12/05/2019
Chúa Nhật 4 PHỤC SINH năm C
Chúa Chiên Lành. Cầu cho Ơn Thiên Triệu
Ngày Hiền Mẫu
(phần I)
BÀI ĐỌC I: Cv 13, 14.
43-52
“Đây chúng tôi quay về phía các
dân ngoại”.
Trích sách Tông đồ
Công vụ.
Trong những ngày ấy,
Phaolô và Barnaba sang qua Perghê và đến Antiôkia xứ Pisiđia; ngày Sabbat, các
ngài vào ngồi trong hội đường. Có nhiều người Do-thái và tòng giáo theo các
ngài, được các ngài khuyên bảo bền đỗ trong ơn nghĩa Chúa.
Đến ngày Sabbat sau, hầu
hết cả thành đều đến nghe lời Thiên Chúa. Các người Do-thái thấy đám đông dân
chúng, thì đâm ghen tương, nói lộng ngôn, chống lại các điều Phaolô giảng dạy.
Phaolô và Barnaba can đảm nói rằng: “Phải giảng lời Thiên Chúa cho các ngươi
trước tiên, nhưng vì các ngươi từ chối lời Thiên Chúa và tự cho mình không xứng
đáng sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía các dân ngoại; vả lại Chúa đã
truyền lệnh cho chúng tôi rằng: “Ta đã đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để
ngươi nên ơn cứu độ cho đến tận cùng trái đất”. Nghe vậy các dân ngoại hân hoan
ca tụng lời Chúa; những ai được Chúa tiền định hưởng sự sống đời đời, thì tin
theo, nên lời Chúa được rao giảng khắp cả vùng.
Những người Do-thái
xúi giục các phụ nữ khá giả đã tòng giáo và các thân hào trong thành bắt bớ
Phaolô và Barnaba, rồi trục xuất hai ngài ra khỏi ranh giới xứ họ. Còn hai
ngài, sau khi phủi bụi chân lại cho họ, hai ngài đi đến Icôniô. Còn các môn đồ
thì đầy hân hoan và Thánh Thần. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 99, 2. 3. 5
Đáp: Ta là dân tộc,
là đoàn chiên Chúa chăn nuôi (c. 3c).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Hãy phụng sự
Chúa với niềm vui vẻ; hãy vào trước thiên nhan với lòng hân hoan khoái trá. –
Đáp.
2) Hãy biết rằng Chúa
là Thiên Chúa, chính Người đã tạo tác thân ta, và ta thuộc quyền sở hữu của Người,
ta là dân tộc, là đoàn chiên Chúa chăn nuôi. – Đáp.
3) Vì Thiên Chúa, Người
thiện hảo, lòng từ bi Người tồn tại muôn đời, và lòng trung tín Người còn tới
muôn muôn thế hệ. – Đáp.
BÀI ĐỌC II: Kh 7, 9.
14b-17
“Chiên Con sẽ thống trị họ, và
dẫn họ đến nguồn nước ban sự sống”.
Trích sách Khải Huyền
của Thánh Gioan.
Tôi là Gioan, đã xem
thấy một đám đông không thể đếm được, họ thuộc mọi nòi giống, dòng họ, dân tộc
và tiếng nói, đứng trước ngai vàng và trước Con Chiên; họ mặc áo trắng dài, tay
cầm lá vạn tuế.
Và một bô lão đã nói với
tôi: “Đây là những người từ đau khổ lớn lao mà đến, họ giặt áo và tẩy nó trắng
trong máu Con Chiên. Vì thế, họ ở trước ngai vàng Thiên Chúa, và ngày đêm phụng
sự Người trong đền thánh Chúa, Đấng ngự trên ngai vàng đặt ở giữa họ. Họ sẽ
không còn đói khát; mặt trời và nóng bức sẽ không làm khổ họ, vì Con Chiên đứng
trước ngai vàng sẽ thống trị họ, sẽ dẫn họ đến nguồn nước ban sự sống, và Thiên
Chúa sẽ lau hết mọi giọt lệ nơi mắt họ. Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Ga 10, 14
Alleluia, alleluia!
– Chúa phán: “Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết
Ta”. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Ga 10, 27-30
“Ta ban cho các chiên Ta được sống
đời đời”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu
phán rằng: “Chiên Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta. Ta cho
chúng được sống đời đời; chúng sẽ không bao giờ hư mất, và không ai có thể cướp
được chúng khỏi tay Ta. Điều mà Cha Ta ban cho Ta, thì cao trọng hơn tất cả, và
không ai có thể cướp được khỏi tay Cha Ta. Ta và Cha Ta là một”. Đó là lời Chúa.
Suy Niệm: Cánh đồng
truyền giáo bát ngát cho đến mút cùng trái đất
Hôm nay Hội Thánh
chúng ta trên toàn thế giới cử hành ngày ơn Thiên triệu. Chúng ta thành khẩn cầu
xin Thiên Chúa sai thêm thợ đến đồng lúa và vườn nho của Người. Không phải ở
nơi nào cũng đã đủ số tông đồ đâu. Rất nhiều nơi thiếu linh mục tu sĩ và thiếu
một cách trầm trọng. Và nạn thiếu hụt này có hại cho cả chúng ta chứ không
riêng gì người ở nơi ấy, vì toàn thể Giáo Hội chỉ là một thân thể mầu nhiệm và
một bộ phận đau yếu phải được mọi bộ phận khác thông cảm và giúp đỡ vì lợi ích
chung của toàn thể. Chúng ta phải xin Chúa ban thêm ơn cho giới trẻ ở những nơi
đang thiếu linh mục, tu sĩ được nghe biết tiếng gọi của Chúa và của các linh hồn
để dấn thân tận hiến đời mình cho sứ mạng cứu thế.
Chúng ta còn cần phải
cầu nguyện sốt sắng hơn nữa để các linh mục, tu sĩ nhiệt thành sống đúng với ơn
gọi của mình và làm tốt mọi phận sự Chúa trao phó. Có lẽ chúng ta không hiểu được
những phấn đấu gay go và khó khăn mà linh mục tu sĩ luôn phải cố gắng trong ơn
gọi của mình đâu. Họ cần được trợ lực bằng lời cầu nguyện và giúp đỡ cụ thể để
vững vàng và nhiệt tình chu toàn sứ mạng. Những thành công của họ sẽ làm vẻ
vang cho Hội Thánh và chúng ta, nên chúng ta phải hợp ý với Chúa Giêsu mà cầu
nguyện để họ ra đi và mang lại nhiều hoa quả và những hoa quả tồn tại muôn đời.
Chúng ta có nghĩa vụ
soi sáng, hướng dẫn con cái chúng ta ngay từ nhỏ đã biết nghĩ đến ơn gọi Phục vụ.
Và cho được làm tốt những công tác trên đây, chúng ta cần nghe lại Lời Chúa hôm
nay để hiểu rõ tương quan giữa mục tử và chiên, để giúp mục tử làm tốt ơn gọi của
mình và để chiên biết phải cư xử thế nào cho tốt.
1. Tương Quan Giữa Mục
Tử Và Chiên
Chúng ta vẫn gọi các
người lãnh đạo trong Hội Thánh chúng ta là mục tử hay là chủ chăn. Kiểu nói này
đã bắt nguồn sâu xa trong Kinh Thánh. Ngay thời Cựu Ước Chúa đã dùng miệng tiên
tri Êzêchien (34), để báo trước, lúc thời sung mãn đến, chính Chúa sẽ đến chăn
dắt Israen như mục tử săn sóc chiên, thay thế hết hàng đầu mục lãnh đạo dân từ
trước tới nay. Và khi Ðức Giêsu đến, Người tự xưng mình là mục tử và là mục tử
tốt. Chẳng ai đáng danh xưng này, vì họ toàn là những kẻ chăn thuê. Mà kẻ chăn
thuê khác với mục tử ở điểm căn bản này là đang khi họ sống nhờ chiên thì người
mục tử lại sống cho chiên và chết cho chiên nữa. Thế nên nói thật ra, ở trong Hội
Thánh chỉ có một mục tử mà thôi. Chính Chúa Kitô chăn dắt Hội Thánh của Người,
không phải là nhờ nhưng là nơi các người đã được chọn làm tông đồ, tức là được
sai đi để làm các công việc của Người.
Chúng ta cần hiểu rõ
điều này, đặc biệt trong ngày ơn Thiên Triệu hôm nay. Chúng ta đừng dừng con mắt
lại nơi những con người đang làm phận sự chăn chiên. Chính họ không phải là mục
tử. Vị mục tử tốt lành, chân thật của chúng ta là Chúa của họ và cũng là Chúa của
chúng ta. Chúng ta phải nhìn lên Ðức Giêsu Kitô để thấy Người là mục tử tốt.
Duy mình Người có khả năng chăn nuôi các linh hồn và Hội Thánh. Nói rằng Người
săn sóc chiên của Người nhờ các vị tông đồ mà chúng ta thường gọi là đại diện
cho Người, cũng không hoàn toàn đúng. Nói như vậy cũng còn là theo quan niệm
loài người. Ðức tin bảo chúng ta biết rằng, chính Chúa Giêsu đang trực tiếp
chăn chiên nơi các người lãnh đạo ở trong Hội Thánh. Chính Người nói Lời Chúa
cho chiên, chính Người dọn bàn tiệc bí tích cho chiên, chính Người hướng dẫn và
ban sứ mạng cho chiên sống đời bác ái. Cái nhìn đức tin này dạy chúng ta phải
suy nghĩ lại quan hệ giữa mục tử và chiên kẻo chúng ta có thể hiểu lầm về vai
trò các linh mục và giám mục, đòi hỏi những sự không nên đòi hỏi, và từ chối những
sự lẽ ra phải đón nhận. Và để làm công việc này, bài Tin Mừng hôm nay rất quý
hóa.
Chúa Giêsu phán: Chiên
của Ta thì nghe tiếng Ta và Ta biết chúng; chúng theo Ta và Ta ban cho chúng sự
sống đời đời, không bao giờ chúng bị diệt vong vì không ai giựt chúng khỏi tay
Ta được.
Chúng ta hãy đọc các
câu văn trên như vậy để thấy rõ các tương quan giữa chiên và mục tử. Trước hết,
chiên thì nghe tiếng mục tử và mục tử sẽ biết chiên. Ðiều này chỉ có thể xảy ra
được, nếu mục tử đã cất tiếng để chiên có thể nghe thấy. Do đó, quan hệ giữa mục
tử và chiên phát xuất từ việc rao giảng Lời Chúa. Người sai tông đồ đi rao giảng
để như Người nói: Ai nghe chúng con là nghe Ta. Chính Người đang nói trong Hội
Thánh nơi lời giảng của các Tông đồ được sai đi. Và lời Người ban đức tin làm
cho người ta trở thành tín hữu và môn đệ "sáng sáng có tai môn đệ để nghe
Lời Chúa". Tương quan giữa mục tử và chiên tiên vàn là tương quan giữa người
nói và người nghe, không phải nói và nghe lời loài người, nhưng là Lời Thiên
Chúa có sức cứu độ linh hồn người ta. Người ta phải nói và nghe thế nào để nhờ
đấy mục tử biết chiên.
Từ ngữ "biết"
này thật thâm thúy. Trong Cựu Ước nó có thể ám chỉ việc nam nữ và vợ chồng biết
nhau. Nó gợi lên ý tưởng mục tử từng biết con chiên để săn sóc mỗi con cho
thích hợp, để chiên cảm thấy lòng thương xót cứu độ của Thiên Chúa đã đến với
mình và đang hồi sinh mình. Thật ra chính Lời Chúa làm công việc này chứ không
phải người rao giảng. Khi Lời Chúa được đón nhận vào lòng tin yêu sâu xa, thì
linh hồn được Chúa biết và tiếng của Chúa lưu lại nơi linh hồn sẽ phân rẽ tâm
can con người theo sự biết của mình và cải tạo đổi mới linh hồn khiến người ta
càng ngày càng biết Chúa và yêu Chúa. Người rao giảng sẽ làm việc cho con chiên
theo chiều hướng ấy.
Và nếu chiên theo mục
tử, chấp nhận đi vào đường lối của mục tử như Lời Chúa cho thấy và như mầu nhiệm
thập giá Ðức Kitô đã vạch, thì mục tử là chính Chúa Kitô sẽ ban cho chiên được
sự sống đời đời, mà các bí tích của Hội Thánh đang phân phát một cách dồi dào.
Do đó, sau khi lo rao
giảng Lời Chúa, các người có nhiệm vụ chăn chiên, phải trao ban các mầu nhiệm
thánh để con chiên được sống đời đời. Và công việc này không dễ đâu, vì không
phải tự nhiên con chiên biết lãnh nhận các bí tích như sự sống trường sinh. Phải
có một mục vụ sâu xa và kiên trì. Phải có nhiều sự sống thánh thiện trong các cử
hành phụng vụ. Giáo dân muốn giúp đỡ các linh mục và làm cho sinh hoạt của Hội
Thánh càng ngày càng thêm phong phú, thì còn phải cố gắng nhiều hơn nữa để cùng
các linh mục chuẩn bị, tổ chức cử hành, lãnh nhận các bí tích một cách sống động
và sung mãn hơn. Nhờ vậy đoàn chiên mới dồi dào sự sống đời đời.
Và khi mọi người đã
làm như thế, nghĩa là đã làm cho Lời Chúa và các bí tích thật sự sinh động
trong Hội Thánh, thì Chúa nói: không bao giờ chiên bị diệt vong vì không ai giựt
chúng khỏi tay Ta được. Ðã đành Satan như sư tử rình mò cắn xé chiên và chiên
luôn như ở giữa sói rừng, đã đành sự sống đời đời là Lời Chúa và các ơn bí tích
trong tâm hồn là những kho tàng đựng trong bình sành lọ đất là xác thịt tội lỗi
yếu hèn của chúng ta, nhưng sức mạnh nào có thể lôi chiên ra khỏi tay Chúa để
tiêu diệt chiên. Chính Người đã so sánh giữa mục tử tốt và kẻ chăn thuê. Người
mục tử sẽ thí mạng cho chiên. Ðức Kitô đã chết cho chiên của Người. Người đã cầm
giữ được chìa khóa của sự chết và âm phủ vì sự phục sinh của Người đã toàn thắng,
kẻ thù cuối cùng của loài người là sự chết, nên kẻ tin Người sẽ được sống, và
dù có chết cũng sẽ sống lại. Satan không giựt được kẻ ấy khỏi tay Người đâu.
Và điều này cho phép
chúng ta nghĩ đến phận sự thứ ba của những người đang có nhiệm vụ chăn chiên. Họ
phải điều khiển dân Chúa sau khi đã rao giảng Lời Chúa và cử hành các bí tích.
Công việc điều khiển này không nặng về mặt tiêu cực, giữ chiên khỏi bị xâu xé sao?
Cai trị trong Hội Thánh chỉ là phục vụ. Và phục vụ trong Hội Thánh là giữ chiên
luôn được điều kiện lắng nghe Lời Chúa và lãnh nhận các bí tích trường sinh. Mọi
tổ chức đều quy về những việc này. Và chỉ có như thế người ta mới thấy rõ ở
trong Hội Thánh chính Chúa là mục tử; còn các Tông đồ môn đệ của Người chỉ là
những đầy tớ phải làm nhiều nhưng phải thú nhận là vô dụng.
Chúng ta không thể bảo
đó là ơn gọi dễ dàng được. Thế nên phải có ơn Chúa giới trẻ mới biết lắng nghe
và đáp trả tiếng gọi làm tông đồ. Và càng phải có nhiều ơn Chúa giúp đỡ hơn nữa,
các tông đồ mới bền chí nhiệt thành chu toàn phận sự. Chúng ta phải cầu nguyện
nhiều là vì thế, để có nhiều thanh thiếu niên dâng hiến đời mình cho Chúa và để
các người đã dâng hiến luôn xứng đáng với ơn gọi đã nhận được. Ước gì Hội Thánh
chúng ta luôn có nhiều tông đồ như Barnaba và Phaolô mà bài sách Công vụ Tông đồ
hôm nay đã thuật chuyện.
2. Nhiệm Vụ Tông Ðồ
Hai ông được Thánh Thần
đặc cử đi truyền giáo ở những vùng xa xôi (13,2). Cả Hội Thánh biết việc này,
vì hôm đó mọi người đang thờ phượng và ăn chay thì Thánh Thần đã dạy như vậy.
Và người ta đã đặt tay trên đầu các ngài và tiễn các ngài đi, để các ngài thật
sự là tông đồ, tức là được sai đi. Mà quả thật các ngài đi mãi không ngừng, cho
đến khi đạt tới biên giới của thế giới thời bấy giờ là Rôma. Các ngài nhắc nhở
cho mọi người được gọi làm tông đồ luôn nhớ Lời Chúa căn dặn trước khi về trời:
Các con hãy đi đến tận cùng trái đất và đến với hết mọi tạo vật, rao giảng Tin
Mừng cho họ, để làm cho tất cả trở nên môn đệ của Thầy.
Barnaba và Phaolô đã
ra đi, hết thành này sang thành khác, hết đảo này đến đảo kia. Tới đâu các ngài
cũng lợi dụng ngày Hưu lễ có người Do Thái hội họp, để rao giảng về Chúa Giêsu
Kitô. Ở đây, chúng ta thấy người Do Thái không đón nhận Lời khiến các tông đồ
phải phủi bụi chân ra đi khỏi xã hội của họ và đi đến với lương dân, thực hiện
lời sách Isaia đã viết: Ta đã đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân.
Không phải các Tông đồ
hiểu câu đó về mình đâu. Lời ấy chỉ áp dụng cho Ðức Giêsu như Simêon đã nhìn thấy.
Nhưng chính Người đã gọi các tông đồ và sai họ đi. Họ đi đây là vì Người và để
làm công việc của Người. Chính Người đến với lương dân nơi con người của các
tông đồ.
Tuy nhiên có phải vì vậy
mà từ này người Do Thái bị bỏ rơi không? Chắc chắn khi kể lại câu chuyện hôm
nay, tác giả Luca muốn đánh dấu một giai đoạn mới trong lịch sử truyền giáo.
Người vẫn chú ý đến dân ngoại. Và khi mở đầu cuốn sách Tin Mừng của Người bằng
những câu chuyện xảy ra ở Galilê, thánh Luca đã có ý cho chúng ta thấy công việc
của Chúa khởi sự ở Galilê dân ngoại. Và Người đã chẳng bỏ qua một dịp nào để nhấn
mạnh rằng: Ðức Giêsu khi còn tại thế đã nhiều lần tiếp xúc và ban ơn cho dân
ngoại. Nhưng hôm nay khi để các tông đồ nói: "Này chúng tôi quay sang dân
ngoại", Luca muốn công cuộc truyền giáo cho lương dân từ nay bước sang
giai đoạn mới, quyết liệt hơn.
Câu chuyện có vẻ làm
cho người ta hiểu rằng vì người Do Thái khước từ Lời Chúa, nên các tông đồ mới
quay sang dân ngoại. Việc truyền giáo cho lương dân dường như được xúc tiến vì
thái độ phủ nhận của người Do Thái... Thật ra không phải như vậy. Như trên đã
nói: ngay từ đầu Ðức Giêsu đã được chào mừng là ánh sáng muôn dân. Các tông đồ
không kỳ thị hạng người nào và chính Chúa Thánh Thần đã chấp nhận cả gia đình
Cornêliô là dân ngoại đang khi họ nghe lời Phêrô giảng. Nhưng dần dần Thiên
Chúa đã dùng hoàn cảnh này hoàn cảnh kia để các tông đồ nhớ lại những lời tiên
tri đã viết trước, tức là kế hoạch sâu nhiệm của Thiên Chúa.
Những lời ấy viết rằng:
vào lúc cánh chung, tức là vào thời đại Ðấng Cứu Thế, Israen và Giêrusalem sẽ mở
đường cứu độ cho muôn nước và có trách nhiệm phổ cập. Những lời ấy đã được Chúa
Giêsu tóm tắt lại trong câu Người bảo môn đệ phải trở thành chứng nhân cho Người
khởi sự từ Giêrusalem nhưng cho đến mút cùng trái đất.
Nói cách khác, Lời
Chúa tự bản chất muốn được đem gieo ở mọi nơi; các tông đồ là những người được
sai đi; đoàn chiên Chúa có trách nhiệm đem hết mọi chiên lạc về...
Nhiệm vụ tông đồ là
nhiệm vụ truyền giáo. Trong ngày cầu nguyện cho ơn gọi tông đồ, chúng ta phải
nhìn ra cánh đồng truyền giáo bát ngát cho đến mút cùng trái đất. Bấy giờ chúng
ta mới thấy thiếu các tông đồ đến mức nào và các tông đồ mới hiểu mình chưa làm
được một phần nhỏ của ơn gọi. Phải có thêm những Barnaba và Phaolô. Phải tăng
thêm nhiều ý thức và ưu tư truyền giáo trong tâm hồn mọi người trong ngày hôm
nay. Phải làm cho mọi người thấy bề rộng của vấn đề...
Và cả bề sâu nữa, theo
bài sách Khải Huyền trong thánh lễ này.
3. Trách Nhiệm Dân
Chúa
Thánh Gioan lại được
nhìn thấy một cảnh tượng lạ lùng ở trên trời: một đoàn lũ đông đảo không biết
cơ man nào mà kể thuộc đủ mọi sắc dân và ngôn ngữ, mình mặc áo chùng trắng
tinh, tay cầm tàu lá vạn tuế, đang lớn tiếng tung hô Thiên Chúa và Chiên Con.
Ðó là quang cảnh mai ngày ở trên thiên quốc. Ðó là Hội Thánh toàn thắng mà Hội
Thánh lữ thứ trần gian đang sửa soạn và cưu mang.
Do đó sẽ có lợi cho
suy niệm của chúng ta hôm nay, nếu nhờ lời tác giả sách Khải Huyền viết, chúng
ta tìm hiểu về dân Chúa và Hội Thánh đang ở trần gian. Cộng đoàn dân Chúa và Hội
Thánh hiện nay, không bao gồm đủ mọi sắc dân và ngôn ngữ sao? Còn về áo trắng
tinh và cành vạn tuế, chúng ta hãy theo lời thánh Gioan mà hiểu. Chính người đã
được cắt nghĩa cho biết: đó là dấu hiệu của sự thắng trận và đời sống sạch tội.
Quả vậy, đám dân hạnh
phúc kia đã từ cuộc quẫn bách lớn lao mà đến. Kiểu nói này ám chỉ các thử thách
của thời kỳ cánh chung và đặc biệt là thử thách giữ vững niềm tin khỏi bị các
tiên tri giả mê hoặc. Thế mà thời đại cánh chung đã khởi sự từ ngày Ðức Giêsu
ra đời và đặc biệt từ khi Người được tôn vinh trên thánh giá để trở thành người
xét xử kẻ sống và kẻ chết. Từ ngày đó, đức tin đều là những người thắng trận thế
gian, như lời Gioan viết: chiến thắng của chúng ta chính là đức tin. Và ai tin
vào ơn cứu độ của Chúa nhất định không phải hổ ngươi.
Còn áo trắng của các
thánh, tác giả nói đó là những cái áo đã được đem giặt trong Máu Chiên Con. Làm
sao giặt trong máu lại có thể trắng được, nếu chúng ta không hiểu theo ý nghĩa
thiêng liêng? Chính nhờ máu Chúa Kitô đổ ra trên thập giá, đã có Nước Thánh Thần
chảy ra ban ơn tha tội trong nước thanh tẩy. Chúng ta hết thảy được sạch tội nhờ
Máu Chúa Giêsu đã rửa chúng ta trong bí tích Tử nạn Phục sinh của Người.
Vậy, giữ vững đức tin
nhờ nghe Lời Chúa như nắm cành vạn tuế trong tay, và được tâm hồn sạch tội như
vận áo chùng trắng tinh nhờ lãnh nhận các ơn bí tích, chúng ta được đoàn tụ
trong một Hội Thánh như dưới một mái nhà, một mái Ðền Thờ. Chúng ta không còn
đói khát nữa, vì lời sách Khải Huyền viết, Chiên Con sẽ chăn dắt chúng ta, luôn
đưa chúng ta đến nguồn mạch sự sống, làm chứng chính Chúa Kitô là mục tử của Hội
Thánh như chúng ta đã nói. Và chắc chắn cuối cùng Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt
chúng ta khỏi cuộc đời trần gian nhiều đau thương này để đưa Hội Thánh lữ khách
trần gian trở nên Hội Thánh hạnh phúc trên trời.
Giờ đây chúng ta đang
làm thành Hội Thánh ở dưới đất. Ngay giờ phút này Hội Thánh ấy đang ở giữa
chúng ta.
Ở đây có lời Chúa, có
bí tích của mọi bí tích là bí tích Thánh Thể, có hàng linh mục dẫn dắt chúng
ta, có đủ phương tiện để chúng ta được thêm đức tin, được lòng trong sạch, được
no nê lương thực trường sinh, để chúng ta tiến về Thiên quốc.
Chúng ta hãy cảm tạ
tung hô Chúa. Chúng ta cầu xin luôn luôn có tông đồ làm việc cho chúng ta, cho
các tông đồ ấy thánh, cho chúng ta luôn thích nghe Lời Chúa, lãnh nhận bí tích
và tham gia vào đời sống Hội Thánh để mọi dân mọi nước làm thành một đoàn chiên
với một Chúa chiên là Ðức Giêsu Kitô chúng ta.
(Trích dẫn từ tập
sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật 4 Phục Sinh, Năm
C, Lễ Chúa Chiên Lành
Bài đọc: Acts
13:14, 43-52; Rev 7:9, 14b-17; Jn 10:27-30.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Đức Kitô là Mục Tử Nhân Lành duy nhất.
Thiên Chúa dựng nên
con người với địa vị ngang hàng như nhau; nhưng nhiều người tự cho mình hơn người
khác vì những đặc quyền họ sở hữu như: giầu có, danh vọng, uy quyền, sức khoẻ,
sắc đẹp. Nhiều kẻ làm thuê đã nhân danh Mục Tử để tước đoạt lông chiên, thịt
chiên; chứ không quan tâm đến tình trạng của những con chiên mà Thiên Chúa đã
trao cho họ.
Các bài đọc hôm nay muốn
nêu bật vai trò quan trọng của Đức Kitô; Ngài là Mục Tử Nhân Lành được Thiên
Chúa sai đến để chăm sóc đoàn chiên của Thiên Chúa: Ngài sẽ mang về những con
chiên lạc, băng bó chiên bị thương, vỗ béo chiên gầy còm, dắt chiên đến đồng cỏ
phì nhiêu và suối nước trong lành; nhất là Ngài cho chiên được hưởng cuộc sống
đời đời. Trong bài đọc I, những người Do-thái ghen tức với Phaolô và Barnabas,
vì đã làm cho đoàn chiên của họ bỏ họ và chạy theo hai ông; nên họ đã cấu kết với
những phụ nữ quyền quí và những người có thế giá để trục xuất hai ông khỏi
thành. Trong bài đọc II, những tín hữu nào đã trung thành đi theo để giặt sạch
và tẩy trắng áo mình trong máu của Con Chiên, sẽ không bao giờ phải chịu đói
khát hay đau khổ nữa, vì Con Chiên là Mục Tử Nhân Lành sẽ luôn chăm sóc và an ủi
họ. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu là Mục Tử Tốt Lành. Ai qua Người mà vào là kẻ
chăn chiên thật, và tất cả những con chiên nào đi theo Người sẽ không bao giờ bị
đói khát và đau buồn nữa, vì Ngài sẽ chăm sóc, bảo vệ, và cho hưởng cuộc sống đời
đời.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Người Do-thái sinh lòng ghen tức và phản đối những lời ông
Phaolô nói và nhục mạ ông.
1.1/ Dấu hiệu của những
người chăn chiên thật: Một số những dấu hiệu
giúp các tín hữu nhận ra những người chăn chiên thật:
(1) Luôn tìm cách đưa
các chiên về cho Thiên Chúa bằng việc rao giảng sự thật: Tiểu Á ngày xưa
(Turkey ngày nay) là địa bàn truyền giáo của Phaolô và Barnabas. Đây là địa bàn
quan trọng vì nó nối kết Châu Á và Châu Âu. Phaolô và Barnabas biết con người
luôn tìm kiếm sự thật, đó là lý do mà vào hội đường của những người Do-thái mỗi
ngày sabbath để rao giảng cho mọi người biết sự thật về Đức Kitô để họ tin vào
Ngài. Lần đầu nghe, một số người đã nhận ra sự thật; họ mời hai ông trở lại để
rao giảng lần sau. Tuần sau, họ kêu gọi gia đình và bạn bè đến nghe hai ông giảng;
trình thuật kể “ngày sabbath sau, gần như cả thành tụ họp nghe lời Thiên Chúa.”
Qua hai tuần rao giảng, Phaolô và Barnabas làm cho nhiều người Do-thái và Dân
Ngoại tại Antiochia miền Pisidia tin vào Đức Kitô.
(2) Chỉ cho dân đường
tới Thiên Chúa: Người chăn chiên thật không hướng chiên vào mình; nhưng luôn chỉ
đường cho chiên đến với Thiên Chúa. Đối với những người đã tin vào Thiên Chúa,
Phaolô và Barnabas “khuyên nhủ họ gắn bó với ơn Thiên Chúa.” Đối với Dân Ngoại,
hai ông chỉ cho họ thấy đích điểm của đời người là cuộc sống hạnh phúc đời đời
với Thiên Chúa. Nhiều dân ngoại đã nhận ra và tin theo những gì hai ông nói và
Lời Chúa lan tràn khắp miền ấy.
(3) Không chán nản khi
bị bách hại: Các tông đồ đã được Chúa Giêsu dạy: “Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ
cũng sẽ bắt bớ anh em.” Và, “Nếu họ bắt bớ anh em ở thành này, hãy trốn sang thành
khác.” Khi bị những người Do-thái và nhà cầm quyền phản đối, Phaolô và Barnabas
liền giũ bụi chân phản đối họ và đi tới Iconium lòng tràn đầy hoan lạc và Thánh
Thần.
1.2/ Dấu hiệu của những
người chăn chiên giả.
(1) Họ ghen tức khi
đương đầu với sự thật: Ngôn sứ Ezekiel diễn tả rất hay về hạng mục tử này như
sau: “chiên của Ta bị cướp phá và biến thành mồi cho mọi dã thú vì thiếu mục tử,
bởi các mục tử chỉ biết lo cho mình mà không chăn dắt đàn chiên của Ta” (Eze
34:8). Họ ghen tức với Phaolô và Barnabas, vì những người Do-thái của họ và nhiều
Dân Ngọai tin theo những gì hai ông rao giảng về Đức Kitô, không phải vì họ sợ
đàn chiên của họ bị nhiễm những đạo lý sai lầm; nhưng họ sợ đàn chiên sẽ bỏ họ
mà chạy theo Phaolô và Barnabas và họ sẽ mất những lợi nhuận vật chất mà đàn
chiên mang lại. Đây cũng chính là lý do mà những người trong Thượng Hội Đồng thủ
tiêu Chúa Giêsu.
(2) Tìm cách tiêu diệt
sự thật: Trình thuật kể, khi thấy những đám đông như vậy đến nghe hai ông giảng,
người Do-thái sinh lòng ghen tức, họ phản đối những lời ông Phaolô nói và nhục
mạ ông. Thay vì tranh luận với hai ông để tìm ra sự thật, họ “sách động nhóm phụ
nữ hượng lưu đã theo đạo Do-thái, và những thân hào trong thành, xúi giục họ
ngược đãi ông Phaolô và ông Barnabas, và trục xuất hai ông ra khỏi lãnh thổ của
họ.”
2/ Bài đọc II: Con Chiên sẽ chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường
sinh.
2.1/ Các tín hữu phải giặt
sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên: Trong
đoạn văn này, tác giả Sách Khải Huyền mô tả các tín hữu được về hưởng hạnh phúc
với Thiên Chúa sau cuộc sống gian khổ trên dương thế. Một số biểu tượng chúng
ta cần hiểu:
+ Ngai: tượng trưng
cho sự hiện diện của Thiên Chúa Cha.
+ Con Chiên: là Đức
Kitô. Ngài là “Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian” (Jn 1:29).
+ Áo trắng: tượng
trưng cho sự trong sạch và chiến thắng.
+ Nhành thiên tuế: tượng
trưng cho chiến thắng.
Các tín hữu này là những
người đã trải qua mọi gian khổ trên dương gian mà vẫn giữ được niềm tin yêu
trung thành với Đức Kitô; vì thế, họ xứng đáng được Đức Kitô dẫn tới trước ngai
Thiên Chúa, để xin Chúa Cha cho được hưởng hạnh phúc với Ngài muôn đời.
2.2/ Phần thưởng đạt được
cho những tín hữu trung thành.
+ Được ở mãi bên Thiên
Chúa và Con Chiên: Mục đích của đời người là ơn phúc kiến: được chiêm ngắm Thiên
Chúa và thờ phượng Ngài muôn đời. Những người tín hữu đã chiến thắng được hưởng
ơn phúc kiến này: “Họ được chầu trước ngai Thiên Chúa, đêm ngày thờ phượng
trong Đền Thờ của Người; Đấng ngự trên ngai sẽ căng lều của Người cho họ trú ẩn.”
+ Không phải đói khát:
cả phần hồn cũng như phần xác.
+ Không bị đau khổ
hành hạ: Người tín hữu sẽ không phải chịu bất cứ một đau khổ phần hồn cũng như
phần xác nào nữa.
+ Được Thiên Chúa lau
sạch nước mắt: Người tín hữu sẽ không bao giờ bị than khóc vì chia ly hay phải
cách biệt những người thân. Họ sẽ sống bên nhau muôn đời.
3/ Phúc Âm: Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng
theo tôi.
3.1/ Mối liên hệ giữa Mục
Tử và đoàn chiên: là mối liên hệ hai chiều.
(1) Mục Tử phải biết
chiên của mình: Động từ “biết” trong tiếng Hy-lạp mang một ý nghĩa thâm sâu, chứ
không phải chỉ biết các hời hợt bên ngoài. Mục tử biết tình trạng phần hồn cũng
như phần xác của từng con chiên thì mới có thể giúp đỡ và săn sóc chúng được. Lời
của ngôn sứ Ezekiel tiên báo về sứ vụ của Mục Tử Nhân Lành giúp chúng ta hiểu
phần nào về sứ vụ Mục Tử của Đức Kitô: “Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào
đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ
làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng. Ta sẽ theo
lẽ chính trực mà chăn dắt chúng.” Một người chăn chiên mà không biết tình trạng
chiên của mình, làm sao ông có thể hướng dẫn và giúp đỡ chiên được?
(2) Chiên phải nghe tiếng
của Mục Tử: Chăn chiên trên đất Palestine là công việc rất khó khăn, vì ngoài
việc phải lo tìm đồng cỏ xanh tươi và giòng suối trong, người mục tử còn phải bảo
vệ chiên khỏi rơi xuống vực thẳm, khỏi tay của chó sói và của những người trộm
cướp luôn đe dọa đàn chiên. Mục Tử luôn phải đi trước để nhận diện nguy hiểm trước
khi hướng dẫn chiên tiến lên. Để được bảo vệ an toàn, đàn chiên phải tuyệt đối
vâng lời làm theo những gì mục tử muốn; nếu không, chiên sẽ dễ dàng rơi xuống vực
thẳm hay vào tay trộm cướp.
Trên phương diện phần
hồn cũng thế, đàn chiên non dại không biết những nguy hiểm phần hồn đang đe dọa
mình; người mục tử phải hướng dẫn chiên bằng lời sự thật của Đức Kitô, nuôi dưỡng
bằng các bí tích để giúp chiên luôn vững mạnh, và luôn tỉnh thức để nhận ra những
nguy hiểm đang đe dọa đàn chiên của mình và tìm các vượt qua. Đổi lại, đàn
chiên phải biết vâng lời và làm theo những gì mục tử hướng dẫn; nếu không,
chiên sẽ rơi vào bẫy của kẻ thù cho dù mục tử đã làm hết cách để bảo vệ chiên của
mình.
Đức Kitô tuyên bố:
“Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không
ai cướp được chúng khỏi tay tôi.” Đây là một lời bảo hiểm vững chắc cho tất cả
những chiên nào tin tưởng và vâng lời làm theo những chỉ dạy của Đức Kitô, Mục
Tử Nhân Lành. Ngài hướng dẫn chiên không chỉ bằng những chăm sóc bên ngoài;
nhưng bằng hướng dẫn yêu thương trong tâm hồn để chiên nhận ra những nguy hiểm,
đồng thời Ngài cũng ban sức mạnh cần thiết để chiên vượt qua những nguy hiểm
đó.
3.2/ Liên hệ giữa Chúa
Cha và đòan chiên: Chúa Giêsu tiếp tục tuyên
bố: “Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp
được chúng khỏi tay Chúa Cha. Tôi và Chúa Cha là một.”
Đây là một mặc khải
quan trọng của Đức Kitô cho con người. Trên phương diện thần học, lời này nói
lên thiên tính của Đức Kitô: Ngài là Thiên Chúa và có uy quyền ngang hàng với
Chúa Cha. Về phương diện mục vụ, lời tuyên xưng cho chúng ta thấy sự liên hiệp
giữa Chúa Cha và Chúa Con trong việc bảo vệ con người. Người tín hữu là tài sản
chung của cả Chúa Cha và Chúa Con: Chúa Cha đã ban người tín hữu cho Chúa Con,
và Chúa Con đã làm hết cách để bảo vệ các tín hữu như đàn chiên của mình. Nếu địch
thù không kéo chiên ra khỏi sự bảo vệ của Đức Kitô, chúng sẽ càng không kéo
chiên khỏi sự bảo vệ của Ba Ngôi Thiên Chúa, vì chỗ nào có Con, cũng có Cha và
Thánh Thần.
Chúa Giêsu đã mặc khải
sự bảo vệ này trong diễn từ về bí tích Thánh Thể: “Mà ý của Đấng đã sai tôi là
tất cả những kẻ Người đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai, nhưng sẽ cho
họ sống lại trong ngày sau hết. Thật vậy, ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy
người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại
trong ngày sau hết” (Jn 6:39-40).
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chỉ có Đức Kitô là Mục
Tử Nhân Lành duy nhất. Cha mẹ và các cha chỉ là những người chăn chiên cho Thiên
Chúa.
– Người chăn chiên thật
phải đưa các chiên của mình tới Thiên Chúa; chứ không phải hướng vào mình hay
tìm lợi ích cho mình.
– Bổn phận của đoàn
chiên là phải lắng nghe để nhận ra và đi theo tiếng của người Mục Tử Nhân Lành;
để đừng bao giờ bị rơi vào bẫy của những người chăn chiên giả và trộm cướp.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
12/05/2019 – CHÚA NHẬT TUẦN 4 PS – C
Chúa Chiên Lành. Cầu cho Ơn Thiên Triệu Ga
10,27-30
TÂM TÌNH MỤC TỬ
“Chiên của tôi
thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi.” (Ga 10,27)
Suy niệm: Những khi xuất hiện gặp gỡ dân chúng, một số chính khách thường có những
cử chỉ ân cần hỏi han các cụ già, xoa đầu thân thiện với các em bé, v.v… Thật
ra đó chỉ là những “chiêu” để “tranh thủ” lá phiếu của cử tri dành cho mình.
Chúa Giê-su giới thiệu cho chúng ta một hình ảnh khác về Ngài, hình ảnh thật
đơn sơ, giản dị, nhưng rất thân thương: “Ta là Đấng chăn chiên lành.” Vị mục tử
này biết rõ từng con chiên, có thể gọi tên từng con một; con chiên nào cũng được
Ngài chăm sóc ân cần như thể cả đàn chiên chỉ có một mình nó: “Con nào mập béo,
Ta chăm sóc, con nào đau yếu, Ta chữa lành, con nào đi lạc Ta tìm về…” (Ed
34,16); Ngài dám bỏ cả đàn chiên để đi tìm có mỗi một con chiên lạc, và khi tìm
được rồi thì khoác nó lên vai đem về nhà và mở tiệc ăn mừng. Thảo nào qua bao
thời đại biết bao người nghe tiếng gọi, và sẵn sàng đáp lại tiếng gọi ấy và bước
theo Chúa chiên lành, bởi sức cuốn hút của vị Mục tử này.
Mời Bạn: nhìn ngắm Thầy Giê-su, Chúa Chiên Lành, và học nơi Ngài tâm tình mục tử
để biết yêu thương, quan tâm chăm sóc “đàn chiên” mà Chúa giao cho bạn; đó là
những người thân trong gia đình, cộng đoàn của bạn, là đồng nghiệp, là bạn bè
và cả những anh em lương dân là những “con chiên chưa thuộc về ràn này” nữa
(x. Ga 10,16).
Sống Lời Chúa: Kiểm điểm xem cách sống của tôi có đối lập với hình ảnh
Chúa Chiên lành không? Cầu nguyện cho ơn gọi Linh mục, Tu sĩ, cho Cha xứ của bạn
và cho những ai mà bạn có trách nhiệm với họ.
Cầu nguyện: Đọc Tv 23 hoặc
hát một bài tương tự (Chúa chăn nuôi tôi…).
(5 Phút Lời Chúa)
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
12 THÁNG NĂM
Mệnh Lệnh Cuối Cùng
“Mọi quyền hành trên
trời và dưới đất đã được trao cho Thầy” (Mt 28, 18). Vào ngày thứ bốn mươi sau
phục sinh, sự sống mới nơi Đức Kitô biểu hiện chiều kích thiêng liêng của nó vượt
quá thời gian. Ngày Thăng Thiên, trọn vẹn uy quyền của Đức Kitô Phục Sinh đã được
mở ra cho thấy. Đó là “uy quyền trên trời và dưới đất”. Sức mạnh và uy quyền
đó, Đức Kitô đã có từ muôn thuở, vì Người là Con đồng bản tính với Chúa Cha. Giê-su
Na-da-rét, trong tư cách là một con người, đã chiến thắng xuyên qua thập giá của
Người; và Thiên Chúa Cha đã trao cho Người mọi quyền uy và sức mạnh. Quyền hành
ấy đến từ sức mạnh cứu độ.
Và với quyền hành ấy,
Đức Kitô đã trao cho các Tông Đồ mệnh lệnh cuối cùng của Người trên dương thế:
“Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép Rửa cho họ
nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều
Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế!”
(Mt 28, 19 – 20). Sứ mạng của các Tông Đồ là rao giảng Tin Mừng: “Như Cha đã
sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (Ga 20, 21).
Khi chúng ta nghe những
lời ấy, những lời chứa đầy sức mạnh cứu độ của Đức Kitô, chúng ta nghĩ ngay đến
Nhóm Mười Hai là những người đầu tiên đã nghe lệnh truyền ấy.
Nhưng chúng ta không
thể tách rời mệnh lệnh này trong biến cố Thăng Thiên ra khỏi hoa trái của nó
trong đời sống Giáo Hội và trong lịch sử của các quốc gia và các dân tộc. Hoa
trái đó là sự cứu rỗi các linh hồn.
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 12/5
Chúa Nhật IV Phục
Sinh
Chúa Nhật Chúa
Chiên Lành
Cv 13, 14. 43-52;
Kh 7, 9. 14-17; Ga 10, 27-30.
LỜI SUY NIỆM: “Cha tôi, Đấng
đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay
Chúa Cha. Tôi và Chúa Cha là một”
Chúa Giêsu đang cho mỗi người trong chúng ta biết được những ai đã chịu Phép Rửa
Tội, thì đã là những con chiên trong sự chăm sóc của Người và nghe tiếng Người,
và Người còn nhấn mạnh tất cả chúng ta đều được trở nên lớn hơn tất cả đối với
Người, và được bảo vệ: “Không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha.” Để
giúp cho mỗi người trong chúng ta xác tín về điều này, Người còn khẳng định
“Tôi và Chúa Cha là một.”
Lạy Chúa Giêsu. Chúa muốn mỗi người chúng con cũng được nên một với Chúa; như
Chúa và Chúa Cha là một. Xin cho mỗi người chúng con luôn biết yêu mến và vâng
phục Chúa một cách trọn vẹn, nhờ đó tất cả chúng con cũng được nên một với nhau
trong Chúa.
Mạnh Phương
12 Tháng Năm
Danh Dự Cho Ai
Văn sĩ Pháp
Alexandre Piron qua đời năm 1773, thường có thói quen đi dạo trong khu rừng
Boulogne giữa thủ đô Paris. Một ngày nọ, ông ngồi nghỉ trên một ghế đá tựa vào
một bức tường.
Chỉ một lát sau,
ông ngạc nhiên vô cùng, vì trong đám đông những người đang đi dạo trong khu rừng,
một vài người đến gần ông, ngả nón chào. Cũng có một vài người bái cả gối nữa.
Nhà văn mỉm cười đáp lễ cảm tình mà khách qua lại dành cho ông. Ông không ngờ rằng
ông được nhiều người mến mộ đến như thế. Ông mong sao một số bạn bè trong văn
giới chứng kiến được cảnh tượng này để thấy được vinh quang mà ông đã đạt được…
Nhà văn đang say với
bã vinh hoa thì chợt trong đám người đang bái chào ông, một lão bà để lộ một
thái độ khác thường. Cũng giống như mọi người khác, bà lão cúi chào, rồi tiến đến
gần ghế đá. Bà thì thầm nói trong miệng mà nhà văn không hiểu được, rồi ngước mắt
nhìn lên cao. Ngạc nhiên trước cử chỉ khác thường của bà lão, nhà văn cũng đưa
mắt nhìn lên cao phía trên tường. Lúc bấy giờ ông mới khám phá ra rằng trên đầu
ông có một tượng thánh giá… Thì ra, những người đi dạo trong khu rừng Boulogne
này dừng lại không phải để tỏ lòng mộ mến đối với ông, mà chính là tỏ lòng cung
kính đối với Chúa Giêsu trên thập giá.
Hổ thẹn vì sự khám
phá ấy, Alexandre Piron đứng dậy bỏ đi nơi khác.
Sở dĩ Chúa Giêsu đã có
thái độ gay gắt đối với những người biệt phái giả hình, là bởi vì họ muốn chiếm
đoạt chính Vinh dự của Thiên Chúa. Họ cũng giống như văn sĩ Alexandre Piron
trong câu chuyện trên đây: người ta đến bái chào Chúa Giêsu trên thập giá,
nhưng ông lại muốn dành cho mình vinh dự ấy. Những người biệt phái giả hình
cũng giống như con lừa mà Chúa Giêsu dùng để cưỡi vào thành Giêrusalem. Giữa những
tiếng reo hò dân chúng dành cho Chúa Giêsu, con lừa cứ nghĩ rằng nó là một anh
hùng oai phong lẫm liệt…
Khao khát danh vọng,
quyền bính là đam mê chung của mọi người. Ai cũng thích xuất hiện trước công
chúng, ai cũng thích được người đời ca tụng, ai cũng thích được phục vụ. Một
cách nào đó, người tham vọng không những dùng người khác như bàn đạp, mà còn tước
đoạt chính Vinh quang của Chúa…
Chúa Giêsu là con người
đã sống trọn vẹn cho tha nhân và do đó cũng quy mọi vinh dự về cho Thiên Chúa.
Thánh Phaolô đã nói với chúng ta rằng: là Thiên Chúa, Ngài đã không đòi cho được
đồng hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hủy bỏ mình đi để mặc lấy thân phận con người
và vâng phục cho đến chết.
Chúa Giêsu đã vạch cho
chúng ta con đường được sống trọn vẹn ơn gọi làm người: đó là sống cho Thiên
Chúa. Chỉ khi nào con người sống cho Thiên Chúa, thuộc về Thiên Chúa trong tất
cả mọi sự, con người mới đạt được chính cùng đích của mình. Sống cho Thiên Chúa
là luôn tìm thấy Thánh ý của Ngài, là hoạt động cho vinh quang của Ngài, là trở
thành khí cụ trong bàn tay của Ngài…
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét