12/05/2019
Chúa Nhật 4 PHỤC SINH năm C
Chúa Chiên Lành. Cầu cho Ơn Thiên Triệu
Ngày Hiền Mẫu
(phần II)
SCĐ Chúa Nhật IV Phục Sinh C
CHỦ ĐỀ :
MỤC TỬ NHÂN LÀNH
“Chiên của tôi
thì nghe tiếng tôi. Tôi biết chúng và chúng theo tôi”(Ga 10,27)
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Lời Chúa hôm nay trình bày Chúa Giêsu là người mục tử tốt
lành : Ngài biết rõ từng người chúng ta, Ngài thí mạng sống vì chúng ta,
và Ngài dẫn chúng ta tới sự sống thật. Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy xin
Chúa giúp chúng ta trở thành chiên của Ngài, không phải những con chiên bướng bỉnh
mà là những con chiên biết chủ mình là ai, biết tiếng chủ và ngoan ngoãn bước
theo sự dẫn dắt của chủ.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
– Chúa Giêsu muốn dẫn chúng ta tới sự sống thật, còn chúng
ta nhiều khi từ chối không nghe theo sự hướng dẫn của Ngài.
– Chúa Giêsu biết rất rõ từng người chúng ta và yêu thương
chúng ta vô cùng, thế mà lắm khi chúng ta hồ nghi tình thương của Chúa.
– Chúa Giêsu đã chịu biết bao đau khổ vì chúng ta, còn chúng
ta nhiều khi gặp đau khổ thì nản lòng như kẻ không có đức tin.
III. LỜI CHÚA
1.
Bài đọc I (Cv
13,14.43-52)
Việc truyền giáo của Phaolô và Barnaba tại Antiôkhia miền
Pixiđia :
– Theo thói quen, Phaolô rao giảng Tin Mừng cho người do
thái trước tiên.
– Nhưng vì họ từ chối, nên Phaolô quay sangh rao giảng cho
dân ngoại.
– Dân ngoại đã hân hoan đón nhận Tin Mừng và tôn vinh Thiên
Chúa.
2.
Đáp ca (Tv 99)
Câu quan trọng nhất trong Tv này, và cũng là câu được dùng
làp câu đáp, là : “Chúng ta là dân Chúa, là đoàn chiên Người dẫn dắt”.
3.
Tin Mừng (Ga
10,27-30)
Chúa Giêsu mặc khải thêm một khía cạnh của mầu nhiệm bản
thân Ngài : Ngài là mục tử : “Chiên tôi thì nghe tiếng tôi. Tôi biết
chúng và chúng theo tôi. Tôi cho chúng được sự sống đời đời, chúng sẽ không bao
giờ hư mất”
4.
Bài đọc II (Kh 7,9.14-17)
Thị kiến của Gioan tông đồ về dân thánh Chúa :
– họ rất đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân tộc và mọi
ngôn ngữ
– họ đứng trước ngai Con Chiên
– Con Chiên sẽ dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh.
IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Đồng cỏ xanh, dòng suối mát
Dương Ân Điển là đứa trẻ bị bỏ rơi, người ta nhặt được nó ở
một quầy bán thịt, trong cái chợ nghèo vùng núi miền Nam đảo Đài Loan. Câu chuyện
thương tâm này xảy ra năm 1974, ấy là lúc vừa lọt lòng, em đã không có hai cánh
tay, chân phải thẳng đơ không thể co duỗi.
Thế mà, 25 năm sau, đứa bé tàn tật bất hạnh ấy đã trở thành
nhà danh họa tài ba, chuyên vẽ tranh bằng chân và miệng. Cô đã tổ chức nhiều cuộc
triển lãm ở Mỹ vàø Nhật, và là thành viên của Hiệp Hội quốc tế những người vẽ
tranh bằng chân và miệng.
Cuộc đời cô thay đổi nhanh chóng như thế, thành công rực rỡ
như thế, cũng là nhờ mục sư Dương Húc và vợ ông là Lâm Phương Anh nhận nuôi. Đặc
biệt là ông Tưởng Kinh Quốc đã cho cô đi giải phẫu chỉnh hình cột sống, nắn
chân phải, sửa đường làm cầu cho cô dễ dàng đi tới trường. Ông đã nói với
cô : “Cháu không có tay, nhưng còn chân, và có thể làm được rất
nhiều việc”. Chính tình thương, sự chăm sóc, và lời động viên của ông
Tưởng Kinh Quốc đã thay đổi số phận của một con người.
“Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và
chúng theo tôi” (Ga 10,27). Thiên Chúa là chủ chiên nhân lành, Người
yêu thương mỗi người chúng ta bằng một tình yêu cá biệt, cho dù chúng ta có què
quặt đui mù, có xấu xa đốn mạt đến đâu, mỗi người chúng ta đều có chỗ đứng độc
nhất vô nhị trong tình yêu bao bọc của Chúa ; mỗi người chúng ta đều có vị
trí đặc biệt trong trát tim yêu thương của Người. Tấm lòng quảng đại yêu thương
của ông Tưởng Kinh Quốc dành cho cô bé tàn tật Dương Ân Điển chỉ là hình bóng
tình yêu thương vô bờ của Thiên Chúa đối với chúng ta, những con chiên của Người.
Vâng, chiên của Chúa thì nghe Chúa, biết Chúa và theo Chúa.
– Nghe Chúa chính là lắng nghe Lời Chúa qua Kinh thánh, nơi
giáo huấn của Giáo hội, và những ơn soi sáng trong tâm hồn mình. Nghe Chúa chính
là để có một mối tương giao thân tình với Người, và nhất là để tin vào Người.
Thánh Phao lô viết : “Có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng
là nghe công bố lời Đức Kitô” (Rm 10,17).
– Biết Chúa không chỉ là học hỏi và suy niệm theo nghĩa tri
thức, mà chính là hiểu biết sâu xa, yêu mến thân tình, đến nỗi kết hợp cả thân
xác lẫn tâm hồn. Chính tình yêu mới làm cho chúng ta nhận biết Chúa một cách
đích thực đến nỗi đoán biết cả thánh ý Người.
– Theo Chúa chính là một thái độ hoàn toàn tự do, tự nguyện
dấn thân, và trao phó thân phận cho duy một mình Người. Theo Chúa cũng chính là
từ bỏ, từ bỏ con người cũ, nếp sống cũ, đường lối cũ. Các môn đệ đã bỏ mọi sự,
Mađalêna đã bỏ đường tội lỗi, Augúttinô đã bỏ đời trụy lạc, để đi theo Người.
Nghe Chúa, Biết Chúa và Theo Chúa để được những gì ? Đức
Ki tô đã trả lời : “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời, không bao giờ chúng
phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi” (Ga 10,28). Đoàn chiên
đi theo chủ chiên nhân lành thì đồng cỏ xanh với dòng suối mát chắc chắn phải
là đích đến của chúng, vì chủ chiên Giêsu chính là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống.
Người không những ban cho chúng ta sự sống đời đời mà còn bảo đảm sự sống ấy chắc
chắn không thể mất được.
Không chỉ Chúa Con mà cả Chúa Cha cũng gìn giữ, bảo vệ chúng
ta trong bàn tay yêu thương của Người : “Cha tôi, Đấng đã ban
chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa
Cha” (Ga 10,29). Chúa Cha đã trao ban đoàn chiên cho Chúa Con như quà
tặng quí giá nhất, nên Chúa Con cũng gìn giữ và yêu mến đoàn chiên như Chúa Cha
đã yêu mến và gìn giữ vậy. Như thế, chúng ta được bảo vệ an toàn tuyệt đối
trong cả hai bàn tay, của cả cha lẫn mẹ, còn hình ảnh nào đẹp hơn thế nữa !
*
Lạy Chúa, xin cho chúng con trở nên nhỏ bé đơn sơ để
chúng con được nằm gọn trong bàn tay yêu thương của Chúa.
Giữa một thế giới ồn ào vì tranh giành quyền lực, của cải,
xin cho chúng con lắng nghe được tiếng Chúa.
Giữa một thế giới chỉ biết tôn thờ vật chất, xin cho
chúng con hiểu biết Chúa thật sâu xa để yêu mến Người thiết tha.
Giữa một thế giới chỉ biết chạy theo danh lợi thú, xin
cho chúng con luôn đi theo Chúa là chủ chiên nhân lành của cuộc đời chúng con
mà thôi. Amen. (TP)
* 2. Ngày cầu nguyện cho ơn gọi linh mục
Trong một quyển chuyện đề tựa “Quyền lực và vinh quang”, nhà
văn Graham Greene kể lại câu chuyện sau đây xảy ra tại một nước ở Nam Mỹ :
Khi ấy một chính phủ ghét đạo lên nắm quyền và ra lệnh trục xuất tất cả các
Linh Mục ra khỏi nước. Linh mục nào còn lén lút ở lại hoạt động thì bị bắt đem
xử tử. Đa số các linh Mục đã phải tuân lệnh ra khỏi nước, một số nhỏ can đảm ở
lại thì cũng bị xử. Nhưng không ai ngờ là vẫn còn sót lại một Linh mục. Ông này
ở lại được vì không ai thèm để ý tới ông, bởi vì ông là một Linh mục tội lỗi bê
bối đã hồi tục. Ông không coi sóc họ đạo nào cả, cũng không lưu ý tới sự thiếu
thốn của các con chiên. Hằng ngày ông lang thang đây đó để kiếm tiền và nhậu nhẹt.
Về phần giáo dân, trước đây họ vẫn khinh rẻ ông, nhưng trong lúc thiếu Linh mục
thì họ lại cần tới ông. Người ta xin ông rửa tội, giải tội, dâng thánh lễ và xức
dầu. Ông cũng sẵn sàng nhận với một điều kiện là phải có tiền : rửa tội một
em bé là mấy đồng, giải tội một người là mấy đồng, xức dầu một người là mấy đồng,
mỗi người dự lễ là mấy đồng… tất cả đều có giá hẳn hoi. Dĩ nhiên, như ai trong
chúng ta cũng biết, ông càng làm các bí tích thì càng thêm tội bởi vì ông đang
sống trong tình trạng tội lỗi. Nhưng ai ngờ con người tội lỗi ấy lại là phương
tiện Chúa dùng để nuôi dưỡng đàn chiên Chúa trong lúc gian nan. Nhờ còn có ông
mà giáo dân còn tiếp tục lãnh nhận được các bí tích và duy trì được đức tin của
mình. Thế rồi dần dần nhà cầm quyền bắt đầu để ý đến tới những hoạt động của
ông và ra lệnh truy nã ông. Ông cũng sợ bị xử tử nên lén vượt biên giới trốn
sang xứ khác. Nhưng đang lúc ông sắp qua biên giới thì người ta chạy theo năn nỉ
ông trở lại để giúp cho một người hấp hối. Không nỡ để một người chết không có
bí tích nên ông Linh mục này đã trở lại, và đã bị bắt, rồi bị đem ra pháp trường.
Trước lúc bị bắn, ông đã ăn năn xin Chúa thứ tha hết mọi tội lỗi của ông và
dâng linh hồn trong tay Chúa, rồi bình thản ngước đầu chờ đợi. Và ông đã trông
thấy có một người lẫn trong đám đông đang đưa tay ban phép giải tội cho ông, đó
là một linh mục khác vừa trốn về để tiếp tục công việc của ông, công việc của một
chủ chăn đối với đàn chiên đang đói khát.
Câu chuyện cảm động trên cho chúng ta thấy hai điều :
Thứ nhất : Linh mục rất cần cho đời sống đạo của giáo
dân. Dĩ nhiên tín đồ của tôn giáo nào cũng cần vị lãnh đạo tinh thần của mình, nhưng
người công giáo còn cần tới linh mục gấp bội. Có thể nói, cả cuộc đời người
công giáo được bàn tay Linh mục dẫn dắt nuôi dưỡng : Khi ta vừa mới sinh
ra, bàn tay ấy đã đổ nước rửa tội cho ta ; lớn lên bàn tay ấy đưa
Mình Thánh Chúa cho ta rước lễ ; khi ta sa ngã phạm tội, bàn tay ấy giơ
lên thay quyền Chúa mà tha tội cho ta ; khi ta lập gia đình, bàn tay ấy lại
giơ lên chúc lành cho cuộc hôn phối của ta ; và trước lúc ta nhắm mắt lìa
đời, cũng bàn tay ấy xức dầu thánh chuẩn bị cho cuộc hành trình của ta về nhà
Chúa. Nếu thiếu bàn tay ấy thì ta sẽ ra sao ? Những người giáo dân trong
câu chuyện trên mặc dù coi thường vị linh mục tội lỗi nọ nhưng họ vẫn phải cần
tới ông, vẫn van xin năn nỉ ông, bởi vì trong lúc gian truân thiếu thôn ấy, chỉ
có ông là có thể ban các bí tích cho họ.
Thứ hai : Linh mục là phương tiện cứu rỗi của Chúa.
Chúng ta đã thấy ông linh mục trong chuyện trên đã mang ơn Chúa đến cho giáo
dân nhiều như thế nào. Mặc dù ông tội lỗi, bất xứng nhưng các bí tích ông cử
hành vẫn thành sự. Ông đọc ” Này là Mình Ta” thì Chúa vẫn ngự vào chiếc bánh trắng ;
ông nói “Ta tha tội cho con” thì Chúa vẫn ban ơn tẩy sạch mọi tội lỗi trong tâm
hồn người xưng tội. Linh mục thực là phương tiện Chúa dùng để ban ơn cho giáo
dân..
Hôm nay là ngày Giáo hội cầu nguyện cho ơn kêu gọi linh mục.
Không cần nói thêm chi nhiều, chúng ta chắc cũng ý thức nhu cầu linh mục cấp
bách đến thế nào cho Giáo Hội chúng ta : chúng ta đang thiếu linh mục. Rất
nhiều họ đạo không có linh mục. Ngày xưa Chúa Giêsu đã chỉ cho các môn đệ thấy
những đồng lúa chín vàng và bảo “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Chúng con
hãy cầu nguyện xin chủ ruộng cho thêm thợ gặt đến đồng lúa của Ngài”. Chúa biết
nhu cầu của chúng ta, nhưng Chúa muốn chúng ta phải cầu xin thì Chúa mới ban
ơn. Xin gì ?
Xin cho có nhiều thiếu niên, thanh niên quảng đại dâng mình
cho Chúa để phục vụ các linh hồn.
Xin cho những người đang theo tiếng gọi của Chúa hôm nay, tức
là các chủng sinh, các em dự tư, được bền tâm vững chí. Dù hoàn cảnh có nhiều
khó khăn, nhưng Chúa đã nói “Ai bền đỗ tới cùng thì sẽ được rỗi”.
Xin cho các linh mục của chúng ta được xứng đáng là những
phương tiện tốt Chúa dùng để ban ơn cho giáo dân, nghĩa là xin cho các ngài được
thánh thiện và bình an chăm lo việc đạo đức cho giáo dân.
* 3. Bài giảng của Thánh Cyrillô thành
Alexandria (+ 444)
Dấu hiệu phân biệt ai là con chiên của Đức Kitô, ấy là thái
độ sẵn sàng lắng nghe và vâng phục, trong khi dấu hiệu cho biết những con chiên
lạ là sự cứng đầu.
“Lắng nghe” là chấp nhận điều được nói. Những người “lắng
nghe” như thế thì “được Thiên Chúa biết”, nghĩa là kết hợp với Thiên Chúa.
Thực ra chẳng ai mà Thiên Chúa không biết. Vì thế khi Đức
Kitô nói “Ta biết các chiên Ta” thì có nghĩa là “Ta sẽ đón nhận chúng và cho
chúng kết hợp với Ta bằng một sự hợp nhất huyền nhiệm và trường tồn”.
Đức Kitô còn nói : “Các chiên của Ta thì đi theo Ta”.
Thực vậy, nhờ ơn thánh, các tín hữu đi theo những bước chân của Đức Kitô. Họ
không tuân giữ những quy định của Lề luật, vì thực ra đó chỉ là hình bóng. Đúng
ra là họ đi theo những giới răn của Đức Kitô và nhờ đó vươn mình lên tới tầm
cao của ơn gọi làm con Thiên Chúa. Khi Đức Kitô lên trời, họ cũng được lên
theo.
“Ta ban cho chúng sự sống đời đời” : đừng hiểu sự sống
này chỉ là chuỗi ngày nối tiếp nhau mà chúng ta dù là người tốt hay xấu cũng đều
sở hữu sau khi sống lại, nhưng phải hiểu đây là sống trong niềm vui. Ta cũng có
thể hiểu “sự sống” này theo nghĩa bí tích Thánh Thể. Nhờ Bí tích Thánh Thể, Đức
Kitô tháp nhập chúng ta vào chính sự sống của Ngài, các tín hữu được thông phần
vào chính xác thịt Ngài, như lời Ngài nói : “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta
thì sẽ có sự sống đời đời” (Ga 6,54)
* 4. Thuộc về đàn chiên của Chúa
Cảm giác được thuộc về Chúa Giêsu, được Ngài biết và yêu
thương, đó là một cảm giác vô cùng an ủi. Ai mà không muốn thuộc về đàn chiên của
Chúa ! Thế nhưng thế nào là thuộc về đàn chiên Chúa ? Muốn thuộc về
đàn chiên Chúa thì phải làm sao ?
– Thứ nhất là phải tin vào Ngài : chúng ta gia nhập
đoàn chiên Chúa và trở thành tín hữu, nghĩa là người tin.
– Nhưng tin chỉ mới là bước thứ nhất. Bước thứ hai là phải
nghe tiếng Ngài : “Chiên của Ta thì nghe tiếng Ta”. Nghe tiếng Chúa Giêsu
nghĩa là chú tâm đến những lời Ngài dạy dỗ.
– Thứ ba là đi theo Ngài : “Chiên của Ta đi theo Ta”.
Theo Chúa là thực hành lời Ngài dạy.
Liên hệ giữa chúng ta với Chúa phải là hai chiều. Con chiên
phải chọn thuộc về Chúa. Chúa Giêsu không muốn và cũng không thể cứu ta ngược với
ý muốn của ta. Nhưng chỉ cần ta thực lòng muốn và cố gắng thuộc về Ngài thì
Ngài sẽ chăm sóc ta trong cuộc sống và trong cái chết nữa. Ngài hứa ban cho ta
sự sống đời đời : “Ta ban cho chúng sự sống đời đời, không bao giờ chúng
phải diệt vong”.
Nhưng như thế không có nghĩa là hễ thuộc về Chúa thì sẽ được
Ngài bảo đảm cho có một cuộc sống dễ chịu ở đời này đâu. Ngược lại là đàng
khác. Những kẻ thuộc về Chúa có thể bị bách hại, nhưng ai vẫn trung thành thì sẽ
được chia phần vinh quang của Ngài trên trời (bài đọc 2). Gian truân và thử
thách là những cơ hội để ta chứng tỏ đức tin và lòng vâng phục Chúa.
Đàn chiên là hình ảnh của nếp sống cộng đoàn. Ngay cả trên
bình diện nhân loại thôi thì ai cũng cần có cộng đoàn. Đó là lý do tại sao Chúa
muốn những kẻ theo Ngài phải sống trong cộng đoàn. Trong cộng đoàn, chúng ta
tìm được sự nâng đỡ, khuyến khích và tình thân. Chúng ta không thể thuộc về
Chúa Giêsu mà không thuộc về đoàn chiên của Ngài. (FM)
* 5. “Ta biết chiên của Ta”
Khoảng giữa thế kỷ 19, Thánh Gioan Bosco bắt đầu hoạt động
phục vụ những người trẻ nghèo nàn ở thành phố Turinô nước Ý. Họ đã sớm nhận ra
ngài thực sự là một người bạn của họ. Họ yêu quý ngài đến nỗi khi ngài lâm trọng
bệnh thì họ tha thiết cầu nguyện tưởng như muốn xé rách bầu trời, có người còn
xin Chúa cho mình chết thay ngài. Nhờ những lời cầu nguyện ấy, Thánh Gioan
Boscô đã khoẻ lại. Tình cảm trìu mến ấy không thể có được nếu Gioan Bosco và
đám trẻ ấy đã không gần gũi nhau, biết nhau và yêu thương nhau.
Trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu nói “Ta biết chiên của
Ta”. Ngài biết chiên Ngài bởi vì Ngài là mục tử tốt lành. Có nhiều mức độ biết :
có khi chỉ là biết mặt, biết tên ; có khi biết như một người quen ;
có khi biết như một người bạn thân thiết.
Không biết người ta là một điều rất buồn thảm. Nhà văn do
thái Elia Wiesel rất thương cha mình, nhưng người cha ấy đã chết trong trại tù
Auschwitz năm 1944. Trong quyển tự thuật, nhà văn ấy tâm sự : “Tôi chưa
bao giờ thực sự biết cha tôi. Thực đau lòng mà phải thú nhận như vậy. Tôi đã biết
quá ít về người mà tôi yêu quý nhất đời ấy, người mà chỉ cần nhìn tôi một cái
cũng đủ làm cho lòng tôi xao xuyến. Không hiểu những người con khác có gặp phải
vấn đề như tôi không. Họ có biết cha họ không phải chỉ là một con người có nét
mặt uy quyền, buổi sáng đi làm và buổi chiều trở về mang bánh đặt lên bàn ăn
không ?”
E rằng những lời buồn thảm trên đây cũng là tiếng than của rất
nhiều đứa con khác. Ngày nay con cái không biết cha mẹ và cha mẹ không biết con
cái. Muốn biết thì phải mất nhiều thời giờ và nhiều cố gắng, nhưng nó sẽ mang lại
nhiều hoa trái. Còn nếu không biết thì sẽ phải gánh chịu nhiều mất mát. Đời sống
trôi qua rất nhanh khiến chúng ta ít biết nhau. Mà không biết nhau thì không thể
yêu thương nhau được.
“Biết” là điều rất quan trọng đối với những người-chăm-sóc
(carers). Những người-chăm-sóc cần biết kẻ mà mình chăm sóc. Bước đầu là biết
tên. Nhưng muốn biết thật thì phải biết cả lịch sử cuộc đời họ. Nếu không biết
họ đến với ta từ một thế giới như thế nào và sẽ trở về một thế giới như thế nào
thì ta chỉ coi họ như một chiếc bóng mà thôi.
Nhưng cái “biết” phải có hai chiều. Chúa Giêsu biết chiên của
Ngài và chiên của Ngài cũng biết Ngài. Chúa Giêsu không sợ để cho người ta biết
mình. Còn chúng ta đôi khi lại sợ. Chúng ta không muốn người khác đi vào cuộc sống
chúng ta, biết chúng ta nghĩ gì, cần gì, đang lo buồn về chuyện gì và đang hy vọng
những gì. Có lẽ vì chúng ta sợ người ta biết mình rõ quá rồi sẽ từ chối mình. Từ
đó chúng ta chỉ muốn người ta biết chúng ta qua cái vẻ bề ngoài mà chúng ta cố
tỏ ra. Thế nhưng làm sao chúng ta có thể tạo được một tình cảm trìu mến với người
khác nếu chúng ta cứ giữ một khoảng cách với họ và không cho họ biết rõ chúng
ta ?
Đối với Chúa cũng vậy. Ngài là mục tử tốt lành. Ngài muốn
ban cho chúng ta sự sống đời này và cả đời sau nữa. Nhưng phải có tương quan
hai chiều. Chúng ta phải đáp lại tình thương của Ngài bằng cách lắng nghe tiếng
Ngài và đi theo Ngài. (FM)
* 6. Chuyện minh họa
Trong một cuộc họp, có hai người được mời đọc Thánh Vịnh 22
“Chúa là mục tử của tôi”.
Người thứ nhất là một diễn viên nhà nghề nhưng không có đức
tin. Anh phát âm rất chuẩn, giọng rõ ràng, ngắt câu hợp ý. Nghe anh đọc xong ai
cũng vỗ tay.
Người thứ hai là một tín hữu xác tín về đức tin. Anh phát âm
không chuẩn lắm, anh còn đọc hơi nhanh nữa. Nhưng giọng anh rất tình cảm. Ai
nghe anh đọc cũng đều xúc động.
Khi hai người đọc xong, người diễn viên đến bắt tay người
tín hữu và khen : “Xin chúc mừng. Anh đã đọc rất hay”. Người tín hữu
đáp : “Không, anh mới là người đọc hay, còn tôi thì tệ quá.”
Người diễn viên phân tích : “Chắc chắn là anh đọc hay
hơn tôi mà. Một điều rất hiển nhiên là : Tôi thì biết Thánh Vịnh 22, còn
anh thì biết Người Mục Tử.”
Chúng ta hãy để ý : Tác giả Thánh vịnh 22 không nói
“Chúa là một mục tử”, cũng không nói “Chúa là vị Mục
tử”, nhưng nói “Chúa là Mục Tử của tôi”. Người tín hữu kia đã đọc
Thánh vịnh 22 bằng cảm nghiệm sống của mình, cho nên anh đã làm cho người khác
xúc động.
* 7. Ơn gọi yêu thương
Vết thương sâu nhất là vết thương lòng :
đó là cảm giác rằng mình không được yêu,
rằng mình chẳng quý giá gì đối với ai cả.
Ngày nay nhiều người bị thương trong lòng.
Mỗi người chúng ta đều có thể chữa lành vết thương cho họ.
Chúng ta có tay để làm
có trí để hiểu
và nhất là có tim để yêu thương.
Chúa nhật hôm nay cũng là ngày ơn gọi.
Mà mọi ơn gọi đều là ơn gọi yêu thương (FM)
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế : Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu đã sống lại
vinh hiển và lên trời ngự bên hữu Chúa Cha. Chúng ta cùng chúc tụng Người và
dâng lời cầu xin :
1. Chúa
đã đón nhận niềm tin yêu của thánh Phêrô / và trao cho người nhiệm vụ dẫn
dắt đoàn chiên Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho Đức Thánh Cha đương
kim / cũng được niềm tin yêu như vậy.
2. Chúa
Giêsu là Vị Mục tử nhân hậu / đã chết để cho đoàn chiên được sống dồi
dào / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các vị mục tử của chúng ta / cũng
sẵn lòng hy sinh tất cả cho đoàn chiên Chúa đã trao ban.
3. Hôm
nay là ngày cầu nguyện cho ơn gọi linh mục và tu sĩ / Chúng ta hiệp lời cầu
xin Chúa / ban cho Giáo hội Việt nam có được nhiều ơn gọi linh mục và tu
sĩ / để đoàn chiên Chúa không bao giờ thiếu người chăm sóc dưỡng nuôi.
4. Việc
đào tạo linh mục tương lai cho các giáo phận / đòi hỏi phải đầu tư lâu dài
và tốn kém / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng
ta / biết hết lòng cộng tác vào công việc cao quý này / bằng lời cầu
nguyện và bằng việc quảng đại giúp đỡ Chủng Viện.
Chủ tế : Lạy Chúa Giêsu, vì yêu thương, Chúa đã chết để
cho chúng con được sống và sống dồi dào. Xin cho chúng con cũng biết đền đáp phần
nào tình thương của Chúa bằng chính đời sống bác ái yêu thương của chúng con.
Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh Lễ
– Kinh tiền tụng : nên dùng Kinh tiền tụng phục sinh số
2, vì có nói tới cuộc sống mới.
– Trước kinh Lạy Cha : Hiện giờ chúng ta rất giống với
một đoàn chiên đang quy tụ quanh chủ chiên là Chúa Giêsu bên bàn tiệc Thánh thể.
Chúng ta hãy hợp ý với Ngài dâng lên Thiên Chúa là Cha những tâm tình con thảo
của chúng ta.
VII. Giải tán
Anh chị em đã biết Chúa Giêsu là mục tử dẫn dắt đời mình,
cho dù có khi xem ra Ngài đang dẫn chúng ta qua thung lũng tối tăm, nhưng điếm
tới cuối cùng sẽ là đồng cỏ xanh tươi, suối ngọt và bóng mát. Vậy anh chị em
hãy ra về trong niềm vui mừng phó thác trọn vẹn cho Chúa Giêsu dẫn dắt.
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI
Lectio: Chúa Nhật IV Phục Sinh (C)
Chủ Nhật 12 Tháng Năm, 2019
Chúa Giêsu vị Mục Tử Nhân Lành
Con chiên Người nhận biết Người
Ga 10:27-30
1. Bài đọc
a) Lời nguyện mở đầu:
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy ngự đến và đốt lửa yêu mến
trong lòng chúng con, xin hãy ban cho chúng con ân sủng để đọc đi đọc lại trang
này của sách Tin Mừng một cách sốt sắng, ghi nhớ một cách trìu mến và thực hành
trong cuộc sống chúng con. Chúng con ước ao được đến gần đến sự mầu
nhiệm của Con Người của Chúa Giêsu được chất chứa trong hình ảnh của một người
Mục Tử. Vì việc này, chúng con khẩn khoản cầu xin Chúa hãy mở lòng mở trí chúng
con để chúng con có thể hiểu biết được quyền năng sự Phục Sinh của Chúa. Lạy
Chúa Thánh Thần của sự sáng, xin hãy soi sáng tâm trí chúng con, để chúng con
có thể hiểu được Lời của Chúa Giêsu, Đấng Chăn Chiên Tốt Lành; xin hâm nóng
trái tim chúng con để chúng con có thể nhận thức được rằng những lời này không
quá xa vời với chúng con, rằng chúng chính là chìa khóa cho kinh nghiệm của
chúng con trong hiện tại. Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy ngự đến, vì nếu
không có Chúa, Tin Mừng chỉ là những dòng chữ vô hồn; với Chúa, Phúc Âm trở
thành Thần Khí của Sự Sống. Lạy Chúa Cha, Chúa Thánh Thần, xin hãy
ban cho chúng con; chúng con cũng cầu xin điều này cùng Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ
Chúa Giêsu và là mẹ chúng con, và tiên tri Êlia, ngôn sứ của Chúa, vì danh Đức
Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen!
b) Đọc Tin Mừng:
27 Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: “Chiên
Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng, và chúng theo Tôi; 28 Tôi
cho chúng được sống đời đời, chúng sẽ không bao giờ hư mất, và không ai có thể
cướp chúng khỏi tay Tôi. 29 Điều mà Cha Tôi ban cho Tôi,
thì cao trọng hơn tất cả, và không ai có thể cướp được khỏi tay Cha Tôi. 30 Tôi
và Cha Tôi là một.”
c) Giây phút thinh lặng cầu nguyện:
Sự im lặng bảo vệ ngọn lửa của Lời Chúa đã thấm nhập vào
trong chúng ta qua việc lắng nghe Lời Người. Nó giúp chúng ta duy
trì được ngọn lửa sốt sắng trong lòng. Hãy dừng lại giây lát trong
thinh lặng, hãy lắng nghe để chúng ta có thể tham dự vào quyền năng sáng tạo và
tái sáng tạo của Ngôi Lời.
2. Suy Niệm
a) Chìa khóa dẫn đến bài đọc:
Bài Phúc Âm của Chủ Nhật tuần này được trích ra từ chương 10
của Tin Mừng viết theo thánh Gioan, một bài giảng dạy của Chúa Giêsu trong một
ngày lễ của người Do Thái kỷ niệm sự thánh hiến Đền Thờ Giêrusalem được tổ chức
vào cuối tháng mười hai (lễ kỷ niệm việc tái thánh hiến Đền thờ, vốn đã bị tàn
phá bởi người Syria gốc Hy Lạp, do công trình xây dựng của Giuđa Máccabê vào
năm 164 trước Công Nguyên). Lời của Chúa Giêsu liên quan đến mối
quan hệ giữa người Chăn Chiên (Chúa Kitô) và đoàn chiên (Giáo Hội) thuộc về một
cuộc tranh luận thực sự và riêng tư đã xảy ra giữa Chúa Giêsu và những người Do
Thái. Họ hỏi Chúa một câu hỏi rõ ràng và đòi hỏi Người phải trả lời
cũng cụ thể và công khai như thế: “Nếu ông là Đấng Kitô, thì xin nói
công khai sự thật cho chúng tôi biết” (10:24). Sách Phúc
Âm của thánh Gioan trong những đoạn khác cũng có viết về việc những người Do
Thái cố ý tìm cho bằng được một sự khẳng định rõ ràng từ Chúa Giêsu liên quan đến
danh tính của Người (2:18; 5:16; 8:25). Trong các sách Phúc Âm Nhất
Lãm, một câu hỏi tương tự cũng đã được đặt ra khi Chúa Giêsu bị điệu ra trước mặt
các thượng tế (Mt 26:63; Mc 14:61; Lc 22:67). Câu trả lời của Chúa
Giêsu được trình bày trong hai giai đoạn (các câu 25-31 và
32-39). Chúng ta hãy xem xét một cách sơ lược bối cảnh của giai đoạn
đầu tiên nơi mà lời phụng vụ của chúng ta được trình bày. Người Do
Thái đã không hiểu được dụ ngôn Người Mục Tử (Ga 10:1-21) và bây giờ họ muốn
Chúa Giêsu cho một sự mặc khải rõ ràng hơn về danh tính của Người. Về
điều này, lý do việc cứng lòng tin của họ không phải là vì thiếu sự rõ ràng mà
bởi vì họ từ chối thuộc về đoàn chiên của Người, để trở thành con chiên của Người. Một
câu nói tương tự của Chúa Giêsu có thể soi sáng thêm ý nghĩa này khi chúng ta đọc
đoạn Tin Mừng của thánh Máccô 4:11: “Phần anh em, mầu nhiệm Nước
Thiên Chúa đã được ban cho anh em; còn với những người kia là những kẻ ở ngoài,
thì cái gì cũng phải dùng dụ ngôn.” Lời của Chúa Giêsu là ánh sáng
chỉ dành cho những ai đang sống trong cộng đoàn giáo hữu, còn đối với những ai
quyết định đứng ngoài thì những lời này chỉ là những ẩn ngữ rời rạc. Đối
với việc không tin của người Do Thái, Chúa Giêsu phản đối hành vi của những kẻ
thuộc về Người và những kẻ mà Chúa Cha đã ban cho Người; và cũng là mối quan hệ
với họ.
Ngôn ngữ của Chúa Giêsu không nhất thiết hiển nhiên ngay lập
tức đối với chúng ta; chứ không phải việc so sánh những tín hữu với một bầy
chiên làm chúng ta lúng túng. Trái lại, chúng ta không hề xa lạ gì với
đời sống của những người làm nông và chăn chiên, và đây không phải là một điều
dễ hiểu rằng đoàn chiên nào sẽ đại diện cho một dân tộc và ai là những người
chăn chiên. Mặt khác, đối tượng mà Chúa Giêsu nhắm vào khi dùng ngụ
ngôn này chính là những người mục tử. Điều hiển nhiên là dụ ngôn được
hiểu từ quan điểm của một người muốn chia xẻ gần như tất cả mọì thứ với đoàn
chiên của mình. Ông biết đoàn chiên của mình: ông thấy được mọi ưu
và khuyết điểm của từng con; các con chiên cũng hiểu được sự hướng dẫn của người
chăn chiên: chúng nghe theo lời người chăn và những chỉ dẫn của ông.
i) Các con chiên của Chúa Giêsu thì lắng
nghe tiếng Chúa: đây là một câu hỏi không chỉ dành cho người đang nghe ở bên
ngoài (3:5; 5:37) mà nó còn dành cho từ người đang chăm chú lắng nghe (5:28;
10:3) đến người lắng nghe vâng phục (10:16-27; 18:37; 5:25). Trong
bài giảng về người mục tử, sự lắng nghe này thể hiện lòng phó thác và hiệp nhất
của đoàn chiên với người mục tử (10:4). Tĩnh từ và sở hữu từ “của
tôi” không chỉ cho thấy sự sở hữu đơn giản các con chiên, mà nó còn cho thấy rằng
các con chiên thuộc về người chăn chiên, và chúng thuộc về gần như là người
chăn chiên chính là chủ của chúng (10:12).
ii) Kế đến, điều này tạo nên một mối giao
tiếp mật thiết giữa Chúa Giêsu và các con chiên: “và Tôi biết chúng”
(10:27). Đây không phải là một câu hỏi về kiến thức trí tuệ; theo ý nghĩa Kinh
Thánh “để biết ai đó” có nghĩa là, điều quan trọng hơn cả là phải có một mối
quan hệ cá nhân và cách nào đó sống trong cảm thông với người ấy. Một
sự hiểu biết không loại trừ các đặc tính của loài người như sự đồng cảm, yêu mến,
cảm thông tự nhiên.
iii) Trong đức tính của sự hiểu biết về
tình yêu này, người mục tử kêu gọi đoàn chiên của mình đi theo
mình. Việc lắng nghe theo Vị Mục Tử cũng liên quan đến một nhận thức
rõ ràng, bởi vì trong nhiều tiếng gọi có thể khác nhau, các con chiên phải chọn
lựa nghe theo tiếng gọi tương ứng với một Đấng cụ thể (Đức
Giêsu). Noi theo sự nhận thức này, lời đáp trả sẽ tích cực, cá nhân
và trở thành sự vâng phục. Đây là kết quả từ sự lắng
nghe. Vì vậy, giữa việc lắng nghe và việc chọn lựa theo người Mục Tử
là sự nhận biết về Đức Giêsu.
Sự nhận biết mà các con chiên có về Đức Giêsu đã mở lối cho
một hành trình dẫn đến tình yêu: “Ta cho họ sự sống đời đời”. Đối
với tác giả Phúc Âm, đời sống là ân sủng của sự hiệp thông với Thiên Chúa.
Trong các sách Phúc Âm Nhất Lãm, khi nói về “sự sống” hay “sự sống đời đời” thì
liên quan đến tương lai; trong Tin Mừng của thánh Gioan, nó chỉ về một sự sở hữu
thực sự. Điều này được thường xuyên lặp đi lặp lại trong lời diễn giải
của Gioan: “Ai tin vào Con Người thì được sự sống đời đời” (3:36);
“Thật, Tôi bảo thật các ông: ai nghe lời Tôi và tin vào Đấng đã
sai Tôi, thì có sự sống đời đời” (5:24; 6:47).
Mối quan hệ tình yêu của Chúa Giêsu cũng trở nên cụ thể bởi
kinh nghiệm của sự bảo vệ mà Người có dịp trải qua: đó là việc mà những
con chiên “sẽ không bao giờ bị hư mất”. Có lẽ, điều này muốn nói đến
hình phạt đời đời. Và sau đó còn được thêm rằng “không ai có thể cướp
được chúng”. Những câu nói này cho thấy vai trò bàn tay của Thiên
Chúa và của Đức Kitô đã ngăn không cho trái tim của những người này bị cướp đi
bởi các quyền lực tối tăm khác. Trong Kinh Thánh, bàn tay, trong một số bối cảnh,
còn là một ẩn dụ chỉ về sức mạnh của Thiên Chúa, Đấng bảo vệ (Đnl 33:3; Tv
31:6). Mặt khác, động từ “cướp mất” (harpázö) gợi ý
cho ta biết rằng công đoàn của các môn đệ cũng sẽ không tránh khỏi được những
cuộc tấn công của ma quỷ và của cám dỗ. Nhưng những chữ “không ai có
thể cướp được chúng” cho thấy rằng sự hiện diện của Đức Kitô bảo đảm cho cộng
đoàn một sự ổn định chắc chắn không nao núng để họ có thể vượt qua được mọi cơn
cám dỗ của sợ hãi.
b) Một vài câu hỏi gợi ý:
Giúp chúng ta chuẩn bị cho phần suy niệm và cập
nhật:
i) Thái độ đầu tiên làm cho Lời của Chúa
Giêsu hiển nhiên là loài người phải “lắng nghe”. Động từ này trong
ngôn ngữ Kinh Thánh thật là phong phú và xác đáng: nó ngụ ý sự vui mừng
tuân theo nội dung của những gì đã được nghe, sự tùng phục với người đang nói,
sự chọn lựa về cuộc sống của Đấng đang gửi gấm tâm ý với chúng ta. Bạn
có thật sự đang đắm chìm trong việc lắng nghe Lời Chúa không? Có những
khoảng không gian và thời gian nào trong đời sống thường nhật của bạn mà bạn
dành riêng ra, một cách đặc biệt, chỉ để lắng nghe Lời Chúa không?
ii) Cuộc đối thoại hoặc sự thông tri thân mật và
sâu sắc giữa Đức Kitô và bạn đã được xác định bởi bài Tin Mừng trong phần phụng
vụ của ngày hôm nay bởi một động từ tuyệt vời trong Kinh Thánh: “biết”. Động
từ này liên quan đến toàn bộ một con người: lý trí, trái tim, và ý muốn. Ý
thức của bạn về Đức Kitô đã đóng khung vững chãi ở mức độ lý thuyết trừu tượng
chưa hay là bạn sẽ để cho mình được biến đổi và hướng dẫn bằng tiếng nói của
Người trên cuộc hành trình của đời bạn?
iii) Những người đã lắng nghe và biết đến
Thiên Chúa thì “đi theo sau” Đức Kitô như là hướng dẫn viên duy nhất của đời họ. Việc
đi theo sau của bạn có tiếp diễnhằng ngày và liên tục
không? Ngay cả khi ở cuối chân trời thấp thoáng có các mối đe dọa hoặc
cơn ác mộng của các tiếng nói khác hoặc các ý tưởng khác mà chúng đang cố gắng
cướp lấy chúng ta khỏi sự hiệp thông với Thiên Chúa không?
iv) Trong phần suy niệm bài Phúc Âm hôm
nay có hai động từ khác xuất hiện: chúng ta sẽ không bao giờ bị “hư
mất, án phạt đời đời” và không ai sẽ có thể “cướp” chúng ta ra khỏi sự hiện diện
của Đức Kitô, Đấng bảo vệ cuộc sống chúng ta. Đây là nền tảng và động
lực cho sự bảo đảm đời sống hằng ngày của chúng ta. Ý tưởng này được
thể hiện theo một phương cách rõ ràng qua lời thánh Phaolô: “Tôi chắc
rằng không có gì có thể tách rời chúng ta ra khỏi tình yêu với Đức Kitô: dù cho
là sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù hiện tại hay tương lai,
dù thế giới trên trời hay thế giới bên dưới – không có một loài thọ tạo nào sẽ
có thể tách rời chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện qua Đức Giêsu
Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 8:38-39). Khi một mối liên hệ giữa người
tín hữu và Ngôi Lời Giêsu được thiết lập bởi lời mời gọi và sự lắng nghe, thì
cuộc sống tiến hành được tin chắc sự thành công và trưởng thành thiêng liêng sẽ
đạt được. Nền tảng thật sự cho điều bảo đảm này nằm trong việc khám
phá ra được mỗi ngày thiên tính của vị Mục Tử, Đấng là sự bảo đảm cho đời sống
chúng ta. Bạn đã có trải qua kinh nghiệm về sự bảo đảm và thanh thản
này khi bạn cảm thấy bị vây hãm bởi sự dữ chưa?
v) Những lời của Chúa Giêsu “Tôi cho chúng
được sống đời đời” bảo đảm với bạn rằng lúc kết thúc cuộc hành trình của bạn
như một Kitô hữu, thì sẽ không tối tăm hoặc mờ mịt. Đối với bạn, sự
sống đời đời có chỉ về số năm mà bạn có thể sống không, hay là nó gợi nhớ lại đời
sống hiệp thông của bạn với Thiên Chúa? Có phải kinh nghiệm được đồng
hành với Chúa trong đời bạn là một lý do cho niềm hân hoan không?
3. Đáp ca
a) Thánh vịnh 100:2,3,5
Phụng thờ Chúa với niềm hoan hỷ,
Vào trước thánh nhan Người giữa tiếng hò reo.
Hãy nhìn nhận Chúa là Thượng Đế,
Chính Người dựng nên ta, ta thuộc về Người,
Ta là dân Người, là đoàn chiên Người dẫn dắt.
Bởi vì Chúa nhân hậu,
Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương,
Qua bao thế hệ, vẫn một niềm thành tín.
b) Lời Nguyện Kết:
Lạy Chúa, chúng con nài xin Chúa hiển lộ với mỗi người chúng
con như Vị Mục Tử Nhân Lành, Đấng tái lập nhờ quyền lực của sự Mầu Nhiệm Phục
Sinh, Đấng tự hữu, với sự hiện diện tinh tế của Người, cùng với tất cả quyền
năng của Chúa Thánh Linh. Chúng con cầu xin Chúa hãy mở mắt chúng
con, để chúng con có thể biết Chúa hướng dẫn chúng con như thế nào, hỗ trợ ý muốn
của chúng con đi theo Chúa đến bất cứ nơi nào Chúa muốn dẫn chúng con
đi. Xin hãy ban cho chúng con ân sủng không bị cướp đi từ bàn tay của
Đấng Chăn Chiên Tốt Lành và không bị quyền năng của sự dữ đe dọa chúng con, khỏi
những chia rẽ từ nơi khuất lấp hay chỗ tàng ẩn từ trong trái tim chúng
con. Ôi lạy Chúa Kitô, Vị Mục Tử, Người dẫn đường của chúng con, là
gương mẫu của chúng con, là nguồn an ủi của chúng con, là người anh của chúng
con. Amen!
4. Chiêm Niệm
Hãy suy niệm Lời của Đấng Chăn Chiên Tốt Lành
trong đời bạn. Các giai đoạn trước của phần Lectio Divina, tự chúng
đều quan trọng, sẽ trở thành thực hành, nếu được sắp xếp để sống thực sự với Lời
Chúa. Con đường của “Đọc Lời Chúa” không thể được xem là kết thúc nếu
nó không được nối tiếp để dùng Lời Chúa trở nên trường đời cho bạn. Một
mục tiêu như thế sẽ đạt được khi bạn lãnh hội được hoa trái của Chúa Thánh
Linh. Đó là: sự bình an trong tâm hồn được làm triển nở
trong niềm hân hoan và trong sự hứng thú vì Lời Chúa; khả năng để phân biệt giữa
việc cần thiết và việc của Thiên Chúa và giữa việc vô ích và việc của các điều
dữ; giữa lòng can đảm của sự chọn lựa và của hành động cụ thể, theo giá trị của
trang Kinh Thánh mà bạn đã đọc và suy niệm về nó.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét