08/02/2019
Thứ Sáu tuần 4 thường niên.
BÀI ĐỌC I: Dt 13, 1-8
“Đức Giêsu Kitô hôm qua, hôm
nay và cho đến muôn đời vẫn như thế”.
Trích thơ gửi tín hữu
Do-thái.
Anh em thân mến, tình
bác ái huynh đệ phải tồn tại trong anh em. Anh em đừng lãng quên việc cho khách
đỗ nhà: vì khi làm như vậy, có kẻ không ngờ mình đã đón tiếp các thiên thần.
Anh em hãy nhớ đến những tù nhân như chính anh em bị tù đày chung với họ, và
hãy nhớ đến những kẻ đau khổ, vì chính anh em cũng đang ở trong thân xác như họ.
Mọi người phải tôn trọng hôn nhân, hãy giữ phòng the cho tinh khiết, vì Thiên
Chúa sẽ đoán phạt các người tà dâm và ngoại tình. Trong nếp sống, anh em đừng
tham lam; hãy bằng lòng với những gì đang có, vì Chúa đã phán: “Ta sẽ không để
mặc ngươi và không bỏ rơi ngươi đâu”, đến nỗi chúng ta có thể tin tưởng mà thưa
rằng: “Chúa là Đấng phù trợ tôi, tôi chẳng sợ người đời làm gì được tôi”. Anh
em hãy nhớ đến các vị lãnh đạo anh em, là những người đã rao giảng lời Chúa cho
anh em. Hãy nhìn xem đời họ kết thúc ra sao mà noi gương đức tin của họ. Đức
Giêsu Kitô hôm qua, hôm nay, và cho đến muôn đời vẫn như thế. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 26, 1. 3. 5.
8b-9abc
Đáp: Chúa là sự
sáng và là Đấng cứu độ tôi (c. 1a).
Xướng: 1) Chúa là sự
sáng, là Đấng cứu độ tôi, tôi sợ chi ai? Chúa là Đấng phù trợ đời tôi, tôi sợ
gì ai? – Đáp.
2) Nếu thiên hạ đồn
binh hạ trại để hại tôi, lòng tôi sẽ không kinh hãi, nếu thiên hạ gây chiến với
tôi, tôi vẫn tự tin. – Đáp.
3) Vì ngày tai hoạ,
Chúa sẽ che chở tôi trong nhà Chúa, Chúa sẽ giấu tôi trong nơi kín đáo ở Đền
Người, trên tảng đá vững chắc Người sẽ cất nhắc tôi lên. – Đáp.
4) Và lạy Chúa, con
tìm ra mắt Chúa. Xin Chúa đừng ẩn mặt xa con, xin đừng xua đuổi tôi tớ Ngài
trong thịnh nộ. Chúa là Đấng phù trợ con, xin đừng hất hủi con. – Đáp.
ALLELUIA: Mt 4, 4b
Alleluia, alleluia!
– Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa
phán ra. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mc 6, 14-29
“Đó chính là Gioan Tẩy Giả trẫm
đã chặt đầu, nay sống lại”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, vua Hêrôđê
nghe nói về Chúa Giêsu, vì danh tiếng Người đã lẫy lừng, kẻ thì nói: “Gioan Tẩy
giả đã từ cõi chết sống lại, nên ông đã làm những việc lạ lùng”; kẻ thì bảo:
“Đó là Êlia”; kẻ khác lại rằng: “Đó là một tiên tri như những tiên tri khác”.
Nghe vậy, Hêrôđê nói: “Đó chính là Gioan trẫm đã chặt đầu, nay sống lại”. Vì
chính vua Hêrôđê đã sai bắt Gioan và giam ông trong ngục, nguyên do tại Hêrôđia,
vợ của Philipphê anh vua mà vua đã cưới lấy. Vì Gioan đã bảo Hêrôđê: “Nhà vua
không được phép chiếm lấy vợ anh mình”. Phần Hêrôđia, nàng toan mưu và muốn giết
ông, nhưng không thể làm gì được, vì Hêrôđê kính nể Gioan, biết ông là người
chính trực và thánh thiện, và giữ ông lại. Nghe ông nói, vua rất phân vân,
nhưng lại vui lòng nghe. Dịp thuận tiện xảy đến vào ngày sinh nhật Hêrôđê, khi
vua thết tiệc các quan đại thần trong triều, các sĩ quan và những người vị vọng
xứ Galilêa. Khi con gái nàng Hêrôđia tiến vào nhảy múa, làm đẹp lòng Hêrôđê và
các quan khách, thì vua liền nói với thiếu nữ ấy rằng: “Con muối gì, cứ xin, trẫm
sẽ cho”, và vua thề rằng: “Con xin bất cứ điều gì, dù là nửa nước, trẫm cũng
cho”. Cô ra hỏi mẹ: “Con nên xin gì?” Mẹ cô đáp: “Xin đầu Gioan Tẩy Giả”. Cô liền
vội vàng trở vào xin vua: “Con muốn đức vua ban ngay cho con cái đầu Gioan Tẩy
Giả đặt trên đĩa”. Vua buồn lắm, nhưng vì lời thề và vì có các quan khách, nên
không muốn làm cho thiếu nữ đó buồn. Và lập tức, vua sai một thị vệ đi lấy đầu
Gioan và đặt trên đĩa. Viên thị vệ liền đi vào ngục chặt đầu Gioan, và đặt trên
đĩa trao cho thiếu nữ, và thiếu nữ đem cho mẹ. Nghe tin ấy, các môn đệ Gioan đến
lấy xác ông và mai táng trong mồ. Đó là lời Chúa.
SUY NIỆM : Sự bất tử của
thánh nhân
Những bậc vĩ nhân
thường được nhân gian biến thành bất tử. Người Do thái tin rằng vị tiên tri vĩ
đại nhất của họ là Êlia đã không chết, nhưng được cất nhắc về Trời; khi Gioan Tẩy
Giả xuất hiện, người ta lại tin rằng ngài chính là hiện thân của Êlia: rồi đến
lượt Gioan Tẩy Giả bị giết chết, người ta lại cho rằng ngài đang sống lại trong
con người Chúa Giêsu.
Có lẽ để xóa tan những
lời đồn đoán như thế, thánh sử Marcô đã kể lại từng chi tiết cuộc xử trảm Gioan
Tẩy Giả, cũng như ghi lại việc chôn cất thánh nhân. Gioan Tẩy Giả đã thực sự chết
và ngài đã không bao giờ sống lại, cũng chẳng được cất nhắc lên trời như Êlia.
Gioan Tẩy Giả là nạn
nhân của bất công. Có bất công khi người ta đặt chính trị lên trên những giá trị
khác của cuộc sống, như tinh thần và niềm tin; có bất công khi người ta hành động
theo bản năng hơn là theo tinh thần. Vua Hêrôđê lẫn nàng Hêrôđia đều đã hành động
theo lối ấy. Hêrôđia sống bất chấp luân thường đạo lý, còn Hêrôđê thì cho dù vẫn
sáng suốt để phân biệt được điều ngay với lẽ trái, nhưng lại chọn sống theo bản
năng hơn là lý trí.
Gioan Tẩy Giả đã lên
tiếng tố cáo bất công và sẵn sàng chết cho công lý. Trong ý nghĩa ấy, ngài là vị
tiền hô của Chúa Giêsu, ngài qua đi nhưng tinh thần ngài vẫn sống mãi trong các
môn đệ của ngài, và một cách nào đó, ngài cũng sống trong chính con người Chúa
Giêsu và nơi mỗi người Kitô hữu. Từ 2000 năm qua, Giáo Hội vẫn sống trong niềm
xác tín đó. Chính tinh thần của Gioan Tẩy Giả, của các Tông Ðồ, của các Thánh Tử
Ðạo, đã sống mãi trong Giáo Hội và trở thành giây liên kết mọi Kitô hữu. Ðiều
này luôn được Giáo Hội thể hiện qua cử chỉ hôn kính hài cốt các thánh được đặt
trên bàn thờ. Tập san Giáo Hội Á Châu do Hội Thừa Sai Paris xuất bản tháng
12/1995, có ghi lại chứng từ của một vị Giám mục:
"Chúng tôi đã cất
giữ hài cốt của vị Giám mục tiên khởi của Giáo Hội chúng tôi. Chúng tôi tin rằng
hài cốt này là thánh thiêng đối với chúng tôi, là dấu chỉ mà chúng tôi không
bao giờ được phép quên lãng. Hài cốt này là sợi giây liên kết với Giáo Hội mọi
thời, mọi nơi. Chúng tôi đã luôn nghĩ rằng chúng tôi không thể cất khỏi sợi
giây liên kết hữu hình ấy. Ðây là một dấu chỉ nối kết chúng tôi trực tiếp với
Chúa Kitô. Làm sao người ta có thể đánh mất Chúa Kitô? Chúng tôi cất giữ hài cốt
này, chúng tôi vẫn tiếp tục yêu mến Chúa Kitô và kết hiệp với Người mãi
mãi".
Chúng ta cũng hãy hiên
ngang nói lên niềm tin và lòng trung thành với Chúa Kitô. Cùng với thánh
Phaolô, chúng ta cũng hãy thốt lên: "Không gì có thể tách tôi ra khỏi lòng
yêu mến Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô".
(Trích trong ‘Mỗi Ngày
Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Sáu Tuần 4 TN, Năm lẻ
Bài đọc: Heb
13:1-8; Mk 6:14-29.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Con người cần
trung thành sống theo sự thật.
Đối với những người
không có đức tin nơi Thiên Chúa, họ không tin có sự thật tuyệt đối, và hầu hết
mọi sự thật đều có giá trị tương đối – chỉ đúng trong một thời gian và hòan cảnh
nào đó thôi. Vì thế, họ quan niệm, để có thể bảo đảm thành công trong cuộc đời,
con người cần phải biết sống theo thời; chẳng hạn sống như các câu tục ngữ dạy:
“Gặp thời thế thế thời phải thế!” hay “gió chiều nào che chiều đó!”
Nhưng đối với những
người có đức tin, Đức Giêsu Kitô vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy
mãi đến muôn đời; và thành công trong cuộc đời này không bảo đảm sự thành công
trong cuộc đời mai sau. Vì thế, nếu muốn đạt được cuộc đời mai sau, con người
không thể sống theo thời, mà phải sống theo sự thật.
Các Bải Đọc hôm nay
đưa ra những mẫu người sống theo 2 lối sống khác nhau. Trong Bài Đọc I, tác-giả
Thư Do-Thái khuyên các tín hữu phải sống theo sự thật, tức là sống theo những
gì Thiên Chúa dạy. Lý do là vì Đức Kitô đã chiến thắng tội lỗi và sự chết, con
người được bảo đảm cuộc sống mai sau. Trong Phúc Âm, Thánh Marcô tường thuật hậu
quả của những con người không sống theo sự thật mà chỉ muốn làm vui lòng người
khác như Vua Herode, Bà Hòang Herodia, và Salome, con gái của Bà; trong khi
Gioan Tẩy Giả sẵn sàng chịu cầm tù và chết cho sự thật.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Đức Giêsu Kitô vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay, và như
vậy mãi đến muôn đời.
Sau khi đã chứng minh
Chúa Giêsu, Vị Trung Gian của Giao Ước Mới, đã lấy máu mình mà rửa sạch tội lỗi
của con người, và đem lại Ơn Cứu Độ cho con người, tác giả khuyên các Kitô hữu
phải giữ 7 điều sau đây:
(1) Bác ái huynh đệ:
“Anh em hãy giữ mãi tình huynh đệ.” Đây là một trong hai giới răn căn bản nhất
của Đạo Công Giáo: “Mến Chúa yêu người.” Thánh Gioan nêu lý do tại sao giới răn
này cần thiết: người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là
các con yêu thương nhau.
(2) Tinh thần hiếu
khách: “Anh em đừng quên tỏ lòng hiếu khách, vì nhờ vậy, có những người đã được
tiếp đón các thiên thần mà không biết.” Trong Cựu Ước, Thiên Chúa đã sai các
thiên thần đến loan tin vui cho con người: cho Abraham và Sarah (Gen 18), cho
cha mẹ của Samson (Judg 13), và cho Tobit (Tob 3:17)
(3) An ủi kẻ ưu phiền:
“Anh em hãy nhớ đến các người bị xiềng xích, chẳng khác gì anh em cũng bị xiềng
xích với họ; anh em hãy nhớ đến những người bị hành hạ, chẳng khác gì mình với
họ chỉ là một thân thể.” Đạo lý này trùng hợp với thần học về thân thể của
Thánh Phaolô.
(4) Trong sạch, khiết
tịnh: “Ai nấy phải tôn trọng hôn nhân, chớ làm cho loan phòng ra ô uế, vì Thiên
Chúa sẽ xét xử các kẻ gian dâm và ngoại tình.” Lý do tại sao phải sống khiết tịnh
vì chỉ có những ai có lòng trong sạch mới được nhìn thấy Thiên Chúa.
(5) Trung thành tin tưởng
nơi Thiên Chúa: “Trong cách ăn nết ở, anh em đừng có ham tiền, hãy coi những gì
mình đang có là đủ, vì Thiên Chúa đã phán: Ta sẽ không bỏ rơi ngươi, Ta sẽ
không ruồng bỏ ngươi! đến nỗi chúng ta có thể tin tưởng mà nói: Có Chúa ở cùng
tôi mà bênh đỡ, tôi chẳng sợ gì. Hỏi người đời làm chi tôi được?” Nếu Thiên
Chúa đã sẵn sàng hy sinh Người Con Một cho con người, hỏi còn điều gì quí giá
hơn Người Con này? Thiên Chúa không ban của cải dư đầy vì nó gây nhiều thiệt hại
hơn là lợi ích.
(6) Theo gương anh
hùng của người xưa: “Anh em hãy nhớ đến những người lãnh đạo đã giảng Lời Chúa
cho anh em. Hãy nhìn xem cuộc đời họ kết thúc thế nào mà noi theo lòng tin của
họ.” Người Công Giáo không thiếu những gương sáng để noi theo: trước hết và
trên hết là gương Đức Kitô, sau đó đến các Tổ-phụ, Tiên-tri, rồi đến gương các
thánh nam nữ ở mọi thời, sau cùng gương cha mẹ và các cha xứ, các thầy, các sơ,
những người sống gần gũi trong thời chúng ta.
(7) Đừng sống theo những
ngụy thuyết của thế gian: Sự thật không thay đổi: “Đức Giêsu Kitô vẫn là một,
hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời.”
2/ Phúc Âm: Gioan Tẩy Giả chết làm chứng cho sự thật.
2.1/ Rau nào sâu nấy: Nhìn vào gia đình của Herode, một người có thể nhìn thấy
quyền lực vủa ma quỉ thống trị gia đình này. Vua Herode Cả có tất cả 5 đời vợ
(Cleopatra của Jerusalem, Doris, Mariamne của Hasmonean, Mariamne của
Boethusian, và Malthake). Chính ông đã giết 3 người con: Antipater bởi Bà
Doris, Alexander và Aristobulus bởi Bà Mariamne của Hasmomean. Lọan luân xảy ra
khi Herodias, con của Aristobulus, kết hôn với Philip, chú của Bà; rồi lại muốn
kết hôn với Herode Antipas, em của Philip, như trình thuật kể hôm nay. Chuyện lọan
luân khác nữa là Salome, người con gái của Bà Herodias trong trình thuật hôm
nay, lại kết hôn với Philip, con của Bà Cleopatra.
2.2/ Các thái độ sống
khác nhau trong cuộc đời:
(1) Vua Herode
Antipas: thừa hưởng một nếp sống hoang dâm và ác độc của vua cha, ông cũng
không sống theo lập trường rõ rệt. Ông đã sai người đi bắt ông Gioan và xiềng
ông trong ngục: lý do là vì vua đã lấy bà Herodia, vợ của người anh là Philíp;
và Gioan đã công khai chỉ trích nhà vua. Thái độ không lập trường của ông được
Marcô mô tả: “Thật vậy, vua Herode biết ông Gioan là người công chính thánh thiện,
nên sợ ông, và còn che chở ông. Nghe ông nói, nhà vua rất phân vân, nhưng lại cứ
thích nghe.”
Sự tình xảy ra là khi
nhà vua mở một bữa tiệc thết đãi quan khách tại Galilee, con gái bà Herodia,
Salome, vào biểu diễn một điệu vũ, làm cho nhà vua và khách dự tiệc vui thích.
Nhà vua nói với cô gái: “Con muốn gì thì cứ xin, ta sẽ ban cho con.” Vua lại
còn thề: “Con xin gì, ta cũng cho, dù một nửa nước của ta cũng được.” Được sự cố
vấn của mẹ, cô xin “đầu của Gioan Tẩy Giả đặt trên đĩa.” Nhà vua buồn lắm,
nhưng vì đã trót thề, lại thề trước khách dự tiệc, nên không muốn thất hứa với
cô. Lập tức, vua sai thị vệ đi và truyền mang đầu ông Gioan tới. Thị vệ ra đi,
chặt đầu ông ở trong ngục, bưng đầu ông trên một cái mâm trao cho cô gái, và cô
gái trao cho mẹ.
(2) Bà Herodia và
Salome: sống và làm chứng cho sự gian trá. Bà Herodia căm thù ông Gioan vì đã
dám ngăn cản hôn nhân của Bà, và muốn giết ông nhưng chưa được. Khi cơ hội tới
qua câu hỏi của cô con gái: “Con nên xin gì đây?” Bà đã lạnh lùng trả lời: “Đầu
Gioan Tẩy Giả.” Lập tức, cô vội trở vào đến bên nhà vua và xin rằng: “Con muốn
ngài ban ngay cho con cái đầu ông Gioan Tẩy Giả, đặt trên mâm.”
(3) Gioan Tẩy Giả: sống
và làm chứng cho sự thật. Ông không chú ý đến nhu cầu vật chất, danh vọng, chức
quyền; nhưng can đảm sống và kêu gọi mọi người ăn năn xám hối.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta phải trung
thành sống theo sự thật, vì một cuộc sống theo thời sẽ không đưa chúng ta tới
đích điểm của cuộc đời.
– Chúng ta sẽ phải trả
giá đắt để sống theo sự thật, nhưng sẽ đem lại cho chúng ta niềm vui, và sẽ
giúp chúng ta đòan tụ với Thiên Chúa và các chứng nhân của sự thật.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
08/02/2019 – THỨ SÁU TUẦN 4 TN
Th. Giô-sê-phi-na Ba-khi-ta, trinh nữ
Mc 6,14-29
ĐỪNG “CHÉM” LƯƠNG TÂM!
“Ông Gio-an, ta đã cho chém đầu, chính ông đã chỗi dậy!’’
(Mc 6,16)
Suy niệm: Bộ Tam Quốc Chí thuật chuyện
Tào Tháo bị ảo giác trước khi chết: ông thấy oan hồn những người đã bị ông ám hại,
nay hiện về đòi mạng. Dưới góc độ tâm lý học, nỗi ám ảnh như thế là hậu quả của
tiếng lương tâm suốt đời bị bóp nghẹt nay vùng dậy như một tiếng kêu gào, đòi
chủ thể của nó phải trả món nợ trách nhiệm về những sai trái ông đã gây ra.
Gio-an Tẩy Giả chính là đại diện cho tiếng nói lương tâm. Lời của ông là lời của
công lý, nhà vua “rất phân vân, nhưng lại cứ thích nghe.” Thế nhưng dục vọng đã
khiến tiếng nói ấy bị bóp nghẹt, nhà vua “nhắm mắt đưa chân” làm điều xằng bậy
và cuối cùng “tay cũng nhúng chàm” sát hại con người dám can gián ông và nói
cho ông điều hay lẽ phải. Chém đầu Gio-an là Hê-rô-đê “chém” chính lương tâm của
mình. Không lạ gì một người độc ác như ông lại bị ám ảnh sâu xa bởi cái chết của
Gio-an Tẩy Giả đến thế.
Mời Bạn: Chẳng có ai nội trong một
sớm một chiều “chém đầu” lương tâm. Ngay từ đầu người ta cũng “thích nghe” tiếng
lương tâm đấy chứ! Thế nhưng chỉ vì người ta đã “phân vân”, do dự, thoả hiệp với
sự ác thay vì mau mắn quyết liệt và triệt để nghe theo lẽ phải mà người ta đi dần
đến chỗ “bịt miệng”, “bỏ tù” lương tâm. Từ đó đến chỗ “xử trảm” lương tâm nào
có còn bao xa! Phần bạn, có khi nào bạn đã “chém đầu” tiếng lương tâm của mình
chưa? Bạn ơi, ngày hôm nay nếu bạn nghe tiếng Chúa, bạn đừng cứng lòng, bạn
nhé! (x. Tv 94).
Sống Lời Chúa: Thường xuyên kiểm điểm đời
sống để bồi dưỡng lương tâm.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin
cho con biết đào luyện và nghe theo tiếng lương tâm trong con.
(5 Phút Lời Chúa)
Vì đã trót thề (8.2.2019 – Thứ Sáu Tuần 4 TN)
Suy niệm:
Như mọi con người khác ở trên đời,
con người của Hêrôđê bị giằng co giữa cái xấu và cái tốt.
Vấn đề là ông ta sẽ ngả theo cái nào.
Hêrôđê biết Gioan là người công chính thánh thiện nên sợ ông.
Hêrôđê đã bảo vệ che chở cho Gioan và thich nghe ông nói,
dù những điều đó làm Hêrôđê hết sức bối rối (c. 20).
Nhưng Hêrôđê cũng là người đã sai bắt Gioan và xiềng ông trong ngục,
chỉ vì Gioan dám nói: “Nhà vua không được lấy vợ của anh mình.”
Rõ ràng cái ác trong Hêrôđê đã thắng cái thiện, cái xấu đã thắng cái tốt.
Hêrôđê thuộc loại người “nghe lời thì liền vui vẻ đón nhận,
nhưng không đâm rễ, mà là những kẻ nông nổi nhất thời…” (Mc 4, 16-17).
Chính vì thế khi gặp thử thách thì ông vấp ngã ngay.
Hêrôđê còn quỵ ngã một lần nữa nặng hơn.
Ngày sinh nhật của ông cũng là ngày chết của một vị ngôn sứ.
Khi con gái bà Hêrôđia biểu diễn một điệu múa làm vui lòng mọi người,
Hêrôđê đã lỡ thề hứa một điều thiếu khôn ngoan,
trước mặt bá quan văn võ và các thân hào miền Galilê:
“Con xin gì, ta cũng cho, dù một nửa nước của ta cũng được” (c. 23).
Không biết lúc đó Hêrôđê đã say chưa,
nhưng chắc chắn nhà vua đã quên một điều quan trọng.
Ông quên mình chỉ là một tiểu vương nắm vùng Galilê và Pêrê (Lc 3,1),
nên ông không có quyền cho đất hay chia đất.
Bà Hêrôđia đã không bỏ lỡ cơ hội ngàn vàng này để trả thù Gioan.
Bà nói với cô con gái xin đầu Gioan Tẩy giả (c. 24).
Hẳn điều này là một bất ngờ lớn đối với Hêrôđê .
Lập tức ông bị đặt vào thế giằng co xâu xé.
Một mặt ông hết sức đau buồn vì quý mạng sống của Gioan.
Mặt khác ông lại không muốn thất hứa với cô bé,
một lời hứa đã trót nói ra công khai trước mặt quan khách dự tiệc.
Hêrôđê có dám chịu đánh mất chút danh dự của mình không
khi khiêm tốn xin rút lại lời thề hứa vội vàng, bồng bột?
Ông có dám nhận mình đã sai và chịu mất mặt không?
Tiếc quá ! Hêrôđê đã không có được can đảm này.
Như người thanh niên giàu có buồn rầu bỏ đi (Mc 10, 22),
Hêrôđê cũng sẽ buồn suốt đời vì cái chết do ông gây ra.
Như Hêrôđê, sau này Philatô cũng chịu áp lực khi ông xử án Đức Giêsu.
Ông cũng phạm đúng tội của Hêrôđê trước đám đông (Mc 15, 15),
coi ghế ngồi của mình quý hơn mạng sống của Đức Giêsu, người vô tội.
Cầu nguyện:
Lạy Thiên Chúa, đây lời tôi cầu nguyện:
Xin tận diệt, tận diệt trong tim tôi
mọi biển lận tầm thường.
Xin cho tôi sức mạnh thản nhiên
để gánh chịu mọi buồn vui.
Xin cho tôi sức mạnh hiên ngang
để đem tình yêu gánh vác việc đời.
Xin cho tôi sức mạnh ngoan cường
để chẳng bao giờ khinh rẻ người nghèo khó,
hay cúi đầu khuất phục trước ngạo mạn, quyền uy.
Xin cho tôi sức mạnh dẻo dai
để nâng tâm hồn vươn lên khỏi ti tiện hằng ngày.
Và cho tôi sức mạnh tràn trề
để âu yếm dâng mình theo ý Người muốn.
(R. Tagore - Ðỗ Khánh Hoan dịch)
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
8 THÁNG HAI
Nghệ Thuật Giúp Di
Dưỡng Tâm Linh
Các nghệ sĩ là những
người đóng góp rất lớn cho nhân loại. Lao động của họ hậu thuẫn một cách đầy hiệu
năng cho sự cứu độ của con người – bởi vì họ giúp bồi bổ cảm thức tâm linh của
người ta. Khi người ta chiêm ngắm nghệ thuật và vẻ đẹp của nghệ thuật, người ta
đắm mình trong nguồn cảm hứng. Cảm thức tâm linh của người ta được thăng hoa.
Người ta như chạm được sức hút của cõi tinh thần thuần túy. Người ta như thoáng
bắt gặp Thiên Chúa, Đấng là nguồn gốc và cứu cánh của mọi sắc dạng tinh thần.
Ýù thức sâu sắc về điều
này, Giáo Hội “luôn luôn đề cao nghệ thuật và luôn luôn tìm tòi sự phục vụ cao
quí của nghệ thuật… Giáo Hội vẫn thu dụng các loại hình nghệ thuật qua mọi thời.
Thật vậy, dọc theo bao thế kỷ, Giáo Hội đã vun đắp nên một kho tàng nghệ thuật
rất đáng trân trọng bảo tồn” (PV 43).
Cũng vậy, nghệ thuật
thời đại chúng ta hôm nay – của mọi dân tộc – vẫn tìm thấy khung trời mênh mông
để thể hiện chính mình giữa lòng Giáo Hội, miễn là qui hướng phục vụ Thiên Chúa
với niềm tôn kính xứng hợp.
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 08/2
Dt 13, 1-8; Mc 6,
14-29.
LỜI SUY NIÊM: “Vua Hêrôđê nghe
biết về Đức Giêsu, vì Người đã nổi danh. Có kẻ nói: Đó là ông Gioan Tẩy Giả từ
cõi chết trỗi dậy, nên mới có quyền năng làm phép lạ. Kẻ khác nói: Đó là ông
Êlia, kẻ khác lại nói: Đó là một ngôn sứ như trong các ngôn sứ.”
Những điều nghe biết của vua Hêrôđê cũng như những phỏng đoán của đám cận thần
nhà vua. Họ đã không nhận thật về Chúa Giêsu. Điều này không chỉ có vua Hêrôđê,
mà ngay hôm nay. Trong đời sống đạo của chúng ta, cũng đang vấp phải, do không
chịu học hỏi giáo lý, nghe giảng dạy trong các thánh lễ, không chịu đọc Kinh
Thánh, không tham gia những buổi sinh hoạt họi đoàn và các buổi chia sẻ Lời
Chúa, chúng ta cũng khó có thể nhận ra Chúa thật của mình mà mình đang tin và
đang tôn thờ.
Lạy Chúa Giêsu. Xin cho chúng con được ơn ham thích học hỏi giáo lý và Kinh
Thánh, hầu giúp chúng con ngày càng trưởng thành trong đời sống đạo và đức tin.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 08-02
Thánh HIÊRÔNIMÔ
EMILIANÔ
Linh Mục,
(1481-1537)
Cộng hoà Venitia lâm
chiến với các vương quốc. Xuất thân từ một gia đình quí tộc. Hêronimô Emilianô
nhập ngũ từ hồi niên thiếu. Phục vụ cho quê hương từ hồi 15 tuổi, Ngài sống cuộc
đời phóng túng trong quân ngũ, cũng như tỏ ra rất can trường.
Vì vậy mà Ngài được nắm
quyền chỉ huy cứ điểm Castelneve trên núi Trêvis. Pháo đài bị chiếm và Hêronimô
bị bắt tù. Bị xiềng cổ, tay, chân vào một quả cầu bằng thạch cao để hết trốn
thoát nổi. Ngài phải nằm bẹp trong nhà giam. Trong cơn thất vọng tột cùng, đức
tin thời còn trẻ trung chỗi dậy như một ánh sáng và như lời quở trách… Cuộc đời
Kitô hữu tồi tệ vẽ ra trước mắt. Hêronimô nhận biết mình đã phản nghịch Chúa
cách nặng nề.
Ngài tự nghĩ lại mình
không đáng chịu nỗi bất hạnh này sao ? Khi ấy với trọn tâm hồn, Ngài nguyện cầu
Đức Trinh Nữ Maria và khấn hứa nếu được giải thoát Ngài sẽ đi chân không tới viếng
đền Đức Bà Trêvisa và lôi kéo khách hành hương tới đó. Và Ngài đã được giải
thoát cách lạ lùng. Đức Trinh nữ Trêvisa trở thành Bà Chúa của Ngài. Trên bàn
thờ Đức Mẹ Ngài đặt xiềng xích và treo quả thạch cao để phổ biến lòng nhân hậu
của mẹ đối với mình.
Trở lại Venitia,
Hêronimô là một anh hùng và được lãnh nhận những vinh dự của quê hương. Nhưng
Ngài không quên rằng: chính vì một sứ mệnh đối với Tin Mừng mà Ngài được gỡ khỏi
cảnh tù đày. Hết rồi cuộc sống sáng tươi và phân tán, từ nay Ngài sẽ sống đời
bác ái cao độ và thành quả của Ngài sẽ dẫn về cho Chúa những người nghèo, các
em bị bỏ rơi, lang thang, nhơ bẩn, những kẻ không biết rằng mình có linh hồn.
Hêronimô trở thành cha
của chúng. Ngài đi học để chịu chức linh mục. Năm (1518) 37 tuổi Ngài thụ phong
linh mục, hiến mình làm việc bác ái, chia sẻ mọi lợi quyền cho người nghèo khó.
Khi nạn đói, Ngài bán hết đồ đạc trong gia đình để phân phát cho họ. Ngài thuê
nhà để qui tụ các trẻ em không nơi cư ngụ, nuôi dưỡng giáo dục và chuẩn bị cho
chúng thành những công nhân Kitô hữu biết hòa trọn niềm vui tôn giáo. Chẳng hạn
vào những ngày lễ, người ta thấy chúng mặc đồ trắng, từng đoàn đắt nhau đi viếng
các nhà thờ ở Venitia, và ca hát trên các nhà thờ ở Venitia, và ca hát trên các
công trường. Dân chúng mừng rỡ góp phần trợ giúp công cuộc cảm kích này.
Chân phước Gaelan và
Phêrê Caraffa, người sẽ trở thành Đức Thánh Cha Phaolô IV đã đến Venitia. Lòng
bác ái của Hêronimô làm cho các Ngài thán phục, vị tông đồ khi đã thiết lập
xong công việc bác ái của mình sẽ đi lập nhiều nhà thương và các cô nhi vịên mồ
côi ở những thành phố khác. Nơi nào Ngài nghĩ rằng không ai biết mình thì Ngài
hoà mình hoàn toàn vào các đám dân nghèo, sống của bố thí và như họ dịu dàng
truyền bá Phúc âm cho họ, Ngài cũng tìm chỗ nương thân cho các thiếu nữ không
nơi nương tựa bị đe dọa thất thân.
Trẻ em cũng trở thành
những trợ giúp đáng giá cho Ngài. Ngài dạy dỗ chúng và khiến chúng thành giảng
viên giáo lý cho các trẻ em khác. Ngài còn săn sóc cho thân thể chúng nữa, lau
gội những mái đầu bị trứng tóc như một người mẹ. Người ta cũng thấy Ngài gặt
lúa với các nông dân, vừa làm vừa nói với họ những truyện trên trời. Rồi thánh
nhân lui về một cái hang trong núi nhiều ngày đêm, để thờ lạy Chúa trong việc cầu
nguyện, chay tịnh và sám hối.
Một nạn dịch xảy ra
tàn phá xứ sở. Hêronimô Emilianô chạy ngược xuôi săn sóc bệnh nhân, vác người
chết đi chôn. Nhiều khía cạnh anh hùng trong đời sống bác ái của thánh nhân đã ảnh
hưởng tới hàng giáo sĩ và các giáo dân. Ngài lập một hội dòng để dạy dỗ trẻ em
và các linh mục tương lai. Cộng đoàn đầu tiên được Ngài thành lập tại Somasca.
Ngài sẽ thiết lập cả trăm học viện, đại học và chủng viện.
Đức Piô XI đã đặt
thánh Hêronimô Emilianô làm thánh bảo trợ các trẻ em bị bỏ rơi.
(daminhvn.net)
08 Tháng Hai
Sống Lạc Quan
Năm 1989,một cuộc
thi toán quốc tế đã được tổ chức cho các thiếu nhi 13 tuổi thuộc sáu quốc gia
trên thế giới. Kết quả cuộc thi đó cho thấy giỏi toán nhất là các em Ðại Hàn, kế
đó là các em Tây Ban Nha, Anh Quốc, Ailen, Canada và đội sổ là các thiếu nhi
Hoa Kỳ.
Song song với cuộc
thi toán ấy, người ta cũng làm một cuộc thăm dò với chính các thiếu nhi cũng
thuộc lứa tuổi ấy. Người ta đặt một câu khẳng định như sau: “Tôi là người giỏi
toán”. Kết quả cuộc thăm dò cho thấy lạc quan nhất là các trẻ em Hoa Kỳ và bi
quan nhất lại chính là các em Ðại Hàn. Gần 70% các em Hoa Kỳ tự nhận mình là giỏi
toán trong khi đó chỉ có khoảng 20% các em Ðại Hàn tự nhận mình có thực tài.
Qua cuộc thi toán
và thăm dò trên đây, người ta thấy rằng có thể các thiếu nhi Hoa Kỳ không phải
là những trẻ em giỏi toán, nhưng chúng đã tiếp thu rất kỹ bài học về tính lạc
quan do các thầy cô không ngừng giảng dạy tại trường. Nhiều nhà giáo dục người
Mỹ muốn chứng minh rằng nghiện ngập, chửa hoang, bỏ học và hầu hết các tệ đoan
xã hội khác đều có thể được giảm bớt nếu con người biết sống lạc quan, nghĩa là
biết tự nhận và cảm thấy mình là những con người tốt.
Lạc quan là đức tính
cơ bản nhất để thành công trong cuộc sống. Có tin tưởng nơi chính mình, có tin
đời, có tín nhiệm nơi người khác, người ta mới dám bắt tay vào việc. Ngay cả
khi gặp thất bại, thử thách, người lạc quan cũng không lùi bước, bỏ cuộc.
Trong cuộc sống đức
tin, lạc quan là một trong những nhân đức quan trọng nhất. Người tín hữu lạc
quan là người luôn đặt tất cả tin tưởng nơi Thiên Chúa. Người tín hữu lạc quan
là người không bao giờ thất vọng về chính mình. Người tín hữu lạc quan cũng là
người không bao giờ thất vọng về người khác.
Ðá tảng để người tín hữu
xây dựng sự lạc quan của chính mình là Tình Yêu của Thiên Chúa, một tình yêu vượt
lên trên mọi tính toán, đo lường và sự tưởng tượng của con người, một tình yêu
thủy chung.
Tình yêu ấy nói với
con người rằng, không có một con người nào đốn mạt, yếu hèn, xấu xa đến nỗi
Thiên Chúa đành phải bó tay.
Tình yêu ấy nói với
con người rằng, nơi nào có tội lỗi và phản bội càng nhiều, thì nơi đó ân phúc
được thi ân dồi dào hơn.
Tình yêu ấy nói với
con người rằng, đau khổ, cái chết chưa là tận cùng mà là khởi đầu của vinh
quang, của sự sống. Tình yêu ấy mạnh hơn sự chết, tình yêu ấy không bao giờ bỏ
cuộc, đầu hàng.
(Lẽ Sống)







Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét