Trang

Thứ Bảy, 24 tháng 2, 2018

25-02-2018 : (phần I) CHÚA NHẬT II MÙA CHAY năm B

25/02/2018
Chúa Nhật tuần 2 Mùa Chay năm B.
(phần I)


Bài Ðọc I: St 22, 1-2. 9a. 10-13. 15-18
"Của hiến tế của Abraham Tổ phụ chúng ta".
Trích sách Sáng Thế.
Trong những ngày ấy, Chúa thử Abraham và nói với ông rằng: "Abraham, Abraham!" Ông đáp lại: "Dạ, con đây". Chúa nói: "Ngươi hãy đem Isaac, đứa con một yêu dấu của ngươi, và đi đến đất Moria, ở đó ngươi sẽ dâng nó làm của lễ toàn thiêu trên núi Ta sẽ chỉ cho ngươi".
Khi hai người đến nơi Chúa đã chỉ, Abraham làm một bàn thờ và chất củi lên, rồi trói Isaac lại, đặt lên bàn thờ trên đống củi. Abraham giơ tay lấy dao để sát tế con mình. Bấy giờ thiên thần Chúa từ trời gọi ông rằng: "Abraham, Abraham!" Ông thưa lại: "Dạ, con đây". Người nói: "Ðừng giết con trẻ và đừng động đến nó, vì giờ đây ta biết ngươi kính sợ Chúa, đến nỗi không từ chối dâng đứa con duy nhất cho Ta". Abraham ngước mắt lên, thấy sau lưng mình có con cừu đực đang mắc sừng trong bụi cây, Abraham liền bắt nó và tế lễ thay cho con mình. Thiên thần Chúa gọi Abraham lần thứ hai và nói rằng: "Chúa phán: Ta thề rằng: vì ngươi đã làm điều đó, ngươi không từ chối dâng đứa con duy nhất của ngươi cho Ta, nên Ta chúc phúc cho ngươi, Ta cho ngươi sinh sản con cái đông đúc như sao trên trời, như cát bãi biển; miêu duệ ngươi sẽ chiếm cửa thành của quân địch, và mọi dân tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc nơi miêu duệ ngươi, vì ngươi đã vâng lời Ta".
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 115, 10 và 15. 16-17. 18-19
Ðáp: Tôi sẽ tiến đi trước thiên nhan Chúa trong miền đất của nhân sinh (Tv 114, 9).
Xướng: 1) Tôi đã tin cậy ngay cả trong lúc tôi nói: "Tấm thân tôi trăm phần khổ cực!" Trước mặt Chúa thật là quý hoá cái chết của những bậc thánh nhân Ngài. - Ðáp.
2) Ôi lạy Chúa, con là tôi tớ Chúa, con là tôi tớ Ngài, con trai của nữ tỳ Ngài, Ngài đã bẻ gãy xiềng xích cho con. Con sẽ hiến dâng Chúa lời ca ngợi làm sinh lễ, và con sẽ kêu cầu danh Chúa. - Ðáp.
3) Tôi sẽ giữ trọn lời khấn xin cùng Chúa, trước mặt toàn thể dân Ngài, trong nơi hành lang nhà Chúa, ở giữa lòng ngươi, Giê-rusalem hỡi! - Ðáp.

Bài Ðọc II: Rm 8, 31b-34
"Thiên Chúa không dung tha chính Con mình".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, nếu Thiên Chúa ủng hộ chúng ta, thì ai có thể chống lại chúng ta? Người không dung tha chính Con mình, nhưng lại phó thác Con vì tất cả chúng ta, há Người lại chẳng ban cho chúng ta mọi sự cùng với Con của Người sao? Ai sẽ tố cáo những kẻ Chúa chọn? (Chẳng lẽ là) chính Chúa, Ðấng làm cho nên công chính? Ai sẽ kết án? (Chẳng lẽ là) Ðức Giêsu Kitô, Ðấng đã chết và hơn nữa đã sống lại, đang ngự bên hữu Thiên Chúa, cũng đang biện hộ cho chúng ta?
Ðó là lời Chúa.

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Mt 17, 5
Từ trong đám mây sáng chói, có tiếng Chúa Cha phán rằng: "Ðây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người".

Phúc Âm: Mc 9, 1-9
"Ðây là Con Ta rất yêu dấu".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê, và Gioan đi riêng với Người lên núi cao, và Người biến hình trước mặt các ông, và áo Người trở nên chói lọi, trắng tinh như tuyết, không thợ giặt nào trên trần gian có thể giặt trắng đến thế. Rồi Êlia và Môsê hiện ra và đàm đạo với Chúa Giêsu. Bấy giờ Phêrô lên tiếng thưa Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm. Chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia". Phêrô không rõ mình nói gì, vì các ông đều hoảng sợ. Lúc đó có một đám mây bao phủ các Ngài, và từ đám mây có tiếng phán rằng: "Ðây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người". Bỗng nhìn chung quanh, các ông không còn thấy ai khác, chỉ còn một mình Chúa Giêsu với các ông. Và trong lúc từ trên núi đi xuống, Chúa Giêsu ra lệnh cho các ông đừng thuật lại cho ai những điều vừa xem thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại. Các ông tuân lời căn dặn đó, nhưng vẫn tự hỏi nhau: "Từ trong cõi chết sống lại nghĩa là gì?"
Ðó là lời Chúa.


Suy Niệm: Cái Chết, Con Ðường Ðưa Tới Sự Sống
"Tôi biết tôi tin vào ai".
Lời khẳng định thâm tín đó của thánh Phaolô có thể coi như diễn tả đúng niềm tin của Abraham trong cuộc hành trình về quê hương mới: quê hương sự sống qua ngõ sự chết. Trong sứ mệnh nhập thế cứu đời, Ðức Kitô cũng không đi con đường nào khác ngoài con đường chết-để-sống: nếu Người đã biến hình sáng chói để loan báo trước cảnh vinh quang ngày Người lại đến, thì chính Người cũng đã cho môn đệ biết trước đêm tối của giờ Thương khó Người sẽ phải đi qua (Mc 14,34-36).
Chấp nhận mất tất cả để được nhận lại tất cả, chết với Chúa để sống lại vinh quang với Người, đó là định luật căn bản của Kitô giáo. Ðịnh luật đó, hôm nay Giáo hội nhắc lại cho chúng ta qua niềm tin của Abraham trong cơn thử thách cũng như qua ánh sáng cuộc biến hình của Ðức Kitô trên núi Tabo.

1. "Ðem Con Một... Lên Ðường... Hiến Tế"
Lệnh Chúa truyền như phản ngược lại với Lời Chúa hứa. Abraham vẫn nhớ rõ lời Thiên Chúa vừa mới giao ước. Isaac từ nay sẽ là người nối dõi tông đường cho dòng họ Abraham (Kn 21,12). Ông cũng không quên Isaac là người con duy nhất của mình. Mẹ con Hagar đã bị đuổi đi, mà Sara thì lại quá già nua cằn cỗi. Bây giờ lệnh truyền phải đem con đi tế hiến! Phải chăng lưỡi dao oan nghiệt giáng xuống trên Isaac sẽ chấm dứt dòng dõi của ông và do đó giao ước sẽ bị phá hủy? Chắc hẳn trong thân phận làm người của mình, Abraham đã không thể nào nghĩ khác được. Nhưng ông đã lên đường, không chần chờ, không do dự. Và rồi đã tới đỉnh cao, nơi cử hành hy lễ, ông giơ tay, cầm dao, sẵn sàng giết con, người con duy nhất mà hơn ai hết, ông biết rõ nếu chết đi là ông mất tất cả.
Thái độ dứt khoát và hành động quyết liệt của Abraham, tự nó, nói lên trọn vẹn niềm tin của ông: nó cho ta thấy ông biết rõ ông tin vào ai và phải tin thế nào.
Abraham biết mình tin vào Ðấng không muốn sự chết nhưng muốn sự sống. Chính nhờ đó mà ông nhìn thấy được sự sống phong phú qua cái chết tế hiến của con mình. Việc Chúa đòi ông hy sinh con một mình chứng tỏ Chúa hoàn toàn làm chủ sự sống. Bởi vì Người là nguồn gốc sự sống nên chỉ mình Người mới ban sự sống và có quyền đòi lại sự sống đã ban. Thiên Chúa đã trao Isaac cho Abraham, bây giờ Người đòi lại sự sống đó, dù rằng Người đã cam kết: Isaac sẽ khởi đầu của một miêu duệ đông đảo. Sự đòi hỏi bất thường đó chỉ nhằm nói lên khả năng của Thiên Chúa làm được những việc đối với ta xem ra nghịch lý: khơi dậy sự sống từ cái chết, gọi được cái có từ cái không (Rm 4,17).
Nhờ biết rõ mình tin vào ai, nên Abraham đã tin một cách dứt khoát, trọn vẹn, triệt để: Chúa bảo ông đem Isaac đi, ông dẫn đi. Chúa bảo ông lên đường, ông lên đường. Chúa bảo ông tế hiến con một của ông, ông thi hành. Nhưng không phải vì thế mà niềm tin của ông mất hết vẻ nhân bản thông thường. Ông biết rõ dù là con do lời hứa, Isaac thực sự cũng là con của ông. Vâng lệnh Chúa tế hiến con mình, Abraham không thể không cảm thấy lòng mình bị xâu xé vì mối tình phụ tử. Nhưng ông đã tuân theo thiên ý với niềm tin vững chắc: Chúa sẽ trù liệu mọi sự để thực hiện lời hứa và chương trình cứu độ của Người. Chính niềm tin phó thác đó đã giúp ông mau mắn làm điều ông có thể và để cho Chúa làm điều vượt quá sức ông. Kết quả là sức mạnh của đức tin đã biến đổi đời ông. Ðể ông khỏi ray rứt suốt đời vì mặc cảm giết con, thì đây Thiên Chúa gửi đến cho ông một tế vật, khiến ông có thể tôn thờ Người với lòng tín phục hân hoan. Thay vì phải chấm dứt tuổi già trong nỗi cô đơn của một gia tộc tuyệt tự, thì ông thanh thản sống nốt những ngày còn lại trong niềm hãnh diện; con mình đã được thánh hiến và dòng dõi phát sinh từ đó là một dân tộc thánh.

2. Chết Ðể Sống Lại
Chính vì biết mình tin vào ai, nên Abraham đã dứt khoát lên đường, chấp nhận với tâm hồn phó thác, leo trọn con đường tế hiến lên đỉnh Mô-ri-gia, để rồi từ điểm cao của núi đồi và tuyệt đỉnh của hy tế, ông đã hưởng trọn niềm vui ngắm khung trời đầy sao, nhìn bãi biển trắng cát, liên tưởng đến miêu duệ đông đảo của mình. Mất đi để nhận lại, chết rồi để được sống, người cha của mọi kẻ có lòng tin đã lấy chính cuộc đời mình để làm sáng tỏ định luật đó của lịch sử cứu độ. Tin Mừng của Marcô hôm nay (9,2-10) thuật lại cuộc biến hình trên núi Tabo cũng nhằm chứng minh quá trình tất hữu đó của cuộc đời Chúa Kitô cũng như của chúng ta trên đường về cõi sống.
Quả vậy, định hướng của Tin Mừng là nhằm làm nổi bật mầu nhiệm chết-để-sống lại của Chúa Cứu thế. Chính trong viễn tượng đó mà sau khi đã cho các tông đồ thoáng thấy bóng tối của con đường Thương khó Người sắp đi qua, Người đã biến hình sáng chói, báo trước cuộc Phục sinh và ngày trở lại vinh quang của Người, để nhắn bảo các ông phải biết tìm ra sức sống phong phú bên kia cái chết. Vẻ huy hoàng của Tabo hôm nay không làm ta quên dòng sông Yorđan ngày trước. Nếu hạt thóc không mục nát đi trong lòng đất, thì không bao giờ nẩy sinh được cây lúa xanh tươi. Ta cũng phải chết đi với Chúa Kitô để được sống lại với Người. Và trong Người, chúng ta được trở thành con cái Thiên Chúa.
Nhưng, cũng như Abraham, ta phải dứt khoát tin ở Ðức Kitô và chấp nhận đi vào con đường cứu rỗi của Người, đồng thời sống trọn vẹn mầu nhiệm biến hình trong đời sống hằng ngày của chúng ta, nghĩa là sẵn sàng để cho Thần Khí Ðức Kitô đổi mới con người chúng ta và can đảm góp phần làm cho thế giới này biến dạng. Muốn thế, ta phải trung thành lắng nghe Lời Con Thiên Chúa (Mc 9,7) trong Sách Thánh và qua mọi biến cố của cuộc đời ta.

Giảng Lễ
Chúa Yêsu đưa ba môn đệ lên núi cao để họ được chiêm ngưỡng vinh quang của Con Thiên Chúa. Phụng vụ Giáo hội cũng đưa ta đến đây, để chứng kiến và tham dự vào mầu nhiệm cao cả.
Trước hết ta hãy nhìn xem câu truyện Chúa thử thách Abraham. Phụng vụ mùa Chay đọc cho ta nghe câu chuyện kinh hoàng này, vì như ta đã thấy trong Chúa nhật tuần trước, mùa Chay là mùa thử thách, thử thách đức tin của những người con Chúa. Abraham hồi đó chỉ có một đứa con, đứa con duy nhất của tuổi già, đứa con của Lời Hứa từ bao năm. Thế mà hôm nay Chúa gọi: Abraham! - Dạ. - Hãy đem người con yêu quý của ngươi đi hiến tế cho ta! Chúng ta hãy tưởng tượng xem diện mạo và tâm can của người cha già lúc đó như thế nào. Lời Chúa thật mạnh hơn tiếng sét lớn. Nhưng Abraham không ngã, không mất tinh thần. Sách Thánh viết: ông dậy sớm, bổ củi, thắng lừa rồi dắt Isaac đi, đi ba ngày trời ròng rã, ba ngày đau như cắt mỗi khi nghĩ tới giờ phút kinh hoàng sẽ phải hạ sát đứa con vô tội. Chắc chắn không ai có được thái độ đó. Chắc chắn không người cha nào đủ sức đi như vậy. Nhưng Abraham không phải là con người thường. Ông là con người có đức tin. Lòng ông tin Chúa thật tuyệt đối và vô điều kiện. Ông không lấy suy luận loài người chất vấn mệnh lệnh Chúa. Lời Chúa ông đã nghe rõ nên ông chỉ còn biết thi hành. Ông phó mặc hậu quả cho Thiên Chúa định liệu. Ðức tin của ông thật là gương mẫu. Phải nói mạnh hơn, lòng tin đó quả thật vô địch. Thế nên ông được xưng tụng là cha của các thế hệ tín hữu, là tổ phụ của dòng dõi tin tưởng. Ông là tổ phụ của ta, chứ không riêng của con cái Israel. Và câu truyện về ông mà hôm nay phụng vụ nhắc lại cho ta, thúc giục chúng ta tin mạnh mẽ hơn vào Chúa, dứt khoát chấp nhận Lời Chúa mà không so đo hơn thiệt. Có như vậy chúng ta mới được chấp nhận vào giao ước mà Chúa đã thề hứa với Abraham và miêu duệ ông đến muôn đời.
Ta hãy để ý đến tư tưởng Giao ước mà đoạn cuối bài đọc thứ I đã gợi lên. Và nếu ta còn nhớ, thì bài Cựu Ước Chúa nhật trước cũng nói đến Giao ước. Chúa đã giao ước với Noe. Ngài hứa không còn phạt loài người như trong vụ đại hồng thủy nữa. Trong bài đọc hôm nay, Ngài hứa ban phúc lộc chan hòa cho Abraham; dòng dõi ông sẽ nhiều như sao trên trời và như cát ngoài biển; mọi dân tộc trên mặt đất sẽ nhờ con cháu ông mà được hạnh phúc. Như vậy từ giao ước Noe tới giao ước mà Chúa đã thề hứa với Abraham đã có một tiến bộ rõ rệt. Chẳng những Chúa không muốn sát phạt loài người nữa, mà còn muốn cho họ được phát triển và hạnh phúc. Rồi đây, trong các Chúa nhật sau ta sẽ thấy Chúa còn hành động cụ thể hơn nữa để dần dần thực thi mọi Lời Hứa. Và như vậy, rõ ràng bao giờ Chúa cũng chỉ muốn ban thêm ơn cho ta, cho những người tin Chúa, tin đến nỗi sẵn sàng hy sinh tất cả để chấp nhận Lời Ngài. Hôm nay, chúng ta hãy tin vào Chúa mạnh mẽ hơn nữa, chắc chắn bàn tay của Ngài đang hướng dẫn đời sống của ta đi đến chỗ tốt đẹp, nên ta sẽ cố gắng bắt chước Abraham, không sờn lòng khi gặp thử thách, mà - có thể nói - cứ nhắm mắt thi hành mọi lời Phúc Âm ta nghe được. Làm như vậy có liều lĩnh không? Chắc chắn là không và chỉ có thể làm cho ta trở nên giống Ðức Kitô hơn và sẽ đạt tới vinh quang như Người. Ðiều đó thật rõ rệt, như Phúc Âm hôm nay cho chúng ta thấy.
Ðức Kitô biến hình ở trên núi cao. Người được hưởng vinh quang đang dành cho Người sau ngày Phục sinh. Chúa Cha muốn Người nếm trước vinh quang đó, không phải để khích lệ Người đi vào con đường tử nạn. Ngay từ đầu Người đã quảng đại chấp nhận đi vào con đường này rồi. Có thể nói không lúc nào Người quên nghĩ tới giờ của mình, giờ ra đi chịu chết để đưa nhân loại về cùng Thiên Chúa Cha. Sở dĩ hôm nay có cuộc biến hình này là vì các môn đệ và chúng ta. Người muốn củng cố đức tin của mọi người, để đừng ai nao núng khi nhìn thấy bộ mặt đau thương của Người trên thập giá. Vinh quang Chúa Cha dọi vào Người trên núi thánh, để chúng ta có ấn tượng đích thực về Người hầu bao giờ chúng ta cũng nghe theo tiếng Người kêu gọi. Nhưng đồng thời vinh quang ấy cũng đã bao bọc các môn đệ. Và qua sự kiện biến hình này, Chúa Cha muốn cho chúng ta tin chắc vào vinh quang mà chính chúng ta sẽ được trong vinh quang của Chúa Con. Có lần nhìn vào cộng đoàn các tín hữu, thánh Phaolô phải thú nhận rằng: xét về phương diện trần gian quả thật chúng ta chẳng đáng tự phụ gì, vì chúng ta thua kém người ta về mọi mặt. Nhưng sau này sẽ thế nào? Thánh Kinh là Lời Chúa đoan chắc với chúng ta: Ðức Kitô ở đâu, ta cũng sẽ ở đó. Ngài ở trong vinh quang, chúng ta cũng sẽ trở nên sáng láng; Ngài biến hình ở trên núi cao trước mắt môn đệ, để họ thấy vinh quang đang chờ Ngài và đồng thời cũng để họ biết mình sẽ được ở trong vinh quang ấy.
Thế thì niềm tin của chúng ta quả thật quá phấn khởi! Và chúng ta phải gia tăng niềm tin. Abraham chưa thấy gì mà đã tin mạnh mẽ. Ông chỉ tin rằng Chúa sẽ trù liệu tất cả. Còn ta, chúng ta có bảo chứng về niềm tin của mình. Hơn cả ba môn đệ, chúng ta biết chắc Ðức Kitô đã phục sinh, Người đang ở trong vinh quang, và Người đang sửa soạn chỗ vinh quang cho những ai tin Người. Những người nghi ngờ về tương lai tốt đẹp của mình, hãy nghe lời thánh Phaolô trong bài đọc II, Chúa Cha đã không khước từ ban Con Một Mình chịu chết để cứu chuộc ta, thì hỏi có gì và có ai khiến ta phải sợ hãi nữa? Ðể ta được hạnh phúc, Người đã hy sinh đến cả người Con yêu dấu của mình, thì hỏi ai còn có thể nghi ngờ về lòng Người thương ta? Và thương ta đến như vậy mà Người không muốn ta được hạnh phúc sao? Abraham chưa phải hy sinh đứa con mà đã được hạnh phúc chan hòa. Huống nữa là Chúa Cha đã hy sinh Con mình thật sự! Không lẽ tình thương của Người đối với ta không được thỏa mãn sao? Nghĩa là không lẽ chúng ta sẽ không hạnh phúc như lòng Cha nhân từ mong muốn sao? Không, dù hiện nay bề ngoài đời sống của ta còn phần nào chưa vinh hiển, ta vẫn phải đinh ninh rằng: chẳng qua mình đang ở trần gian, Ðức Kitô cần mặc lấy thân xác để đi con đường thánh giá, nhưng Người đã đạt tới vinh quang và chắc chắn sẽ đưa chúng ta vào nơi vinh hiển.
Và để bảo đảm điều đó, Người muốn dùng chính Thánh Thể mà chúng ta cử hành bây giờ , để đi vào trong ta, sống trong ta, đi qua trần gian với ta, để đưa ta đến nơi sáng láng.
Chúng ta hãy tin vào Thánh Thể; hãy rước lấy Chúa vào lòng, hãy để tinh thần của Chúa hướng dẫn đường đi nước bước của ta để dù có gặp thử thách lớn lao như Abraham, lòng tin của ta vào đạo Chúa vẫn không hề nao núng, khiến mọi Lời hứa trong giao ước sẽ thực hiện ở nơi ta, và nhiều người nhờ đấy cũng được phúc.

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)



LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Chủ Nhật II Mùa Chay, Năm B
Bài đọc: Gen 22:1-2, 9, 10-13, 15-18; Rom 8:31-34; Mk 9:2-10.


GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa hy sinh Người Con Một cho con người.

             Tình yêu là quan niệm trừu tượng: con người không thể định nghĩa tình yêu, nhưng có thể cảm nghiệm thế nào là tình yêu. Tình yêu Thiên Chúa còn khó hiểu hơn nữa, vì chúng ta chưa từng thấy Ngài; nhưng chúng ta có thể cảm nghiệm sâu xa tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người mỗi khi ngước nhìn Cây Thập Giá.
            Các Bài Đọc hôm nay được sắp xếp rất tài tình để giúp chúng ta cảm nghiệm tình yêu Thiên Chúa qua hai biến cố xảy ra trên Núi Moriah và trên Đồi Golgotha. Trong Bài Đọc I, Sách Sáng Thế Ký tường thuật sự kiện Thiên Chúa muốn thử thách đức tin của ông bằng cách ra lệnh cho ông phải giết Isaac, người con một duy nhất chính Thiên Chúa đã ban cho ông trong lúc tuổi già. Với một niềm tin sắt đá vào Thiên Chúa, ông đã giơ dao sẵn sàng giết con theo lệnh truyền của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc II, Thánh Phaolô đã so sánh biến cố này với biến cố Tử Nạn của Chúa Giêsu trên Đồi Golgotha, trước khi rút ra kết luận: Nếu Thiên Chúa đã yêu con người đến độ đã hy sinh Người Con Một cho con người, còn gì có thể mà Thiên Chúa không làm cho con người. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu mang 3 môn đệ thân tín lên núi Thabor, cho các ông xem thấy vinh quang của Ngài, để chuẩn bị cho các ông đối diện với Cuộc Thương Khó sắp tới. 

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC: 

1/ Bài đọc I: Tổ-phụ Abraham sẵn sàng hy sinh người con một cho Thiên Chúa.

1.1/ Đức tin của Tổ-phụ Abraham: Đức tin phải chịu thử thách. Trình thuật Sáng Thế Ký hôm nay nói rõ: “Thiên Chúa muốn thử lòng ông Abraham.” Nhưng là một thử thách quá to lớn, vượt quá sức chịu đựng của con người khi Thiên Chúa đòi hỏi: “Hãy đem con của ngươi, đứa con một yêu dấu của ngươi là Isaac, hãy đi đến xứ Moriah mà dâng nó làm lễ toàn thiêu ở đấy, trên một ngọn núi Ta sẽ chỉ cho.”
            (1) Nếu chúng ta là Abraham, chúng ta sẽ phản ứng làm sao trước đòi hỏi của Thiên Chúa:
            * Đủ rồi Chúa ơi! Hết cách để thử rồi sao Chúa? Đây là người con một, người con Chúa ban cho trong lúc tuổi già. Nếu Thiên Chúa muốn Isaac như thế, chẳng thà đừng ban!
            * Làm sao một người cha có can đảm cầm dao giết đứa con vô cùng yêu quí của mình? Lại là đứa con nối dõi tông đường!
            (2) Phản ứng của Abraham: Nếu cứ quanh quẩn với lý luận con người, Abraham sẽ không thể hiểu nổi và chấp nhận đòi hỏi của Thiên Chúa, vì nó quá vô lý; nhưng ông chọn, như bao nhiêu lần đã chọn, để sống theo niềm tin. Thiên Chúa ban cho rồi Thiên Chúa cất đi, xin cho ý Ngài thể hiện. Thiên Chúa cất đi rồi Thiên Chúa lại ban, chẳng có gì không thể đối với Ngài. Vì thế, khi tới nơi Thiên Chúa đã chỉ, ông Abraham dựng bàn thờ tại đó, xếp củi lên, trói Isaac con ông lại, và đặt lên bàn thờ, trên đống củi. Rồi ông Abraham đưa tay ra cầm lấy dao để sát tế con mình.

1.2/ Vở bi kịch chấm dứt các đột ngột: Nhưng sứ thần của Đức Chúa từ trời gọi ông: "Abraham! Abraham!" Ông thưa: "Dạ, con đây!" Người nói: "Đừng giơ tay hại đứa trẻ, đừng làm gì nó! Bây giờ Ta biết ngươi là kẻ kính sợ Thiên Chúa: đối với Ta, con của ngươi, con một của ngươi, ngươi cũng chẳng tiếc!"
            - Thiên Chúa nhìn thấu suốt tâm hồn Abraham: Ông thực sự đặt niềm tin trọn vẹn nơi Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa muốn thử ông, nên khi thấy ông đã chứng tỏ niềm tin, Thiên Chúa không cần phải nhìn thêm điều gì nữa.
            - Tổ-phụ Abraham dâng của lễ thay cho con mình là Isaac: “Ngước mắt lên nhìn, thì thấy phía sau có con cừu đực bị mắc sừng trong bụi cây. Ông Abraham liền đi bắt con cừu ấy mà dâng làm lễ toàn thiêu thay cho con mình.”

1.3/ Phần thưởng Đức Chúa hứa ban cho Tổ-phụ Abraham: Sứ thần của Đức Chúa từ trời gọi ông Abraham một lần nữa và nói: "Đây là sấm ngôn của Đức Chúa, Ta lấy chính danh Ta mà thề: bởi vì ngươi đã làm điều đó, đã không tiếc con của ngươi, con một của ngươi, nên Ta sẽ thi ân giáng phúc cho ngươi:
            (1) Giòng dõi đông đúc: Ta sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên đông, nên nhiều như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển.
            (2) Đất Hứa: Giòng dõi ngươi sẽ chiếm được thành trì của địch.
            (3) Và một dân tộc được tuyển chọn: Mọi dân tộc trên mặt đất sẽ cầu chúc cho nhau được phúc như dòng dõi ngươi, chính bởi vì ngươi đã vâng lời Ta.

2/ Bài đọc II: Thiên Chúa đã hy sinh Người Con Một cho con người.

2.1/ So sánh tình yêu của Thiên Chúa với tình yêu của Tổ-phụ Abraham: Biến cố xảy ra trên Núi Moriah chỉ là hình bóng và sự chuẩn bị để con người hiểu được biến cố xảy ra trên Đồi Golgotha. Có nhiều điểm giống nhau và khác nhau giữa hai biến cố này:
            (1) Cả hai người cha đều sẵn sàng hy sinh Người Con Một, người con yêu quí nhất. Nếu chúng ta hiểu được tình cha con giữa Abraham và Isaac, chúng ta cảm nghiệm được phần nào tình yêu giữa Chúa Cha và Chúa Con. Trong sự quan phòng của Thiên Chúa, biến cố Abraham-Isaac là để chuẩn bị tâm hồn chúng ta cho biến cố Chúa Giêsu, để chúng ta cảm nhận được phần nào tình yêu Thiên Chúa dành cho con người.
            (2) Một sự khác biệt vô cùng lớn lao giữa hai biến cố: Trong biến cố Cựu Ước, Isaac không chết, con cừu đực được giết làm của lễ tòan thiêu chết thay cho con trẻ. Trong biến cố Tân Ước, Chúa Giêsu đã chết thực sự thay cho con người bằng cái chết tủi nhục và đau đớn hơn nhiều. Nếu chúng ta đã từng bất bình khi Thiên Chúa đòi Abraham sát tế con mình, chúng ta có thể hiểu nổi tình thương Thiên Chúa dành cho con người không? Thiên Chúa, chúng ta chưa từng xem thấy; nhưng khi nhìn thấy Chúa Giêsu chết treo trên Thập Giá, chúng ta cảm nhận được tình yêu quá lớn lao Ngài dành cho con người.
2.2/ Thiên Chúa không kết án con người: Thánh Phaolô giúp chúng ta rút ra một số kết luận từ biến cố này: “Vậy còn phải nói gì thêm nữa? Có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta? Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta?”
            Thiên Chúa không muốn kết án con người, con người kết án chính mình bằng cách dửng dưng hay quay lưng lại với tình yêu Thiên Chúa: “Ai sẽ buộc tội những người Thiên Chúa đã chọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa, Đấng làm cho nên công chính? Ai sẽ kết án họ? Chẳng lẽ Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết, hơn nữa, đã sống lại, và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta?”

3/ Phúc Âm: Chúa Giêsu biến hình để chuẩn bị tâm hồn cho các Tông-đồ.

3.1/ Mục đích của việc Biến Hình: Chúa Giêsu cho các Tông-đồ nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa là để dạy cho các ông bài học: phải qua đau khổ mới đạt tới vinh quang. Ngài chuẩn bị cho các Tông-đồ trước Cuộc Thương Khó sắp tới; để khi các ông phải đương đầu với Cuộc Thương Khó, các ông có sức mạnh để chịu đựng và vượt qua.
3.2/ Chúa Giêsu mặc khải cho các Tông-đồ nhiều điều: Có nhiều điều Chúa Giêsu muốn mặc khải cho các Tông-đồ qua việc Biến Hình này, nhưng không được trình bày cách rõ ràng:
            (1) Ngài chính là Con Thiên Chúa: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người.”
Đây là lần thứ hai Thiên Chúa Cha nói những lời này; lần thứ nhất trong biến cố Chúa chịu Phép Rửa tại sông Jordan trước khi Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ rao giảng. Lần này trước khi Chúa Giêsu bắt đầu Cuộc Thương Khó và Phục Sinh. Mục đích là để các Tông-đồ xác tín mối liên hệ giữa Chúa Cha và Chúa Con.
            (2) Ngài chính là Đấng Thiên Sai mà Luật và các tiên-tri loan báo: Sự có mặt của hai chứng nhân: ông Elijah đại diện cho các tiên tri, cùng ông Moses đại diện cho Luật, hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu, chứng tỏ điều này.
            (3) Đấng Thiên Sai tự nguyện chọn con đường Thập Giá: Câu hỏi của các môn đệ ở cuối trình thuật: "từ cõi chết sống lại nghĩa là gì?” chứng tỏ các ông biết họ đàm đạo về Cuộc Thương Khó sắp xảy ra cho Chúa Giêsu tại Jerusalem. Trình thuật Biến Hình của Luca nói rõ điều này.
            (4) Tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người: Đây là điểm cao của việc Biến Hình, mặc dù trình thuật không đề cập tới. Khi cho Con của Ngài đi qua Cuộc Thương Khó để cứu chuộc con người, Thiên Chúa muốn các ông hiểu tình yêu của Ngài dành cho con người.
            (5) Chúa Giêsu tự nguyện đi qua Cuộc Thương Khó: Các ông đã nghe chính Ngài bàn với các chứng nhân Cựu Ước về những gì sắp xảy ra; để khi nó thực sự xảy ra, các ông biết đó không phải là chuyện tình cờ. Ngài tình nguyện chấp nhận chịu đau khổ, chứ không phải Ngài thua cuộc trước bạo lực của con người.
3.3/ Tại sao Chúa Giêsu ngăn cấm các ông kể lại việc Biến Hình:
            - Bí mật của Đấng Thiên Sai: Có những việc chỉ cần cho một số người biết, nếu không sẽ gây hoang mang. Có những việc chỉ được tiết lộ khi thời gian đã chín mùi. Chúa chỉ tỏ việc Biến Hình cho ba môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê, và Gioan. Ở trên núi xuống, Đức Giêsu truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại.
 ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

            - Thiên Chúa cho Người Con Một là cho chính Ngài. Ngài cũng mong chúng ta phải cho chính người con một của chúng ta, tức là cho chính chúng ta, như Abraham vậy. Tình yêu trọn vẹn là như thế. Thiên Chúa chứng tỏ tình yêu của Ngài qua hai biến cố: chuẩn bị tâm hồn con người qua biến cố Abraham-Isaac, và cảm nghiệm rõ ràng qua Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu.
            - Chúng ta không thể hiểu sự thử thách của Thiên Chúa dành cho Abraham, và càng không thể hiểu nổi tại sao Thiên Chúa lại hy sinh Người Con Một của Ngài. Điều này giúp chúng ta những lúc không thể hiểu tại sao Thiên Chúa để đau khổ xảy ra, chúng ta biết tin tưởng vào Ngài như Abraham.
            - Đức tin phải được tôi luyện trong thử thách và đau khổ. Đàng sau Cuộc Thương Khó và Thập Giá là vinh quang Phục Sinh. Nếu chúng ta từ chối đau khổ và Thập Giá, chúng ta cũng từ chối con đường dẫn tới vinh quang Phục Sinh.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.


25/02/2018
CHÚA NHẬT TUẦN 2 MC – B
Mc 9,2-10

HÃY VÂNG NGHE LỜI NGƯỜI

Từ đám mây, có tiếng Chúa Cha phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người.” (Mc 9,7)

Suy niệm: Thông thường ta giới thiệu nhau khi mới gặp lần đầu hoặc quen biết nhau rồi, nhưng khuôn mặt bị phai mờ theo thời gian hay bị biến dạng cách nào đó, lúc ấy cần phải giới thiệu lại để người ta có thể nhận biết nhau cách chính xác. Cũng vậy, trong bối cảnh Chúa Giê-su chuẩn bị bước vào cuộc Khổ nạn, khi thân xác Ngài sẽ bị biến dạng bởi những cực hình do con người gây ra, Chúa Cha đã xuất hiện để giới thiệu: “Đây là Con Ta yêu dấu.” Lời khẳng định ấy thì cần thiết, bởi người ta quen nghĩ rằng những gì thuộc Thiên Chúa phải nguy nga, phải lộng lẫy, hoành tráng. Trong khi ấy Thiên Chúa lại hành động qua những gì thế gian cho hèn mạt, không đáng kể... (1Cr 1,27-29). Chính vì thế, cần phải có lời dặn dò của Chúa Cha “Hãy vâng nghe lời Người” để các môn đệ có thể đứng vững trong cuộc Khổ nạn của Thầy mình.

Mời Bạn: “Chúa Ki-tô hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là một” (Dt 13,8). Ngài vẫn là Con yêu dấu của Cha, nhưng đồng thời, Ngài hiện diện giữa nhân loại qua những cách thế rất bình thường, nếu không muốn nói là tầm thường. Vì thế, nguy cơ vấp phạm về Ngài là rất cao. Liệu rằng chúng ta có dễ dàng “vâng nghe” tiếng của Ngài đang nói qua Bí tích Thánh Thể, qua Lời Chúa, qua Giáo hội và qua những người bé mọn, nghèo hèn không?

Sống Lời Chúa: Tập cho mình thói quen đừng bao giờ thắc mắc “tại sao?” trước những hành động của Thiên Chúa. Nhưng nếu không hiểu thì hãy hỏi “việc ấy xảy ra thế nào?” để rồi đáp lời “xin vâng” như Đức Ma-ri-a.

Cầu nguyện: Hát bài “Xin vâng.”
(5 phút Lời Chúa)


 ĐƯỢC BIN HÌNH ĐI DNG (25.2.2018 – Chúa nht 2 Mùa Chay, Năm B)
Người Kitô hu lên núi gp Chúa đ ri được sai xung núi hành đo. Nhưng xung núi ri, li có khi thy cn lên núi.


Suy nim:
Ðức Giêsu mê những ngọn núi vắng vẻ,
đó là nơi Ngài gặp gỡ Cha, chìm đắm trong cầu nguyện.
Có nhiều ngọn núi trong cuộc đời Ðức Giêsu:
núi của Bài Giảng về các mối phúc,
núi Tabo nơi Ngài biến hình,
núi Sọ và núi Ôliu nơi Chúa thăng thiên.
Những ngọn núi trở thành cột mốc đánh dấu.
Những ngọn núi đan vào nhau làm nên cuộc hành trình.
Ba môn đệ thân tín được Ngài đưa lên núi Tabo,
để củng cố niềm tin của họ,
trước khi họ thấy Ngài như người bị Cha bỏ rơi
và bị mọi người khai trừ ruồng rẫy trên núi Sọ.
Nhưng vinh quang của núi Tabo
chỉ là một loé sáng bất ngờ và tạm thời,
báo trước vinh quang viên mãn khi Ngài về Thiên Quốc.
Biến hình là một hành động của Thiên Chúa Cha.
Sau khi gặp Cha, Ðức Giêsu được Cha biến hình.
Sự biến đổi này ảnh hưởng đến thân xác và khuôn mặt,
và đến cả y phục của Ngài.
Vinh quang của Con Thiên Chúa làm người vốn bị che khuất,
nay được Cha hé mở cho các môn đệ.
Ông Môsê ngày xưa, sau khi lên núi gặp Ðức Chúa
cũng đã phải che lại khuôn mặt chói lọi của mình.
Chẳng ai gặp Thiên Chúa thực sự mà lại không biến hình.
Ðời sống kết hiệp thực sự với Thiên Chúa
làm cho người Kitô hữu tỏa sáng rực rỡ.
Biến hình không phải là trở thành cái gì khác mình,
như Tôn Ngộ Không với các trò biến hoá.
Biến hình là trở lại với cái tôi sâu thẳm của mình:
tôi là con yêu dấu của Thiên Chúa.
Từ khi chịu phép Thánh Tẩy,
chúng ta đã bước vào một cuộc biến hình,
từ từ và liên tục.
Nếu chúng ta chấp nhận đi vào đường hẹp của Thầy Giêsu
chúng ta sẽ được biến hình đổi dạng
và phản ánh ngời sáng hơn vinh quang Chúa (x. 2Cr 3,18).
Chúng ta phải trở thành điều chúng ta đang là.
Ðời sống Kitô hữu là một cuộc lên núi
và xuống núi với Chúa Kitô mỗi ngày.
Cần cảm nếm được sự dịu ngọt và hạnh phúc
khi được chiêm ngắm Chúa Giêsu trên núi cao.
Nhưng cũng phải xuống núi với Chúa
để đi đến nơi hiến mình, nơi phục vụ,
đi cùng và đi sau Chúa Giêsu
đến với Vườn Dầu và Núi Sọ.
Ước gì chúng ta dám đón nhận những gai góc đời thường
và nhìn mọi khổ đau bằng cái nhìn mới mẻ.
Người Kitô hữu lên núi gặp Chúa
để rồi được sai xuống núi hành đạo.
Nhưng xuống núi rồi, lại có khi thấy cần lên núi.
Cầu nguyn:
Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào,
xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng.

Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc,
xin cho con quý chuộng những lúc
được an nghỉ trước nhan Chúa.

Khi bị xao động bởi những bận tâm và âu lo,
xin cho con biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa
để nghe lời Người.

Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng,
xin cho con thoát được lên cao
nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.

Lạy Chúa,
ước gì tinh thần cầu nguyện
thấm nhuần vào cả đời con.
Nhờ cầu nguyện,
xin cho con gặp được con người thật của con
và khuôn mặt thật của Chúa.

Lm Antôn Nguyn Cao Siêu, SJ


Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
25 THÁNG HAI
Tin Tưởng Vào Thiên Chúa,
Đấng Cứu Thoát
Người It-ra-en thường ôn lại đêm tối của cuộc Xuất Hành, và hoài niệm ấy giúp khích lệ họ tin tưởng vào Thiên Chúa – Đấng cứu thoát họ.
Giáo Hội – cùng với Tông Đồ Phao-lô – nhìn về đêm Phục Sinh. Ở đó, Giáo Hội tìm thấy niềm khích lệ giữ vững đức tin của mình – một đức tin vốn xuất phát từ mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Kitô: “Vì nếu anh em tuyên xưng …rằng Đức Giêsu là Chúa và chân thành tin rằng Thiên Chúa đã phục sinh Người từ cõi chết, thì anh em sẽ được cứu độ” (Rm 10, 9).
Với những lời ấy, Thánh Phao-lô muốn dạy chúng ta ý thức hơn về nhu cầu cần được cứu độ của mình. Chúng ta cần phải kêu cầu sự giải cứu ấy, sự giải cứu đến từ mầu nhiệm cái chết và sự phục sinh của Đức Kitô: “Bất cứ ai kêu cầu danh Chúa sẽ được cứu độ” (Rm 10, 13).


Hạnh Các Thánh
25 Tháng Hai

    Chân Phước Sebastian ở Aparicio
    (1502 - 1600)


    Những con đường và nhịp cầu mà Chân Phước Sebastian xây dựng thì nối liền nhiều chỗ thật xa cách. Nhịp cầu sau cùng ngài hoàn tất là giúp người ta nhận biết phẩm giá và cùng đích mà Thiên Chúa đã ban cho loài người.

    Cha mẹ của Sebastian là nông dân Tây Ban Nha. Vào năm 31 tuổi, ngài xuống tàu đi Mễ Tây Cơ, ở đây ngài làm việc đồng áng. Sau đó ngài xây đắp những con đường để thuận tiện cho việc trao đổi nông nghiệp và thương mãi. Con đường ngài xây từ Mexico City cho đến Zacatecas dài 466 dặm và phải mất 10 năm mới hoàn tất, và vừa phải khéo léo thương thuyết với những người thổ dân.

    Sau cùng, Sebastian là một điền chủ giàu có. Khi 60 tuổi ngài lập gia đình với một trinh nữ. Ðộng lực chính mà người trinh nữ kết hôn với ngài có lẽ là số gia tài kếch sù; phần ngài thì muốn giúp đỡ người con gái nghèo nàn không có của hồi môn ấy một cuộc đời xứng đáng. Khi người vợ thứ nhất qua đời, ngài lấy một trinh nữ thứ hai cũng vì lý do như trước; và người vợ thứ hai cũng chết sớm.

    Vào năm 72 tuổi, Sebastian phân phát tài sản cho người nghèo rồi gia nhập dòng Phanxicô với tư cách của một thầy trợ sĩ. Ðược giao cho công việc ẩm thực của tu viện rộng lớn ở Puebla de los Angeles (100 thành viên) nằm về phía nam của Mexico City, Thầy Sebastian đã chu toàn bổn phận đi khất thực trong 25 năm. Lòng bác ái của thầy đối với tất cả mọi người thật xứng với cái tên mà người ta đã đặt cho ngài, "Thiên Thần của Mễ Tây Cơ."

    Thầy Sebastian được phong chân phước năm 1787 và là quan thầy của những người lữ hành.


    Lời Bàn

    Theo Quy Luật Thánh Phanxicô, các tu sĩ phải làm việc để có miếng ăn. Nhưng đôi khi công việc của họ không đủ cung cấp cho nhu cầu; thí dụ, họ chăm sóc người cùi là những người không có gì để đáp trả. Trong trường hợp ấy, các tu sĩ được phép đi xin, và luôn nhớ đến điều nhắc nhở của Thánh Phanxicô là hãy làm gương tốt để khuyến dụ dân chúng. Cuộc đời của Chân Phước Sebastian, dù tuổi già nhưng vẫn hăng say, chắc chắn đã đưa nhiều người đến gần Thiên Chúa hơn.


    Lời Trích

    Có lần Thánh Phanxicô nói với các môn sinh:"Giữa thế gian và tu sĩ có một giao kèo. Tu sĩ phải đem lại cho thế gian gương mẫu tốt lành; và thế gian phải cung ứng cho các nhu cầu của họ. Khi các tu sĩ hư hỏng đức tin và không còn làm gương tốt, thế gian sẽ rút tay lại như một sự khiển trách chính đáng" (2 Celano, #70).
    
    Trích từ NguoiTinHuu.com


25 Tháng Hai

    Dân Thành Athènes

    Ngày kia, triết gia Esopos người Hy Lạp ngồi bên vệ đường trước cổng thành Ethènes. Một người khách lạ tình cờ đi qua dừng lại hỏi ông như sau: "Dân thành Athènes như thế nào?".

    Triết gia bèn trả lời: "Xin ông cho tôi biết ông đến từ đâu và dân tình ở đó như thế nào?". Người khách lạ nhíu mày cằn nhằn: "Tôi đến từ Argos và dân Argos toàn là một lũ người láo khoét, trộm cắp, cãi cọ suốt ngày".

    Một cách bình thản, triết gia Esopos mỉm cười đáp: "Tôi rất lấy làm buồn để báo cho ông biết rằng rồi ra ông sẽ thấy dân thành Athènes còn tệ hơn thế nữa".

    Ngày hôm sau, một người khách lạ khác đi qua và cũng dừng lại đặt một câu hỏi: "Dân thành Athènes như thế nào?". Người khách lạ ấy cũng cho biết mình đến từ Argos là nơi mà ông cho là quê hương yêu dấu mà ông buộc lòng phải rời xa, bởi vì dân chúng Argos là những người rất dễ thương, dễ mến...

    Lần này, triết gia Esopos cũng biểu đồng tình với người khách lạ như sau: "Này ông bạn đáng mến, tôi rất vui mừng cho ông biết rằng ông sẽ nhận thấy dân thành Athènes cũng dễ thương dễ mến như thế".

    Câu chuyện mang tính cách ngụ ngôn trên đây muốn nói với chúng ta rằng cách thẩm định người khác tùy thuộc ở tình cảm của mỗi người. Cùng một con người ấy, cùng một khung cảnh ấy, nhưng có người ưa, có kẻ chê. Sự khác biệt trong cách thẩm định ấy thường không nằm trong người khác hoặc cảnh vật khác, mà chính là ở tâm trạng của mỗi người. Thi sĩ Nguyễn Du đã có lý khi bảo rằng: "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ".

    Người Kitô chúng ta luôn được mời gọi để có cái nhìn lạc quan về các biến cố và con người, nghĩa là chúng ta được mời gọi để luôn có cái nhìn tích cực về người khác và các biến cố. Một thất bại rủi ro xảy đến ư? Người Kitô hãy cố gắng khám phá ra những đường nét dễ thương dễ mến trong khuôn mặt, trong cách cư xử của người đó. Chúng ta hãy làm như loài ong: từ giữa bao nhiêu vị đắng cay của cánh hoa, loài ong chỉ rút ra toàn mật ngọt...

    Ðức cố Giáo Hoàng Gioan 23 đã ghi trong nhật ký của Ngài như sau: "Do bản chất, tôi vui vẻ và sẵn sàng chỉ thấy những khía cạnh tốt đẹp của sự vật và con người hơn là phê bình chỉ trích và đưa ra những phán đoán độc hại... Mỗi một cử chỉ khiếm nhã đối với bất cứ ai, nhất là những người nghèo hèn, thấp kém, hoặc bất cứ một chỉ trích phá hoại nào, đều làm cho tôi đau lòng".

    Trích sách Lẽ Sống


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét