Trang

Thứ Bảy, 18 tháng 5, 2019

19-05-2019 : (phần II) CHÚA NHẬT V PHỤC SINH năm C


19/05/2019
Chúa Nhật 5 PHỤC SINH năm C
(phần II)


Phụng Vụ Lời Chúa: Chúa Nhật 5 Phục Sinh năm C
(Cv 14,21b-27; Kh 21,1-5a; Ga 13,31-33a.34-35)
HỘI THÁNH
“Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,34-35).
Khởi đi từ cộng đoàn các môn đệ qui tụ quanh Chúa Giêsu, Hội Thánh dần rộng mở đón nhận tất cả những ai tin vào Đức Giêsu nhờ hoạt động rao giảng Tin Mừng của các tông đồ và môn đệ. Sứ mạng loan báo Tin Mừng của Hội Thánh lữ hành vẫn tiếp tục, dẫu phải đối diện với nhiều khó khăn, thách đố, cho đến khi đạt tới sự viên mãn nơi Hội Thánh khải hoàn.
I. CÁC BÀI ĐỌC
1. Bài đọc 1:
Sách Công vụ Tông đồ cho thấy sứ mạng của Hội Thánh thời sơ khai, cách riêng là công việc loan báo Tin Mừng cho dân ngoại của hai ông Phaolô và Banaba, với các hoạt động như sau:
Trước hết, đó là hoạt động rao giảng Tin Mừng và thành lập các cộng đoàn. Khi đến bất cứ nơi nào, điều ưu tiên trước hết của hai ông Phaolô và Banaba là loan báo Tin Mừng và nhận nhiều người làm môn đệ (x. Cv 14,21b). Đối với hai ông, loan báo Tin Mừng và đón nhận những người dân ngoại tin Đức Giêsu vào trong Hội Thánh là ý định của Thiên Chúa, Đấng mở cửa cho dân ngoại đón nhận đức tin (x. Cv 14,27). Vì xác tín như vậy nên các ông không ngừng mở rộng việc loan báo Tin Mừng và thành lập các cộng đoàn Hội Thánh ở rất nhiều nơi mà các ông đi qua.
Sau nữa, đó là việc củng cố tinh thần và khuyên nhủ các tín hữu giữ vững đức tin. Thật vậy, sau khi thành lập các cộng đoàn, hai ông Phaolô và Banaba tiếp tục quan tâm chăm lo cho đời sống tinh thần của các tín hữu. Hai ông thăm viếng, an ủi, khích lệ và khuyên nhủ họ kiên vững trong đức tin, nhất là trong những lúc khó khăn, vì “chúng ta phải chịu nhiều gian khổ mới được vào Nước Thiên Chúa” (x. Cv 14,22). Đức tin còn non yếu của các tín hữu gốc dân ngoại cần được củng cố nhờ sự động viên và khích lệ, nhất là trong những lúc gặp khó khăn, thử thách.
Cuối cùng, đó là việc cắt đặt các kỳ mục để coi sóc cộng đoàn. Vì phải đi nhiều nơi rao giảng và thành lập các cộng đoàn, hai ông Phaolô và Banaba không thể trực tiếp lo cho đời sống tinh thần của các tín hữu, nên trong mỗi cộng đoàn, các ông cắt đặt các kỳ mục để họ trực tiếp lo cho đời sống đức tin của các tín hữu. Hơn nữa, hai ông còn cầu nguyện và phó thác họ cho Thiên Chúa (x. Cv 14,23), vì xác tín rằng chỉ với ơn Chúa, việc phục vụ của các kỳ mục mới đem lại nhiều ích lợi thiêng liêng cho các tín hữu.
Sứ mạng của hai ông Phaolô và Banaba được thể hiện qua ba hoạt động: rao giảng và thành lập các cộng đoàn; củng cố tinh thần và khuyên nhủ giữ vững đức tin; cắt đặt các kỳ mục trực tiếp coi sóc. Trong một chừng mực nào đó, mô hình rao giảng Tin Mừng này vẫn có thể được áp dụng ngày nay.
2. Bài đọc 2:
Tác giả sách Khải Huyền mô tả thị kiến về “trời mới đất mới”, trong đó Hội Thánh chính là Giêrusalem mới từ trời xuống, nơi Thiên Chúa ở cùng nhân loại. Hội Thánh này có hai đặc điểm sau:
Thứ nhất, khi Thiên Chúa đưa công trình tạo dựng và cứu độ đến giai đoạn cuối cùng với “trời mới đất mới”, Người hoàn toàn tiêu diệt sự ác (Kh 21,1). Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt và an ủi những ai đã sống trung tín với Người. Người sẽ loại trừ sự chết và sẽ “không còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa” (Kh 21,4). Vì thế, tất cả những ai đã trải qua bao đau khổ, thử thách vì Đức Kitô và Tin Mừng, sẽ được tân lang là Đức Kitô đón chào trong thành thánh Giêrusalem trên trời.
Thứ hai, sự xuất hiện của Giêrusalem mới từ trời xuống là hình ảnh Hội Thánh thiên quốc. Hội Thánh này là công trình của Thiên Chúa chứ không phải do tay con người làm ra; và đó là nơi Thiên Chúa cam kết sẽ mãi ở cùng nhân loại qua một giao ước vĩnh cửu (x. Kh 21,3). Đây là nơi Thiên Chúa ngự trị và là nơi ở dành cho những người được tuyển chọn.
Thị kiến về trời mới đất mới, về Hội Thánh là Giêrusalem từ trời xuống, đem lại niềm an ủi và sự khích lệ lớn lao cho những ai đang bị bách hại hay sống đời chứng nhân cho Đức Kitô và Tin Mừng.
3. Bài Tin Mừng:
Trong diễn từ tiệc ly, Chúa Giêsu cho thấy con đường dẫn đến vinh quang mà Người sắp hoàn tất để tôn vinh Thiên Chúa. Đồng thời, Người cũng nhắn nhủ các môn đệ hãy yêu thương nhau theo mẫu gương của Người.
Trước hết, thập giá là con đường mà Thiên Chúa muốn Đức Giêsu phải đi qua để đạt tới vinh quang phục sinh. Khi chấp nhận con đường thập giá theo thánh ý Thiên Chúa, Đức Giêsu làm cho Thiên Chúa được tôn vinh. Như thế, từ thập giá đến vinh quang là con đường cứu độ mà Đức Giêsu phải đi qua để tôn vinh Thiên Chúa. Không qua thập giá thì chẳng thể đến được vinh quang của Thiên Chúa. Vinh quang mà không có thập giá thì chỉ là vinh quang theo kiểu của con người.
Hơn nữa, trước khi rời xa các môn đệ, Chúa Giêsu còn trối lại cho các ông giới răn yêu thương. Yêu thương là điều răn mới vì chính Chúa Giêsu đã nêu gương cho các môn đệ để các ông biết yêu như Người đã yêu. Lòng yêu thương đó được diễn tả cách cụ thể qua sự hy sinh tính mạng mình. Thêm nữa, yêu thương là sức mạnh nối kết các môn đệ trong những lúc khó khăn, khi mà Thầy không còn ở bên cạnh họ nữa. Yêu thương cũng là chứng tá sống động để người ta nhận biết người môn đệ đích thật của Đức Kitô.
Trước khi bước vào cuộc thương khó để tiến vào vinh quang, Chúa Giêsu để lại cho các môn đệ giới răn yêu thương như là mối giây liên kết các ông trong cộng đoàn môn đệ và như là chứng tá cho tư cách môn đệ đích thật của Đức Giêsu. Yêu thương chính là chuẩn mực cho mọi cộng đoàn Kitô hữu.
II. GỢI Ý ÁP DỤNG:
1/ Hoạt động của hai ông Phaolô và Banaba theo tường thuật của sách Công vụ Tông đồ có thể được tóm lại trong ba công việc: một là, rao giảng Tin Mừng và thành lập các cộng đoàn; hai là, củng cố tinh thần các tín hữu và khuyên nhủ họ giữ vững đức tin; ba là cắt đặt các kỳ mục để họ trực tiếp coi sóc cộng đoàn. Hoạt động rao giảng Tin Mừng của Hội Thánh hôm nay cũng có thể dựa trên những yếu tố cơ bản này.
2/ Sách Khải Huyền cho thấy thị kiến về trời mới đất mới, về Hội Thánh là Giêrusalem từ trời xuống. Hội Thánh lữ hành luôn phải đối diện với những thách đố không ngừng ở mọi thời và mọi nơi. Thị kiến này đem lại niềm an ủi và sự khích lệ lớn lao cho những ai đang bị bách hại hay sống đời chứng nhân cho Đức Kitô và Tin Mừng. Mọi khó khăn, thách đố, bách hại Hội Thánh rồi sẽ đến hồi kết thúc, khi Thiên Chúa đổi mới mọi sự.
3/ Đứng trước cuộc thương khó, Chúa Giêsu xác tín rằng con đường dẫn tới vinh quang phục sinh cần phải trải qua đau khổ của thập giá, nhưng con đường thập giá mới là con đường vinh quang mà Thiên Chúa muốn Người đi. Dẫu đường thập giá có lắm chông gai, tình yêu đối với Thiên Chúa chính là động lực giúp Đức Giêsu vượt qua tất cả. Người cũng muốn để lại cho các môn đệ giới răn yêu thương vừa như là mối dây liên kết cộng đoàn môn đệ, vừa như là chứng tá cho Tin Mừng yêu thương mà các ông rao giảng. Cộng đoàn Hội Thánh ở mọi nơi và mọi thời chỉ có thể đứng vững trước bao sóng gió nếu liên kết với nhau trong tình yêu thương.
III. LỜI NGUYỆN CHUNG:
Chủ tếAnh chị em thân mến! Qua Đức Giêsu, Thiên Chúa đã biểu lộ tình yêu của Người và trao cho chúng ta giới răn mới là hãy yêu thương nhau. Với quyết tâm thực hành lời Chúa dạy, cộng đoàn chúng ta hãy tha thiết cầu nguyện cho Hội Thánh và cho từng người chúng ta:
1. Hội Thánh có sứ vụ đem tình thương cứu độ của Chúa đến cho mọi người. Chúng ta cùng cầu xin cho mọi thành phần trong Hội Thánh biết tích cực làm lan tỏa bình an và sức sống của Chúa Kitô Phục Sinh bằng một đời sống yêu thương và phục vụ.
2. Ghen ghét hận thù chính là nguồn gốc của bao đau khổ và khủng hoảng trên khắp thế giới. Chúng ta cùng cầu xin Chúa biến đổi tâm hồn những người chủ trương bạo động tranh chấp, giúp họ biết giải quyết xung đột bằng tình yêu và thông cảm.
3. Cuộc vượt qua của Chúa Giêsu đã đem lại trời mới đất mới cho nhân loại. Chúng ta cùng cầu xin cho mọi kitô hữu biết tích cực sống đời sống mới trong ân sủng của Đấng Phục Sinh, cùng nỗ lực chung xây nền văn minh tình thương cho thế giới.
4. “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương.” Chúng ta cùng cầu xin cho mọi người đang hiện diện nơi đây trở nên những môn đệ đích thực của Chúa Kitô qua đời sống bác ái, luôn hiền lành và khiêm nhường theo gương của Người.
Chủ tếLạy Chúa là Cha rất nhân từ, xin nhận lời chúng con cầu nguyện và ban ơn nâng đỡ giúp chúng con thực thi giới răn mà Con Chúa truyền dạy, để nên những chứng nhân sống động cho lòng thương xót của Chúa giữa thế giới hôm nay. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.


SCĐ Chúa Nhật V Phục Sinh C
Chủ đề :
Giới luật yêu thương

“Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau” (Ga 13,34)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Yêu thương là dấu chỉ cho người ta nhận biết các môn đệ của Chúa. Vì thế có thể nói khuyết điểm lớn nhất của người tín hữu là không yêu thương.
Trong Thánh lễ này, mỗi người chúng ta hãy nhớ lại xem có những người nào mà chúng ta không muốn yêu thương. Hãy dâng những người ấy lên Chúa, và xin Chúa giúp chúng ta yêu thương họ.
II. Gợi ý sám hối
– Vì chúng con còn ghét một số người, xin Chúa tha tội chúng con.
– Vì chúng con vui mừng khi thấy những người chúng con ghét phải chịu đau khổ, xin Chúa tha tội chúng con.
– Vì chúng con không cố gắng hòa giải với những người va chạm với chúng con, xin Chúa tha tội chúng con.
III. Lời Chúa
  1. Bài đọc I (Cv 14,21-27)
Mặc dù là những nhà truyền giáo, nhưng Phaolô và Barnaba không chỉ lo rao giảng Tin Mừng cho những nơi mới. Thỉnh thoảng hai vị làm một chuyến thăm mục vụ ở những giáo đoàn cũ. Việc này ngày nay được gọi là “tái truyền giáo”.
Tái truyền giáo của hai vị gồm : (1) Củng cố tinh thần kitô hữu ; (2) Củng cố cơ cấu nhân sự ở những giáo đoàn ấy.
2.                  Tin Mừng (Ga 13,31-35)
Đoạn Tin Mừng này là một phần của bữa tiệc ly. Có 2 chi tiết đáng lưu ý :
  1. Giây phút Giuđa ra đi là tiếng chuông báo hiệu cuộc thương khó bắt đầu. Chúa Giêsu coi đó là tiếng chuông mở đầu giờ Ngài được tôn vinh. Không phải đau khổ tự nó là tôn vinh, mà vì qua đau khổ Chúa Giêsu thực hiện ý muốn của Chúa Cha. Chúa Giêsu lấy làm vinh dự được thực hiện ý muốn Chúa Cha.
  2. Trước lúc bước vào con đường thập giá, Chúa Giêsu trối lại cho các môn đệ điều răn mới của Ngài : “Chúng con hãy yêu thương nhau… Ở điểm này mọi người sẽ nhận biết chúng con là môn đệ của Thầy, là chúng con có lòng yêu thương nhau”.
3. Bài đọc II (Kh 21,1-5)
Thị kiến về thành Giêrusalem mới :
– Thành này từ trời xuống
– Là nhà tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại
– Trong thành Giêrusalem mới này, sẽ không còn sự chết, tang tóc và khổ đau.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Yêu thương kiểu mới
Chắc hẳn nhiều người có biết chuyện Thánh nữ Maria Goretti. Maria Goretti là một thiếu nữ đẹp : Vừa đẹp người vừa đẹp nết. Nhưng gia đình thì nghèo : Không có nhà riêng để ở, phải ở chung nhà với gia đình của anh chàng Alexandre. Hàng ngày mẹ và các anh của Goretti ra đồng làm ruộng, Goretti ở nhà lo việc nội trợ và giữ em. Anh chàng Alexandre từ lâu đã đem lòng yêu cô gái Goretti và cũng đã vài lần dụ dỗ Goretti cùng mình trao đổi những cử chỉ yêu đương, nhưng Goretti luôn từ chối. Một hôm Alexandre đang làm ruộng ngoài đồng, nhưng biết Goretti ở nhà một mình nên lấy cớ đau bụng để trở về nhà. Về đến nhà Alexandre giả bộ nhờ Goretti vào phòng hắn lấy cái áo đứt nút đơm lại giùm. Cô gái ngây thơ có tính hay giúp đỡ tưởng thật nên đi vào. Alexandre lại một lần nữa đề nghị chuyện ân ái. Goretti vẫn từ chối. Khi ấy vì đam mê đã làm cho lý trí mù quáng. Alexandre dùng dao đâm túi bụi 17 nhát vào mình Goretti và chạy trốn. Sau đó anh của Goretti sinh nghi từ ruộng trở về thấy em gái mình sắp chết, anh thề sẽ trả thù. Nhưng Goretti tha thiết xin anh hãy tha cho hắn. Cuối cùng Goretti chết và Alexandre bị cảnh sát bắt giam. Một đêm kia anh thấy Goretti hiện ra với mình và tặng cho mình những cánh hoa mầu trắng và mầu đỏ. Từ đó Alexandre ăn năn sửa mình, nên được khoan hồng trả tự do trước khi hạn tù chấm dứt. Alexandre còn được vinh dự tham dự lễ phong thánh cho thánh nữ Maria Goretti.
Có thể xem câu chuyện trên là một câu chuyện tình. Nhưng trong chuyện ấy có hai thứ tình : tình của Alexsndre đối với Goretti là một thứ tình yêu thấp hèn, : còn tình yêu của Goretti đối với Alexandre là một thứ tình yêu cao đẹp. Nếu dùng từ ngữ của bài Tin Mừng hôm nay, thì tình yêu của Alexandre là tình yêu kiểu cũ, còn tình yêu của Foretti là thứ tình yêu kiểu mới.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu khuyên bảo chúng ta hãy yêu thương nhau. Thực ra tình yêu là chuyện vĩnh cửu, kể từ khi có mặt con người trên trái đất này thì cũng đã có tình yêu. Cho nên nếu Chúa Giêsu chỉ bảo người ta thương yêu nhau như người ta đã từng yêu thương nhau từ trước tới giờ thì lời khuyên dạy của Chúa là thừa và vô ích. Nhưng lời Chúa không thừa, không vô ích, vì Chúa không dạy người ta thương yêu nhau kiểu cũ, mà là thương yêu nhau kiểu mới.
Thế nào là yêu thương kiểu cũ, và thế nào là yêu thương kiểu mới ?
Tự nhiên là con người biết thương và biết ghét, : thương người vừa ý mình và ghét kẻ trái ý mình. Đó là yêu thương kiểu cũ. Sách Lêvi trong bộ Cựu Ước dạy một thứ tình yêu thương cao hơn : đó là đừng thù oán ai, nhưng hãy yêu thương mọi người như yêu thương chính mình. Đó là yêu thương kiểu khá mới. Còn trong bài Tin Mừng này, Chúa Giêsu dạy một tình yêu thương cao hơn nữa : không phải chỉ yêu người như yêu mình, mà phải yêu người như Chúa đã yêu. Đó là yêu thương kiểu mới nhất.
Kiểu yêu thương mới nhất là yêu người theo kiểu Chúa đã yêu. Vậy Chúa đã yêu như thế nào ? Có vài chi tiết trong bài phúc âm giúp ta hiểu rõ hơn cách yêu thương của Chúa :
Chi tiết thứ nhất là câu “Khi Giuđa đi rồi” : Giuđa đi để thực hiện âm mưu bội phản bán Thầy. Lúc đó lẽ ra Chúa phải chua chát cho tình nghĩa thầy trò, thế mà là lúc Ngài chan chứa yêu thương.
Chi tiết thứ hai là câu “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy” : nếu không yêu thương thì không phải là môn đệ của Chúa.
Qua những chi tiết trên, ta hiểu được rằng yêu thương như Chúa đã yêu là yêu thương chính lúc người thường không thể yêu, yêu thương chính cái điều mà người thường không thể yêu, và yêu thương những người mà người thường không thể yêu. Hơn nữa người môn đệ Chúa bó buộc phải yêu thương như thế thì mới xứng đáng là môn đệ Chúa.
Ta hãy trở lại chuyện thánh nữ Maria Goretti. Yêu thương của Alexandre là yêu thương kiểu cũ, bởi vì Alexandre chỉ yêu thương theo sự thúc đẩy của bản tính, của tính dục. Khi tình dục không được thỏa mãn thì quay ra thù ghét và giết chết Goretti. Còn yêu thương kiểu Goretti là yêu thương kiểu mới : yêu thương chính kẻ giết mình, yêu thương chính lúc đau đớn sắp chết, yêu thương để tha thứ và để cứu vớt Alexandre.
Chúa muốn chúng ta yêu thương theo kiểu mới đó. Không phải Chúa chỉ muốn, mà Chúa còn truyền như một giới răn ” Thầy ban cho chúng con một giới răn mới”.
Chúng ta sẽ thực hiện giới răn mới ấy ra sao ? có một tác giả kia khi viết bài suy gẫm về bài phúc âm này, đã đề nghị một số việc như sau :
là làm hòa với những kẻ ghét mình
là cầu nguyện cho kẻ ghét mình
là làm tươi hồng môi trường sống của mình bằng những việc phục vụ và bằng những lời nói gây đoàn kết yêu thương.
Thiết tưởng đó là những việc rất cụ thể mà chúng ta phải cố gắng làm để thực hiện tình yêu thương kiểu mới mà Chúa Giêsu truyền dạy chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay.
* 2. Như thầy đã yêu
Vào năm 1995, xảy ra một trận động đất lớn chưa từng có ở Kôbê, nước Nhật, cả một thành phố hầu như đổ xuống thành một đống gạch vụn khổng lồ. Thiệt hại về người và của không biết cơ man nào mà kể. Các đội cứu hộ làm việc ngày đêm để lôi ra khỏi những đống gạch vụn vô vàn người chết, người bị thương.
Trong các tai họa vô cùng khủng khiếp ấy, người ta lại khám phá ra một câu chuyện hết sức cảm động, mà tiếng vang của nó còn mạnh hơn cả sức chấn động của cơn động đất.
Người ta kể lại rằng, đến ngày thứ hai của cuộc tìm kiếm nạn nhân, họ đào lên được dưới tòa nhà đổ nát hai mẹ con vẫn còn sống : Đứa con nhỏ khoảng mấy tháng tuổi vẫn còn thoi thóp, và người mẹ đã hoàn toàn bất tỉnh.
Sau khi cấp cứu cho hai mẹ con vượt qua cơn thập tử nhất sinh, các nhà báo đã phỏng vấn người mẹ :
– Làm thế nào mà cả hai mẹ con chị có thể sống được hai ngày dưới đống gạch vụn ấy ?
Chị đáp :
– Tuy bị chôn vùi dưới tòa nhà đổ nát, nhưng có một cái đà đã che chắn cho mẹ con tôi. Sau vài tiếng đồng hồ thì con tôi quá đói vì hai bầu sữa của tôi cháu đã uống cạn. Tôi liền mò mẫm trong bóng tối và đụng phải một vật sắc bén. Tôi liền vồ lấy và rạch một đường nơi cổ tay, đẩy miệng con tôi vào cho cháu mút giòng máu nóng. Cháu yên lặng được vài tiếng thì cơn đói lại cào cấu, và cháu lại gào lên khóc. Tôi liền rạch thêm một đường nữa nơi cổ tay bên kia, đưa vào miệng cháu. Sau đó, tôi không còn biết gì nữa ?
– Thế chị không nghĩ rằng làm như thế thì chị sẽ chết hay sao ?
– Tôi không hề nghĩ đến cai chết của mình, mà chỉ nghĩ làm cánh nào cho con tôi được sống.
*
Tình yêu hy sinh quên mình, tình yêu hiến dâng mạng sống của người mẹ dành cho đứa con trong câu chuyện trên đây, là lời minh chứng hùng hồn cho lời dạy của Đức Kitô trong bài Tin Mừng hôm nay : “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34).
Yêu “Như Thầy đã yêu” chính là cúi xuống rửa chân cho nhau để bày tỏ một tình yêu sâu thẳm, cho dù người ấy là Giuđa, kẻ phản bội tình yêu.
Yêu “Như Thầy đã yêu” chính là hạ mình xuống ngang hàng với người mình yêu để cảm thông, chia sẻ và yêu thương như “Bạn hữu thân tình”.
Yêu “Như Thầy đã yêu” chính là “Yêu cho đến cùng”, yêu cho đến chết và chết trên thập giá.
Vâng, kể từ khi Con Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại cho đến cùng, thì luật yêu thương đã trở thành điều răn mới, mới ở đây chính là yêu “Như Thầy đã yêu”.
Chúng ta chỉ có thể yêu “Như Thầy đã yêu” khi chúng ta cảm nghiệm sâu xa tình yêu sâu nặng mà Người đã dành cho chúng ta.
Chúng ta chỉ có thể yêu “Như Thầy đã yêu” khi chúng ta dám quên mình, “bắt chước” Thầy, cúi xuống trước anh em.
Chúng ta chỉ có thể yêu “Như Thầy đã yêu” khi chúng ta dám xả thân, yêu cùng “mức độ” như Thầy, hiến dâng mạng sống cho anh em.
Như vậy, yêu “Như Thầy đã yêu” không phải là tình yêu vị kỷ (Eros) yêu người khác nhưng chỉ để lợi dụng, chiếm đoạt cho riêng mình, vì mình mà thôi ; nhưng chính là tình yêu vị tha (Agapé) sẵn sàng hiến dâng, hy sinh cho kẻ khác.
Yêu “Như Thầy đã yêu” chính là một dòng chảy không ngừng. Từ suối nguồn yêu thương của Thiên Chúa tuôn đổ xuống chúng ta, qua Thánh Thần Tình Yêu của Người, rồi từ con tim tràn đầy yêu thương của chúng ta, dòng suối tình yêu lại tuôn tràn sang những người anh em khác.
Nếu tình yêu như một dòng chảy liên kết chúng ta lại với Chúa, thì chính tình yêu ấy cũng liên kết chúng ta lại với nhau. Và đó cũng chính là dấu chỉ của môn đệ Đức Kitô : “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy. Là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35).
*
Lạy Chúa. nếu đồng phục của người Ki tô hữu là yêu thương thì xin cho chúng con luôn tỏa sáng trong cuộc sống những lời nói yêu thương, những nghĩa cử nhân hậu, những hành động xả thân cho anh em, để xứng đáng làm môn đệ Đấng đã yêu thương chúng con cho đến cùng.
Xin cho suối nguồn tình yêu của Chúa tuôn chảy vào tâm hồn chúng con, không đọng lại như nước ao tù nhưng luôn là dòng chảy tình yêu đến với mọi người, để khắp thế giới tràn đầy tình yêu Chúa. Amen. (TP)

* 3. Yêu thương người ruột thịt
Khi đề cập đến giới luật yêu thương, người ta thường nói tới việc yêu thương những người tội lỗi, những người nghèo, những kẻ thù v.v. Thế nhưng có một hạng người cần yêu thương hơn mà na ta hay quên, đó là chính những người ruột thịt.
Có một người đã viết lên những lời cầu nguyện như thế này : “Chúa ơi, tình chị em con rộng rãi bao la như chiếc lá me, như cái bánh cam buổi chiều. Buồn quá Chúa ơi. Giờ này con mới thấy rõ bộ mặt thật não nề !” Lời cầu nguyện này cũng là một tâm sự, một nhận xét, một thú nhận thật là chua chát. Có những người theo lẽ tự nhiên thì rất dễ thương nhau, nhưng trong thực tế thì lại rất ghét nhau. Đó là những người ruột thịt sống chung với nhau hằng ngày !
Khi còn nhỏ, anh chị em ruột thịt một nhà sống với ngay thật là thân thiết yêu thương : ăn chung, chơi chung, đi học chung, ngủ chung… Cuộc sống thật thoải mái, nhưng tới khi những anh chị em này đã lớn, mỗi người đã có nghề nghiệp riêng, tiền bạc riêng, quyền lợi riêng, gia đình riêng thì tình nghĩa lợt lạt dần, có khi còn thù ghét nhau nữa. Có một người kia thành thật nhìn nhận rằng : “Người mà tôi thù ghét nhất, đó là… chị tôi !”. Đó là một thực tế, thực tế không phải chỉ đối với một vài người nào đó, mà có lẽ đối với rất nhiều người.
Người ta đã đưa ra nhiều lý do để giải thích cái thực tế phủ phàng đó, như tại tuổi hai người xung khắc nhau, như tại cha mẹ cư xử không đồng đều với con cái. v.v. Tuy nhiên, những lý do đó không đúng, có thể còn mê tín dị đoan nữa. Lý do thật của tình trạng anh chị em ruột thịt không thương nhau lại thù ghét nhau là : Ganh ghét và thụ động.
Thứ nhất : ganh ghét. Hai anh em trong Thánh Kinh đã thù ghét nhau là Cain và Abilê. Và lý do thì rõ ràng là ganh ghét : Cain đã ganh với Abilê vì cậu em này chăm chỉ hơn mình nên làm ăn thành công hơn, hiếu thảo hơn mình nên được lòng cha mẹ hơn, đạo đức hơn mình nên được Chúa ban ơn nhiều hơn. Tình trạng bất hoà giữa nhiều anh chị em ruột thịt cũng cùng một lý do đó. Vì nó học giỏi hơn, vì nó đẹp hơn, vì nó có tiền hơn, vì nó được người ta thương mến hơn… khiến tôi bực bội khó chịu và từ đó hay kiếm chuyện gây gỗ. Ganh ghét là lý do chính. Tuy nhiên cần phải lưu ý đến khía cạnh tâm lý này : bởi vì chúng ta đều biết ganh ghét là một tính xấu cho nên ít ai chịu nhận mình có tính ganh ghét cả. Trong khi phân tích tình trạng bất hoà giữa anh chị em, ai ai cũng dễ dàng và mau mắn nhận rằng anh chị em đã ganh ghét mình, nhưng rất ít người chịu nhận mình ganh ghét anh chị em.
Lý do thứ hai là thụ động. Thụ động muốn nói đây không có nghĩa là mình không làm gì cả. Thực tế người ta rất tích cực và làm rất nhiều, nào là chê bai, nào là chửi bới, nào là nói xấu, nào là phá ngầm… Thụ động muốn nói đây là không làm gì cả để xây đắp tình yêu thương. Nói khác đi, mình muốn hưởng mà không chịu làm. Sống chung trong nhà, mình chỉ lo cho mình chứ không lo cho ai cả rồi khi thấy anh chị em không giúp đỡ mình, không ủi an mình, không nâng đỡ mình thì mình tức tối bực bội và kiếm chuyện gây gỗ. Ở đây cũng có một nhận xét này chúng ta cần lưu ý : là người nào hay quên mình để lo lắng cho anh chị em thì người đó rất ít thắc mắc, ít đặt vấn đề. Ngược lại kẻ nào chỉ thụ động chờ anh chị em lo lắng phục vụ mình thì kẻ ấy lại thường khó chịu, cự nự, gây chuyện nhiều nhất.
Trên đây là hai lý do giải thích tình trạng anh chị em ruột thịt bất hoà với nhau : một là tính ganh ghét, hai là tính thụ động chỉ đòi người ta lo cho mình trong khi mình không làm gì cả để xây đắp tình yêu thương. Thấy được hai lý do đó thì đương nhiên ta thấy được giải pháp của vấn đề. Làm thế nào để anh chị em ruột thịt thương yêu nhau ? Thưa ai cũng phải biết nâng đỡ nhau. Tục ngữ ta có câu “Chị ngã em nâng”. Đó là những anh chị em thương yêu nhau thật sự. Còn những anh chị em không thương yêu nhau thì “Chị ngã, em dửng dưng đứng nhìn, hoặc tệ hơn nữa chị ngã mà em khoái chí !
Nhưng cụ thể, nâng đỡ như thế nào ?
– Trước hết là nâng đỡ khi thành công. Nhưng khi thành công thì cần gì nâng đỡ ? Ta dễ nghĩ như vậy. Nhưng thực tế lại không như vậy. Bởi vì ai trong chúng ta cũng có sẵn tính ganh ghét mặc dù mình không muốn nhìn nhận. Sự thành công của người khác có thể gợi lên trong ta cái tính ganh ghét nằm sẵn đó. Cho nên khi anh chị em ta thành công mà ta biết nâng đỡ bằng cách chia vui, chúc mừng, khích lệ thì đương nhiên là ta đã loại bỏ không cho tính ganh ghét trỗi dậy.
– Sự nâng đỡ càng cần thiết hơn khi anh chị em mình thất bại. Người thất bại thì dĩ nhiên phải đau buồn. Đau buồn thì cần người an ủi, đỡ nâng. Cần mà không gặp thì cô đơn chua xót. Nếu đã không gặp được nâng đỡ mà lại còn thấy anh chị em vui mừng hỉ hả vì thất bại của mình thì chẳng những cô đơn chua xót mà còn thêm đắng cay, hận thù. Có một người lâm vào tình cảnh đắng cay như thế đã than : “Lúc này tôi hoàn toàn cô độc. Buồn một mình, khổ một mình, khóc một mình. Tôi chỉ thấy có một vật có thiện cảm với tôi, đó là con chó của tôi. Chỉ có thế thôi”. Cái tâm trạng chán chường cay đắng vì thiếu nâng đỡ ấy dễ đưa người ta tới chỗ sa sút tinh thần, như có người nhận xét : Ít có người đã tự tử vì không chịu nỗi những đau đớn thân xác. Nhưng hầu hết các người tự tử vì không chịu nỗi đau khổ trong tâm hồn. Và có những người trong anh chị em chúng ta trong lúc buồn nản đã không tự tử phần xác, nhưng đã tự tử phần hồn. Tự tử phần hồn là gì ? Là sa đọa, là bất cần, là nổi loạn làm cho gia đình tan nát, làm cho tình nghĩa anh chị em ruột thịt đổ vỡ.
Một vị thánh đã nói “Yêu thương phải bắt đầu từ những người thân rồi mới lan xa tới những người khác”. Những người thân mà chúng ta đề cập nãy giờ chính là anh chị em ruột thịt của mình.
4. “Cứ dấu này mà người ta nhận biết…”
Người kia trồng một cây ăn trái trong rừng. Thoạt đầu cái cây này nhỏ xíu, tưởng như mất hút trong khu rừng giữa những cây to lớn. Nhưng nó hết sức cố gắng vươn lên nên một thời gian sau nó cũng cao và cũng lớn không thua kém gì các cây khác.
Một hôm ông chủ của nó vào rừng thăm nó. Ông rất ngạc nhiên thấy nó cao lớn như thế. Ông trầm trồ khen ngợi :
– Thật không ngờ mi lớn nhanh như thế. Tuyệt vời quá !
Nhưng cái cây khiêm tốn đáp lại :
– Chưa tuyệt vời đâu thưa ông chủ. Tôi thấy mình còn rất nhiều khuyết điểm. Thân tôi còn nhiều chỗ xù xì, lồi lõm…
– Nhưng những cái đó không quan trọng. Ta chẳng quan tâm. Chỉ có điều này khiến ta chưa vừa lòng.
– Thưa ông chủ, tôi không hiểu. Tôi đã lớn lên, chẳng kém gì những cây thông, cây sồi.
Ông chủ giải thích :
– Nhưng mi không phải là loại cây cần có lá có cành thật lớn. Mi là cây ăn trái. Trái chính là điểm đặc biệt quý giá nơi mi. Thế mà mi chưa sinh ra dược trái nào cả !
Người ta sẽ nhận biết cây nào thuộc loại cây ăn trái nếu người ta thấy nó có trái. Cũng thế, người ta sẽ nhận biết ai là môn đệ Chúa Giêsu nếu người ta thấy họ yêu thương nhau.
Nhiều kitô hữu cố gắng làm đủ mọi chuyện, chỉ trừ chuyện yêu thương nhau !
Nhìn thấy Mẹ Têrêsa đang chăm sóc cho một người bị ghẻ lở đầy mình, một nhà báo nói : “Tôi không thể làm được việc đó cho dù có trả cho tôi một triệu đôla”. Mẹ Têrêsa đáp : “Chính tôi cũng không làm nổi việc ấy với số tiền đó. Nhưng tôi làm vì yêu Chúa” (FM)
* 5. Sức mạnh của yêu thương
Kể về kinh nghiệm lúc ở trại tập trung Auschwitz, Elie Wiesel nói : những người cai tù Đức cố gắng làm cho các tù nhân quên hết bà con và bạn bè, để chỉ nghĩ tới bản thân và chỉ lo cho nhu cầu bản thân mà thôi. Họ nói rằng đó là cách để sống còn. Nhưng Wiesel thấy ngược lại : người nào chỉ biết sống cho mình thì cơ may sống sót rất ít, trái lại người nào còn nghĩ tới gia đình, bạn bè, thân thuộc, hay còn nuôi một lý tưởng thì cơ may sống sót nhiều hơn. Chính những ý tưởng yêu thương ấy đã giúp họ sống.
Tính vị kỷ khép cửa lòng ta lại và thu hẹp thế giới của ta, giam hãm ta. Nó dựng lên những rào cản, thậm chí những bức tường ngăn cách ta với tha nhân. Điều giải thoát ta khỏi sự giam hãm ấy chính là tình yêu thương thực sự và sâu đậm của ta đối với người khác.
Tình yêu luôn đòi hỏi chúng ta phải cho đi điều tốt nhất và tình yêu cũng mang điều tốt nhất lại cho ta. Khi được yêu, ta có được can đảm và nghị lực phi thường. Khi yêu cũng thế. Nhiều khi tình yêu còn làm được những điều như phép lạ. Elizabeth Kubler Ross viết : “Tình yêu là ngọn lửa sưởi ấm cho cõi lòng, tăng cường nghị lực cho tinh thần và cung cấp niềm đam mê cho cuộc sống”.
Nếu không có tình yêu thì người ta sẽ ra sao ? Thưa người ta sẽ sống rất nghèo nàn. Còn người yêu thương thì sống rất phong phú.
Mục đích cuộc đời là gì nếu không phải là yêu ? Tự do không bị trói buộc trong tính vị kỷ và có khả năng yêu thương tha nhân, đó chính là sống.
Một bác sĩ đã chứng kiến nhiều người hấp hối cho biết : lúc sắp chết, người ta không nghĩ đến mình đã đậu được những bằng cấp gì, đã chiếm được địa vị nào trong xã hội, hay đã kiến được bao nhiêu tiền… Điều duy nhất những người ấy nghĩ đến, đó là những người họ yêu và những người yêu họ. (FM)
* 6. Những loại tình yêu
Ngày nay chúng ta hiểu biết nhiều hơn thời xưa về sự phức tạp của bản tính loài người, và về những động cơ khác nhau đàng sau những việc chúng ta làm.
Yêu thương chẳng hạn. Thật không đơn giản, mà có tới ít ra 5 loại :
– Thứ nhất là tình yêu vụ lợi : ta yêu thương người nào đó vì người đó có lợi cho ta. Nhưng đây không phải là tình yêu mà là vị kỷ. Tôi yêu điều gì đó nơi bạn chứ tôi không yêu bạn.
– Thứ hai là tình yêu lãng mạn : chúng ta có tình cảm với người nào đó bởi vì người ấy làm cho mình thích. Đây cũng không phải là tình yêu mà chỉ là đam mê. Ta tưởng mình yêu người đó nhưng thực chất là ta yêu chính mình. Thông thường tình yêu lãng mạn không bền vững. Bởi đó nhiều cặp vợ chồng bị thất bại.
– Thứ ba là tình yêu “dân chủ”, dựa trên sự bình đẳng trước pháp luật. Ta tôn trọng người khác vì họ cũng là công dân như ta. Ta nhìn nhận những quyền tự do của họ để họ cũng nhìn nhận những quyền tự do của ta. Sở dĩ ta làm điều gì tốt cho họ là vì để họ cũng làm điều tốt cho ta.
– Thứ tư là tình yêu nhân bản : đây là yêu người cách chung. Điểm yếu của loại tình yêu này là trừu tượng chứ ít khi cụ thể : tôi yêu người, nhưng tôi không gắn bó với người nào cả.
– Thứ năm là tình yêu kitô, nghĩa là yêu như Đức Kitô đã yêu. Đây là tình yêu vô vụ lợi, yêu khi chẳng có gì lợi cho mình. Tình yêu này tồn tại vững bền bất chấp thù nghịch và bắt bớ. Tình yêu này thể hiện qua phục vụ và hy sinh. Chúng ta chỉ có thể yêu đến mức độ thứ năm này nhờ sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần.
Ta thường hiểu yêu theo nghĩa thụ động hơn là chủ động. Nói cách khác, ta mong “được người yêu” hơn là “yêu người”. Vì nghĩ thế nên ta dồn mọi cố gắng để thành công, để giàu có, để có sức quyến rũ… Kết quả là chẳng được tình yêu thực sự nào cả, vì người khác chỉ yêu cái thành công, cái giàu có và cái quyến rũ của ta chứ không phải yêu ta. Trái lại nếu ta “yêu người” thì người sẽ yêu ta vì chính con người của ta.
Có 3 tình trạng yêu thương : (1) Không yêu và không được yêu : tình trạng này giống như hỏa ngục ngay ở đời này ; (2) Yêu mà không được yêu lại : tình trạng này tuy đau khổ nhưng khá hơn tình trạng thứ nhất ; (3) Yêu và được yêu : đây chính là tình trạng hạnh phúc của Chúa Giêsu :”Như Cha Thầy đã yêu thương Thầy, Thầy cũng yêu thương các con”.
Tình yêu là một sự chọn lựa, vì không ai ép được tình yêu. Nhưng từ chối không yêu tức là bắt đầu chết. Điều tồi tệ nhất trong các điều tồi tệ là một cuộc sống lạnh lẽo vô tình. (FM)
* 7. Chuyện minh họa
Có hai anh em nhà kia : người anh tên Stephen 12 tuổi có một chân què ; người em tên Mark 10 tuổi cả hai chân đều mạnh khoẻ. Nhiều khi Stephen ganh tị với em, thậm chí còn muốn em mình què còn mình thì đủ hai chân mạnh khoẻ.
Một đêm kia Stephen nằm mơ thấy mình lạc vào một khu rừng và gặp một bà phù thuỷ. Bà này ban cho cậu một điều ước, ước gì được nấy. Stephen chẳng chút do dự ước ngay : “Ước gì tôi có đôi chân mạnh khoẻ”. Bà phù thuỷ liền mang Stephan từ khu rừng trở lại nhà cậu. Khi ấy Mark em cậu đang ngủ. Bà phù thuỷ giở tấm mền của Mark ra. Stephen hỏi :
– Bà làm gì thế ?
Phù thuỷ đáp :
– Ta sắp giải phẫu, lấy đôi chân của em cậu sang cho cậu và rồi lấy đôi chân của cậu cho nó.
– Không thể được.
– Có sao đâu, khi tỉnh dậy em cậu sẽ chẳng biết gì hết. Nó cứ tưởng là từ trước tới nay nó vẫn có một chiếc chân què.
Stephen thoáng nghĩ đến tương lai. Cậu thấy mình chạy giỡn thoải mái với đôi chân lành. Cậu rất sung sướng. Nhưng khi nhìn lại phía sau thì thấy Mark khổ sở chạy theo với một cái chân khập khiễng thì Cậu không chịu được. Khi ấy cậu nói với bà phù thuỷ : “Tôi không muốn có đôi chân lành lặn nữa.”
Giật mình thức dậy, Stephan nhìn xuống đôi chân của mình, rồi nhìn sang đôi chân của em. Thấy mọi sự vẫn như cũ, cậu mỉm cười sung sướng. Từ đó trở đi, không khi nào cậu còn ganh tị với em nữa.
Stephan muốn sung sướng, nhưng không phải bằng cái giá là sự đau khổ của em mình. Hạnh phúc thật chỉ được xây dựng bằng một tình yêu không vị kỷ. Yêu thương ai là dặt người ấy lên hàng đầu. (FM)
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế : Anh chị em thân mến, di chúc của Chúa Giêsu gồm tóm trong một câu : Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau ; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Với quyết tâm sống theo điều răn mới của Chúa, chúng ta cùng tha thiết nguyện xin :
  1. Hội thánh có một bí quyết hết sức hữu hiệu để phản đối sự độc ác của con người / đó là bác ái yêu thương / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành phần Dân Chúa / biết cố gắng tận dụng bí quyết này trong đời sống chứng nhân của mình.
  2. Hiện nay / chiến tranh / hận thù / khủng bố / kỳ thị chủng tộc / gây ra biết bao tang tóc cho nhân loại / Chúng ta hiệp lời cầu xin Thánh thần Tình yêu tác động đến lòng trí con người hôm nay / để mọi người biết yêu thương và tôn trọng nhau hơn.
  3. Lòng bác ái thì nhẫn nhục / hiền hậu / không ghen tương / không vênh vang / không tự đắc / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho hết thảy mọi tín hữu / biết sống theo lời dạy của thánh Phaolô tông đồ.
  4. Lòng bác ái tha thứ tất cả / tin tưởng tất cả / hy vọng tất cả / chịu đựng tất cả / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / cố gắng thực hiện lời khuyên nhủ của vị tông đồ dân ngoại.
Chủ tế : Lạy Chúa, thánh Phaolô đã dạy chúng con : Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái ; vì ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật. Vậy xin Chúa thương ban ơn trợ giúp để chúng con có thể sống trọn vẹn điều răn mến Chúa yêu người. Chúng con cầu xin
VI. Trong Thánh Lễ
– Trước kinh Lạy Cha : Chúng ta là con của cùng một Cha trên trời. Chúng ta hãy xin Cha giúp chúng ta biết yêu thương nhau như những người anh chị em ruột thịt.
VII. Giải tán
Anh chị em hãy ghi nhớ lời Chúa dạy hôm nay : “Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy, là chúng con yêu thương nhau”.
Lm . Carolo HỒ BẶC XÁI


Lectio Divina: Chúa Nhật V Phục Sinh (C)
Chủ Nhật 19 Tháng Năm, 2019
Điều răn mới:
Hãy yêu thương nhau như Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta
Ga 13:31-35


 1.  Bài Đọc
 a)  Lời Nguyện Mở Đầu:
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy giúp chúng con hiểu được sự mầu nhiệm của Hội Thánh như một cộng đoàn thương yêu.  Khi Chúa ban cho chúng con điều răn mới về yêu thương như là bản hiến chương của Giáo Hội, Chúa đã nói với chúng con rằng đây là điều có giá trị cao nhất.  Khi Chúa sắp sửa từ giã các môn đệ của mình, Chúa đã muốn ban cho các ông một điều ghi nhớ về giới răn mới, quy chế mới về cộng đoàn Kitô hữu. Chúa đã không cho họ một lời huấn dụ ngoan đạo, mà lại là một giới răn mới về thương yêu.  Trong lúc “tạm thời vắng mặt” này, chúng con được kêu gọi nhận ra Chúa đang hiện diện trong anh chị em của chúng con.  Trong mùa Phục Sinh này, lạy Chúa Giêsu, Chúa nhắc nhở chúng con rằng thời giờ của Giáo Hội là thời giờ của việc bác ái, thời giờ của việcgặp gỡ Chúa qua anh chị em chúng con.  Chúng con biết rằng vào giây phút cuối đời của chúng con, chúng con sẽ phải chịu phán xét về đức yêu thương.  Xin Chúa hãy giúp cho chúng con biết gặp gỡ Chúa trong mỗi một anh chị em chúng con, trong tất cả mọi dịp của đời sống hằng ngày.

b)  Phúc Âm:
31 Khi người ấy ra khỏi phòng tiệc, Chúa Giêsu liền phán:  “Bây giờ Con Người được vinh hiển, và Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người. 32 Nếu Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người, thì Thiên Chúa lại cho Người được vinh hiển nơi chính mình, và Thiên Chúa sẽ cho Người vinh hiển. 33 Các con yêu quý, Thầy chỉ còn ở với các con một ít nữa thôi. Các con sẽ tìm kiếm Thầy; nhưng như Thầy đã nói với người Do-Thái:  “Nơi Tôi đi, các người không thể đến được”, bây giờ, Thầy cũng nói với các con như vậy.
34 Thầy ban cho các con một điều răn mới: là các con hãy yêu thương nhau; như Thầy đã yêu thương các con, thì các con cũng hãy yêu thương nhau. 35 Căn cứ vào điều này mà mọi người nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là nếu các con yêu thương nhau”.

c) Giây phút thinh lặng cầu nguyện:
Đoạn Tin Mừng mà chúng ta sắp sửa suy gẫm, nhắc nhớ lại lời chia tay của Chúa Giêsu với các môn đệ của Người.  Đoạn Tin Mừng như thế nên được xem như một loại bí tích của việc gặp gỡ với Ngôi Lời Giêsu.

2.  Suy Gẫm
a)  Lời mở đầu về bài giảng của Chúa Giêsu:
Đoạn Tin Mừng hôm nay của chúng ta là phần kết luận của chương 13, nơi hai chủ đề đan chéo nhau, được đề cập đến một lần nữa và được triển khai trong chương 14: nơi việc Chúa sắp ra đi; và chủ đề về giới răn yêu thương.  Một vài nhận xét về bối cảnh trong đó Lời Chúa Giêsu nói về giới răn mới diễn ra có thể hữu ích cho phần suy gẫm tốt đẹp về nội dung của chúng.
Đầu tiên, câu 31 viết: “khi người ấy ra khỏi phòng tiệc”, người nào đã đi khỏi?  Để có thể hiểu điều này, chúng ta cần phải tìm đến câu 30 nơi chúng ta sẽ biết rằng “Sau khi ăn miếng bánh, Giuđa liền ra đi.  Lúc đó trời đã tối.”  Vì thế, người đi ra khỏi phòng tiệc là Giuđa.  Kế đến, câu “lúc ấy trời đã tối” cho chúng ta biết chi tiết buổi chia tay xảy ra vào ban tối.  Theo Phúc Âm Gioan đoạn 13:31-35, lời nói của Chúa Giêsu được dẫn trước bởi việc người này biến mình vào trong bóng đêm.  Điều này mang ý nghĩa tượng trưng gì?  Trong Tin Mừng của Gioan, ban đêm tượng trưng cho tột đỉnh của sự thân mật (ví dụ như đêm tân hôn), nhưng cũng tượng trưng cho sự đau khổ tột cùng.  Trong những ý nghĩa khác của đêm tối còn tượng trưng cho giờ khắc nguy hiểm nhất; đó là lúc mà kẻ thù đan dệt các kế hoạch báo thù chúng ta, nó mang ý nghĩa thời khắc của tuyệt vọng, hoang mang, tinh thần và trí tuệ bị rối loạn.  Bóng tối của ban đêm giống như một con đường không có lối thoát.
Trong Tin Mừng của  Gioan chương 6, khi cơn bão ban đêm xảy ra, bóng tối của đêm đen diễn tả nỗi tuyệt vọng và sự cô đơn khi họ phải chống trả lại các sức mạnh tối tăm đang khuấy động mặt biển.  Một lần nữa, mốc thời gian “trong khi trời vẫn còn tối” trong Tin Mừng Gioan chương 20:1 chỉ về bóng tối vì sự vắng mặt của Chúa Giêsu.  Thật vậy, trong Phúc Âm của thánh Gioan, ánh sáng của Chúa Kitô không thể tìm thấy được trong mộ, đó là lý do tại sao bóng tối đã bao trùm (20:1).
Vì thế, “bài giảng từ biệt” đã được đặt để một cách chính xác vào khoảng thời gian này.  Dường như bối cảnh của bài giảng này là sự chia cách, chết chóc hoặc sự ra đi của Chúa Giêsu và điều này tạo ra một cảm giác trống vắng hoặc cô đơn đau khổ.  Trong Giáo Hội hôm nay và đối với nhân loại ngày nay, điều này có nghĩa là khi chúng ta xa lìa Chúa Giêsu trong cuộc sống của chúng ta thì khi ấy chúng ta chỉ còn biết khổ đau và thống khổ.
Khi viết về những lời của Chúa Giêsu trong chương 3:31-34, liên quan đến sự ra đi và cái chết không thể tránh được của Chúa Giêsu, thánh Gioan nhớ lại chính cuộc sống của mình với Chúa Giêsu trong quá khứ, đan dệt với những kỷ niệm đã giúp ông nhận thức được sự phong phú mầu nhiệm của Thầy mình.  Những kỷ niệm của quá khứ như thế là một phần của hành trình đức tin riêng của riêng mỗi chúng ta.
Đó là đặc tính của “bài giảng từ biệt” mà bất cứ điều gì đã được truyền đạt trong các môn đệ, nhất là tại thời điểm bi thảm và trang nghiêm của cái chết trở thành một di sản không thể sang nhượng, một giao ước cần được giữ gìn một cách trung tín.  “Bài giảng từ biệt” của Chúa Giêsu cũng đã tổng hợp tất cả những gì Chúa đã giảng dạy và thực hành để tạo sự chú tâm của các môn đệ hầu có thể đi theo phương hướng mà Người đã vạch ra cho họ.

b)  Phần đào sâu:
Khi chúng ta đọc đoạn Tin Mừng của Chúa Nhật mùa Phục Sinh tuần này, trước hết, chúng ta hãy chú tâm vào chữ đầu tiên được Chúa Giêsu dùng trong bài giảng từ biệt của Người:  “Bây giờ”.  “Bây giờ Con Người được vinh hiển”.  “Bây giờ” là lúc nào?  Đó là lúc mà cây thập giá xảy ra cùng lúc với sự vinh hiển của Người.  Phần cuối cùng này của sách Tin Mừng Gioan là một biểu lộ hay một điều mặc khải.  Vì thế, thập giá của Chúa Giêsu chính là lúc “bây giờ” của việc hiện ra hoặc biểu hiện của chân lý tuyệt vời nhất.  Trong sự vinh hiển này, không có một câu hỏi nào mang bất kỳ ý nghĩa gì liên quan đến “danh dự” hay “vui mừng chiến thắng”, v.v.
Trái với Giuđa là người đi vào trong đêm tối, Chúa Giêsu chuẩn bị cho sự vinh hiển của Người:  “Khi Giuđa ra khỏi phòng tiệc, Chúa Giêsu liền phán:  “Bây giờ Con Người được vinh hiển, và Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người.  Nếu Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người, thì Thiên Chúa lại cho Người được vinh hiển nơi chính mình, và Thiên Chúa sắp tôn vinh Người” (Các câu 31-32).  Sự phản bội của Giuđa mang đến sự chín chắn trong Chúa Giêsu xác tín rằng cái chết của Người là “sự vinh hiển”.  Giờ tử nạn trên thập giá được định sẵn trong kế hoạch của Thiên Chúa; đó là “giờ” khi sự vinh hiển của Chúa Cha sẽ tỏa sáng khắp thế gian thông qua sự vinh hiển của “Con Người”.  Chúa Giêsu, Đấng đã hiến cả mạng sống mình cho Đức Chúa Cha vào “giờ” của thập giá, Thiên Chúa đã được vinh hiển bởi việc mặc khải bản tính siêu nhiên của Người và đón mời nhân loại cùng hiệp thông với Người.
Sự vinh hiển của Chúa Giêsu (Con Thiên Chúa) bao gồm “tình yêu vô bờ” của Người dành cho tất cả mọi người trên thế gian, thậm chí Chúa đã sẵn sàng chịu chết cho những kẻ phản bội Người.  Tình yêu của Con Thiên Chúa bao la đến nỗi Người đã đánh đổi mạng sống của mình cho cả những trường hợp bi thảm và hủy duyệt đã là gánh nặng cho đời sống và lịch sử loài người.  Sự phản bội của Giuđa là một thí dụ điển hình, không nhất thiết đó là hành động của một cá nhân, nhưng là của một nhân loại tội lỗi, bất trung với ý muốn của Thiên Chúa.
Tuy nhiên, sự phản bội của Giuđa vẫn là một sự kiện đầy bí ẩn.  Một chuyên gia về Kinh Thánh viết:  Trong việc phản bội Chúa Giêsu, “đó là sự mặc khải để quy lỗi; ngay cả đó có thể là một hành động phục vụ cho sự mặc khải” (trích Simoens, Thánh Kinh theo Gioan, 561).  Trong một cách nào đó, sự phản bội của Giuđa cho chúng ta một cơ hội hiểu biết về Chúa Giêsu hơn; sự phản bội của Giuđa đã cho phép chúng ta nhận thấy Chúa Giêsu yêu môn đệ của mình dường bao.  Don Primo Massolari đã viết:  “Các tông đồ đã trở thành những người bạn của Chúa Giêsu, cho dù là bạn tốt hay không, hào phóng hay không, trung thành hay không, họ vẫn là những bằng hữu của Người.  Chúng ta không thể phản bội lại tình bạn của Chúa Giêsu: Đức Kitô không bao giờ phản bội chúng ta, các bằng hữu của Người, ngay cả khi chúng ta không xứng đáng với tình bạn ấy, ngay cả khi chúng ta chống lại Người, ngay cả khi chúng ta chối bỏ Người.  Trong mắt của Người và trong tim của Người, chúng ta mãi mãi là “các bằng hữu” của Người.  Giuđa là một người bạn của Chúa ngay cả tại thời điểm hắn ta thực hiện việc phản bội Thầy mình với một nụ hôn”” (Trích trong: Thuyết Giảng 147).

c)  Điều răn mới:
Chúng ta hãy tập trung sự chú ý vào điều răn mới.
Trong câu 33, chúng ta lưu ý có một thay đổi trong bài giảng từ biệt của Chúa Giêsu.  Chúa không còn dùng đại danh từ ngôi thứ ba nữa.  Người bây giờ gọi môn đệ là “các con”.  Chữ “các con” là số nhiều và theo nghĩa chữ Hy-Lạp mang ý nghĩa của tất cả sự trìu mến “các con” (teknía).  Trong cách xử dụng chữ này, qua giọng nói và sự tha thiết của Người, Chúa Giêsu đã truyền tải đến các môn đệ một cách cụ thể lòng trìu mến bao la của Người dành cho các ông.
Chúng ta cũng thấy có một điểm lý thú khác được tìm thấy trong câu 34:  “các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”.  Trong tiếng Hy-Lạp, chữ Kathòs “như” không được dùng để so sánh:  yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con.  Ý nghĩa của nó có thể là quan hệ nhân quả liên đới:  “Bởi vì Thầy đã yêu thương các con, vì vậy các con cũng phải yêu thương nhau”.
Có những người giống như cha Lagrange đã nhìn thấy trong điều răn này mang một ý nghĩa cánh chung:  trong thời gian vắng mặt tạm thời của Chúa và trong khi chờ đợi sự xuất hiện lần thứ hai của Người, Chúa Giêsu muốn chúng ta yêu thương và phục vụ Người qua anh chị em của Chúa.  Điều răn mới là điều răn duy nhất.  Nếu không có lòng yêu thương, thì không có gì cả.  Tác giả Magrassi đã viết: “Khi lột bỏ đi những tước hiệu và đẳng cấp, mỗi một người anh em đều là nhiệm thể của Chúa Kitô.  Chúng ta hãy nhìn lại trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta:  có khi nào chúng ta chung sống với anh em chúng ta từ sáng đến tối mà không thể chấp nhận và yêu thương người anh em đó?  Điều tuyệt vời trong trường hợp này là trạng thái xuất thần hiểu theo nghĩa nguyên gốc của nó, đó là hãy ra khỏi cái tôi của mình để làm người lân cận cho những người cần đến tôi, bắt đầu với những người gần tôi nhất và với những cung cách khiêm tốn nhất trong đời sống hằng ngày” (Trích trong: Cuộc Sống Giáo Hội, 113).


d)  Dành cho phần suy gẫm của chúng ta:
 –  Lòng yêu thương mà chúng ta dành cho anh chị em chúng ta có đồng thuận tương xứng với tình yêu của chúng ta dành cho Chúa Kitô hay không?
–  Tôi có thấy Chúa hiện diện ở trong con người của anh chị em tôi không?
–  Tôi có dùng tất cả các cơ hội trong đời sống hằng ngày để làm những việc thiện cho người khác không?
–  Chúng ta hãy kiểm điểm lại cuộc sống hằng ngày của chúng ta:  tôi có thể nào sống với anh chị em tôi từ sáng đến tối mà không chấp nhận và thương yêu họ không?
–  Tình yêu có đem lại cho tôi ý nghĩa đầy đủ trọn vẹn của cuộc đời tôi không?
–  Tôi có thể làm được điều gì để thể hiện lòng biết ơn của tôi đối với Chúa, Đấng đã trở thành kẻ tôi tớ vì tôi và dâng hiến cả cuộc đời của Người cho sự phúc lợi của tôi?  Chúa Giêsu đã trả lời:  Hãy phục vụ Thầy trong anh chị em con: đây là cách bày tỏ tình yêu của con dành cho Thầy một cách thực tế và trung thực nhất.

3.  Cầu Nguyện
a)  Thánh Vịnh 23:1-6
Bài Thánh Vịnh này trình bày một hình ảnh cuộc hành trình của Giáo Hội được đồng hành bởi sự tốt lành và trung tín của Thiên Chúa, cho đến lúc cuối cùng khi đã đến nhà của Chúa Cha. Trong cuộc hành trình này, Giáo Hội được hướng dẫn bởi sự yêu thương làm kim chỉ nam:  sự tốt lành và lòng trung tín của Chúa đeo đuổi tôi. 
Chúa là mục tử chăn dắt tôi,
Tôi chẳng thiếu thốn gì.
Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ.
Người đưa tôi tới dòng nước trong lành,
Và bổ sức cho tôi.
Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người.
Lạy Chúa, dẫu qua thung lũng âm u,
Con sợ gì nguy khốn,
Vì có Chúa ở cùng.
Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm.
Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mắt quân thù;
Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm;
Ly rượu con đầy tràn chan chứa.
Lòng nhân hậu và tình thương của Chúa ấp ủ con suốt cả cuộc đời.
Và con được ở trong nhà Người
Những ngày thánh, những năm dài triền miên.

b)  Cầu nguyện với các Giáo Phụ của Giáo Hội:
Lạy Chúa, con yêu Chúa vì chính Chúa, con yêu Chúa vì các ơn thánh của Chúa,
Con yêu Chúa vì tình yêu của Chúa
Và con yêu Chúa theo một cách,
Rằng giả sử nếu có ngày Augustinô là Thiên Chúa
Và Thiên Chúa là Augustinô,
Con muốn trở về và muốn được là chính mình, Augustinô,
Để con có thể biết được về Chúa hơn,
Bởi vì chỉ có Chúa mới xứng đáng là Thiên Chúa.
Ôi lạy Chúa, Người thấy đó,
Miệng lưỡi con nói như điên dại,
Con không thể nào diễn tả hết được những ý nghĩ của mình,
Nhưng trái tim con không hề điên dại.
Chúa biết con đã trải qua những điều gì
Và những gì con không thể kể xiết.
Con yêu mến Chúa, lạy Thiên Chúa của con
Trái tim con thì quá giới hạn cho một tình yêu bao la như vậy,
Hơi sức con phải chịu thua trước một tình yêu mãnh liệt như thế,
Và con thì quá nhỏ bé một tình yêu mênh mông ngần ấy.
Con bước ra khỏi sự bé nhỏ của con
Và con nhận chìm cả bản thể con ở trong Chúa.
Con biến đổi và từ bỏ bản thân mình.
Chúa là nguồn sống của con,
Chúa là căn nguyên mọi điều tốt lành nơi con:
Chúa là tình yêu của con, và là Thiên Chúa của con.
(Trích từ:  Lời Tự Thuật của thánh Augustinô)

c)  Lời Nguyện Kết:
Chân phước Têrêsa Scrilli, có một ao ước nồng nhiệt muốn đáp trả lại tình yêu của Chúa Giêsu, đã thốt lên như sau:
Con yêu Chúa,
Ôi, lạy Thiên Chúa của con,
Trong các ân sủng Chúa ban;
Con yêu Chúa trong sự đơn sơ của con,
Và ngay cả trong điều này, con hiểu,
Sự khôn ngoan vô hạn của Chúa;
Con yêu Chúa trong nhiều sự kiện khác nhau hoặc đặc biệt,
Bởi vì Chúa cùng đồng hành trong đời sống của con …
Con yêu Chúa trong tất cả mọi việc,
Cho dù trong đau đớn hay lúc bình an;
Bởi vì con không tìm,
Cũng chẳng bao giờ kiếm,
Những an ủi của Chúa;
Chỉ có Chúa, Thiên Chúa của an ủi.
Đó là lý do tại sao con không bao giờ ca ngợi
Cũng không vui mừng.
Đó là vì Chúa đã ban cho con được sống trong tình yêu chí thánh của Chúa một cách hoàn toàn nhưng không.
Con cũng không cảm thấy đau khổ hay bối rối,
Khi cảm thấy vô vị và nhỏ bé.
(Trích trong Tự Truyện, đoạn 62)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét