Trang

Thứ Tư, 10 tháng 10, 2012

10-10-2012 : THỨ TƯ TUẦN XXVII MÙA THƯỜNG NIÊN


Thứ Tư sau Chúa Nhật 27 Quanh Năm
* * *
Lc 11,1-4

Bài Ðọc I: (Năm II) Gl 2, 1-2. 7-14
"Các đấng đã nhận biết ơn đã ban cho tôi".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Galata.
Anh em thân mến, mười bốn năm sau, tôi lại lên Giêrusalem cùng với Barnaba và có đem Titô theo. Tôi đã theo ơn mạc khải mà lên đó, và tôi đã trình bày với các đấng đó về Tin Mừng mà tôi rao giảng nơi các dân ngoại, tôi bàn hỏi riêng với những bậc vị vọng, vì e rằng mình đang bôn tẩu hoặc đã bôn tẩu luống công chăng.
Trái lại, khi các đấng ấy thấy rằng tôi được uỷ nhiệm rao giảng Tin Mừng cho người không chịu cắt bì, cũng như đã uỷ nhiệm cho Phêrô rao giảng cho những người đã chịu cắt bì, (vì Ðấng đã ban cho Phêrô làm Tông đồ cho những người đã chịu cắt bì, cũng đã ban cho tôi làm Tông đồ lo cho các dân ngoại), và khi đã nhận biết ơn đã ban cho tôi, thì Giacôbê, Kêpha và Gioan, là những vị được kể như cột trụ, đã bắt tay tôi và Barnaba, tỏ tình thông hảo. Thế là chúng tôi đi sang các dân ngoại, còn các đấng thì đi đến với những người đã chịu cắt bì. Bấy giờ chúng tôi chỉ còn phải nhớ đến những người nghèo khổ, và đó là chính điều tôi đã định tâm thi hành.
Nhưng khi Kêpha đến Antiôkia, tôi đã phản đối ông ngay trước mặt, vì ông làm điều không phải. Vì chưng trước khi mấy người bên Giacôbê đến, thì ông vẫn dùng bữa với những người dân ngoại, nhưng khi những người ấy đến, thì ông lẩn lút và tự lánh mặt đi, bởi sợ những người thuộc giới cắt bì. Những người Do-thái khác đều giả hình như ông, thậm chí cả Barnaba cũng bị lôi cuốn theo sự giả hình của họ. Nhưng khi thấy họ không thẳng thắn sống theo chân lý Tin Mừng, tôi đã nói với Kêpha trước mặt mọi người rằng: "Nếu ông là Do-thái, mà còn sống theo thói người dân ngoại, chứ không theo thói người Do-thái, thì lẽ nào ông bắt ép người dân ngoại phải theo thói người Do-thái sao?
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 116, 1. 2
Ðáp: Hãy đi rao giảng Tin Mừng khắp thế gian (Mc 16, 15).
Xướng: 1) Toàn thể chư dân, hãy khen ngợi Chúa! Hết thảy các nước, hãy chúc tụng Người! - Ðáp.
2) Vì tình thương Chúa dành cho chúng ta thực là mãnh liệt, và lòng trung thành của Chúa tồn tại muôn đời. - Ðáp.

* * *

Alleluia: Mt 4, 4b
Alleluia, alleluia! - Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra. - Alleluia.

Phúc Âm: Lc 11, 1-4
"Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Ngày kia, Chúa Giêsu cầu nguyện ở một nơi. Khi Người cầu nguyện xong, có một môn đệ thưa Người rằng: "Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện như Gioan đã dạy môn đệ ông". Người nói với các ông: "Khi các con cầu nguyện, hãy nói:
"Lạy Cha, nguyện danh Cha cả sáng. Nước Cha trị đến. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày. Và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha mọi kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ".
Ðó là lời Chúa.

Suy Niệm:
Kinh Lạy Cha là lời cầu nguyện tuyệt vời nhất vì đã được chính Ðức Giêsu dạy cho chúng ta. Còn gì hạnh phúc bằng chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha!
Khi đã ở trong tương quan Cha-con thì trước hết, chúng ta phải nghĩ đến danh Cha và Nước Cha. Còn nhu cầu của chính chúng ta chắc chắn Cha chúng ta sẽ lo. Tuy nhiên chúng ta cũng trình bày lên Cha những nhu cầu của chúng ta trong cuộc sống và những sự thiếu thốn, khó khăn của chúng ta, trong sự khiêm tốn và phó thác.

Cầu Nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dạy cho chúng con biết phải cầu nguyện thế nào cho đẹp lòng Cha. Xin giúp chúng con biết siêng năng cầu nguyện với tâm tình con thảo, đơn sơ và phó thác tất cả trong tay Cha. Ðể từ cuộc sống cầu nguyện và kết hợp liên lỉ với Cha, chúng con sẽ được Cha nhận lời và ban cho chúng con lương thực, sự sống và hạnh phúc vĩnh cửu. Amen.
(Lời Chúa trong giờ kinh gia đình)

Kinh Lạy Cha
(Lc 11,1-4)
Suy Niệm:
Kinh Lạy Cha
Cầu nguyện là một việc quan trọng trong cuộc đời Chúa Giêsu: Ngài vào sa mạc 40 ngày để ăn chay và cầu nguyện trước khi bắt đầu sứ vụ công khai; Ngài đã cầu nguyện suốt đêm trước khi tuyển chọn các Tông đồ; trong ba năm rao giảng Tin Mừng, Ngài cũng đã nhiều lần tìm đến nơi thanh vắng để sống những giờ phút thân tình với Chúa Cha trong cầu nguyện.
Ðược nhiều lần chứng kiến Chúa Giêsu chìm sâu trong sự kết hiệp với Chúa Cha, và niềm mong ước được đi vào sự hiệp thông với Chúa Cha, như Chúa Giêsu, các Tông đồ đã đến xin Chúa Giêsu dạy họ cầu nguyện, và Ngài đã dạy họ Kinh Lạy Cha.
Trong Kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu dạy các Tông đồ gọi Thiên Chúa là Cha. Thực ra, quan niệm gọi Thiên Chúa là Cha không chỉ phổ thông trong dân tộc Do Thái: Trong Cựu Ước, nhờ giáo huấn của các Tiên tri, người Do thái gọi Chúa là Cha: Ngài là Cha của toàn dân; nhưng cả các dân tộc vùng Tiểu Á ngày xưa cũng gọi các thần minh là Cha. Tuy nhiên, cách xưng hô Cha, tiếng Do thái là Abba, mà Chúa Giêsu dạy các Tông đồ hoàn toàn khác hẳn với tiếng Cha của người Do Thái trong Cựu Ước. Ðó là tiếng thông dụng thường ngày nơi miện con trẻ gọi cha mình. Như thế, tiếng Cha trong Kinh Lạy Cha là nền tảng mạc khải của Chúa Giêsu và là lời tuyên tín của Cộng đoàn Giáo Hội do Chúa Giêsu thiết lập, kêu lên với Thiên Chúa.
Kinh Lạy Cha là kinh quen thuộc đối với người Kitô hữu chúng ta. Mỗi ngày chúng ta đọc nhiều lần kinh này, thế nhưng chúng ta đã có thái độ thế nào? Người ta có lý để bảo rằng chúng ta đọc kinh một cách máy móc, thiếu hồn sống. Sỡ dĩ như vậy là vì chúng ta chưa ý thức đủ tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta, chưa đi vào quan hệ mật thiết với Thiên Chúa, như con cái đối với cha mình.
Ước gì những giây phút dành riêng để gặp gỡ, tiếp xúc với Chúa, giúp chúng ta càng thêm gắn bó, yêu mến và dấn thân thực thi thánh ý Chúa trong đời sống chúng ta.
(Veritas Asia)

Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Tư Tuần 27 TN2
Bài đọc: Gal 2:1-2, 7-14; Lk 11:1-4.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Nguyên tắc và hành động
- Hành động muốn nhất quán phải theo một nguyên tắc, chứ không tùy hứng lúc nào muốn làm thì làm khi nào không muốn thì không làm. Trong một cộng đòan cũng thế, có một số nguyên tắc và qui luật tất cả mọi người phải giữ thì mới có sự hòa điệu trong cộng đòan. Nếu để mặc ai muốn làm gì thì làm thì cộng đòan sẽ bị xáo trộn và mất trật tự.
- Trong việc giáo dục cũng thế, để việc giáo dục các con trong gia đình có hiệu quả, cha mẹ cần đồng ý với nhau một số qui tắc và triệt để tuân theo. Nếu cha mẹ giáo dục tùy hứng và không đồng nhất, con cái dễ bị lẫn lộn không biết cái gì tốt cái gì xấu, không biết phải theo ai và làm khi nào. Kết quả có thể con cái sẽ sống buông thả mà không cần theo luật lệ.
- Trong Giáo Hội sơ khai cũng có những vấn đề như thế. Bài đọc I trình bày sự cách biệt giữa người Do Thái và Dân Ngọai, một bên là Phaolô bên kia là Phêrô, một số các Tông Đồ, và những người thuộc giới cắt bì. Trong Phúc Âm, khi được yêu cầu dạy cho các môn đệ biết cách cầu nguyện, Chúa đã dạy cho các ông cách cầu nguyện trong Kinh Lạy Cha. Kinh này tóm tắt một số các nguyên tắc quan trọng và cần thiết khi một người cầu nguyện với Thiên Chúa.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Cần hành động theo qui tắc để bảo vệ sự hiệp nhất trong Giáo Hội.
1.1/ Ý ngay lành của Phaolô: Sự hiệp nhất trong Giáo Hội là một trong những đề tài quan trọng của các Thư Phaolô. Trong trình thuật hôm nay, thánh Phaolô muốn hiệp thông với Giáo Hội tại Jerusalem nên ngài, cùng với Barnaba và Titus, lên đó để trình bày cho Phêrô, người lãnh đạo Gíao Hội, và một số những người có thế giá trong Giáo Hội, về Tin Mừng mà ngài rao giảng cho Dân Ngọai. Mục đích của ngài là để cho có sự thống nhất trong đạo lý để đừng gây ngộ nhận cho các tín hữu mới trở lại theo Chúa.
1.2/ Mỗi người có một sứ vụ khác nhau trong việc rao giảng cùng một Tin Mừng.

- Trong kế họach của Thiên Chúa, Phaolô được Chúa trao sứ vụ rao giảng Tin Mừng cho những người không cắt bì (Dân Ngọai); trong khi Phêrô được Chúa trao sứ vụ rao giảng Tin Mừng cho những người cắt bì (Do Thái). Sứ vụ tuy có khác nhau nhưng Đấng đã hoạt động nơi ông Phê-rô, biến ông thành Tông Đồ của những người được cắt bì, cũng đã hoạt động biến Phaolô thành Tông Đồ các Dân Ngoại.
- Phải biết tôn trọng sứ vụ của người khác trong việc rao giảng Tin Mừng: Khi nhận ra ân huệ Thiên Chúa đã ban cho Phaolô, các ông Giacôbê, Phêrô và Gio-an, những người được coi là cột trụ, đã bắt tay Phaolô và Barnaba để tỏ dấu hiệp thông: Phaolô và Barnaba thì lo cho các Dân Ngoại, còn Phêrô, Giacôbê và Gioan thì lo cho những người được cắt bì. Một điều chung tất cả cùng nêu lên là phải nhớ đến những người túng thiếu.
1.3/ Để việc rao giảng Tin Mừng có hiệu quả, những người lãnh đạo phải hành động theo những nguyên tắc nhất định. Một ví dụ cụ thể là sự xung đột tường thuật hôm nay: Theo nguyên tắc: “Không còn chuyện phân biệt Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Ki-tô”(Gl 3:28-28), nhưng hành động của các Tông Đồ và đám đông rất khác nhau:
- Hành động của Phêrô: Ông thường dùng bữa với những người gốc Dân Ngoại trước khi có những người của ông Giacôbê đến; nhưng khi những người này đến, ông lại tránh né và tự tách ra, vì sợ những người được cắt bì.
- Hành động của đám đông: Những người Do-thái khác cũng theo ông mà giả hình giả bộ, khiến cả ông Barnaba cũng bị lôi cuốn mà giả hình như họ.
- Hành động của Phaolô: Khi ông Phêrô đến Antiôchia, Phaolô đã cự lại Phêrô ngay trước mặt, vì ông đã làm điều đáng trách và không đi đúng theo chân lý của Tin Mừng. Phaolô đã sửa sai Phêrô trước mặt mọi người: "Nếu ông là người Do Thái mà còn sống như người Dân Ngoại, chứ không như người Do Thái, thì làm sao ông lại ép người Dân Ngoại phải xử sự như người Do Thái?"

2/ Phúc Âm: Sự quan trọng của cầu nguyện trong Tin Mừng Luca.
2.1/ Không phải ai cũng biết cách cầu nguyện: Theo phong tục của Do Thái, các Rabbi thường dạy cho các môn đệ một kinh đơn giản để họ có thể dùng hằng ngày để cầu nguyện. Gioan Tẩy Giả cũng làm như thế cho các môn đệ của ông. Và hôm nay, một người trong nhóm môn đệ của Chúa Giêsu cũng đến và nói với Người: "Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gioan đã dạy môn đệ của ông." Lý do tại sao phải dạy là vì các môn đệ không biết cách cầu nguyện làm sao cho đúng: cái gì cũng xin, xin những điều hại cho người khác, chỉ biết ích kỷ xin cho mình …
2.2/ Chúa Giêsu dạy cho môn đệ cách cầu nguyện: Người bảo các ông: "Khi cầu nguyện, anh em hãy nói: "Lạy Cha, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển, triều đại Cha mau đến, xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy; xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con, và xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ."
Quan sát những lời dạy của Chúa Giêsu, chúng ta nhận thấy có những nguyên tắc sau:
 (1) Những gì liên quan tới Thiên Chúa: Trước tiên, lời cầu nguyện được dâng lên Thiên Chúa là Cha chứ không phải bất cứ ai khác; Người luôn yêu thương và quan tâm đến nhu cầu của con cái mình. Tất cả những gì thuộc Thiên Chúa phải được con người quan tâm đến trước những nhu cầu của cá nhân con người: xin làm cho thánh danh Cha vinh hiển chứ không xin làm vinh danh con, xin cho triều đại Cha mau đến chứ không xin cho triều đại của con đến trước Cha. Cầu nguyện nhưng cũng nhận ra bổn phận của người con: làm vinh danh Cha và làm cho triều đại Cha mau đến bằng những công việc và cách sống của mình; để mọi người nhìn thấy và ngợi khen Cha trên trời.
(2) Những gì liên quan tới con người: cả quá khứ, hiện tại, và tương lai.
- Hiện tại: Xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy;
- Quá khứ: Xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con.
- Tương lai: Và xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải hành động theo những nguyên tắc nhất định trong đời sống cá nhân, gia đình, và cộng đòan; để bảo vệ sự hiệp nhất của tập thể. Cần hiểu biết lý do và sự quan trọng của các nguyên tắc trước khi hành động và dạy người khác làm như thế.
- Chúng ta cần phải nhận ra và tôn trọng sứ vụ của mọi người trong kế họach cứu độ của Thiên Chúa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP

Thứ Tư tuần 27 thường niên
Sứ điệp: Kinh Lạy Cha là mẫu mực của mọi lời kinh và cũng là mẫu mực hướng dẫn cuộc sống của chúng ta.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, lời kinh Chúa dạy là những nét đặc trưng để con trở thành môn đồ của Chúa cũng như thánh Gioan Tẩy Giả có những lời kinh dạy cho các môn đệ của Người.
Lời kinh Chúa dạy vừa liên kết con với Chúa Cha và với tha nhân, vừa xác định hướng đi của đời con.
Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa đã cho con được làm con của Chúa Cha. Chúa đã đưa con vào tương quan mật thiết nhất đối với Chúa Cha, Chúa đã tỏ bày và thực hiện tình thương bao la đối với con.
Chúa muốn cho con tham gia vào sinh hoạt Nước Chúa. Chúa muốn cho  con cùng thao thức với Chúa để Danh Cha được mọi người tin  nhận, yêu mến, để mọi người cùng được hưởng tình yêu phụ tử của Chúa Cha.
Chúa còn muốn cho chúng con là anh em với nhau, biết thực hiện tình thương đối  với nhau, nhất là khi chúng con bị ngăn cách với nhau bởi những bất hòa, những thù nghịch. Chúng con phải tha thứ cho nhau vì hơn ai hết, chính con cần được Chúa tha thứ. Tình yêu thương tha thứ của Chúa mở đường cho con làm hòa với kẻ khác và nếu con có làm hòa với họ, con mới được Chúa đón nhận trong tình yêu của Chúa.
Lạy Chúa, xin giúp con sống như Chúa dạy để con trở nên môn đồ của Chúa. Chúa đã biểu lộ tình yêu Chúa Cha cho con, xin cho con sống trọn tình nghĩa với Cha, và noi gương Chúa mà sống hết lòng với kẻ khác. Đó chính là những gì con phải tích lũy và làm tăng thêm mãi, chứ không phải chỉ là lo của ăn hằng ngày. Lạy Chúa, xin giúp con biết sống theo Lời  Chúa dạy. Amen.
Ghi nhớ : "Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện”

10/10/12 THỨ TƯ TUẦN 27 TN
Lc 11,1-4 
THƯA THẦY, XIN DẠY CHÚNG CON CẦU NGUYỆN

“Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gioan đã dạy các môn đệ của ông.”(Lc 11,1)
Suy niệm: Cầu nguyện là một nhu cầu không thể thiếu của đời sống tâm linh đối với những ai muốn sống thân mật với Thiên Chúa. Nhưng cầu nguyện thế nào nhiều khi chúng ta cảm thấy lúng túng. Có không ít người cứ tưởng rằng phải đọc kinh này, phải hát bài kia mới là cầu nguyện. Phải đọc và hát nhiều nhiều mới gọi là cầu nguyện sốt sắng. Thực ra, cầu nguyện đâu có phức tạp đến thế. Cầu nguyện là nói chuyện với Chúa như nói với người cha của mình. Kinh “Lạy Cha” mà Chúa Giêsu dạy chúng ta gồm những lời cầu đơn sơ như những lời của đứa con nhỏ nói với cha mình. Mỗi ngày đọc kinh “Lạy Cha” với tâm tình trẻ thơ ấy là cầu nguyện rồi. Gẫm đi gẫm lại từng lời trong kinh này sẽ đưa chúng ta đi sâu vào việc gặp gỡ Cha mình và cảm nghiệm thế nào là cầu nguyện.
Mời Bạn: Kinh “Lạy Cha” nằm trên cửa miệng người Kitô hữu, và mỗi người chúng ta cũng đã nhiều lần đọc kinh ấy. Nhưng đọc kinh “Lạy Cha” với tâm tình nào chính là yếu tố xác định cho biết mình đã cầu nguyện thế nào. Nội dung kinh “Lạy Cha” đặt chúng ta trong tương quan với Chúa và với tha nhân đó bạn. Khi cầu nguyện với kinh “Lạy Cha” cũng là lúc chúng ta thực hiện những điều chúng ta xin trong kinh ấy.
Chia sẻ: Bạn có kinh nghiệm thế nào khi cầu nguyện với Chúa bằng kinh “Lạy Cha”? Mời bạn chia sẻ.
Sống Lời Chúa: Mỗi ngày nhớ đọc kinh Lạy Cha một cách chậm rãi với tâm tình của một người con thưa chuyện với cha mình.
Cầu nguyện: Đọc kinh Lạy Cha.

Xin dạy chúng con cầu nguyện
“Ðừng bao giờ đánh giá thấp sức mạnh của sự cầu nguyện”. Chẳng phải chỉ cầu nguyện khi gặp chuyện khó. Ðể hít thở bình thường cũng cần đến ơn trên.

Suy nim:
Có nhiều định nghĩa về con người.
Con người là con vật biết sử dụng các dụng cụ.
Con người là con vật biết suy nghĩ đắn đo.
Nhưng như thế vẫn chưa đủ.
Phải định nghĩa con người là con vật biết cầu nguyện,
nghĩa là có khả năng lắng nghe và đáp lời Thiên Chúa.
Con người là sinh vật biết chuyện trò với Tạo Hoá.
Cầu nguyện không phải là nói với một sự vật, một ý tưởng,
nhưng là nói với một Ðấng siêu vượt tôi,
mà lại rất gần gũi thân thương và biết tôi.
Ðấng ấy nói với tôi và nghe được lời tôi nói.
Có nhiều tâm tình khi ta cầu nguyện:
thống hối, tri ân, ca ngợi, thờ lạy, dâng hiến, nài xin.
Nài xin chẳng phải là điều hạ giá con người.
Con người cảm nghiệm được thân phận mong manh,
nên khiêm hạ đi tìm sự nâng đỡ.
Xin cho chúng con bánh cần dùng mỗi ngày.
Bánh vật chất, bánh tinh thần, Bánh Thánh Thể.
Bánh cho chúng con sự sống.
Xin tha thứ tội chúng con,
để chúng con được sống bình an sau những va vấp.
Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ.
Cơn cám dỗ lớn nhất là chỉ sống cho mình,
và khép lại trước Thiên Chúa và anh em.
Quỳ xuống cầu xin là thái độ của người biết mình,
biết những gì mình có thể làm được,
và biết những gì nằm ngoài tầm tay của mình.
Khi tương quan giữa Mỹ và Irak căng thẳng cực độ,
Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Kofi Annan đã tới Bagdad
để thuyết phục phía Irak ký vào bản thoả thuận.
Lúc trở về, ông nói: “Tôi đặc biệt đã cầu nguyện nhiều.
Ðừng bao giờ đánh giá thấp sức mạnh của sự cầu nguyện.”
Chẳng phải chỉ cầu nguyện khi gặp chuyện khó.
Ðể hít thở bình thường cũng cần đến ơn trên.
Cần có thái độ kiên trì khi cầu nguyện.
Hãy cứ gõ cửa nhà Chúa trong đêm mịt mù.
Cần tập đứng đợi, tập quấy rầy Chúa.
Thế nào Ngài cũng mở cửa và cho mọi sự ta cần.
Hãy để Ngài tự do cho vào lúc và theo cách Ngài muốn,
dù điều đó không hợp với ước mơ của ta.
Lắm khi ta có cảm tưởng Ngài không nhận lời.
Có thể vì lời nài xin của ta đầy tính ích kỷ,
hay vì Ngài muốn dành cho ta một ơn lớn hơn.
Xin Ðức Giêsu dạy ta biết cách cầu xin,
đưa ta ra khỏi những bận tâm hẹp hòi về chính mình,
để thấy những nhu cầu lớn lao của Hội Thánh.
Ơn cao cả nhất mà chắc chắn Cha muốn ban cho ta
đó là Chúa Thánh Thần.
Có Thánh Thần là có niềm vui, sức mạnh, ánh sáng, sự sống.
Có khi nào ta nài xin Cha ban Thánh Thần chưa?
Cầu nguyn:
Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con,
những ơn con thấy được,
và những ơn con không nhận là ơn.

Con biết rằng
con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng,
biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.

Con thường đau khổ vì những gì
Cha không ban cho con,
và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.

Tạ ơn Cha vì những gì
Cha cương quyết không ban
bởi lẽ điều đó có hại cho con,
hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.

Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha
dù con không hiểu hết những gì
Cha làm cho đời con.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ


"Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện".
Ý Nghĩa Của Kinh Lạy Cha
Chúng ta không đi sâu vào chi tiết chú giải kinh Lạy Cha, cũng không muốn tìm hiểu tại sao lời kinh Lạy Cha được Chúa Giêsu dạy cho các môn đệ lại được ghi lại một cách khác nhau nơi Phúc Âm Mátthêu chương 6 và Phúc Âm Luca chương 11 và được Giáo Hội trình bày cho chúng ta trong lời suy niệm hôm nay. Chúng ta hãy nhớ đến ý nghĩa kinh Lạy Cha như là một bản tóm kết trọn vẹn cả Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô, bản tóm gọn khoa thần học, một bản giáo lý về đời sống Kitô. Chúng ta cần khám phá kinh Lạy Cha, đây là trường dạy ta cầu nguyện và hãy cầu nguyện kinh Lạy Cha với tâm trí chìm sâu trong chiêm niệm, để mỗi ngày chúng ta được hiểu thêm về mầu nhiệm Thiên Chúa trong cuộc đối thoại Cha con, trong thái độ tín thác hoàn toàn vào Thiên Chúa và với con tim rộng mở để tha thứ cho anh chị em và đón nhận mọi người như anh chị em mình trong cùng một đại gia đình của Thiên Chúa. Ðối với người Do Thái thời Chúa Giêsu, việc đối thoại với Thiên Chúa và gọi Ngài là Cha trong ý nghĩa Chúa Giêsu muốn cho các môn đệ Người hiểu, thì đó là một việc làm táo bạo và xúc phạm đến uy linh Thiên Chúa. Nếu không có lời Chúa Giêsu dạy để cầu nguyện như vậy, có lẽ con người phàm trần chúng ta không dám cất tiếng gọi Thiên Chúa là Cha như vậy.
Cầu nguyện với Thiên Chúa là Cha theo ý Chúa Giêsu muốn qua lời kinh Lạy Cha là một việc làm hết sức mới mẻ và đồng thời cũng hết sức đòi hỏi. Thói quen chúng ta đọc kinh Lạy Cha quá thường, làm cho chúng ta mất đi ý thức về sự mới mẻ và về đòi hỏi quan trọng đối với Thiên Chúa cũng như đối với anh chị em. Ðối với Thiên Chúa, mọi đồ đệ cần phải tôn vinh Ngài và vâng phục thánh ý Ngài. Ðối với anh chị em, người đồ đệ Chúa không thể nào tránh né bổn phận tha thứ như Chúa đã tha thứ. Chúng ta hãy ý thức lại để cho sự mới mẻ này đòi hỏi kinh Lạy Cha thấm nhập sâu vào con người chúng ta và hướng dẫn mọi hoạt động lớn nhỏ hàng ngày của người Kitô chúng ta.
Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện Danh Cha cả sáng; Nước Cha trị đến.
Xin hãy ban ơn xuống trên chúng con tràn đầy Thánh Thần Chúa để chúng con có thể sống vâng phục thánh ý Cha dưới đất cũng như trên trời, như Chúa Giêsu, Con Cha đã nêu gương cho đến hy sinh mạng sống mình trên thập giá để cứu rỗi nhân loại chúng con. Xin Cha tha thứ những lầm lỗi của chúng con và ban ơn giúp chúng con thật lòng tha thứ cho nhau noi theo mẫu gương nhân từ tha thứ của Cha. Xin Cha gìn giữ chúng con luôn trung thành trong đức tin, ban cho chúng con sức mạnh để đừng sa vào chước cám dỗ, đừng sống nô lệ thần dữ và tội lỗi.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Lời Cầu Nguyện Lớn Nhất
Có một lần Đức Giêsu cầu nguyện ở một nơi kia. Người cầu nguyện xong, thì có một người trong nhóm môn đệ nói với Người: “Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gio-an đã dạy môn đệ của ông.” (Lc. 11, 1)
Kinh Lạy Cha là lời cầu nguyện lớn nhất vừa giản dị vừa dễ dàng. Hợp với trình độ của mọi người. Người nhỏ mọn nhất cũng như người uy quyền nhất, người danh giá cũng như người bình dân, người thông thái cũng như người thất học. Kinh lạy Cha phát xuất từ trái tim Đức Kitô và môi miệng của Người, không do sự chuẩn bị soạn thảo, nhưng do sự kết hiệp của Người với Thiên Chúa.
Từ câu hỏi của các tông đồ: “Thưa Thầy xin dạy chúng con cầu nguyện cũng như Gioan dạy các môn đệ của ông”. Đức Giêsu không trả lời bằng văn bản kênh kiệu, bùi tai, lóe mắt, súc tích những mầu nhiệm thâm sâu. Đức Kitô hài lòng dùng những lời đơn sơ thốt ra từ miệng trẻ thơ. Và đã được hàng triệu Kitô hữu lặp đi lặp lại qua bao nhiêu thời đại. Lời cầu nguyện vĩ đại này mở đầu bằng lời chào: “Lạy Cha chúng con”, đầy cảm mến, khiến người ta phải suy tư từ đầu đến cuối. Kinh lạy cha có thể giúp ta đặt niềm tin vào Thiên Chúa trong bất cứ hoàn cảnh nào, của hạng người nào. Nó giúp cho cả những người Hồi Giáo, Phật Giáo cầu nguyện cũng như người Công Giáo. Nó không chỉ giúp cho phong trào hiệp nhất Kitô giáo mà cho cả thế giới, các tôn giáo đang đi tìm những giá trị chung có sức hữu hiệu qui tụ cả loài người, dù niềm tin chính thức của họ là gì. Đối với ai tin vào Đấng Tối Cao, họ sẽ dễ dàng theo Đức Kitô để cầu nguyện với Thiên Chúa của họ như là cha của mình, Đấng ngự trên chốn tối cao, để cho danh thánh của Ngài vinh hiển, triều đại của Ngài mau đến và thánh ý chí tôn của Ngài được thực hiện.
Đối với những ai tin vào Đấng tuyệt đối, họ sẽ dễ dàng biết bao khi nghĩ đến xin Ngài ban cho con cái dưới đất của nuôi hằng ngày, xin Ngài tha thứ những lầm lỗi như họ cũng tha cho kẻ xúc phạm đến họ, đừng để họ xa chước cám dỗ và giải thoát họ khỏi mọi sự dữ.
Kinh lạy cha đánh dấu những chặng đường lớn của cuộc đời chúng ta, được đọc giữa lúc cử hành thánh lễ hằng ngày, kinh lạy cha càng đọc đi đọc lại, càng là sức mạnh lạ lùng giúp chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa. Thật lạ lùng, Đức Giêsu đã để lại cho chúng ta kinh lạy cha làm gia tài muôn thuở.
GF.


Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng 10

10 THÁNG MƯỜI
Lòng Tôn Sùng Đích Thực Đối Với Chúa Kitô
Trong một quốc gia có truyền thống Kitô giáo lâu đời như nước Ý, lòng đạo đức bình dân có một đặc tính Kitô giáo không thể phủ nhận được. Rất nhiều tập tục của quốc gia này bắt nguồn từ các lễ mừng của Giáo Hội và vẫn còn được nối kết với các dịp lễ ấy. Cần phải lưu ý đến nguồn gốc của các tập tục này. Trong trường hợp một số tập tục có vẻ đi lệch khỏi các nguồn gốc nguyên thủy, cần phải cố gắng để trả lại cho chúng ý nghĩa ban đầu.
Đối với những sự sùng ngưỡng có tính cá nhân, chúng ta cần liệu sao để chúng không bao giờ bị méo mó trở thành một thứ đạo đức sai lạc, mê tín dị đoan, hay những thực hành ma thuật. Như vậy, lòng sùng kính các thánh – vốn được thể hiện trong các lễ kính thánh quan thầy, trong các cuộc hành hương, rước kiệu và trong rất nhiều hình thức đạo đức khác – không được bị giảm trừ đến chỉ còn là chuyện cầu xin sự bảo vệ, cầu xin cho được những sở hữu vật chất, hoặc cho sự lành mạnh thể xác. Tiên vàn các tín hữu phải xem các thánh như là những mẫu gương sống và bắt chước Chúa Kitô. Các thánh phải được giới thiệu như là một con đường dẫn tới lòng sùng mộ lớn lao hơn đối với Chúa Kitô.
Phương cách tốt nhất để chống lại những lạm dụng là đưa những lời Tin Mừng vào trong các cử hành đạo đức bình dân. Đối với các tín hữu ưa chuộng những hình thức sùng ngưỡng bình dân, chúng ta cần hướng dẫn họ đi từ một dạng thái đức tin mơ hồ đến những biểu lộ của niềm tin Kitô giáo đích thực. Chúng ta phải tìm cách Phúc Aâm hoá lòng đạo đức bình dân, qua đó chúng ta có thể giúp tháo gỡ những khuyết điểm của nó, gạn đục khơi trong nó, làm cho những yếu tố ‘hàm hồ’ trở nên có ý nghĩa minh bạch hơn trong bối cảnh của đức tin, đức cậy và đức ái Kitô giáo đích thực.
+++++++++++++++++


Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 10-10
Gl 2, 1-2. 7-14; Lc 11, 1-4
LỜI SUY NIỆM: Có một lần Đức Giêsu cầu nguyện ở nơi kia. Người cầu nguyện xong, thì có một người trong nhóm môn đệ nói với Người: “Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gioan đã dạy môn đệ của ông.” (Lc 11,1)
 Đối với những người có tôn giáo thì đời sống cầu nguyện như là hơi thở cần cho sự sống của họ. Đối với người Ki-tô hữu khi cầu nguyện lại là một việc hết sức hệ trọng. Bời vì chúng ta không biết phải thưa trình với Thiên Chúa cách thức nào đẹp lòng Ngài, cũng như cách xưng hô với Ngài cho xứng hợp với sự cao trọng và thánh thiện và quyền năng của Ngài. Nhờ qua lời cầu xin của một môn đệ của Chúa Giêsu, Chúa đã dạy cho chúng ta biết cách cầu nguyện đó là kinh Lạy Cha. Trong kinh Lạy Cha có những lời Chúc Tụng, Ngợi Khen, có những Cam Hứa, và cầu xin về phần xác cũng như phần hồn. Đồng thời hướng tâm trí mỗi chúng ta hướng về Ba Ngôi Thiên Chúa, Chúa Cha tạo dựng; Chúa Con cứu chuộc và Chúa Thánh Thần hướng dẫn giúp đỡ; đồng thời trình bày cả quá khứ, hiện tại và phó dâng tương lai cho Ngài để Ngài thánh hóa trở nên tốt đẹp hơn.

Mạnh Phương

++++++++++++++++++

10 Tháng Mười
Trần Như Nhộng

Trần Bình vốn là một mưu thần đời nhà Hán, thời Hán Sở tranh hùng. Một hôm, khi trốn Sở về đầu Hán, Trần Bình phải đi qua một con sông lớn. Người lái đò đưa khách qua lại vốn là một tay cướp giật, giết người khét tiếng. Hắn nghĩ Trần Bình là một người giàu có, định ra tay hãm hại để thâu đoạt tiền của. Biết ý định của tên lái đò, trước khi xuống đò, Trần Bình đã cởi bỏ hết quần áo. Mình trần như nhộng, Trần Bình lại đến xin tên lái đò cho chèo phụ giúp hắn. Nghĩ rằng một người trần truồng như thế không phải là một người giàu có, tên lái đò đã để yên cho Trần Bình. Thế là ông thoát nạn.
Ðôi khi phải chấp nhận một vài nhục nhã, cắt bỏ đi một phần của cải hay cả một phần thân thể, chúng ta mới có thể thoát khỏi hiểm nguy đe dọa đến tính mạng. Trong bất cứ một cuộc di tản nào, để bảo đảm cho mạng sống, đôi khi người ta phải bỏ lại đằng sau nhà cửa, ruộng vườn, tài sản và ngay cả bà con thân thuộc của mình. Chúng ta có một sự sống giá trị gấp bội phần sự sống trên trần gian này. Sự sống ấy đòi hỏi chúng ta phải hy sinh tất cả mọi sự trong cuộc sống tạm bợ này. Lời sau đây của Chúa Giêsu đã đánh động không biết bao nhiêu người trong lịch sử nhân loại: "Lời lãi cả thế gian để được ích gì nếu mất linh hồn mình?"
(Lẽ Sống)
Ngày 10



Hãy cầu nguyện: Đức Kitô luôn xa rời tất cả, đi vào yên tĩnh khi trở về sau nhiệm vụ, để cầu nguyện vói Cha Người. Vì tình trạng căng thẳng và vì Người bị lôi kéo khắp nơi, nên Đức Giêsu nói với các môn đệ và mời gọi họ lánh mình trên núi. Tôi thật sự cảm thy điều cần thiết này trong nghề nhà giáo của tôi, và vào rừng đều đặn.
Chúng ta phải không ngừng sng sự cầu nguyện cá nhân và tập thể.
Cuộc sng của con ngưòi trên trái đất là một cuộc chiến đấu. "Nếu bạn muốn là một người đầy tớ vĩ đại của Chúa trên trái đất này, thì hãy chuẩn bị chịu thử thách", Cựu Ước nói với chúng ta như vậy. Chính vì lý do đó mà chúng ta phải thường xuyên xa lánh dân chúng.
Hãy suy niệm Tin Mừng với Đức Maria, bởi vì tất cả những mầu nhiệm cao cả của cuộc đời Đức Kitô là trong kinh Mân Côi.
Những mầu nhiệm kinh Mân Côi là những mầu nhiệm cuộc đời Đức Kitô. Đi với một tín hữu, suy niệm mỗi mầu nhiệm là rất
quan trọng. Đó là cách đọc lại cuộc sống của Đức Kitô.

Guy Gilbert
Hạnh Các Thánh

Ngày 10 tháng 10
THÁNH PHANXICÔ BORGIA
BỀ TRÊN CẢ DÒNG CHÚA GIÊSU
Saint Francis Borgia

Dòng tộc thánh Phanxicô Borgia đã cống hiến cho Giáo hội nhiều vị anh tài. Trổi vượt hơn cả là hai vị Giáo Hoàng Callitô II và Alêxanđôrô VI. Thừa hưởng di sản tinh thần ấy, Borgia đã đem hết đời sống, hết tài năng để phụng sự Chúa và Giáo hội. Ngài là một trong những nhân vật xuất sắc nhất của dòng Chúa Giêsu mà ta quen gọi là dòng Tên, về cả tài ba và đức độ. Borgia sinh tại miền Ganđia năm 1510. Thân phụ ngài là vị lãnh chúa thứ ba của miền này. Khi lên mười tuổi, Borgia thích giải trí bằng những trò chơi có tính cách phụng vụ. Cậu bày bàn thờ và bắt chước linh mục làm các lễ nghi. Với những cử điệu nghiêm trang, với giọng hát có khiếu từ bé, cậu đã làm cho mọi người phải chú ý tới lối “giải trí” của mình, nhất là bà thân mẫu; bà mừng thầm và đoán biết chí hướng của con mình. Nhưng cha cậu lại không thích cái lối chơi như thế của con. Lần kia, trong khi mọi người tấm tắc khen Borgia, thì ông đã nghiêm nét mặt bảo con: “Borgia, dẹp hết bàn thờ đi, địa vị của con không phải làm cha xứ, nhưng làm đại tướng”.
Rồi từ đó, ông rèn luyện cho con một tinh thần thượng võ, bằng cách ngày đêm chỉ cho con chơi với những ngựa sắt, kiếm đồng và áo giáp. Dầu vậy, trong những ngày cắp sách đến trường, Borgia không quên trau dồi triết học và để tâm thâu lượm những kiến thức phổ thông. Vì thế, mới 17 tuổi, Borgia đã được tiếng là một hiệp sĩ văn võ kiêm toàn. Hoàng đế Carôlô V, vì khâm phục tài đức của Borgia, đã gán ép cho chàng kết hôn với một công chúa người Bồ Đào Nha tên là Êlêônora Castro. Năm 1529, hiệp sĩ Borgia được phong làm hầu tước miền Lômbay. Hầu tước là một trong những người được Hoàng đế Carôlô V, và sau này Hoàng đế Philipê II hết sức tín nhiệm.
Say sưa với một tương lai rực rỡ đang chờ đón mình, nhiều lúc Borgia đã lãng quên bổn phận của người tín hữu, đến nỗi chỉ mê tìm mọi cách gây uy tín và thế lực trần gian.
Nhưng đường lối Chúa đi nào ai thấu suốt! Sau nhiều ngày tháp tùng Hoàng hậu Isabella đi du ngoạn, hầu tước Borgia ngã bệnh phải trở về nhà dưỡng bệnh. Chính trong thời gian này, ngài đã lấy lại được tinh thần đạo đức nhờ đọc Phúc âm, thư thánh Phaolô và các bài giảng của thánh Gioan Kim khẩu. Tiếp sau đó là cuộc thất trận với quân Pháp tại miền Prôvencia cùng với cái chết đau đớn của một quân nhân thi sĩ Garcilasô Vêga năm 1536, và năm 1539 tiếp đến cái chết của Hoàng hậu Isabella, người mà hầu tước kính yêu như một người mẹ hiền, một vị ân nhân lân tuất. Borgia vô cùng cảm xúc và nhận biết những lời cảnh báo của Thiên Chúa qua những biến cố đau thương này. Từ đó ngài dốc quyết dự lễ, rước lễ hằng tuần và chăm lo việc bổn phận. Cũng từ đây cách giải trí duy nhất của ngài sau những ngày làm việc là săn bắn và thưởng thức âm nhạc, nhất là các bài thánh ca. Mọi lối giải trí có xu hướng xác thịt khác, ngài đều dốc lòng xa tránh, như lời ngài vẫn thường nói: “Những lối chơi đó không những tốn tiền, hao sức, mà còn phá hoại đức tin và làm hoen ố lương tâm”. Vị linh mục ảnh hưởng đặc biệt đến đời sống Borgia lúc này là thánh Gioan Avila. Nhờ cha hướng dẫn, Borgia đã giữ mình đúng theo lời Kinh thánh: “Cả khi được quyền cao chức trọng và dư đầy của cải, con cũng đừng để lòng con dính bén và ra đen tối vì tham vọng và lạc thú”. Và lời khác: “Được danh thơm tiếng tốt thì quý hơn giầu sang, chức trọng” (Pro 22,1).
Càng thay đổi cách sống, hầu tước Borgia càng được Hoàng đế tín nhiệm. Cuối năm 1539, Hoàng đế Carôlô V đặt Borgia làm phó vương xứ Catalôgna, một lãnh thổ phì nhiêu và đông dân cư, nhưng đồng thời cũng là một nơi hiểm trở vì giáp biên thùy và hiện còn đang xảy ra nhiều vấn đề cam go, nhất là sự dòm ngó của quân Pháp. Dầu vậy, với đức tính cương trực và bác ái, Borgia đã làm tròn bổn phận và nghĩa vụ của một phó vương. Dân chúng mến phục và uy tín của ngài một ngày một rộng lớn. Năm 1543, Hoàng đế cất gánh nặng cho ngài bằng cách đặt ngài làm Thái sư của công chúa nước Tây Ban Nha, kiêm cố vấn riêng của hoàng gia. Cũng năm ấy, thân phụ ngài qua đời, nên Borgia còn đương nhiên được thừa hưởng địa vị làm lãnh chúa miền Ganđia, nơi đây ngài đã cố gắng canh tân mọi mặt, như xây cất bệnh viện và trường học. Lần đầu tiên dưới đời ngài, miền Ganđia có một trường đại học và chính ngài là một trong những vị tiến sĩ thần học nổi danh xuất thân từ đại học này. Nhưng rồi năm 1546, Borgia phải đau đớn vì cái chết bất ngờ của người vợ yêu quý, bà Êlêônôra. Nhưng đây cũng là lúc ngài cảm thấy tiếng Chúa gọi mỗi ngày một mạnh mẽ. Ngài muốn từ bỏ mọi chức quyền thế gian để hiến thân lo việc tông đồ và lo nên thánh.
Không bao lâu sau, lòng ước ao của ngài đã được thể hiện như ý. Ngày 01.02.1548, ngài khấn vào dòng Chúa Giêsu trước sự chứng kiến của thánh Inhaxiô, vị sáng lập dòng. Nhưng vì còn phải vướng ngăn trở nhiệm vụ chăm lo cho đoàn con chưa trưởng thành, nên ngài được Đức Giáo Hoàng ban đặc ân cho ở lại gia đình mặc dầu đã có lời khấn. Nhờ thế lực của ngài đối với hoàng đế và chính quyền, dòng Tên mỗi ngày một thêm ảnh hưởng đến độ không tránh khỏi những ghen tương tự nhiên của nhiều dòng khác.
Ngày 31.8.1558, lãnh chúa Borgia từ giã quê hương đến Rôma trình diện với thánh Inhaxiô. Sau một năm sống chiêm niệm và thống hối, ngài lĩnh chức linh mục cách sốt sắng và trở về giảng đạo tại quê nhà. Hai năm sau, Đức Giáo Hoàng Juliô II trạch cử cha Borgia lên chức Hồng y. Được tin ấy, cha đến xin thánh Inhaxiô bầu cử cho mình tránh khỏi chức trọng ấy. Nhưng đến năm sau, cha phải vâng lời giữ chức bề trên tỉnh dòng tại Tây Ban Nha. Ngài dốc hết tâm lực lo việc truyền giáo tại Ấn độ, Á châu và Mỹ châu. Chỉ trong hai năm ngài đã lập thêm được nhiều chi nhánh cho tỉnh dòng. Mặc dầu không còn giữ một địa vị phần đời nào, cha Borgia vẫn được coi như vị cố vấn của hoàng đế. Dựa vào uy tín sẵn có đối với Hoàng đế Carôlô và Gioan III, ngài đã làm ích nhiều cho Giáo hội, nhất là trong việc truyền giáo nơi hải ngoại.
Nhưng khi Hoàng đế Gioan III băng hà và Hoàng đế Philipê II lên ngôi kế vị, thì ngài trở về Rôma. Tại đây, ngài được Đức Giáo Hoàng Piô V và thánh Giám mục Carôlô Bôrômêô rất mực tín nhiệm. Năm 1546, ngài được cử làm phó bề trên liên tỉnh dòng Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha; năm sau lại làm phó bề trên cả hội dòng, rồi mấy tháng sau chính thức làm bề trên cả thay thế cha Laynez.
Với chức vụ mới, cha Borgia hăng hái làm việc như quên tuổi già đang đến với bệnh dạ dầy đang làm hao mòn sinh lực. Đối với dòng Tên, thánh nhân được coi như vị sáng lập thứ hai sau thánh Inhaxiô. Quả thế, chính nhờ ngài, nhờ sự thánh thiện và cách làm việc khôn ngoan của ngài mà hội dòng này đã phát triển mạnh mẽ, đã có mặt tại nhiều quốc gia và mỗi ngày một thêm uy tín trong Giáo hội. Công trình hoạt động của thánh nhân thực đáng kể, nhưng đời sống nhân đức của ngài còn đáng khâm phục hơn. Người ta bảo ngài được các người trên tín nhiệm vì ngài có tính cương trực và tinh thần trách nhiệm, được kẻ dưới kính yêu vì lòng bác ái vị tha của ngài. Ngài thành tựu trong công việc xét theo bề ngoài là do tài ba, suy tính đắn đo, nhưng bên trong là nhờ ơn Chúa chan hòa nơi đức tin sống động và lòng yêu mến trọn hảo của ngài. Có thể nói được rằng, càng về cuối đời, thánh Borgia càng sáng chói nhiều nhân đức, càng trở nên đèn sáng mà Chúa muốn dùng để chiếu soi cho anh em trong dòng và cả thế giới công giáo.
Mùa hè năm 1571, vâng lời Đức Giáo Hoàng Piô V, cha Borgia tháp tùng Đức Hồng y Bônelli đi công cán tại Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Cuộc du hành kéo dài tới ba tháng, đã nên dịp cho bệnh tái phát và mau chóng làm suy tàn tuổi già còn lại. Tuy nhiên, cha vẫn gắng chịu cho tới khi trở về Rôma. Nơi đây, cha nằm liệt giường và chịu bệnh cho tới nửa đêm ngày 30.9.1572 thì qua đời; cha hưởng thọ 62 tuổi.
Năm 1670, cha Borgia được Đức Giáo Hoàng Clêmentê X ký sắc lệnh phong thánh và kính lễ trong dòng Tên, và đến năm 1689, Đức Alêxanđôrô mới truyền cho cả Giáo hội kính nhớ. Đầu tiên lễ kính thánh nhân định vào ngày 30 tháng 9, tức là đúng ngày ngài qua đời, nhưng đến sau lại đổi vào ngày 10.10 hằng năm.
Đọc truyện thánh Borgia, chúng ta không thể bỏ qua lời vàng ngọc của ngài còn để lại và bao người đã coi như châm ngôn của đời sống mà ngài đã ghi lại trong một trang nhật ký: “Tôi ước nguyện làm điều vừa lòng Chúa hơn cả, vì chỉ điều ấy mới làm cho lòng tôi toại nguyện. Chớ gì tôi được cùng chết và cùng sống với Chúa. Tôi yêu mến thánh giá Chúa, thánh giá mang vinh dự và cứu rỗi đến cho tôi...”.
Chớ gì những lời trên đây cũng là câu tâm niệm và là phương châm hoạt động cho mỗi người chúng ta trên con đường tu đức.
Thứ Tư 10-10

Thánh Daniel và Các Bạn 

(c. 1227)
D
aniel, vị bề trên dòng Phanxicô ở Calabria, nước Ý, hướng dẫn một nhóm các tu sĩ Phanxicô, là những người theo gương Thánh Berard để đi rao giảng Phúc Âm ở Bắc Phi vào năm 1227. Sáu vị tu sĩ khác là Angelo, Domnus, Hugolino, Leo, Nicolas và Samuel. Họ đến Ceuta, Morocco, là nơi các thương gia Kitô Giáo đã cảnh giác họ về việc bách hại các thừa sai.
Tuy nhiên, vì quá hăng say, các tu sĩ đã rao giảng công khai, nên đã bị bắt ngay lập tức. Không sợ hãi trước những đe dọa hay mua chuộc, họ cương quyết không chối bỏ đức tin. Cũng như các Kitô Hữu thời tiên khởi ở Colosseum, Daniel và các bạn đã ca hát trên đường tử đạo. Sau khi bị chặt đầu, xác của các ngài được đưa về Tây Ban Nha.
Tất cả được phong thánh năm 1516.

Lời Bàn

Các thánh tử đạo nhắc nhở chúng ta về giá máu mà Chúa Giêsu đã phải trả khi loan truyền Tin Mừng. Chúng ta không có chọn lựa nào khác về việc làm chứng cho Ðức Kitô và Tin Mừng. Việc nhớ đến các vị tử đạo giúp chúng ta kiên trì sống phúc âm mà chúng ta đã được kêu gọi để tuân giữ.

Lời Trích

"Qua sự tử đạo người môn đệ được biến đổi nên giống hình ảnh của Thầy mình, là người đã tự chấp nhận cái chết để cứu chuộc thế gian; và họ cố đạt được hình ảnh ấy dù có phải đổ máu. Tuy không nhiều người được cơ hội ấy, nhưng tất cả phải sẵn sàng để tuyên xưng Ðức Kitô trước mặt người đời, và theo Người trên con đường thập giá qua những bách hại mà Giáo Hội từng bị đau khổ" (Hiến Chương về Giáo Hội, #71).
www.nguoitinhuu.com


PHÚT SUY TƯ
Hoa Mân Côi
Mỗi lời kinh “Ave Maria” được sánh ví như một đóa hồng dâng kính Đức Mẹ. Lời kinh Mân Côi muốn diễn tả với chúng ta biết bao điều tốt đẹp. 
Mỗi khi tháng Mười về, những người con thảo của Đức Mẹ lại rộn ràng với những điệu vãn lời kinh để cùng tôn vinh Mẹ và cùng Mẹ suy ngắm cuộc đời Chúa Cứu thế. Mỗi lời kinh “Ave Maria” được sánh ví như một đóa hồng dâng kính Đức Mẹ. Lời kinh Mân Côi muốn diễn tả với chúng ta biết bao điều tốt đẹp.
“Vườn Rôsa bao quanh lái (trái) đất,
Cảnh thiên nhiên thật rất diệu huyền” (Ngắm Rôsa)
Vườn Rôsa trong câu thơ trên chính là Giáo Hội. Giáo Hội của Chúa được sánh ví như một vườn hoa rộng lớn mênh mông, mà ở đó được trồng những cây hồng với muôn sắc hoa rực rỡ. Giáo Hội của Chúa thật đẹp biết bao. Vẻ đẹp ấy không thể hiện nơi những tòa nhà cổ kính khang trang kiến trúc cầu kỳ, mà là nơi những cộng đoàn tín hữu, nhất là khi họ hội họp nhau để cử hành phụng vụ: tất cả cùng một đức tin, một tình mến, một tâm hồn để tôn vinh và ca tụng Chúa. Vẻ đẹp của Giáo Hội được tỏa rạng từ nụ cười móm mém của các lão ông lão bà, đến những gương mặt rất thơ ngây của các em nhỏ trong những cuộc rước tôn vinh Chúa, Đức Mẹ hay các thánh. Vẻ đẹp của Giáo Hội còn được thể hiện nơi những người cha người mẹ, nơi các bạn trẻ công giáo, được thấm nhuần tinh thần Phúc âm, đang hăng hái nhiệt tình góp phần làm cho quê hương đất nước thêm tươi đẹp. Những nụ cười, những tâm hồn hy sinh ấy chính là những đóa hồng trong vườn Giáo Hội, làm cho Danh Chúa được rạng rỡ vinh quang.
Lời “Vãn Mân Côi” cũng đưa chúng ta về một thời của lịch sử Giáo Hội: vào thế kỷ 13, Giáo Hội gặp nhiều khủng hoảng, nhất là từ những nguy cơ đến từ một bè lạc giáo có tên là Albigeois ở miền nam nước Pháp. Năm 1213, Đức Mẹ đã hiện đến với Thánh Đaminh và trao cho ngài một cỗ tràng hạt. Mẹ hứa, nếu các tín hữu siêng năng lần hạt thì Giáo Hội sẽ được an bình trở lại. Thánh Đaminh vâng lời Đức Mẹ, nhiệt thành kêu gọi mọi người đọc kinh Mân Côi và đúng như lời Đức Mẹ hứa, bè lạc giáo đã tan rã và Giáo Hội được hưng thịnh. Chính từ biến cố lịch sử này mà Giáo Hội được gọi là “vườn Rôsa” - vườn của những đóa hoa hồng, vì nhờ kinh Mân Côi, Giáo Hội đã tìm lại được vẻ đẹp huy hoàng của mình. Ngày lễ Đức Mẹ Mân Côi vào ngày 7-10 hằng năm cũng được Đức Piô V thiết lập để ghi nhớ chiến thắng của Hải quân Kitô giáo với quân Thổ Nhĩ Kỳ tại trận Lepanto ngày 7-10-1571. Chiến thắng này có được là nhờ các tín hữu lần hạt Mân Côi trong ngày giao chiến.
Một câu chuyện kể rằng Thánh Đaminh đã có sáng kiến kết 150 bông hoa hồng thành một chuỗi dài, tượng trưng cho 150 thánh vịnh. Ngài đã dùng những cánh hồng thơm ngát, nén chặt như ép khuôn và làm thành từng hạt hình tròn, nối liền với nhau thành một tràng hạt. Từ đó, tràng hạt được gọi là chuỗi Mân Côi, tức chuỗi hoa hồng.
“Đức Bà như Hoa Hường (hồng) màu nhiệm vậy” (Kinh cầu Đức Bà)
Trong vườn Rôsa, tức vườn Giáo Hội, có một đóa hoa vượt trổi về màu sắc và hương thơm. Đóa hoa ấy mang tên là Maria. Đức Maria vừa là Mẹ của Giáo Hội, đồng thời cũng là chi thể của Giáo Hội. Mẹ là mẫu mực cho đời sống đức tin của các tín hữu. Nơi Mẹ, Giáo Hội chiêm ngưỡng hình ảnh của mình trong tương lai. Mẹ diễn tả một hình ảnh không tỳ ố, không vết nhơ của Giáo Hội. Mẹ là hy vọng của Giáo Hội đang vươn tới vinh quang rạng rỡ như Mẹ.
Là Mẹ của Đức Giêsu, Mẹ cũng là Mẹ của Giáo Hội. Bằng sự quan tâm hiền mẫu của mình, Mẹ luôn đỡ nâng chúng ta là môn đệ của Đức Giêsu. Cũng như tại Cana ngày nao, Mẹ đang dặn dò chúng ta: “Người bảo sao, các con hãy cứ làm như vậy” (Ga 2,5). Mẹ dạy chúng ta phó thác nơi Chúa, như Mẹ đã kiên trung tín thác suốt đời, để Thánh ý của Chúa được thực hiện, vì ơn cứu độ của toàn thể nhân loại.
Khi tôn vinh Đức Mẹ là Hoa Hồng, chúng ta ca tụng quyền năng của Chúa đã tác tạo nên Mẹ, như một tạo vật hoàn hảo, xứng đáng là ngai tòa cho Ngôi Lời nhập thể. Khi chiêm ngưỡng vẻ đẹp cao siêu của Mẹ, chúng ta nguyện ước noi gương Mẹ, trau dồi các nhân đức, mến Chúa yêu người, luôn lắng nghe và thực thi Lời Chúa.
“Mỗi người là một cành hoa, cùng đem về đây góp gió,
Làm thành vườn hoa, muôn màu muôn sắc tươi xinh” (Lời một bài hát)
Mỗi chúng ta, khi sinh vào cuộc đời, cũng giống như một loài hoa để tô điểm cho thế giới này tươi đẹp. Sự khác biệt về tuổi tác, giới tính, trình độ văn hóa hay điều kiện kinh tế không phải là những lý do gây mâu thuẫn, nhưng làm cho cuộc sống thêm phong phú. Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu đã nhận mình là một loài hoa được Thiên Chúa chăm sóc yêu thương một cách đặc biệt. Đã là hoa trong vườn, dù thuộc chủng loại nào, những bông hoa đều cống hiến hương sắc cho đời. Con người cũng thế, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, cũng có trách nhiệm góp phần làm cho cuộc sống thêm nhân ái hơn.
Kinh Mân Côi giúp ta gắn bó với Chúa. Hai mươi mầu nhiệm diễn tả cuộc đời của Chúa Cứu thế, đồng thời cũng phác họa đời sống chúng ta. Cuộc đời được dệt nên bằng một chuỗi những vui buồn. Những ai kiên trung cậy trông vào Chúa trong mọi biến có vui buồn ấy, sẽ trở thành môn đệ chân chính của Đức Giêsu. Đức Mẹ đã thực hiện điều ấy và Mẹ đang mời gọi chúng ta tiến bước theo Chúa Giêsu, Con của Mẹ.
Tràng hạt Mân Côi cũng tượng trưng cho tình liên đới giữa con người với nhau. Là những đóa hoa trong vườn hoa cuộc đời, chúng ta liên kết với nhau làm thành một chuỗi hoa hồng. Những đóa-hoa-cuộc-đời được gắn liền với nhau bằng tình mến Chúa yêu người, làm cho cuộc sống này thêm tươi đẹp và thi vị hơn.
Khi ước mong trở thành những đóa hồng dâng kính Đức Mẹ, mỗi người chúng ta cũng cần phải là một đóa hoa để trao tặng cho nhau. Những nghĩa cử thân thiện, những lời động viên khích lệ hoặc sự chia sẻ tinh thần vật chất mà chúng ta thực hiện xuất phát từ tình mến, đó chính là những đóa hoa lòng mà chúng ta trao tặng cho nhau. Những đóa hoa ấy không tàn phai theo thời gian, nhưng mãi mãi thắm sắc ngát hương, làm nên một cuộc sống an bình. Đó là ý nghĩa của Kinh Mân Côi mà chúng ta đọc hằng ngày.
Đức Chân phước Gioan Phaolô II đã nói: “Chuỗi Mân côi là lời cầu nguyện mà tôi yêu thích nhất. Đó là lời kinh tuyệt vời. Tuyệt vời trong sự đơn giản và sâu sắc. Với lời kinh này chúng ta lặp lại nhiều lần những lời mà Đức Trinh Nữ đã nghe sứ thần Gabriel và người chị họ Êlisabeth nói với Mẹ. Toàn thể Giáo Hội cùng liên kết với những lời kinh ấy” (Tông thư Kinh Mân Côi).
Lạy Mẹ Mân Côi, xin chúc lành và hướng dẫn chúng con trên mọi nẻo đường trần gian. Amen.

Gm Giuse Vũ Văn Thiên
Bài đọc 2 
Anh em hãy trở nên thọ tạo mới trong đức tin là mình Chúa Giê-su Ki-tô và trong đức ái là máu của Người 
Trích thư của thánh I-nha-xi-ô An-ti-ô-khi-a, giám mục, tử đạo, gửi tín hữu Tra-lét.

Anh em hãy trở nên thọ tạo mới trong đức tin là mình Chúa Giê-su Ki-tô và trong máu của Người bằng một nếp sống nhân ái. Đừng ai trong anh em có điều gì nghịch với người thân cận. Đừng làm cớ cho lương dân : vì một vài người ngu xuẩn mà thoá mạ cộng đoàn ở trong Thiên Chúa. Quả thật, khốn cho kẻ nào nhẹ dạ mà khiến cho kẻ khác xúc phạm đến Ta. 
Vậy, anh em hãy bịt tai lại khi có ai nói với anh em những điều gì khác ngoài việc Đức Giê-su Ki-tô thuộc dòng dõi vua Đa-vít, đã thực sự sinh ra làm con Đức Ma-ri-a, đã ăn uống, đã chịu thương khó dưới thời tổng trấn Phong-xi-ô Phi-la-tô, đã chịu đóng đinh và chết thật sự trước mặt các thọ tạo trên trời dưới đất cũng như trong âm phủ. Nhờ Chúa Cha, Người đã thực sự sống lại từ cõi chết. Chúa Cha cũng sẽ cho chúng ta là những kẻ tin vào Chúa Giê-su Ki-tô được sống lại như Người và trong Người. chúng ta không có sự sống thật. 
Vậy anh em hãy tránh xa những mầm mống xấu sinh ra trái độc chết người ; ai mà nếm thử sẽ chết ngay tức khắc. Quả vậy, những mầm mống đó không phải do Chúa Cha ươm trồng ; nếu do Chúa Cha ươm trồng thì những cây thánh giá đã xuất hiện, và trái do những mầm đó sinh ra đã không hư thối. Nhờ cây thánh giá này mà trong cuộc thương khó, Đức Ki-tô đã kêu gọi anh em là những chi thể của Người. Vậy đầu không thể sinh ra biệt lập với tứ chi, vì Thiên Chúa hứa ban sự hiệp nhất, mà chính Người lại là sự hiệp nhất. 
Từ Miếc-na, cùng với các cộng đoàn của Thiên Chúa đang ở với tôi, tôi gửi lời chào thăm anh em ; những cộng đoàn này đã nâng đỡ ủi an tôi trong mọi hoàn cảnh, cả về thể xác lẫn tinh thần. Tôi đang mang xiềng xích vì Đức Giê-su Ki-tô mà cầu xin cho tôi đến cùng Thiên Chúa, vì những xiềng xích ấy, tôi van nài anh em : hãy kiên trì sống hoà thuận với nhau và cầu nguyện cho nhau ; mỗi người trong anh em, nhất là các trưởng lão phải nâng đỡ ủi an giám mục, nhân danh Chúa Cha, Chúa Giê-su Ki-tô và các Tông Đồ. 
Tôi ước mong anh em lấy tình bác ái mà nghe tôi, kẻo những lời tôi viết đây trở thành bằng chứng tố cáo anh em. Xin anh em cầu nguyện cho tôi là người đang cần lòng bác ái của anh em trong tình xót thương của Thiên Chúa, để tôi trở nên xứng đáng đạt được phần gia nghiệp dành cho tôi mà không bị loại ra ngoài. 
Tín hữu ở Miếc-na và Ê-phê-xô gửi lời chào thăm anh em. Trong mọi lời cầu nguyện, anh em hãy nhớ đến Hội Thánh ở Xy-ri-a mà tôi không đáng mang tên, vì tôi là người rốt hết trong số những người đó. Chúc anh em mạnh khoẻ trong Đức Giê-su Ki-tô ; anh em hãy phục tùng giám mục như tuân hành điều răn của Thiên Chúa và cũng hãy phục tùng linh mục đoàn như thế, nhất là mọi người hãy yêu thương nhau bằng một tình yêu không san sẻ.

Lời nguyện 
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, tình thương Chúa thật là cao cả, vượt xa mọi công trạng và ước muốn của con người, xin rộng tình tha thứ những lỗi lầm cắn rứt lương tâm chúng con, và thương ban những ơn trọng đại, lòng chúng con chẳng dám mơ tưởng bao giờ. Chúng con cầu xin…
 
(trích bài đọc Giờ Kinh Sách Thứ Tư Tuần 27 TN-Bản dịch của nhóm CGKPV)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét