nhiều ngày tận tâm
hướng dẫn người bạn dự tòng này, hôm nay (24.10) ông nghiêm trang đổ nước rửa
tội cho anh "Nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần". Thế là ông có một
người bạn đồng hành với mình vào quê hương vĩnh phúc trên Trời.
Giuse Lê Đăng Thị
sinh năm 1825 tại xứ Kẻ Văn, làng Văn Quy, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình
binh nghiệp. Thân phụ anh giữ chức Cai đội. Lớn lên anh cũng theo nghề của
cha, xin nhập ngũ và phục vụ trong quân đội nhà vua. Một thời gian sau, anh
được thăng Chưởng vệ trông coi lính ở Hà Tĩnh, rồi được dời vào Nghệ An. Tại
đây, anh lập gia đình và sống hạnh phúc với vợ con.
Bão tố và
niềm tin.
Vua Tự Đức sau một
thời gian bách hại đạo gắt gao, đã phát hiện ra lệnh của mình chưa được thi
hành đồng loạt, vì ngay trong hàng ngũ lãnh đạo, cũng có người theo đạo Công
Giáo. Ngày 15.12.1859, nhà vua ra thêm một chiếu chỉ bắt tất cả các quan có
đạo đó. "những quan nào có đạo (theo tà đạo), dù thành thực bỏ đạo cũng
phải truất chức. Cần phải điều tra cẩn thận để tìm thêm những viên chức triều
đình theo tà đạo. Những ai không tố giác, hoặc chứa chấp trong nhà mình, cũng
bị trừng phạt như chúng…". Nhà vua còn bắt tất cả các quan quân phải
bước qua Thánh Giá trước khi ra trận đánh giặc Tây. "Ai không bỏ đạo sẽ
bị giải ngũ, bị khắc chữ tả đạo vào má và phát lưu".
Theo lời khuyên
của quan trấn thủ, ông cai đội Lê Đăng Thị làm đơn xin xuất ngũ lấy cớ bệnh
tật. Đơn xin được chấp thuận, ông trở về quê cũ để vợ con ở lại Nghệ An.
Tháng giêng năm 1860, chiếu chỉ vua Tự Đức trên đây được áp dụng triệt để
trên toàn quốc, ông cai Thị vì có kẻ tố giác, nên bị bắt ngày 29.1, cùng với
một số bạn đồng ngũ khác và bị giải về Quảng Trị. Ông vui vẻ nhận mình là cai
đội và là Kitô hữu.
Cuối tháng hai,
ông phải ra tòa cùng với 31 quân nhân khác. Trong số đó có ba người bỏ đạo.
Tất cả đều bị cách chức, một được tha về vị gìa yếu, còn lại 10 người bị
thích tự, lưu đày chung thân, 17 người bị án tử hình giam hậu.
Riêng ông cai Lê
Đăng Thị nhận án xử giảo, nhưng hẹn đến cuối tháng mười mới thi hành. Từ đó
ông được đưa về giam ở khám đường Huế. Trong một lá thư gửi về cho vợ, ông
viết: "Anh nghĩ rằng chúng ta không còn gặp nhau nữa, dầu chuyện gì xảy
ra, chúng ta vẫn đang và sẽ yêu thương nhau. Anh luôn nhớ đến em và các con
mỗi ngày".
Xứng danh
huynh trưởng
Suốt thời gian
trong tù, vì là người có cấp bậc cao nhất, ông cai Thị khích lệ các anh hùng
đức tin cùng bị giam bằng lời nói và nhất là bằng mẫu gương trung thành, cam
đảm. Cũng do chức vụ ấy, ông bị mang một gông rất nặng và bị đánh đập tra tấn
nhiều hơn mọi người. Dù còn trẻ trung sung sức, nhưng trước những cực hình dã
man, ông đã ngã bệnh. Khi đó, ông chia sẻ với các bạn tù lo lắng lớn nhất của
mình. ông nói : "Tôi không rõ Chúa có cho tôi sống đến ngày tử đạo
không. Tôi sợ bệnh tật làm tôi chết sớm hơn. Than ôi ! Chắc vì tội tôi, nên
Chúa từ chối cho tôi ơn trọng ấy".
Một linh mục đã
đến thăm và giải tội cho ông. Hôm sau một thày giảng cũng lén vào trao Mình
Thánh Chúa cho ông. Ngày 24.10.1860, ông Cai bị dẫn đi hành hình. Viên quan
đề nghị ông lần cuối cùng xuất giáo, và hứa xin vua ân xá, nhưng ông cai Thị
quyết liệt từ chối. Bản án của ông được ghi như sau : "Lê Đăng Thị,
Chưởng vệ, theo tà đạo, không chịu bỏ đạo thì y không thể tha thứ được. Y bị
kết án xử giảo cuối mùa thu".
Vạn phúc
Tại pháp trường An
Hòa (Huế), ông Cai kính cần qùy trên chiếc chiếu cầu nguyện. Một linh mục
đứng lẫn trong đám dân chúng ra dấu và giải tội lần cuối cho ông. Sau đó, ông
kêu lớn tiếng: "Vạn phúc! Vạn phúc! Tôi sắp được tử đạo". Lý hình
quấn một sợi dây vào cổ ông cai đội, rồi chia ra hai bên kéo thật mạnh cho
tới khi chứng nhân Chúa Kitô tắt thở. Các tín hữu Phủ
Đức Piô X suy tôn
ông Giuse Lê Đăng Thị lên hàng Chân Phước ngày 02.05.1909. Ngày 19-06-1988,
Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên hàng Hiển thánh.
Nguồn từ tu viện Đa Minh
Trường
thi tử Đạo.
Lê Ðăng Thị sinh
năm Ất Dậu (1825)
Tại Kẻ Văn Phú Hậu miền Trung Gia đình binh nghiệp ung dung Võ quan tài giỏi tin cùng giáo dân Khi chiếu chỉ có phần gay gắt Lê Ðăng Thị sắp đặt phục viên Ðơn xin bệnh hoạn đưa lên Cấp trên chấp nhận về liền Nghệ An Thêm chiếu chỉ liên can toàn quốc Ai trốn chui bắt được tố ra Ðăng Thị có kẻ ghét mà Lên quan tố giác trước tòa quân nhân Thị bị bắt về phần lẩn trốn Trong số này có bốn bạn thân Giải về Quảng Trị Trung Phần Ðể quan xét xử tội nhân ra tòa Ông Ðăng Thị nhận là Chưởng vệ Rõ đầu đuôi sự thể xin ra Kitô hữu đúng thật mà Giải ông về Huế rồi là tống giam Cùng đồng bạn lệnh ban xử giảo Ngồi trong tù anh thảo bức thư Nghĩ rằng còn gặp nữa ư Thương em anh nhớ giã từ các con Ở trong ngục cấp còn cao nhất Ông Ðăng Thị, chân thật sẻ chia Trung thành can đảm nọ kia Cấp cao gông nặng, mũ hia dữ đòn Tuy tuổi trẻ không còn sung sức Lắm cực hình đau tức lâm nguy Tâm tình với bạn thầm thì Chúa cho tôi sống để đi pháp trường Sợ bệnh hoạn dở dương chết sớm Chắc vì tôi mắc vướng tội nhiều Nguyện cầu xin Chúa thương yêu Cho con ơn trọng là điều ước mong Một Linh mục vào trong giải tội Sau có thầy tìm lối đến trao Máu Mình Thánh đã đem vào Ngày mai Chưởng vệ giải giao pháp trường Giờ phút cuối quan thường khuyên giải Xuất giáo đi án cải xin vua Ông Thị quan chớ giỡn đùa Tôi trung của Chúa là Vua Nước Trời Lính dẫn giải ra nơi để xử Giuse Thị vẫn cứ nguyện cầu Một Linh mục đến từ lâu Giải tội lần chót phép mầu trao ban Ông hô lớn Thiên Ðàng vạn phúc Bọn lý hình tới lúc xiết dây Chứng nhân tắt thở rồi đây Phú Cam tổ chức tràn đầy giáo dân Phúc tử đạo Canh Thân (1860) sử sách
Một võ quan tư
cách tuyên xưng
Pháp trường cầu nguyện không ngừng Suy tôn Kỷ Dậu (1909) vui mừng Nước Cha Ngay giáo xứ mở ra an táng Là chứng nhân xứng đáng Giuse Hồng ân Thiên Chúa lắng nghe Về sau hài cốt chở che nhà dòng (Hài cốt Giuse Lê Ðăng Thị Chưởng vệ được đặt trong nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế Huế) Lời bất hủ: Bản án của ông Cai đội như sau: "Lê Ðăng Thị, Chưởng vệ, theo tà đạo, không chịu bỏ đạo thì y không thể tha thứ được. Y bị kết án xử giảo cuối mùa thu”. Khi nghe bản án xong ông kêu lớn tiếng: "Vạn phúc, vạn phúc! Tôi sắp được Tử đạo". |
Thứ Tư 24-10
Thánh Antôn Maria Claret
(1807-1870)
Người cha tinh thần của Cuba " là một nhà truyền giáo, người sáng
lập dòng, người cải cách xã hội, tuyên uý của hoàng hậu, nhà văn và nhà xuất
bản, là đức tổng giám mục và cũng là người tị nạn. Ngài là người Tây Ban Nha mà
vì công việc ngài đã đặt chân đến các nơi như quần đảo Canary, Cuba, Madrid,
Paris và Công Ðồng Vatican I.
Thánh Antôn Claret sinh ở làng Salient, tỉnh Catalonia , nước Tây Ban Nha năm 1807. Ngài
là con của một người thợ dệt. Trong khi làm thợ dệt cũng như vẽ kiểu cho một
xưởng tơ sợi ở Barcelona ,
ngài dùng thời giờ rảnh rỗi để học tiếng Latinh và học cách in ấn: quả thật
Chúa đang chuẩn bị ngài để trở nên một linh mục và nhà xuất bản tương lai. Ðược
thụ phong linh mục lúc 28 tuổi, vì sức khỏe yếu kém nên ước mơ trở nên một tu
sĩ dòng Tên hay dòng Thánh Brunô không thành tựu, ngài đã trở nên một linh mục
triều nổi tiếng về rao giảng ở Tây Ban Nha. Ngài dành 10 năm để đi giảng tuần
đại phúc, và luôn luôn nhấn mạnh đến bí tích Thánh Thể và sự sùng kính Trái Tim
Mẹ Maria. Người ta nói, chuỗi mai khôi không bao giờ rời khỏi tay ngài. Khi 42
tuổi, cùng với năm linh mục trẻ, ngài thành lập tu hội truyền giáo, mà ngày nay
được gọi là tu sĩ dòng Claret.
Từ năm 1850 đến 1857, ngài được bổ nhiệm về làm tổng giám mục của
giáo phận bị quên lãng từ lâu là Tổng Giáo Phận Santiago ở Cuba . Ngài bắt đầu cải cách bằng
việc rao giảng không ngừng và giải tội. Dĩ nhiên ngài phải chịu nhiều chống đối
cay đắng -- phần lớn là vì ngài kịch liệt lên án vấn đề vợ lẽ và vì ngài dạy
giáo lý cho các người nô lệ da đen. Một tù nhân mà Cha Antôn chuộc ra khỏi tù
đã được thuê mướn để giết ngài, nhưng ngài thoát chết và chỉ bị thương ở mặt và
tay. Cũng chính Cha Antôn giúp người này thoát án tử hình. Ngài giúp thay đổi
sự nghèo nàn của dân Cuba
bằng cách giúp họ trồng trọt những thực phẩm khác nhau, cần cho thị trường.
Ðiều này khiến các điền chủ tức giận, vì họ chỉ muốn dân chúng trồng mía để thu
hoa lợi. Trong các văn bản về tôn giáo của ngài còn có hai quyển ngài viết khi
ở Cuba :
Suy Tư về Canh Nông và Lợi Nhuận Quốc Gia.
Ngài được gọi về Tây Ban Nha với một công việc mà ngài không ưa
thích gì -- làm tuyên uý cho nữ hoàng. Ngài đồng ý trở về với ba điều kiện:
Ngài sẽ ở ngoài hoàng cung, ngài chỉ đến nghe nữ hoàng xưng tội và dạy giáo lý cho
con cái họ, và ngài không bị dính líu gì đến sinh hoạt triều đình.
Cả cuộc đời Thánh Antôn, ngài chỉ mơ ước việc xuất bản sách báo
Công Giáo. Ngài sáng lập Nhà In Công Giáo, một cơ sở xuất bản Công Giáo mạo
hiểm kinh doanh ở Tây Ban Nha, và ngài đã viết cũng như xuất bản khoảng 200
cuốn sách lớn nhỏ.
Trong Công Ðồng Vatican
I, ngài là người trung thành bảo vệ tín điều bất khả ngộ của đức giáo hoàng,
ngài được sự thán phục của các giám mục bạn. Ðức Hồng Y Gibbons của Baltimore nhận xét về
ngài, "Ðây thực sự là vị thánh." Ngài chết ở tu viện dòng Xitô
lúc 63 tuổi.
Lời Bàn
Ðức Giêsu đã nói trước cho những ai muốn theo Người là họ sẽ bị
bách hại như chính Chúa. Ngoài những cám dỗ trong đời, Thánh Antôn còn phải
chịu đựng biết bao vu khống xấu xa đến độ tên Claret của ngài đồng nghĩa với
nhục nhã và bất hạnh. Ma quỷ không dễ gì buông tha con mồi của chúng.
Chúng ta không cần phải đi tìm sự bách hại. Tất cả những gì chúng
ta cần là sẵn sàng chịu đau khổ vì đức tin chân thật nơi Ðức Kitô, chứ không
phải vì những bất cẩn và tính khí bất bình thường của chúng ta.
Lời Trích
Có lần Nữ Hoàng Isabella II nói với Thánh Antôn, "Không ai có
thể nói cho tôi nghe một cách rõ ràng và thành thật như cha." Sau này
hoàng hậu nói với ngài, "Mọi người đều xin tôi ban cho họ những ơn huệ này
nọ, nhưng chưa bao giờ thấy cha làm như vậy. Cha có muốn xin điều gì
không?" Ngài trả lời, "Thưa có, xin cho tôi từ chức." Từ đó trở
đi hoàng hậu không còn đề nghị gì khác.
Bài đọc 2
Ngày 24 tháng 10: Thánh An-tôn Ma-ri-a
Cơ-la-rét, giám mục.
Thánh nhân sinh năm 1807 tại Ca-ta-lô-nhơ,
Tây Ban Nha. Sau khi làm linh mục, người đi giảng cho dân chúng trong nhiều
năm, rồi lập ra tu hội Thừa Sai. Được đặt làm tổng giám mục Xăng-ti-a-gô
(Cu-ba), người nhiệt thành lo cho con chiên. Đồng thời, người cũng làm cố vấn
cho hoàng hậu Tây Ban Nha, người cùng đi đày với hoàng hậu. Người qua đời Ở
Pháp năm 1870, sau khi phải gánh chịu những thái độ ghen ghét và những lời công
kích lăng mạ.
Tình yêu Chúa Ki-tô thôi thức chúng tôi
Trích tác phẩm của thánh An-tôn Ma-ri-a
Cơ-la-rét, giám mục.
Được lửa của Thánh Thần thức đẩy, các
thánh Tông Đồ rảo khắp mặt đất. Được lửa ấy thiêu đốt, các vị thừa sai đầy tinh
thần tông đồ cũng đã, đang và sẽ đi đến tận cùng thế giới, từ địa cực này sang
địa cực kia để loan báo lời Thiên Chúa, khả dĩ áp dụng một cách hữu lý về mình
lời sau đây của thánh Phao-lô Tông Đồ : Tình yêu Chúa Ki-tô thôi thúc
chúng tôi.
Tình yêu Chúa Ki-tô kích động tâm hồn và
thôi thúc chúng ta vừa chạy vừa bay bằng đôi cánh của nhiệt tâm. Kẻ thực tình
yêu mến Thiên Chúa thì cũng yêu thương tha nhân. Người yêu mến là người có
nhiệt tâm đích thật. Mức độ nhiệt tâm tuỳ thuộc vào mức độ tình yêu : tình yêu
càng nồng nhiệt thì người ta càng được nhiệt tâm thôi thúc mãnh liệt hơn. Không
có nhiệt tâm thì đó là dấu tình yêu và đức ái đã tắt trong lòng người ta. Ai có
nhiệt tâm thì ước muốn và làm tất cả, sao cho Thiên Chúa được nhận biết, mến
yêu và phụng sự ở đời này cũng như ở đời sau, vì tình yêu thánh thiện này không
có giới hạn. Đối với tha nhân cũng thế, người ấy cầu mong và ra sức làm cho mọi
người được vui vẻ, được sung sướng ở dưới đất, được hạnh phúc trên quê trời, và
mọi người được cứu độ, kẻo có ai phải hư mất đời đời hay là xúc phạm đến Thiên
Chúa, hoặc ở lại trong tội lỗi, dù chỉ một giây lát, như chúng ta thấy được nơi
các thánh Tông Đồ và tất cả những ai được tinh thần tông đồ thức đẩy.
Tôi tự nhủ : ai cháy lửa yêu mến, và đi
tới đâu đốt lên lửa mến tới đó ; ai thật sự ước mong và hết sức làm cho mọi
người bừng cháy lửa yêu mến, người ấy chính là con của Trái Tim vô nhiễm Đức
Ma-ri-a. Người ấy không sờn lòng nản chí trước bất cứ chuyện gì, vui mừng khi
bị thiếu thốn, dấn thân vào công việc, chấp nhận mọi gian lao, hân hoan khi bị
nhục nhã, vui mừng lúc bị hành hạ. Người ấy không nghĩ gì khác ngoài việc đi
theo và bắt chước Đức Ki-tô trong khi cầu nguyện, làm việc và chịu đựng, luôn
luôn chỉ tìm làm vinh danh Thiên Chúa và cứu các linh hồn.
Lời
nguyện
Lạy Chúa, Chúa đã ban cho thánh An-tôn Ma-ri-a giám mục lòng yêu thương và nhẫn nại lạ lùng trong việc nhắc lại cho mọi giới những đòi hỏi của Tin Mừng. Vì lời thánh nhân cầu khẩn, xin cho chúng con biết tìm kiếm Nước Chúa và nhiệt thành chinh phục anh em về cho Ðức Ki-tô là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.
Lạy Chúa, Chúa đã ban cho thánh An-tôn Ma-ri-a giám mục lòng yêu thương và nhẫn nại lạ lùng trong việc nhắc lại cho mọi giới những đòi hỏi của Tin Mừng. Vì lời thánh nhân cầu khẩn, xin cho chúng con biết tìm kiếm Nước Chúa và nhiệt thành chinh phục anh em về cho Ðức Ki-tô là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.
(trích bài đọc Giờ Kinh Sách ngày 24/10-bản dịch của nhóm CGKPV)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét