Thứ Bảy sau Chúa Nhật 26 Quanh Năm
*
* *
Bài Ðọc I: (Năm
II) G 42, 1-3. 5-6. 12-16
"Giờ đây mắt con nhìn
thấy Chúa. Bởi đó chính con trách thân con".
Trích sách ông Gióp.
Ông Gióp thưa lại cùng Chúa
rằng: "Con biết Chúa làm nên mọi sự, và không một tư tưởng nào giấu được
Chúa. Ai là kẻ mê muội che khuất được ý định của Chúa? Vì thế, con nói bậy về
những điều vượt quá sự thông biết của con. Trước kia con nghe tiếng Chúa, còn
giờ đây mắt con nhìn thấy Chúa. Bởi đó, chính con trách thân con, và ăn năn sám
hối trong bụi tro".
Sau này Chúa giáng phúc cho
ông Gióp nhiều hơn lúc ban đầu. Ông có mười bốn ngàn con chiên, sáu ngàn lạc
đà, một ngàn đôi bò và một ngàn lừa cái. Ông còn sinh được bảy trai ba gái.
Người con gái thứ nhất ông đặt tên là Nhật, người thứ hai tên Hương, và người
thứ ba tên Bình. Trong khắp nước, không tìm thấy thiếu nữ nào xinh đẹp như các
con gái của ông Gióp. Thân phụ của các cô cũng chia phần gia tài cho các cô như
những anh em trai. Sau đó, ông Gióp còn sống được một trăm bốn mươi năm nữa, và
nhìn thấy con cháu đến bốn đời. Khi cao niên đầy tuổi, ông đã qua đời.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 118, 66. 71. 75.
91. 125. 130
Ðáp: Lạy Chúa, xin tỏ cho tôi tớ Chúa thấy long nhan hiền hậu
(c. 135a).
Xướng: 1) Xin Chúa dạy con sự
thông minh và lương tri, vì con tin cậy vào các chỉ thị của Ngài. - Ðáp.
2) Con bị khổ nhục, đó là
điều tốt, để cho con học biết thánh chỉ của Ngài. - Ðáp.
3) Lạy Chúa, con biết sắc dụ
Ngài công minh, và Ngài có lý mà bắt con phải khổ. - Ðáp.
4) Theo chỉ dụ Chúa mà vũ trụ
luôn luôn tồn tại, vì hết thảy vạn vật đều phải phục vụ Ngài. - Ðáp.
5) Con là tôi tớ Chúa, xin
Chúa dạy dỗ con, để con hiểu biết những lời Ngài nghiêm huấn. - Ðáp.
6) Sự mạc khải lời Ngài soi
sáng và dạy bảo những người chưa kinh nghiệm. - Ðáp.
*
* *
Alleluia: Tv 118, 34
Alleluia, alleluia! - Lạy
Chúa, xin giáo huấn con, để con tuân cứ luật pháp của Chúa và để con hết lòng
vâng theo luật đó. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 10, 17-24
"Các con hãy vui mừng
vì tên các con đã được ghi trên trời".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Luca.
Khi ấy, bảy mươi hai ông trở
về vui mừng và nói rằng: "Thưa Thầy, nhân danh Thầy thì cả ma quỷ cũng
vâng phục chúng con". Người bảo: "Ta đã thấy Satan từ trời sa xuống
như luồng chớp. Này Ta đã ban cho các con quyền giày đạp rắn rết, bọ cạp, mọi
quyền phép của kẻ thù, và không có gì có thể làm hại được các con. Dù vậy, các
con chớ vui mừng vì các thần phải vâng phục các con; nhưng hãy vui mừng vì tên
các con đã được ghi trên trời". Lúc đó, Chúa Giêsu đầy hoan lạc trong Chúa
Thánh Thần, Người nói: "Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì
Cha đã giấu không cho những người thông thái khôn ngoan biết những điều này,
nhưng đã tỏ cho những kẻ đơn sơ. Vâng, lạy Cha, đó là ý Cha đã muốn thế. - Cha
Ta đã trao cho Ta mọi sự. Không ai biết Chúa Con là ai, ngoài Chúa Cha; cũng
không ai biết Chúa Cha là Ðấng nào, ngoài Chúa Con, và những người được Chúa
Con muốn tỏ cho biết". Rồi Chúa Giêsu quay lại phía các môn đệ và phán:
"Hạnh phúc cho những con mắt được xem những điều các con xem thấy, vì
chưng, Thầy bảo các con: Có nhiều tiên tri và vua chúa đã muốn xem những điều
các con thấy, mà chẳng được xem, muốn nghe những điều các con nghe, mà đã chẳng
được nghe".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm:
Sau khi thực tập, các môn đệ
đã trở về trong niềm vui mừng, vì cả ma quỷ cũng phải đầu hàng họ. Nhưng Chúa
nói: đừng tự mãn vì được thành công. Nhưng hãy vui mừng vì tên các ông đã được
ghi vào sổ hằng sống.
Cũng trong đoạn Tin Mừng này,
Chúa Giêsu đã cảm tạ Thiên Chúa Cha, là nguồn mọi ơn lành. Vì Chúa Cha đã mạc
khải cho những người bé mọn - những con người tầm thường như hăng say theo Thầy
đi rao giảng Tin Mừng.
Cầu Nguyện:
Lạy Chúa xin cho chúng con
luôn nhiệt thành trong công việc Tông Ðồ, vì danh Chúa và vì mưu cầu ích lợi
cho anh em chúng con. Xin cho chúng con luôn sống khiêm nhường vì đó là điều
kiện để chúng con được Thiên Chúa xót thương. Amen.
Niềm Vui Ðích Thực
(Lc 10,17-24)
Suy Niệm:
Niềm Vui Ðích Thực
Chúa Giêsu chọn 72 môn đệ và
sai họ ra đi rao giảng Tin Mừng; họ gặp nhiều chống đối, nhưng cũng gặt hái
được nhiều thành công. Tin Mừng hôm nay thuật lại rằng sau một thời gian ra đi
rao giảng, các ông hớn hở trở về nói lên niềm vui của mình, vì đã nhờ quyền
năng của Chúa mà xua trừ được ma quỉ, nhưng Chúa Giêsu muốn cho các ông thấy
rằng Ngài đến là để giải phóng con người nô lệ và đưa họ tới tự do đích thực.
Giải phóng con người khỏi ách
nô lệ và đưa con người vào tự do đích thực, đó là sứ mệnh mà Giáo Hội tiếp tục
thực thi trong thế giới này. Chúng ta có thể nhận ra sứ mệnh ấy qua diễn văn
Ðức Gioan Phaolô II đọc tại trụ sở Liên Hiệp Quốc vào ngày 5/10/1995. Ðức Thánh
Cha ghi nhận rằng con người càng ngày càng tìm kiếm tự do và đây chính là điểm
nổi bật của thời đại chúng ta. Sự tìm kiếm tự do ấy đặt nền tảng trên các quyền
phổ quát của con người. Chính vì phản ứng lại những hành vi man rợ đối với phẩm
giá con người, mà chỉ ba năm sau khi thành lập, Liên Hiệp Quốc đã công bố bản
Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền. Ðây là một gia sản chung của nhân loại, nó bắt
nguồn từ chính bản tính của con người, trong đó có phản ánh những đòi hỏi khách
quan và không thể hủy bỏ được của một luật luân lý phổ quát.
Sống theo những khát vọng cao
thượng nhất của mình, con người có thể làm được những điều xem ra vượt quá khả
năng của nó. Ðó là sứ điệp chúng ta có thể đọc thấy trong Tin Mừng hôm nay: các
môn đệ ra đi với hai bàn tay trắng, họ không có một khí giới nào khác ngoài sự
siêu thoát và niềm tin vào quyền năng của Chúa Giêsu. Vậy mà khi nói về những
thành quả của họ, chính Chúa Giêsu đã thốt lên: "Ta đã thấy Satan như tia
chớp từ trời rơi xuống". Ðó chính là sức mạnh của những người mà Chúa
Giêsu gọi là những kẻ bé mọn.
Ngày nay, người Kitô hữu cũng
có thể thực hiện được những điều cả thể ấy nếu họ cũng biết trang bị cho mình
một niềm tin vào quyền năng của Chúa, nhất là nếu họ biết sống theo những khát
vọng cao thượng nhất của con người. Những khát vọng đó là gì, nếu không phải là
tự do, công bằng, bác ái, liên đới. Nếu họ thực sự sống theo những khát vọng
thâm sâu ấy và sống tín thác nơi Thiên Chúa ngay cả khi gặp thất bại khổ đau,
lúc đó họ mới có thể hưởng được niềm vui đích thực mà các môn đệ Chúa Giêsu đã
bày tỏ khi gặp lại Ngài.
Ước gì mỗi người chúng ta
luôn nếm được niềm vui đích thực ấy trong cuộc sống hằng ngày.
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Bảy Tuần 26 TN2
Bài đọc: Job 42:1-3, 5-6, 12-16; Lk 10:17-24.
GIỚI
THIỆU CHỦ ĐỀ:
Hạnh
phúc cho ai hiểu biết Thiên Chúa.
Con người chúng ta thường đầu
tư vào những gì mang lại kết quả tức khắc: thị trường chứng khóan, nhà của đất
đai, dịch chim cút; nhưng rất ít người chịu đầu tư vào việc học hỏi về Thiên
Chúa vì chúng ta không nhìn thấy những lợi ích của việc biết Thiên Chúa. Nhiều
người chúng ta coi việc thờ phượng Chúa là bổn phận phải làm thay vì những đặc quyền
được hưởng; vì thế, chúng ta đã bỏ lỡ rất nhiều cơ hội để sinh lợi ích cho linh
hồn chúng ta. Các Bài đọc hôm nay liệt kê cho chúng ta thấy những ích lợi của
việc biết Thiên Chúa; và nhất là được Thiên Chúa tuyển chọn làm môn đệ của
Ngài.
KHAI
TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Phần
thưởng cho ai hiểu biết Thiên Chúa.
(1) Nhận
ra những sai trái và thấp hèn của mình: Để những lời khuyên hay đề
nghị của một người có thế giá, ông cần phải hiểu biết tường tận về điều đó.
Thật là ngu xuẩn khi có những người chẳng hiểu biết gì mà lại dám khuyên răn
người khác về điều đó. Ông Gióp nhận ra sự sai trái của mình nên thưa với Đức
Chúa: “Con biết rằng việc gì Ngài cũng làm được, không có gì Ngài đã định trước
mà lại không thành tựu." Ai là kẻ dám dùng những lời thiếu khôn ngoan hiểu
biết để làm cho kế hoạch của Ngài (Ta) không còn được rõ ràng minh bạch?"
Phải, con đã nói dù chẳng hiểu biết gì về những điều kỳ diệu vượt quá sức con.”
Bản dịch của Việt Nam
dịch sai vì đã dùng ngôi thứ nhất “Ta,” trong khi Bản LXX dùng ngôi thứ hai
“Ngài.” Bản Do-Thái không xác định túc từ sở hữu “Ngài hay Ta.” Dựa vào văn
mạch, bản LXX có lý do hơn: chính ông Gióp đã đặt câu hỏi và chính ông đã trả
lời.
(2)
Khiêm nhường ăn năn thống hối: Sau khi đã nhận ra lầm lỗi của mình, con
người có thể chọn hai thái độ: khiêm nhường ăn năn thống hối hay kiêu ngạo cố
tình cho mình đúng. Ông Gióp đã chọn thái độ thứ nhất khi ông thú nhận với
Thiên Chúa: “Trước kia, con chỉ được biết về Ngài nhờ người ta nói lại, nhưng
giờ đây, chính mắt con chứng kiến. Vì thế, điều đã nói ra, con xin rút lại;
trên tro bụi con sấp mình thống hối ăn năn.” Lý do ông đưa ra dạy chúng ta một
bài học: Chúng ta có thể học về Thiên Chúa qua người khác; nhưng để xác tín
niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa đòi hỏi chính chúng ta phải cảm nghiệm
được và yêu mến Ngài.
(3) Được Thiên Chúa giáng phúc: Đức
Chúa giáng phúc cho những năm cuối đời của ông Gióp nhiều hơn trước kia. Ngài
ban cho ông một tài sản khổng lồ về súc vật, 10 người con: bảy con trai và ba
con gái, sống lâu với con cái cháu chắt đến bốn đời. Thiên Chúa chúc lành cho
ông Gióp vì ông đã chứng tỏ cho Satan biết là ông đã không chửi Thiên Chúa mặc
dù Thiên Chúa đã cho phép Satan lấy đi tất cả những gì ông có. Tuy ông có than
thân trách phận nhưng đã không thốt lên một lời xúc phạm đến Thiên Chúa.
2/ Phúc Âm: Hạnh
phúc cho những ai được Chúa nhận làm môn đệ.
Ai trong chúng ta cũng muốn làm
môn đệ của những thầy khôn ngoan và có thế lực; thế mà nhiều người, nhất là các
bạn trẻ hôm nay, lại từ chối không muốn làm môn đệ của người khôn ngoan nhất và
uy quyền nhất trong vũ trụ. Phúc Âm cho chúng ta nhìn thấy các đạc quyền này:
(1) Có uy quyền trên hết
mọi quyền lực, ngay cả quyền lực của ma quỉ: Con người thường sợ quỉ thần,
nhưng các môn đệ của Chúa lại có quyền trên quỉ thần vì chính Chúa đã ban cho
các ông quyền đó. Các môn đệ và Chúa Giêsu là chứng nhân của quyền này qua
trình thuật của Luca: “Nhóm Bảy Mươi trở về, hớn hở nói: "Thưa Thầy, nghe
đến danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con." Chúa Giêsu bảo
các ông: "Thầy đã thấy Xa-tan như một tia chớp từ trời sa xuống. Đây, Thầy
đã ban cho anh em quyền năng để đạp lên rắn rết, bọ cạp và mọi thế lực của kẻ
thù, mà chẳng có gì làm hại được anh em.””
(2) Tên được ghi trên
trời: Phần thưởng nhận được ở đời này, cho dù to lớn vĩ đại như
Thiên Chúa ban cho ông Gióp, hay có hớn hở vui mừng như các môn đệ vì được Chúa
ban cho uy quyền, cũng không thể nào so sánh được với phần thưởng Chúa sẽ ban
cho các tín hữu sau này. Chúa Giêsu nhắc nhở các môn đệ của Ngài: “Tuy nhiên,
anh em chớ mừng vì quỷ thần phải khuất phục anh em, nhưng hãy mừng vì tên anh
em đã được ghi trên trời.” Một điều nguy hiểm là nếu quá chú trọng về phần
thưởng đời này có thể làm các môn đệ lãng quên hạnh phúc đời sau.
(3) Hiểu
biết những mầu nhiệm của Thiên Chúa không tùy thuộc vào mức độ khôn ngoan của
con người, nhưng tùy thuộc vào sự khiêm nhường nhận ra mình bé nhỏ trước mặt
Thiên Chúa. Chính Chúa Giêsu được Thánh Thần tác động, hớn hở vui mừng
và nói: "Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã
giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc
khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha. Cha tôi đã
giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết Người Con là ai, trừ Chúa Cha, cũng như
không ai biết Chúa Cha là ai, trừ người Con, và kẻ mà người Con muốn mặc khải
cho."
Những gì Chúa Giêsu nói đã,
đang, và sẽ còn tiếp diễn đến muôn đời. Biết bao nhiêu người khôn ngoan thông
thái và giàu có đã không hiểu được và đã không tin những gì quá hiển nhiên đối
với những người có lòng tin. Lý do tại sao những người khôn ngoan không hiểu
không phải vì Thiên Chúa giấu không cho họ biết, nhưng thái độ kiêu ngạo của họ
đã che lấp trí khôn làm họ không nhận ra được điều Thiên Chúa muốn nói. Lý do
tại sao những người giàu có không hiểu vì họ tưởng là họ đã có tất cả và không
cần đến Thiên Chúa hay nghe lời Ngài.
ÁP
DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Khi không hiểu biết về Thiên
Chúa, con người dễ kiêu ngạo tin tưởng vào chính mình. Một sự hiểu biết đầy đủ
về Thiên Chúa sẽ giúp con người khiêm nhường nhận ra sự bé nhỏ của mình và biết
cách cư xử trước mặt Thiên Chúa.
- Khi không hiểu biết nhưng gì
xảy ra trong cuộc đời, chúng ta đừng vội trách Thiên Chúa không có mắt hay
không có tình thương. Thái độ thích hợp khi đương đầu với những trường hợp này
là khiêm nhường cầu xin Ngài ban cho chúng ta hiểu được lý do, và sẵn sàng vâng
theo thánh ý dù không hiểu lý do. Chúng ta sẽ hiểu hết những lý do này trong
Ngày Phán Xét.
- Không có phần thưởng nào trên
cuộc đời quí giá cho bằng được hiểu biết Thiên Chúa, Người đã dựng nên ta, yêu
thương ta, và đang quan phòng mọi sự để ta được sống hạnh phúc bên Ngài suốt
đời.
Linh
mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
****************
Thứ Bảy tuần 26 thường niên
Sứ điệp:Người môn đệ Đức Kitô
được mạc khải mầu nhiệm Nước Trời, và đã được ghi tên trong sổ hằng sống,
vì thế phải biết cùng với Đức Kitô cảm tạ ngợi khen Chúa Cha.
Cầu nguyện: Lạy Cha, khi nhìn lên trời đất bao la, con thấy
mình chỉ như hạt cát giữa sa mạc. Và khi so sánh với những người thông thái
khôn ngoan, con thấy mình chỉ là kẻ hèn kém bất tài. Thế mà, lạy Cha, qua Chúa
Giêsu Con Một Cha, Cha đã mạc khải Nước Trời cho con. Cha cũng đã trao ban cho
con muôn vàn hồng ân hồn xác, để con được sống và sống dồi dào. Hơn nữa, Cha còn
dọn sẵn cho con một nơi ở bên Cha trong cõi hạnh phúc vô biên. Trước tình
thương và muôn ân phúc cao vời ấy, con không biết làm gì hơn là xin được hợp
với Chúa Giêsu, Con yêu dấu của Cha, để mãi mãi dâng lời cảm tạ tri ân Cha.
Lạy Cha, khi còn sống nơi dương thế, Con Một Cha
đã không ngừng rao truyền Danh Cha cho mọi người. Vậy mà ngày nay, còn có rất
nhiều người, đặc biệt là những người trẻ, đang bị bơ vơ và chao đảo, khi họ đi
tìm cho mình một lẽ sống. Xin Cha thương mạc khải Nước Trời cho họ.
Xin Cha cũng giúp con biết nỗ lực tiếp nối công
việc mà Con Một Cha đã khởi sự, đó là loan báo Danh Cha cho mọi người, để mọi
nơi trên địa cầu, Danh Cha được ca ngợi tôn vinh, và mai sau trên cõi trời vinh
phúc, mọi người không ngớt cảm tạ tri ân Cha, vì Cha là Đấng toàn năng, quảng
đại và giàu tình yêu thương. Amen.
Ghi nhớ : "Các con hãy vui mừng vì tên các con đã
được ghi trên trời".
HẠNH PHÚC BẤT NGỜ
“Nhiều ngôn sứ và
nhiều vua chúa muốn thấy điều anh em đang thấy mà không được thấy, muốn nghe
điều anh em đang nghe mà không được nghe.” (Lc 10,24)
Suy niệm: Được Chúa Giê-su trao nhiều quyền năng (đạp lên bọ cạp rắn
rết mà không hề hấn gì, trừ được quỷ, chữa được bệnh…), các môn đệ dường như
ngây ngất vì vinh quang bao quanh các ông, dù đó là hào quang đi mượn. Các ông
hớn hở vì đã tung ra được những đòn đích đáng khiến “ma quỷ cũng phải khuất phục.” Vui như thế, các ông đã đặt sai trọng tâm.
Vinh quang đích thực của con người không phải là những gì họ làm mà là những gì
Thiên Chúa làm cho họ. Hạnh phúc đích thực mà các môn đệ không ngờ tới không
phải là làm được những cú ngoạn mục nhưng là được ở với Đức Giê-su, điều mà các
ngôn sứ các vua chúa trước đây muốn được mà không được. Và cuối cùng, đó chính
là hạnh phúc đời đời, là niềm vui vì “tên
của anh em đã được ghi trên trời”.
Mời Bạn: Phải chăng đã hơn một lần bạn, tôi cũng hành xử giống như
các môn đệ: vồ vập lấy những ơn Chúa ban mà quên khuấy đi chính Đấng ban ơn?
Những lúc làm được điều gì tốt đẹp, bạn đã làm gì: “khoái chí” vì mình được
khen ngợi hay bạn làm như Chúa Giêsu, “ngợi
khen Chúa Cha là chúa tể trời đất, vì Cha đã mạc khải những điều trọng đại cho
những người bé mọn”?
Sống Lời Chúa: Nhớ lại một ơn lành đã được hoặc một việc tốt bạn đã thực
hiện và dâng lời tạ ơn Thiên Chúa về điều đó.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, con xin cảm tạ Chúa đã ban cho con biết bao ơn
lành. Xin cho con biết dùng ơn Chúa ban để phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân
nhiều hơn nữa.
Hớn hở vui mừng
Giáo
Hội hôm nay cần Mười Hai tông đồ, Nhưng cũng rất cần Bảy Mươi Hai môn đệ đi
tiền trạm cho Chúa Giêsu. Giáo Hội cần những giáo dân được sai đi để xây dựng
Nước Thiên Chúa.
Suy niệm:
Trong Tin Mừng Luca, Đức Giêsu đã sai nhóm Mười
Hai
đi rao giảng về Nước Thiên Chúa và chữa lành
bệnh tật (ch. 9).
Họ là những tông đồ thân tín, sống gần gũi bên
Thầy Giêsu.
Nhưng vì thấy lúa chín đầy đồng, và thợ gặt thì
ít,
Đức Giêsu lại sai thêm bảy mươi hai môn đệ lên
đường.
Đây là một số người khá đông mà Đức Giêsu quy
tụ được.
Chắc họ không luôn luôn ở với Ngài và gần gũi
như nhóm Mười Hai,
vì họ còn phải vất vả lo chuyện gia đình, làm
ăn,
nhưng họ vẫn được Ngài chỉ định và trao phó
nhiệm vụ đi tiền trạm.
Ngày trở về của nhóm Bảy Mươi Hai là một ngày
rất vui.
Họ thi nhau khoe với Thầy về chuyện họ trừ được
quỷ dữ,
Họ đã có kinh nghiệm về Tên của Thầy mình.
“Nhân danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải lụy phục
chúng con” (c. 17).
Những môn đệ bình thường bắt đầu vui sướng nhận
thấy
họ có thể dũng cảm đối đầu với những mãnh lực
đáng sợ
chỉ nhờ đặt nơi Thầy một lòng tin phó thác đơn
sơ.
Đúng là Xatan đã đến ngày tàn khi Đức Giêsu
xuất hiện (c. 18).
Nó bị sa xuống từ trời, và nước của nó bị đổ
nhào bởi Nước Thiên Chúa.
Trước niềm vui chiến thắng của nhóm Bảy Mươi
Hai,
Thầy Giêsu muốn nhắc họ về một niềm vui khác,
lớn hơn nhiều.
Đó là vui vì tên họ đã được ghi trên trời (c.
20).
Khi Xatan bị tống khỏi trời, thì các môn đệ có
chỗ vững vàng ở đó.
Phúc cho họ vì được ơn có tên trong sách sự
sống (Pl 4,3).
Đây mới là hạnh phúc và niềm vui đích thật.
Bài Tin Mừng hôm nay đầy ắp niềm vui.
Niềm vui từ số đông môn đệ tỏa lan sang Thầy
Giêsu.
Vào ngay giờ ấy, Thầy cũng bất ngờ cảm nếm niềm
vui do Thánh Thần,
và môi Thầy bật lên lời cầu nguyện tự phát.
Vừa thân thiết, vừa cung kính, Thầy dâng Cha
lời tạ ơn:
“Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen
Cha.”
Thầy Giêsu ngây ngất trước những việc Cha làm
cho các môn đệ.
Tuy chỉ là những kẻ bé mọn, bình dân,
chẳng phải là những nhà khôn ngoan thông thái,
nhưng họ lại được Cha mặc khải những điều mầu
nhiệm.
Cha đã vén mở cho họ tin vàoThầy Giêsu là Con
của Cha.
Họ có niềm tin mà những người kiêu căng tự mãn
không có được.
Thầy Giêsu khâm phục sự sắp đặt kỳ diệu của
Cha:
“Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” (c.
21).
Chúng ta có quyền tin rằng,
vào giây phút cầu nguyện linh thiêng này,
không phải chỉ các môn đệ và Thầy Giêsu mới đầy
ắp niềm vui.
Cả Chúa Cha trên trời cũng vui, cùng với Chúa
Thánh Thần.
Qua lời cầu nguyện, Thầy Giêsu cho thấy Cha
đang mặc khải cho môn đệ.
Và chính Thầy cũng đang mặc khải về Cha cho họ.
Đây là giây phút Cha-Con mặc khải về nhau.
Giáo Hội hôm nay cần Mười Hai tông đồ,
Nhưng cũng rất cần Bảy Mươi Hai môn đệ đi tiền
trạm cho Chúa Giêsu.
Giáo Hội cần những giáo dân được sai đi để xây
dựng Nước Thiên Chúa.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
những hạt cải Chúa gieo vãi cách đây hai
ngàn năm
nay đã trở thành cây cao
cho chim trời rủ nhau trú ngụ.
Nhúm men nhỏ bé được Chúa vùi vào khối bột,
đã làm bột dậy lên,
để trở nên tấm bánh thơm ngon cho thế giới.
Sau hai mươi thế kỷ,
các môn đệ Chúa không còn là nhóm Mười Hai
bé nhỏ.
Hôm nay, các kitô hữu chiếm gần một phần ba,
người công giáo chiếm hơn một phần sáu dân
số thế giới.
Chúng con được mời gọi xây dựng Nước Chúa
trên trần gian,
cho đến khi tất cả mọi người nhận biết và
tin yêu Chúa.
Xin cho chúng con đừng mặc cảm
vì người công giáo chỉ là thiểu số trên quê
hương Việt Nam,
nhưng xin cho chúng con mạnh dạn làm chứng
cho Chúa
trong việc xây dựng một xã hội công bằng và
huynh đệ.
Hôm nay chúng con phải tiếp tục làm việc như
Chúa,
gieo hạt giống để làm nên những cánh rừng,
trở nên chất xúc tác để biến đổi môi trường
mình sống.
Và chúng con biết rằng sớm muộn cũng sẽ
thành công
vì tin Chúa vẫn cần cù làm việc với chúng
con. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
"Các con hãy vui mừng vì tên các con đã được ghi trên
trời".
Vui mừng theo Thầy
Ngay
giờ ấy được Thánh Thần tác động, Đức Giêsu hớn hở vui mừng và nói: “Lạy Cha là
Chúa tể trời đất, Con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã dấu kín không cho bậc khôn
ngoan thông thái biết ngững điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé
mọn. Vâng lạy Cha, đó là điều đẹp ý Cha.” (Lc. 10, 21)
Mặc
dầu gặp những thất bại trên đường truyền giáo, các ông được Đức Kitô sai đi, đã
trở về vui mừng vì tổng kết những kết quả không thể bỏ qua. Như những cậu bé
sung sướng, các ông kể lại với Thầy: “Nhân danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất
phục chúng con”. Điều đó làm các ông xúc động mạnh. Đức Giêsu đã cho các ông
hiểu chính Người đã hành động trong lúc các ông truyền giáo. Trong cầu nguyện
Người đã thấy Sa-tan, kẻ thù, đã từ trời rơi xuống như chớp. “Đây Thầy đã ban
cho anh em quyền năng giày đạp rắn rết, bọ cạp và mọi thế lực kẻ thù mà chẳng
có gì làm hại được anh em. Tuy nhiên, anh em chớ mừng vì quỷ thần phải khuất
phục anh em, nhưng Thầy vui mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời”.
Như
vậy, Đức Giêsu đã làm lắng dịu niềm vui của các môn đệ đi một chút. Điều quan
trọng không phải khuất phục được quỷ thần và những thành công khác, nhưng chính
là nhiều người đã đón nhận lời Chúa và được ơn cứu độ nhờ các ông, đây mới là
điều đáng kể trước mặt Thiên Chúa. Các Tông Đồ đã được đẹp lòng Chúa Cha, Đấng
ngự trên trời cao.
Trước
công việc tốt lành các bạn hữu đã làm, Đức Kitô không thể ngăn cản được niềm
hoan lạc trong Thánh Thần. Và Người đã cảm tạ Chúa Cha đã tỏ những mầu nhiệm
cho những kẻ bé mọn mà không tỏ cho những người khôn ngoan thông thái.
Những
nhà truyền giáo của Người là những kẻ nghèo khó và khiêm tốn hèn mọn. Người đã
chọn các ông từ một giai cấp tầm thường họ không có bằng cấp gì, không phải
hạng trí thức, không phải hạng danh tiếng, phần lớn là những người ngư dân chất
phát. Vậy không phải kiến thức của họ có thể làm choáng mắt thính giả, nhưng
chính đức tin sống động của họ và chân lý của sứ điệp Tin Mừng mà Đức Kitô đã
trao phó cho họ.
Giáo
Hội sơ khai được đặc ân thay Chúa, như là những dụng cụ truyền giáo, nhưng tất
cả những thứ đó đều không thích hợp, không tương xứng với lý trí loài người.
Những tiêu chuẩn đánh giá trị của Thiên Chúa không như chúng ta tưởng. Để nhận
biết Chúa Cha cũng như nhận biết Chúa Con, những bằng cấp tiến sĩ không cần
thiết, dù đôi khi có giúp ích. Chiều dài lịch sử Giáo Hội đã chứng tỏ điều đó.
Những cái đầu nhồi nhét đầy, nhưng quá chắc không nhất thiết đạt tới ánh sáng
Thiên Chúa. Chúng không có một ki-lô nào đối với những đầu óc bé nhỏ.
GF.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng 10
6 THÁNG MƯỜI
Bánh Nuôi Nhiệm Thể
Đức Kitô
Thánh Thể là bí tích của
sự hiệp thông sự sống với Chúa Kitô. Đó cũng là bí tích xây dựng cộng đoàn. Cây
nho và những cành nho là hình ảnh của cộng đoàn này, bao gồm tất cả những ai
được liên kết trong Đức Kitô nhờ ân sủng và sự thật. Hình ảnh cây nho và các
cành nho nhắc chúng ta về nhu cầu phải sống thực tại Giáo Hội trong mối hiệp
thông sâu xa với Đức Kitô và với anh chị em mình. Giáo Hội là Nhiệm Thể của
những nguời tin – trong đó Chúa Kitô là Đầu và tất cả các tín hữu là những chi
thể.
Sự sống của thân thể này
đến từ mạch nhựa sống siêu nhiên là ân sủng và thân thể này lớn lên nhờ ánh
sáng của Chúa Thánh Thần. “i” (2 Tm 3,5) của đức tin chúng ta nằm trong chính
thân thể này; cũng chính trong thân thể này chứa đựng các mô liên kết giúp đem
lại ý nghĩa và mối hiệp nhất cho các cộng đoàn Kitô hữu trên khắp cùng thế
giới.
Chân lý này được minh
họa bằng một hình ảnh rút ra từ một kỹ thuật nông nghiệp, gọi là “ghép”. Nhờ
Phép Rửa, chúng ta được ghép vào với Đức Kitô (Rm 1,17). Chúng ta trở nên những
cành nho, được nuôi sống bởi cây nho. Vì thế chúng ta đuợc mời gọi sống hiệp nhất
với Đức Kitô và với anh chị em mình. Như vậy, chúng ta là cộng đoàn của những
người đã được nhận Phép Rửa và được cứu chuộc. Chúng ta vẫn còn thuộc về cộng
đoàn này bao lâu chúng ta còn ở lại trong mối hiệp thông với Đức Kitô và với
anh chị em mình. Đức Giêsu vạch cho chúng ta thấy rõ điều gì sẽ xảy ra khi
chúng ta tự tách mình ra khỏi Ngài và anh chị em. Hình ảnh minh họa của Thánh
Kinh giải thích điều này hết sức rõ: Nếu cành nho không ở lại trong mối liên
kết với thân nho thì nó sẽ khô héo đi. Nó bị chặt đi và bị quăng vào lửa.
Nhưng Thánh Thể không
chỉ hàm chứa mối tương quan mật thiết giữa Đức Kitô và mỗi người tín hữu. Thánh
Thể còn được thiết lập để hiệp nhất mọi Kitôhữu trong tư cách là thân thể của
Chúa. Thánh Thể tạo lập trong chúng ta một ý thức sâu xa về mối dây hiệp nhất,
về tình huynh đệ, về sự liên đới trong Đức Kitô. Thánh Thể tác động trong chúng
ta một cảm thức sâu xa mối gắn bó thiêng liêng, bởi lẽ chúng ta là những người
được nuôi dưỡng bởi cùng một bánh để làm nên một thân thể duy nhứt trong Đức
Kitô.
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
Thánh Brunô linh mục;G 42,1-3.5-6.12-17; Lc 10, 17-24.
LỜI SUY NIỆM: “Quả
vậy, Thầy bảo cho anh em biết: nhiều ngôn sứ, và nhiều vua chúa đã muốn thấy
điều anh em đang thấy, mà không được thấy, muốn nghe điều anh em đang nghe, mà
không được nghe” (Lc 10,24).
Trong đời sống đức tin của chúng ta hôm nay. Mỗi người đều biết ơn đức tin là
do bởi Thiên Chúa ban tặng, chứ không phải tự mình mà có được. Nhưng đức tin
cũng cần lớn lên với thời gian với thân xác và với trí tuệ hiểu biết. Nếu chúng
ta không biết quan tâm đến Lời Chúa, không biết lắng nghe Lời của Ngài, không
đối chiếu cuộc sống của chúng ta qua Lời của Ngài. Chúng ta khó nhận ra
tình thương của Thiên Chúa, và mọi ơn lành Ngài ban. Khi chúng ta lắng nghe và
tuân phục Lời Chúa, chúng ta sẽ tôn kính mến yêu và ca ngợi tạ ơn Ngài một cách
xứng hợp, và đem lại hạnh phúc cho chúng ta ngay hôm nay và mãi về sau.
Mạnh Phương
++++++++++++++++++
Ngày 06-10
Thánh BRUNÔ
Linh Mục (1035 - 1101)
Linh Mục (1035 - 1101)
Thánh Brunô sinh
khoảng năm1035 tại Cologne, nước Đức và từ trần năm 1101 tại Calabria, miền nam
nước Ý. Chúng ta biết được rất ít và đời sống thơ ấu của Ngài. Có lẽ Ngài thuộc
gia đình quý phái Der Hautenfaust và được giáo dục ở truờng thánh Cunibert tại
sinh quán.
Sau đó dường như Ngài
đã bỏ Cologne để theo học tại Reims
và từ đó tiếp tục học triết ở Tours. Sau này chúng ta biết Ngài làm thủ lãnh
các trường Reims , làm chưởng ấn địa phận và
làm kinh sĩ toà tổng giám mục. Chắc chắn Ngài là một trong những học giả lừng
danh thời đó. Nhiều người đã tới Reims để thụ
giáo với Ngài, trong số đó có Eudes de Chantaillen là người sẽ trở thành giáo
hoàng với danh hiệu Urbano II. Các sách chú giải về thánh vịnh và các thư thánh
Phaolô là những tác phẩm chúng ta còn lưu giữ được, chứng tỏ thánh nhân là một
học giả có thế giá và là người hiểu biết tiếng Hy lạp và tiếng Do thái. Vào
thời của Ngài ít có người hiểu biết được như vậy.
Các thử thách đổ xuống
cuộc đời thánh Brunô, kể từ khi Đức Tổng giám mục Gevase qua đời năm 1068 và
Manasses được đặt kế vị. Manasses là một người khô khan và hung bạo, đã chiếm
đã ngai tòa giám mục nhờ việc buôn thần bán thánh. Brunô đứng đầu những nhóm
kinh sĩ chống lại và bị triệu về Roma. Manasses trả thù bằng cách tịch biên tài
sản và buộc các Ngài phải trốn khỏi thành phố. Brunô trốn về một nơi gọi là
Rocher, ở tại nhà một người bạn tên là Adam. Lần kia, trong khi đi dạo tại vườn
nhà Adam, Brunô với hai người bạn là Ralph và Fulcius đã bàn về bản chất giả
tạo của các thú vui trần thế và niềm vui của đời sống chiêm niệm. Lửa nhiệt
tình bùng cháy, họ quyết định sẽ bỏ thế gian để sống đời cầu nguyện, ngay khi
nào hoàn cảnh cho phép. Nhưng rồi Fulcius phải đi Roma để trình bản cáo trạng
tổng giám mục. Brunô không thể bỏ Reims khi
Đức tổng giám mục còn tại vị. Cuối cùng, khi Đức Tổng giám mục bị truất ngôi,
chi còn Brunô trung kiên với dự tính.
Sau khi Manasses bị
truất ngôi, vị đặc sứ tòa thánh muốn đặt Brunô làm tổng giám mục. Nhưng lúc ấy
thánh nhân đã trốn khỏi Reims cùng với sáu
người bạn, tới một nơi gọi là Sèche-Phontaine. Ngài ở gần tu viện Molesme là
nơi thánh Robertô làm đan viện phụ. Có lẽ Brunô là tu sĩ của tu viện này một
thời gian ngắn.
Tuy nhiên Brunô đã
không ở lâu tại Sèche-Phontaine. Ngài muốn tìm một nơi xa vắng hơn để khỏi bị
du khách quấy rầy. Năm 1084, Ngài cùng với sáu người bạn tìm đến miền núi Savoy . Trên đường đi,
các Ngài dừng chân tại Grenoble
để tham khảo ý kiến Đức Cha Hugues de Chateaineuf, một học trò cũ của Ngài. Vị
giám mục thánh thiện đã mơ thấy bảy ngôi sao sáng trên một miền xa thuộc dẫy
núi Cjartreuse. Biết rằng Brunô cùng với sáu người bạn của Ngài là những ngôi
sao ấy, đức cha đã không chần chờ dẫn họ ngay tới nơi mà giấc mơ đã chỉ cho
Ngài. Đây là một nơi đủ yên tĩnh. Brunô và các bạn liền cư ngụ tại đó. Các Ngài
làm một nhà nguyện nhỏ và bảy cái lều chung quanh. Đó là bước đầu của một tu
viện lớn vẫn còn tồn tại cho tới ngày nay, là nhà mẹ của một hội dòng mang tên
CHARTREUSE.
Nhưng rồi thánh Brunô
đã quá lừng danh và không thể yên thân được lâu. Năm 1090, Đức Urbanô II, một
học trò cũ của Ngài đã nhớ đến thày cũ và triệu về Roma làm cố vấn. Dầu vậy,
đức giáo hoàng cũng sớm nhận ra rằng: không có chỗ trong giáo triều dành cho
Brunô. Ngài ban phép cho thánh nhân rời Roma, với điều kiện là phải có mặt tại
nước Ý.
Trong
thời gian vắn vỏi tại giáo triều, thánh Brunô đã gặp nhà quý tộc Roger miền Sicily . Khi rời Roma,
Ngài đến cư ngụ ở nơi nhà quý tộc hiến cho, tại La Torre miền Calabria . Ngài thiết lập ở đó một tu viện
thứ hai, theo kiểu mẫu dòng Chartreuse. Ngày 6 tháng 10 năm 1101, Ngài từ trần,
khi chưa có dịp trở về thăm tu viện thứ nhất của Ngài.(Daminhvn.net)
06 Tháng Mười
Bưu Ðiện Lớn Nhất Thế Giới
Có lẽ bưu điện lớn
nhất thế giới phải là bưu điện trước cổng Thiên đàng... Mỗi ngày có không biết
bao nhiêu thư viết bằng không biết bao nhiêu ngôn ngữ được gửi đến... Tất cả
đều là những lời cầu xin. Theo sự phân loại của các thiên thần, thì ba vị nhận
được nhiều thư nhất đó là Ðức Maria, rồi đến thánh Antôn và thánh nữ Rita.
Một ngày kia, không còn
cầm được tính tò mò, các thiên thần không những đã mở thư gửi cho các thánh, mà
ngay cả các lá thư gửi đến cho Ðức Mẹ, các vị cũng không tha. Nhưng các vị
thiên thần đã thất vọng bởi vì nội dung và cách viết thư đều giống nhau. Ðại
khái thì cũng chỉ là: Lạy Mẹ, xin chữa cho con chóng lành bệnh... Xin cho con
của con được khỏe mạnh... Xin cho con tìm được việc làm... Xin giúp con thi
đỗ... Xin cho con tìm lại được chồng con...
Cả một loạt kinh cầu
mà các vị thiên sứ cũng đành phải nhàm chán, đến độ các vị phải thốt lên: dường
như Thiên Chúa chỉ tạo dựng con người có một cái miệng, một cái bụng. Họ không
có linh hồn, bởi vì tất cả những lời cầu xin của họ đều qui về hai bộ phận ấy.
Ðức Maria ngày nào
cũng như ngày nào đều phải đọc lại những lá thư có cùng nội dung và một công
thức. Tình cờ, có một là thư làm Mẹ chú ý. Lá thư đó viết như sau: "Lạy
Trinh Nữ rất thánh, con chỉ xin Mẹ một điều mà thôi, xin Mẹ cho con mỗi ngày
được nên giống Chúa Giêsu hơn".
Ðọc xong lá thư, Ðức
Maria bật khóc vì cảm động. Ngài nói với các thiên sứ phục vụ tại bưu điện:
"đây là lá thư mà Mẹ mong đợi từng ngày".
Theo sự thăm dò của
nhiều tờ báo lớn trên thế giới, thì tước hiệu "Người đàn bà của năm
1987" đã được dành cho thủ tướng nước Anh là bà Margueret Thatcher, người
đã đắc cử vào chức vụ này liên tiếp trong ba nhiệm kỳ.
Ðứng hàng thứ hai
trong danh sách những người đàn bà trong năm là nữ tổng thống Aquinô của Phi
Luật Tân, người đang đương đầu với không biết bao nhiêu xáo trộn trong nước.
Người thứ ba trong
danh sách là Mẹ Têrêsa thành Calcutta
(người đã được lãnh giải thưởng Nobel về hòa bình năm 1979). Kế đó là nữ hoàng
Elizabeth II của nước Anh, bà Simone Veil, chủ tịch quốc hội Âu Châu v.v...
Ðối với chúng ta,
những người Kitô, thì người đàn bà trong năm và nhứt là trong tháng mười này
phải là Mẹ Maria, người Mẹ không phải của một gia đình, một dân tộc. Vị nữ
hoàng không phải của một dân tộc, nhưng là của tất cả nhân loại... Mẹ đang lắng
nghe chúng ta trong suốt tháng 10 này. Chúng ta hãy thưa với Mẹ tất cả những gì
chúng ta đang cần.
Nhưng điều mà Mẹ luôn
chờ đợi để trợ giúp chúng ta: đó là mỗi ngày chúng ta nên giống Chúa Giêsu con
Mẹ. Bởi vì, trong tất cả mọi ơn cần cho chúng ta, đó là ơn cao trọng nhứt. Càng
nên giống Chúa Giêsu, chúng ta càng nên giống Mẹ và được đến gần Mẹ.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Ngày 06
Thánh Bơrunô, linh mục
Thánh Bơrunô, linh mục
Kinh Mân
Côi không tập trung vào Đức Maria, nhưng đúng hơn vào Đức Kitô. Trong 'Thư về
Kinh Mân Côi", Đức Gioan Phaolô II nhắc lại điều đó với một niềm tin vững
chắc: Kinh này thuộc về Đức Kitô (christologique). Lần chuỗi là chiêm ngắm Đức
Kitô với con mắt và trái tim của Đức Maria. Đế làm nổi bật hơn, Đức Gioan
Phaolô II đã đề nghị thêm năm mầu nhiệm Sáng, được lấy chính xác trong những bài tường
thuật Tin Mừng về cuộc đời công khai của Chúa. Đây cũng là một lời giải cho sự
ngạc nhiên có thể có, khi người ta nhận thấy rằng, theo truyền thống, kinh Mân Côi được suy niệm từ Nadarét (sau
khi tìm được trẻ Giêsu trong đền thờ) đến cuộc Thương khó (các mầu nhiệm
thương).
Với chuỗi hạt hay không chuỗi hạt, cầu nguyện với Đức Maria là lắng nghe,
là ngắm nhìn, là theo Đức Giêsu, là học tập theo Tin Mừng Đó là khám phá sự
chiêm ngắm Kitô giáo: vấn đề không phải là đi sâu vào sự phản tỉnh và những lắt
léo của cái tôi, mà là để gặp gỡ một Gương mặt, là để cho người ta trông thấy, là nhìn mọi sự trong ánh sáng và
sự âu yếm của cái nhìn này, sẽ dần dần thành cái nhìn của chúng ta "Chiêm
ngắm là trở thành", thánh Têrêsa Avila nói như thế.
Alain Bandelier
Hạnh Các Thánh
Ngày 6 tháng 10
THÁNH BRUNÔ
Thánh Brunô một trong những nhân
vật thời danh của phong trào phục hưng của thế kỷ XI và XII. Ngài cũng là một
trong những vị tôn sư khả ái, có nhiều môn đệ và bằng hữu nhất thời bấy giờ.
Tuy nhiên, sau khi qua đời, tên tuổi ngài mau bị lu mờ trong suốt mấy thế kỷ.
Cho tới ngày 19.7.1514, thánh Giáo Hoàng Lêô X truyền ghi tên ngài vào sổ bộ
chư thánh của Giáo hội, danh thơm và nhân đức của ngài mới được phục hồi xứng
đáng.
Theo những tài liệu còn lại,
chúng ta biết thánh nhân sinh khoảng năm 1034, trong một gia đình quý tộc thuộc
tỉnh Côlônia. Lúc còn nhỏ, Brunô theo học tại các trường ở tỉnh nhà. Mãn học,
ngài dâng mình cho Chúa và lãnh chức kinh sĩ. Chịu chức linh mục rồi ngài đi
Rêims theo lớp bổ túc về tín lý. Năm 1056, cha Brunô được mời về Rôma giữ chức
giáo sư tín lý. Kỳ này cha bắt đầu chú giải Kinh thánh. Tập chú giải đầu tiên
về thánh vịnh, và tập thứ hai về thư thánh Phaolô. Tuy là những tác phẩm chú
giải, cha cũng mặc cho chúng một văn từ hoa mỹ, sáng sủa và mạch lạc. Ngài chịu
ảnh hưởng rất nhiều tư tưởng của thánh Âutinh.
Những tác phẩm này được chuộng
nhất vào thế kỷ XVI vì thế, danh hiệu tôn sư Brunô mà các môn đệ và nhiều học
giả thời bấy giờ truy tặng cha, nay sống lại một cách trọn vẹn hơn khi nào hết.
Cha Brunô dạy học có tiếng đến nỗi sau khi cha qua đời, ghế giảng sư của cha
Brunô bị bỏ trống trong một thời gian gần một phần tư thế kỷ. Nhắc đến cha, ai
cũng khen ngợi tài ba và đức độ của ngài. Người đương thời đã khen tặng cha bằng
những tước hiệu như: nhà hùng biện số một, nhà văn lỗi lạc, nhà biện chứng
luận, nhà văn phạm và tiến sĩ trên các tiến sĩ...
Những lời khen tặng ấy không có
gì quá đáng nếu đem đối chiếu với những lời chứng rất thật do các cựu môn sinh
của thánh nhân kể lại. Cha Rangêriô sau làm giám mục thành Luques thường xưng
mình là môn sinh của vị tôn sư khả kính Brunô. Đức Giám mục Rôbertô địa phận
Langres hay xin các vị tu hành trong địa phận cầu nguyện cho vị tôn sư lỗi lạc
của mình. Còn cha Lambert, tu viện trưởng ở Pochiê cũng luôn luôn nói với các
tu sĩ trong dòng rằng: “Hầu hết những điều tôi huấn dụ anh em, tôi đã được
Thiên Chúa phú ban qua người thầy thánh thiện là tôn sư Brunô”. Cha Mainard, bề
trên tu viện Comêry và cha Phêrô, giám đốc tu viện thánh Gioan tại Soisson cũng
thường hãnh diện xưng mình là môn đệ của tôn sư Brunô. Nhưng có lẽ người môn đệ
trung thành và thời danh nhất của cha Brunô, chính là cha Êuđê Chatillôn, sau
làm Giáo Hoàng với danh hiệu là Urbanô II.
Với tinh thần nhân bản đích
thực, cha Brunô đã được hân hạnh làm cố vấn cho một trong những vị Giáo Hoàng
đã từng canh tân Giáo hội nhiều nhất. Nhưng không phải vì thế mà cha Brunô
không vấp phải những trở ngại do những người khác ý kiến, khác lập trường tư
tưởng gây nên. Ngay khi cha mới về dạy tín lý tại Rôma, họ đã tìm mọi cách phản
đối cha. Dưới triều Đức Giáo Hoàng Grêgôriô VII, tại công đồng Autun, năm 1077,
nhiều linh mục thành Reims đã đệ đơn tố cáo
cha. Vụ án kéo dài tới công đồng Lyon năm
1080. Nhưng sau cùng phần thắng vẫn về phía cha Brunô, và mọi người, kể cả đối
phương, đều công nhận cha là người chính trực và liêm khiết.
Kể từ năm 1077, khi bị tố cáo
tại công đồng Autun, cha Brunô từ giã ghế giáo sư tín lý, để thong dong hướng
về đời sống thánh thiện âm thầm mà cha đã nhiều năm ôm ấp. Năm 1082, cha đến
Molêm thụ huấn với cha Rôbertô. Đây là một tu viện mới được cất lên năm 1075,
với mục đích quy tụ các vị tu hành thành một cộng đồng. Tuy nhiên, quy luật
dòng vẫn chưa được nhất định. Phần cha Brunô, ngài mơ ước đời sống bán tu hành,
hay đúng hơn “bán cộng đồng” hơn là đời sống cộng đồng chặt chẽ theo quy luật.
Vì thế, cha đã lãnh ý cha Rôbertô cùng với hai đồng bạn là Phêrô Bêthunne và
Lambertô Bourgogne
đến Séche Fontaine, cách Môlêm chừng mấy dặm đường. Nhưng chỉ một năm sau, cha
lại từ giã các bạn, đi tìm một địa điểm thuận tiện hơn. Nguyên do chính khiến
cha từ biệt cha Rôbertô và các bạn cha chỉ vì lý tưởng sống của cha Brunô có
một mầu sắc khác biệt. Dầu vậy, mối liên lạc giữa cha Brunô và toàn thể cộng
đồng tu viện do cha Rôbertô sáng lập vẫn bền chặt và đằm thắm. Bằng chứng là
khi được tin cha Brunô qua đời, các thầy đã gửi đến tu viện Torre những lời
phân ưu tình nghĩa như sau: “Chúng tôi đoan hứa trong 30 ngày liền sẽ dâng lễ
cầu cho cha Brunô, người cha ân nhân của các thầy và là người bạn chí ái của
chúng tôi. Chúng tôi sẽ ghi ngày giỗ của cha vào niên lịch của tu viện...”
Sau những chặng đường mệt mỏi,
cha Brunô gặp được cha Seguin Escotay, bề trên tu viện. Theo lời chỉ dẫn của vị
này, năm 1084, cha Brunô đến Chartreuse (Sáctrơ) giữ chức bề trên một tu viện
mới. Tại đây, tu viện được Đức Giám mục Hugues nhiệt liệt ủng hộ và khuyến
khích theo đúng như nội quy mà cha Brunô đã đệ trình. Noi theo quy luật của
thánh Giêrônimô và thánh Bênêđitô, các tu sĩ đầu tiên ở Sáctrơ, ngày đêm chăm
lo cầu nguyện, làm việc chân tay, trau dồi trí thức và biên chép sách vở. Nhờ
đó mà chẳng bao lâu, tu viện đã có được một thư viện nổi tiếng vì nhiều sách.
Cho đến ngày nay, tu viện Sáctrơ
vẫn là một tu viện khắc khổ và nhiệm nhặt nhất. Khí hậu của miền rừng núi càng
làm tăng thêm giá trị đời sống hy sinh hãm mình của các thầy. Đầu tiên các tu
sĩ sống từng hai người một, nhưng dần dà mỗi người sống trong một hang núi hay
trong một túp lều riêng biệt. Ở đó, mỗi thầy tự do cầu nguyện, hãm mình và làm việc
riêng, chỉ hội nhau dự lễ cộng đồng vào các ngày lễ trọng và chủ nhật mà thôi.
Ngày tháng trôi qua tốt đẹp
trong sự ganh đua hy sinh và cầu nguyện. Tới năm 1089, bỗng một việc không đẹp
xảy ra tại tu viện khiến cha Brunô hết sức đau đớn. Nhưng cũng là sự kiện chứng
tỏ tài ba và nhân đức của ngài. Số là năm 1088, khi cha Êuđê Chatillon, một
trong những môn sinh lỗi lạc của cha Brunô, được đắc cử làm Giáo Hoàng, với
danh hiệu là Urbanô II. Đức Tân Giáo Hoàng là người có tâm hồn cởi mở, ngài
muốn có nhiều vị cố vấn khôn ngoan giúp ngài cai trị Giáo hội. Trong số những
nhân vật được đề cử có cha Brunô, vị tôn sư khả ái của ngài. Vâng lời, cha
Brunô lên đường đi Rôma cùng với mấy thầy. Ngài trao quyền điều khiển tu viện
cho cha Lăngđanh. Nhưng chẳng may, có nhiều thầy nhân dịp vị sáng lập vắng mặt
đã đứng lên chỉ trích cha Lăngđanh và đòi cải tổ luật dòng. Giữa lúc nguy ngập,
cha Lăngđanh đến xin Đức Giám mục Huygues và cha Seguin can thiệp để làm dịu những yêu sách
của các thầy. Nhưng vô ích, tình trạng rối loạn vẫn mỗi ngày một gia tăng, đến
nỗi cha Lăngđanh phải cho người sang Rôma mời cha Brunô về. Không cần phải cải
tổ và dàn xếp vất vả, sự hiện diện của vị sáng lập đã dẹp tan ngọn sóng phũ
phàng vừa tràn ngập tu viện.
Sau khi trấn tĩnh mọi yêu sách
của các thầy, và đem hòa khí lại cho tu viện, cha Brunô trở lại Rôma. Ngài ở
đây cho tới năm 1092, theo ý Đức Giáo Hoàng, ngài đi Calabrê, một hứa địa của
các vị tu hành thời trung cổ. Ngài muốn lập tại đó một tu viện lấy tên là tu
viện Trinh Nữ Maria. Và đặt dưới quyền bảo trợ của Đức Giáo Hoàng Urbanô II.
Ngoài ra, ngài còn lập thêm một tu viện thứ ba mang tên thánh Têphanô cũng gọi
là tu viện miền Torrê. Tu viện này sau chiếm địa vị quan trọng hơn cả tu viện
đầu tiên tại Sáctrơ.
Lý do khiến tu viện Torrê chiếm địa
vị ưu tiên có lẽ là vì đó là nơi chứng kiến những năm sống cuối đời của cha
Brunô. Cha không ước gì hơn nữa là thánh hóa đời sống trong tịch liêu và an
bình. Hai lá thư cha viết cho tu viện Sáctrơ chứng tỏ điều đó. Cha viết: “Trái
tim và linh hồn cha no say đời sống chiêm niệm. Tuy cha chưa được về trời như
lòng mong mỏi, nhưng cha đã được Thiên Chúa ban cho một sự thư thái và an bình
tràn ngập tâm hồn…”. Trong một lá thư khác trả lời cha Raoul Verd thành Reims , cha Brunô viết: “Tôi hiện ở tại Calabrê với mấy
anh em. Tu viện này chìm trong tĩnh mịch lặng lẽ. Ước gì tôi có đủ tài văn
chương để tả lại cho cha cảnh thanh bình nơi đây. Còn gì sung sướng hơn khi
lòng đã no say của ăn thiêng liêng nhờ chiêm niệm, mắt tôi còn được chiêm ngắm
cảnh thái bình có một không hai này. Phải chăng đó là nguồn vui của đời sống tu
hành, mà chỉ ai yêu mến thinh lặng và tịch liêu mới có thể thưởng nghiệm…”. Quả
thực chúng ta không thể đan cử hết được những dòng chữ ca ngợi đời sống tu hành
mà cha Brunô còn để lại như những linh dược khích lệ các môn đệ hậu thế. Nhân
dịp cha Lăngđanh đến thăm và đưa tin về tu viện Sáctrơ, cha Brunô đã biên thư
về cho các thầy như sau: “Anh em rất thân mến, anh em hãy vui hưởng trọn vẹn
nguồn ơn dư đầy Thiên Chúa ban cho anh em. Anh em hãy hân hoan vì anh em đã
thoát mọi nguy hiểm, mọi phong ba của biển trần ai. Anh em hãy sung sướng vì
anh em đã tìm thấy bến bình an và vững chắc”. Cha không quên khuyên các thầy
trung thành với lý tưởng tu hành ẩn dật, xa tránh cảnh huyên náo vô ích của
người đời, ngoan ngoãn vâng lời các vị bề trên, nhất là thực hành bác ái cộng
đồng, và phát triển tinh thần hy sinh đích thực.
Mấy tháng sau cha lâm bệnh nặng
và qua đời, để lại cho mọi người một sự luyến tiếc sâu xa. Theo một tài liệu
còn lại của tu viện, thì các tu sĩ đã loan tin về cái chết của ngài như sau:
“Chúng tôi, những tu sĩ ẩn dật hèn mọn, thuộc tu viện mà cha Brunô là vị sáng
lập, là người cha lân ái và là bề trên cao cả, đau đớn đưa tin cho mọi người
biết rằng: khi thấy giờ từ giã trần gian để về với Cha trên trời đã gần tới,
cha Brunô cho hội anh em dòng lại khuyên nhủ và kể cho nghe đời sống của ngài
ngay từ hồi thơ ấu… đoạn ngài tuyên xưng đức tin cách sốt sắng. Linh hồn thánh
thiện lìa khỏi thân xác vào ngày chủ nhật, cũng là ngày mồng 06 tháng 10 năm
1101. Xin mọi người cầu cho linh hồn cha và cho chúng tôi là những tội nhân…”
Nguyện xin thánh Brunô bầu cử
trước mặt Chúa cho chúng con biết yêu cảnh đời thinh lặng và giữ lòng thanh
sạch để luôn cháy lửa mến yêu Chúa và yêu người.
118 Vị Tử Đạo Việt Nam
Phanxicô Trần Văn Trung, Sinh
năm 1825 tại Phan Xã, Quảng Trị, Giáo dân, Cai đội, bị xử trảm ngày 6/10/1858
tại An Hòa dưới đời vua Tự Ðức. Đức Piô X suy tôn ông đội Phanxicô Trần Văn
Trung lên bậc Chân Phước ngày 02.05.1909. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II
suy tôn ngài lên hàng Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 6/10.
Đánh Tây thì đánh,
bỏ đạo thì không
"Tên trung làm cơ đội
Tuyên văn Phong, trước đây bị cáo về tội gian lận trong kỳ thi sát hạch, phải
giáng chức và xử trọng tội, nay xin gia nhập sổ lính đi đánh giặc nhưng lại
không chịu quá khóa nên đáng xử trảm".
Đọc lại bản án của ông cai
đội Phanxicô Trần Văn Trung trên đây, mọi người hiểu ngay tấm lòng của vị
thánh. Cũng như hầu hết những người công giáo thời vua Tự Đức, ông Trung tình
nguyện tham gia việc chống ngoại xâm bảo vệ quê hương, nhưng vẫn trung thành
với Thiên Chúa.
Phanxicô Trần Văn Trung,
sinh khoảng năm 1825 tại Phan Xá, tỉnh Quảng Trị, dưới thời vua Minh Mạng,
thuộc gia đình Công Giáo. Thân phụ cậu trước cũng là cai đội. Khoảng năm 24
tuổi, anh Trung kết hôn với một thiếu nữ cùng làng, và sinh được bốn người con.
Như các gia đình Công Giáo khác, ông cai đội chu toàn trách vụ Kitô hữu.
Vì một lý do đặc biệt, ông
đã bị giam trong tù. Một lần kia, cùng với mười một bạn đồng ngũ, ông phải dự
cuộc khảo thí. Trong tình hình bất an thời bấy giờ, muốn việc thi cử trót lọt
dễ dàng, phải hối lộ với quan trên. Dù đủ điều kiện trúng tuyển, ông không thể
làm khác hơn. Không may, vì việc chia tiền không đồng đều, các quan tranh cãi
với nhau. Vua Tự Đức biết tin liền cho cả 12 cai đội vào ngồi tù.
Yêu nước và tin chúa
Sau khi cửa Hàn bị quân Pháp
dưới sự chỉ huy của đô đốc Rigault de Genouilly đánh chiếm ngày 01.09.1858, vua
Tự Đức liền cho phóng thích các binh lính giam giữ để bổ sung vào số quân bảo
vệ kinh thành Huế. Ông cai đội Trung và các bạn hăng hái hưởng ứng. Nhưng khi
sắp được xuất trận các quan bắt ép các ông phải bước qua Thập Giá. Mười một
người kia liền theo lệnh, còn ông Trung nhất định không chịu nghe. Các quan hỏi
: - Tại sao không chịu đạp lên Thập Giá ? Có phải mi theo đạo không ?
- Thưa phải, tôi là người
Công Giáo. Tôi sẵn sàng đi đánh giặc để bảo vệ tổ quốc, nhưng không bao giờ tôi
lại bỏ đạo.
Câu nói khẳng khái trọn vẹn
đôi đàng của người công dân tổ quốc và người con của Thiên Chúa ấy đã đưa ông
cai đội Trung trở lại nhà ngục. Một tháng bị giam, ông bị điệu ra tra hỏi nhiều
lần, bị tra tấn ba lần, mỗi lần 50 roi. Những trận đòn đó không làm cho người
chiến sĩ đức tin bỏ cuộc. Dự đoán mình sẽ bị xử tử, ông chẳng những không sợ
lại tỏ ra chờ mong ngày đó nữa.
Người gia trưởng
gương mẫu
Dầu sắp chịu án tử, ông đội
Trung đã bình tĩnh thu xếp việc gia đình cách khéo léo. Ông căn dặn vợ:
"Tôi có bị chết, mình lo săn sóc các con nhé ! Hãy hết lòng yêu thương các
con, đừng tái hôn với ai nữa nhé !". Đứa con nhỏ tám tuổi của ông tên là
Catarina Thông được phép ở lại giúp đỡ ông một tháng. Đến khi nghe tin ở xứ nhà
để theo học giáo lý và khuyên con vâng lời dạy bảo của các linh mục.
Khi nhớ ra còn thiếu nợ một
vài người, ông tỏ vẻ lo lắng vì sợ các chủ nợ bắt các con mình ở đợ để trừ nợ,
vừa cực khổ lại vừa có thể quên cả đạo nghĩa nữa, nên ông căn dặn vợ rất kỹ
lưỡng, những đồ đạc nào trong nhà phải bán đi và thanh toán nợ nần cho chu đáo.
Thánh Giá trên cổ
Khi không còn hy vọng làm
cho ông đội Trung mất niềm tin, các quan liền làm án tâu xin vua Tự Đức cho
lệnh trảm quyết. Nhà Vua liền châu phê. Sáng 06.10.1858, ông đội Trung được dẫn
ra pháp trường An Hòa (Huế). Năm viên quan cưỡi ngựa và 60 lính đi bộ hộ tống.
Cha Anrê Thoại ở họ dương sơn biết tin, liền cải trang đi với một thày giảng
tới giải tội cho ông. Cha nhắn một người bà con của ông tín hiệu nhận ra cha:
người sẽ cầm một điếu thuốc giơ cao ngang mặt. Ông đội đã chuẩn bị tâm hồn để
lãnh nhận Bí tích Giải tội lần cuối cùng.
Nhưng sự việc lại diễn tiến
thể khác : các quan đình việc xử lại, và cho người về xin nhà vua tha cho ông,
lấy cớ việc xử án có thể bị hiểu lầm là khiêu khích quân Pháp, họ sẽ đánh thì
nguy. Đoàn người chờ đến 18 giờ chiều vẫn chưa có tin, liền kéo nhau vào quán
nghỉ ngơi, và dẫn ông đội Trung đã bị trói cẩn thận đi theo. Chờ đến khoảng 20
giờ tối, chiếu chỉ vua Tự Đức gởi tới nơi ra lệnh xử tức khắc và đe phạt những
quan đã dám xin ân xá cho ông.
Được tin, ông đội Trung hỏi
tìm cha Thoại nhưng cha đã trở về vì tưởng ngày mai mới xử án. Lúc đó, ông liền
quỳ xuống nền đất, xin đao phủ lấy vôi vẽ trên cổ hình Thánh Giá, để chứng tỏ
mình trung kiên với Đức Kitô đến cùng. Sau đó, ông hiên ngang đưa cổ cho lý
hình chém. Thủ cấp ông bị bêu ba ngày để làm gương, rồi mới được đem chôn. Hiện
nay thi hài của vị chứng nhân được lưu giữ ở nhà thờ họ Dương Sơn.
Đức Piô X suy tôn ông đội
Phanxicô Trần Văn Trung lên bậc Chân Phước ngày 02.05.1909. Ngày 19-06-1988,
Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên hàng Hiển thánh.
Nguồn từ thư viện Đa
Minh
Trường thi tử Đạo.
Cửa Hàn bị quân Pháp chiếm đóng
Vua Tự Ðức mau chóng đổi thay
Tù nhân tình nguyện đánh Tây
Kèm theo điều kiện sau đây đăng trình
Ðể Thánh Giá tự mình quá bước
Trần Văn Trung mực thước đó mà
Ngang nhiên tự ý nói ra
Trần Trung không bước nói là bất tuân
Các quan hỏi mày cần nói rõ
Trả lời ngay đạo có hay không
Trần Trung Công giáo thưa ông
Xâm lăng đi đánh, nhưng không chối trời
Liền bị dẫn vào nơi tù ngục
Năm mươi roi liên tục ba lần
Nhiều trận đòn nát cả thân
Trần Trung chịu đựng chẳng cần thở than
Các quan thấy khó làm đổi ý
Trần Văn Trung quyết chí kiên gan
Các quan hội ý họp bàn
Tâu Vua Tự Ðức xin ban lệnh truyền
Ngài phê chuẩn ban liền trảm quyết
Ra pháp trường mãi miệt An Hòa
Năm nhân viên cưỡi ngựa ra
Sáu mươi lính võ thật là trang nghiêm
Nhưng diễn tiến đột nhiên đổi khác
Các quan đình, nhốn nhác xin vua
Tha cho ông, thần xin thưa
Sợ là khiêu khích vào hùa địch quân
Trung bị trói lại gần quán nghỉ
Tám giờ tối chỉ thị của vua
Hãy trừng phạt kẻ a dua
Xử ngay tức khắc thắng thua đâu cần
Ðấng tử đạo quỳ gần tới đất
Xin đao phủ hoàn tất giúp tôi
Vẽ cây Thánh Giá bằng vôi
In hình trên cổ xong rồi chém luôn
Phan sinh dòng máu tuôn ra chảy
Ðầu phải bêu hết thảy ba ngày
Dương Sơn chôn cất đông thay
Thừa Thiên xứ Huế hiện nay kính thờ
Nơi sinh trưởng ấu thơ Phan Xá
Khi trưởng thành ông đã kết hôn
Con sinh được bốn lớn khôn
Vô tù lần trước nghe đồn tiền chia
Về thi cử mũ hia trót lọt
Phải biết lo đút lót quan trên
Bất đồng cãi vã đôi bên
Ông Trung lãnh đủ, cho nên vô tù
Gặp vợ con trong khu ngục thất
Ông nhủ khuyên rất thật ước mong
Vững tin vào Chúa bền lòng
Gia đình thu xếp vui trong đẹp ngoài
Tôi có chết tương lai con cái
Mình hãy lo rộng rãi yêu thương
Tái hôn lỗi đạo sai đường
Ðứa con tám tuổi ngục đường giúp ông
Cháu còn nhỏ tên Thông con út
Một tháng trời giây phút cuối đời
Khuyên con ngoan ngoãn vâng lời
Học hành giáo lý, nhờ thời quý cha
Ông ngồi nhớ mình đà còn nợ
Liền nhờ người nhắn vợ vào ngay
Bán đồ đạc trả nợ thay
Tôi được thanh thản, đợi ngày xử thôi
Trần Văn Trung sinh thời Ất Dậu (1825)
Tại Phan Xá, Phú Hậu miền Trung
Là quân nhân thích vẫy vùng
Ðánh Tây tình nguyện xin đừng bỏ cha
Phúc tử đạo ban ra Mậu Ngọ (1858)
Bỏ thế gian để tậu Nước Trời
Vinh danh Thiên Chúa sáng ngời
Suy tôn Kỷ Dậu (1909) tuyệt vời thánh nhân
Lời bất hủ: Các quan hỏi: "Tại sao không bước lên Thánh giá. Có phải mi theo đạo không?". Cai đôi Trung trả lời: "Thưa phải, tôi là người Công giáo. Tôi sẵn sàng đi đánh giặc để bảo vệ tổ quốc, nhưng không bao giờ tôi bỏ đạo". Ông căn dặn vợ: "Tôi có bị chết, mình lo săn sóc các con nhé! Hãy hết lòng yêu thương các con, đừng tái hôn với ai nữa nhé".
Vua Tự Ðức mau chóng đổi thay
Tù nhân tình nguyện đánh Tây
Kèm theo điều kiện sau đây đăng trình
Ðể Thánh Giá tự mình quá bước
Trần Văn Trung mực thước đó mà
Ngang nhiên tự ý nói ra
Trần Trung không bước nói là bất tuân
Các quan hỏi mày cần nói rõ
Trả lời ngay đạo có hay không
Trần Trung Công giáo thưa ông
Xâm lăng đi đánh, nhưng không chối trời
Liền bị dẫn vào nơi tù ngục
Năm mươi roi liên tục ba lần
Nhiều trận đòn nát cả thân
Trần Trung chịu đựng chẳng cần thở than
Các quan thấy khó làm đổi ý
Trần Văn Trung quyết chí kiên gan
Các quan hội ý họp bàn
Tâu Vua Tự Ðức xin ban lệnh truyền
Ngài phê chuẩn ban liền trảm quyết
Ra pháp trường mãi miệt An Hòa
Năm nhân viên cưỡi ngựa ra
Sáu mươi lính võ thật là trang nghiêm
Nhưng diễn tiến đột nhiên đổi khác
Các quan đình, nhốn nhác xin vua
Tha cho ông, thần xin thưa
Sợ là khiêu khích vào hùa địch quân
Trung bị trói lại gần quán nghỉ
Tám giờ tối chỉ thị của vua
Hãy trừng phạt kẻ a dua
Xử ngay tức khắc thắng thua đâu cần
Ðấng tử đạo quỳ gần tới đất
Xin đao phủ hoàn tất giúp tôi
Vẽ cây Thánh Giá bằng vôi
In hình trên cổ xong rồi chém luôn
Phan sinh dòng máu tuôn ra chảy
Ðầu phải bêu hết thảy ba ngày
Dương Sơn chôn cất đông thay
Thừa Thiên xứ Huế hiện nay kính thờ
Nơi sinh trưởng ấu thơ Phan Xá
Khi trưởng thành ông đã kết hôn
Con sinh được bốn lớn khôn
Vô tù lần trước nghe đồn tiền chia
Về thi cử mũ hia trót lọt
Phải biết lo đút lót quan trên
Bất đồng cãi vã đôi bên
Ông Trung lãnh đủ, cho nên vô tù
Gặp vợ con trong khu ngục thất
Ông nhủ khuyên rất thật ước mong
Vững tin vào Chúa bền lòng
Gia đình thu xếp vui trong đẹp ngoài
Tôi có chết tương lai con cái
Mình hãy lo rộng rãi yêu thương
Tái hôn lỗi đạo sai đường
Ðứa con tám tuổi ngục đường giúp ông
Cháu còn nhỏ tên Thông con út
Một tháng trời giây phút cuối đời
Khuyên con ngoan ngoãn vâng lời
Học hành giáo lý, nhờ thời quý cha
Ông ngồi nhớ mình đà còn nợ
Liền nhờ người nhắn vợ vào ngay
Bán đồ đạc trả nợ thay
Tôi được thanh thản, đợi ngày xử thôi
Trần Văn Trung sinh thời Ất Dậu (1825)
Tại Phan Xá, Phú Hậu miền Trung
Là quân nhân thích vẫy vùng
Ðánh Tây tình nguyện xin đừng bỏ cha
Phúc tử đạo ban ra Mậu Ngọ (1858)
Bỏ thế gian để tậu Nước Trời
Vinh danh Thiên Chúa sáng ngời
Suy tôn Kỷ Dậu (1909) tuyệt vời thánh nhân
Lời bất hủ: Các quan hỏi: "Tại sao không bước lên Thánh giá. Có phải mi theo đạo không?". Cai đôi Trung trả lời: "Thưa phải, tôi là người Công giáo. Tôi sẵn sàng đi đánh giặc để bảo vệ tổ quốc, nhưng không bao giờ tôi bỏ đạo". Ông căn dặn vợ: "Tôi có bị chết, mình lo săn sóc các con nhé! Hãy hết lòng yêu thương các con, đừng tái hôn với ai nữa nhé".
6-10
Thánh Brunô
hánh
nhân được vinh dự là đã sáng lập một tu hội mà như người ta thường nói, không
bao giờ phải cải cách vì dòng chưa bao giờ đi lạc đường. Chắc chắn là vị sáng
lập cũng như các tu sĩ dòng sẽ từ chối lời khen ngợi này, nhưng đó là một kết
quả của tình yêu mãnh liệt mà thánh nhân đã dành cả cuộc đời để hãm mình đền
tội trong cô độc.
Ngài
sinh ở
Ngài là
một ẩn tu dưới quyền tu viện trưởng là Thánh Robert Molesmes (sau này sáng
lập dòng Xitô), nhưng sau đó, vào năm 1084 cùng với sáu người bạn ngài di
chuyển đến
Brunô và
các bạn xây một nhà nguyện nhỏ với các phòng riêng cách xa nhau, sống sát với
quy luật của Thánh Biển Ðức, và từ đó xuất phát Dòng Carthusian. Trong một
ngày họ chỉ gặp nhau để đọc kinh sáng và tối, thời giờ còn lại họ sống trong
cô độc, làm việc lao động, cầu nguyện và sao chép lại các văn bản Kinh Thánh.
Ngay cả việc ăn uống, họ cũng chỉ ăn chung trong những ngày lễ lớn.
Ðức Giáo
Hoàng Urbanô II nghe biết sự thánh thiện của Brunô, đã gọi ngài về Rôma để
làm phụ tá trong việc cải cách hàng giáo sĩ. Sau khi khước từ chức tổng giám
mục mà đức giáo hoàng ban cho, Bruno đã xin Ðức Urbanô cho phép ngài trở về
đời sống ẩn dật, thành lập cộng đồng Thánh Maria ở La Torre trong vùng
Calabria, và ngài sống ở đây cho đến khi lìa đời, ngày 6-10-1101.
Ngài
chưa bao giờ được chính thánh phong thánh vì quy luật dòng Carthusian không
chấp nhận những vinh dự công cộng, nhưng vào năm 1514, Ðức Giáo Hoàng Leo X
đã cho phép dòng Carthusian mừng lễ kính ngài, và tên của ngài được xếp trong
niên lịch Công Giáo Rôma từ năm 1623.
Lời
Bàn
Nếu đời
sống chiêm niệm là một lối sống không dễ thực hiện, thì chắc chắn sự hãm mình
đền tội được thể hiện qua cuộc đời ẩn dật của các tu sĩ Carthusian lại càng
khó khăn biết chừng nào.
Lời
Trích
"Thành
viên của các cộng đồng tận hiến cho sự chiêm niệm đã hy sinh chính mình cho
Thiên Chúa trong sự cô độc và thinh lặng, liên lỉ cầu nguyện và hãm mình đền
tội. Bất kể những nhu cầu của giáo hội có khẩn cấp đến đâu, những cộng đồng
như thế luôn luôn góp phần độc đáo trong Nhiệm Thể Ðức Kitô..." (Sắc
Lệnh về Canh Tân Ðời Sống Tu Trì, 7).
|
|
Bài đọc 2
Hãy chiến đấu trong cuộc chiến cao đẹp của
đức tin
Phàm ai ở trong Đức Ki-tô đều là thọ tạo
mới. Cái cũ đã qua. Người có tâm hồn trong sạch và vô tội, nghĩa là sạch
mọi tà ý, mọi bất lương và đồi bại, mà được Thánh Thần ngự đến trong lòng, thì
thánh Phao-lô gọi người đó là thọ tạo mới. Vì chưng khi linh hồn chê ghét tội
lỗi, ra sức tập tành nhân đức và đón nhận ân sủng của Thần Khí sau khi đã đổi
đời, thì nó hoàn toàn nên mới, được cải tạo và phục hồi. Thánh Phao-lô cũng
nói: Anh em hãy loại bỏ men cũ để trở thành bột mới. Người còn
thêm: Chúng ta đừng lấy men cũ, nhưng hãy lấy bánh không men là lòng tinh
tuyền và chân thật mà ăn mừng đại lễ. Tôi xin nói là điều này và những điều đã
nói về thọ tạo mới phù hợp với nhau.
Tên cám dỗ đặt nhiều cạm bẫy để làm hại
linh hồn chúng ta; theo bản tính tự nhiên khá yếu đuối, con người không thắng
nổi nó đâu. Vi vậy, thánh Phao-lô Tông Đồ truyền dạy chúng ta phải tự trang bị
bằng những võ khí thiêng liêng. Người nói: Hãy mặc áo giáp là sự công
chính, chân đi giày là lòng hăng say loan báo Tin Mừng bình an, thắt lưng đai
là chân lý. Bạn thấy chăng thánh Tông Đồ ngầm chỉ cho thấy bao phương cách cứu
độ: tất cả đều đưa tới một con đường, tới cùng một mục tiêu. Nhờ những phương
cách đó, người ta dễ thực thi một cách hoàn hảo các lệnh truyền của Thiên Chúa
mà hoàn tất cuộc hành trình của đời sống. Trong đoạn thư khác, chính thánh Tông
Đồ nói: Chúng ta hãy kiên trì chạy trong cuộc đua dành cho chúng ta, mắt
hướng về Đức Giê-su là Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin.
Vì thế, ai hoàn toàn khinh chê những sự
sang trọng đời này và từ bỏ mọi vinh quang trần thế, thì cần phải từ bỏ chính
mình cùng với sự sống. Từ bỏ chính mình là không bao giờ tìm ý riêng mà tìm và
vâng theo ý Thiên Chúa như theo người hoa tiêu tài giỏi, rồi không có gì ngoài
cái là của chung. Như vậy, người tôi tớ Đức Ki-tô, đã được cứu chuộc để phục vụ
anh em, sẽ rảnh rang thi hành lệnh trên trong niềm hân hoan và hy vọng. Đó là
điều Chúa muốn khi Người nói: Ai muốn làm người đứng đầu thì phải làm
người rốt hết, và làm tôi tớ mọi người.
Phục vụ người ta như thế phải miễn phí, và
ai phục vụ như thế phải tuỳ thuộc mọi người, và coi việc phục vụ anh em như một
món nợ phải trả. Vậy những ai được đặt làm đầu thì phải lãnh phần vất vả hơn
những người khác, ăn ở khiêm nhường hơn những người cấp dưới, tỏ cho họ thấy
đời sống của mình là một hình ảnh và một tấm gương về người tôi tớ, mà xem
những kẻ được Chúa tín nhiệm được giao phó cho mình coi sóc như kho tàng Người
ký gửi.
Vì thế, các người đứng đầu phải săn sóc
anh em như các nhà giáo dục lương thiện săn sóc trẻ em non dại cha mẹ chúng đã
giao phó cho mình. Nếu anh em gắn bó với nhau như thế, người dưới cũng như kẻ
trên: người dưới vui vẻ chấp hành lệnh truyền, người trên thúc đẩy anh em tới
bậc hoàn thiện; nếu đôi bên trọng kính nhau, thì ngay trên mặt đất này, anh em
đã sống đời sống của các thiên thần rồi.
Lời nguyện
Lạy Chúa, khi Chúa thương xót và thứ tha, chính là lúc Chúa biểu lộ quyền năng cách tỏ tường hơn cả, xin không ngừng ban ơn giúp chúng con đạt tới Nước Trời là hạnh phúc Chúa đã hứa ban và chúng con đang hết lòng theo đuổi. Chúng con cầu xin…
Lạy Chúa, khi Chúa thương xót và thứ tha, chính là lúc Chúa biểu lộ quyền năng cách tỏ tường hơn cả, xin không ngừng ban ơn giúp chúng con đạt tới Nước Trời là hạnh phúc Chúa đã hứa ban và chúng con đang hết lòng theo đuổi. Chúng con cầu xin…
(trích
bài đọc Giờ Kinh Sách Thứ Bảy Tuần 26 TN-bản dịch của nhóm CGKPV)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét