05/01/2020
Chúa Nhật CHÚA HIỂN
LINH năm A.
Lễ Trọng. Lễ HỌ. Cầu
cho giáo dân.
(phần II)
Phụng Vụ Lời
Chúa: Chúa Nhật Lễ Hiển Linh A
Lễ Hiển Linh
(Is 60,1-6; Ep 3,2-3a.5-6; Mt 2,1-12)
ÁNH SÁNG CHO MUÔN DÂN
“Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng. Họ vào nhà, thấy
Hài Nhi với thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình thờ lạy Người” (Mt 2,10-11).
I. CÁC BÀI ĐỌC
Qua mầu nhiệm Giáng
Sinh của Đức Giêsu, Thiên Chúa tỏ mình ra cho nhân loại. Ánh sáng của Thiên
Chúa, qua việc hạ sinh của Hài Nhi Giêsu, chiếu rọi cho hết mọi người ở mọi
nơi, mọi thời đang sống trong tăm tối của tội lỗi, mà không phân biệt hay loại
trừ bất cứ ai.
1. Bài đọc 1
Đặt trong bối cảnh của
dân Israel sau lưu đày, cần được củng cố trong niềm tin và hy vọng, tác giả
Isaia đệ tam vẽ nên một bức tranh tươi sáng và tràn đầy niềm vui khi nói về
Giêrusalem.
Trước hết, đó là niềm
vui vì Giêrusalem được ánh sáng của Chúa chiếu tỏa. Dù mặt đất có tối tăm, dù
chư dân có bị mây mù che lấp, nhưng Giêrusalem lại được vinh quang của Thiên
Chúa chiếu rọi. Nhờ ánh sáng đó mà muôn dân nhận ra, mừng vui rạng rỡ mà cất bước
tiến về phía Giêrusalem. Như thế, nhờ ánh sáng của Chúa mà Giêrusalem trở thành
điểm qui tụ không chỉ của con trai, con gái, mà còn của muôn dân nước.
Sau nữa, đó là niềm
vui của sự phồn thịnh. Quả vậy, Giêrusalem trở nên giàu có vì nguồn phú túc
giàu sang, nào lạc đà, nào vàng bạc châu báu từ khắp nơi sẽ tuôn đổ về cho
Giêrusalem. Sự giàu có đến từ khắp bốn phương, từ muôn dân nước, cho thấy
Giêrusalem chính là tâm điểm của muôn dân. Tuy nhiên, điều gây kinh ngạc hơn cả
là dù đến từ khắp muôn dân nước, nhưng tất cả đều “loan truyền lời ca tụng Đức
Chúa” (Is 60,6).
Chính Thiên Chúa là
nguồn ánh sáng dẫn đưa muôn dân nước xa gần tụ hội về Giêrusalem. Người ta từ
khắp muôn nước mang theo châu báu đến Giêrusalem để cùng nhau ca tụng Ngài. Sau
này, Hài Nhi Giêsu chính là ánh sáng dẫn những người dân ngoại mang theo báu vật
đến để thờ phượng Người.
2. Bài đọc 2
Thánh Phaolô hé lộ một
mạc khải quan trọng mà Thiên Chúa đã ủy thác cho ngài; đó chính là mầu nhiệm về
Đức Kitô. Mầu nhiệm chỉ được hé lộ một phần cho các thế hệ trước đây thì nay đã
được mạc khải trọn vẹn cho thánh Phaolô, cho các vị Tông Đồ và ngôn sứ.
Nếu ánh sáng của Đức
Chúa chiếu rọi trên Giêrusalem trở thành điểm qui tụ muôn dân, thì chính Đức
Kitô và Tin Mừng của Người, như được mạc khải cho thánh Phaolô, trở thành điểm
quy chiếu để dân ngoại cũng được chia sẻ phần gia nghiệp với người Do Thái, được
thừa hưởng lời hứa của Thiên Chúa và được tháp nhập với Đức Kitô để tạo nên một
thân thể với Người.
Trong Đức Kitô và nhờ
Tin Mừng, tất cả mọi người không phân biệt bất kỳ ai đều được mời gọi tin vào Đức
Kitô và nhờ tin mà được nên một với Người và với mọi tín hữu trong thân thể mầu
nhiệm của Đức Kitô.
3. Bài Tin Mừng
Thánh Mátthêu tường thuật
việc ba nhà chiêm tinh từ phương xa lần theo ánh sao dẫn đường mà tìm đến để thờ
lạy Hài Nhi Giêsu, trong khi những người ở gần lại không nhận ra Ngài.
Sự kiện ba nhà chiêm
tinh từ phương Đông nhờ ánh sáng soi dẫn của ngôi sao để đi tìm nơi sinh hạ của
một vị Vua mới ra đời quả thật đã gây nên sự kinh ngạc thú vị. Thánh Mátthêu bốn
lần nhắc đến ngôi sao (2,2.7.9.10) với những cung bậc khác nhau: ngôi sao xuất
hiện báo hiệu sự ra đời của một vị Vua (c.2); ngôi sao làm cho vua Hêrôđê lo lắng
và bối rối (c.7); ngôi sao xuất hiện trở lại để dẫn đường cho các nhà chiêm
tinh (c.9); ngôi sao tạo nên sự vui mừng cho người đang kiếm tìm (c.10). Một
ánh sao tưởng chừng như muôn vàn ánh sao bình thường lại gây sự chú ý, trở
thành dấu chỉ dẫn đường và mang lại niềm vui cho những người khát khao ánh
sáng, nhưng cũng chính ánh sao đó lại gây nên sự âu lo, sợ sệt cho kẻ ở trong tối
tăm, với những mưu thâm chước độc.
Những người nhận ra
ánh sáng diệu kỳ của ngôi sao, những người lên đường kiếm tìm dấu chỉ diệu kỳ đằng
sau ánh sao đó lại là những người xem ra xa lạ; họ đến từ vùng đất xa xôi. Họ
không phải là những người nghiên cứu và hiểu biết Kinh Thánh (Mt 2:5-6); dù họ ở
xa nhưng biết tìm kiếm, đến gần để gặp cho được Hài Nhi. Trái lại, những người
xem ra thông hiểu những lời Kinh Thánh về Hài Nhi, những người ở gần, rất gần
(từ Giêrusalem đến Bêlem khoảng 10 cây số) nhưng lại thật xa Đấng Cứu Thế khi họ
không nhận ra ánh sáng của Người để tìm đến mà thờ lạy.
Tuy ánh sáng của ngôi
sao dẫn đến Hài Nhi Giêsu là ánh sáng dành cho tất cả mọi người, dù họ là ai,
thuộc tầng lớp nào nhưng không phải ai cũng nhìn thấy, không phải ai cũng muốn
đón nhận ánh sáng đó. Sự xa gần về địa lý không hề là trở ngại cho việc nhận ra
và kiếm tìm ánh sáng của Đức Giêsu. Trở ngại thật sự chính là khi người ta
không muốn tìm đến với ánh sáng để thừa nhận và tồn thờ chính Con Thiên Chúa
làm người.
II. GỢI Ý ÁP DUNG
1/ Ánh sáng của Đức
Chúa quy tụ muôn dân về Giêrusalem trong niềm hân hoan. Các nhà chiêm tinh cũng
hân hoan vui mừng khi gặp lại ánh sáng của ngôi sao dẫn đường. Ánh sáng của
Ngôi Lời Nhập Thể dẫn con người đến với đức tin Kitô giáo, một đức tin hướng
con người đến những giá trị của chân, thiện, mỹ. Tôi có tìm kiếm ánh sáng của Đức
Kitô trong những việc ngay chính, tốt đẹp và thánh thiện ?
2/ Thiên Chúa muốn tỏ
mình ra cho tất cả mọi dân, mọi nước. Một khi tìm đến cùng ánh sáng và tin vào
Đức Kitô, tôi cũng được trao cho sứ mạng mang ánh sáng của Đức Kitô là Tin Mừng
đến cho những người khác, đến những nơi tối tăm, đau khổ vì sức nặng của tội lỗi,
của hận thù, ghen ghét. Tôi có sẵn sàng mang ánh sáng Tin Mừng đến cho mọi người
? Tôi có sẵn lòng trở thành ngôi sao sáng dẫn đường cho những kẻ lầm lạc bằng
chính gương sáng đời mình ? Phải chăng có những người đang sống xung quanh tôi,
ở gần tôi nhưng lại xa ánh sáng của Đức Kitô, tôi có muốn là cầu nối để ánh
sáng của Người đến được với họ ?
III. LỜI NGUYỆN
CHUNG
Chủ tế: Anh chị
em thân mến! Thiên Chúa đã ban tặng chính Con Một yêu dấu của Người cho nhân loại.
Đức Kitô là ánh sáng đến trần gian để chiếu soi muôn dân đang lầm than trong
tăm tối. Chúng ta hãy thành tâm cảm tạ Chúa và khẩn khoản nài xin.
1. Hội Thánh có sứ mạng
dẫn đưa mọi người đến với Chúa. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi thành phần
trong Hội Thánh biết nỗ lực trở nên những ánh sao dẫn đường cho con người thời
đại bằng một đời sống gương mẫu với tinh thần dấn thân phục vụ.
2. “Vua người Do Thái
mới sinh ra hiện đang ở đâu ?” Chúng ta cùng cầu nguyện cho những người thành
tâm thiện chí luôn khao khát chân lý, tìm thấy trong Kinh Thánh ánh sáng dẫn lối
giúp họ nhận biết và trở về với Thiên Chúa là nguồn sự thật và sự sống.
3. Các đạo sĩ đã gặp
được Hài Nhi và bái lạy Người. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các gia đình Công
Giáo biết dành cho Chúa một vị trí và lòng sùng kính xứng hợp, qua việc cầu
nguyện chung với nhau, và tích cực thực thi ý Chúa trong đời sống hằng ngày.
4. Ánh sáng của Đức
Kitô chiếu soi cuộc đời người Kitô hữu. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người
trong cộng đoàn chúng ta luôn biết hướng về chân-thiện-mỹ, và làm lan tỏa ánh
sáng của Đức Kitô qua những việc ngay chính, tốt lành và thánh thiện.
Chủ tế: Lạy
Thiên Chúa là Đấng toàn năng hằng hữu, xin thương nhận tâm tình cảm mến và những
ý nguyện chân thành của chúng con, giúp chúng con biết làm cho ánh sáng của Đức
Kitô bừng lên trong cuộc sống hằng ngày. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.
SCĐ LỄ HIỂN LINH
“Khi Đức Giêsu
sinh ra tại Bêlem, có mấy đạo sĩ từ Phương đông đến bái lạy Ngài”
(Mt 2,1-2)
Sợi chỉ đỏ :
– Bài đọc I : “Hỡi
Giêrusalem hãy tỏa sáng, các dân sẽ lần bước tìm về sự sáng của ngươi.”
– Đáp ca : “Lạy
Chúa, các dân nước sẽ ca ngợi Ngài.”
– Tin Mừng :
“Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Ngài ở phương Đông và chúng tôi đến để triều
bái Ngài.”
– Bài đọc II :
“Nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được nên đồng thừa tự, đồng một thân thể và đồng
thông phần với lời hứa của Ngài trong Chúa Giêsu Kitô.”
Chúa Giêsu là ánh sáng.
Trong dịp lễ Giáng sinh, Ngài đã chiếu sáng các nhà thờ và các gia đình tín hữu.
Nhưng Ngài còn muốn là ánh sáng cho tất cả mọi người nữa.
Ngày hôm nay chúng ta
mừng lễ Hiển linh, kỷ niệm việc ngày xưa Chúa Giêsu đã tỏ mình ra cho các đạo
sĩ, đại diện cho lương dân. Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người ngoài Kitô
giáo cũng nhận được ánh sáng Chúa ; và cho chính chúng ta ý thức bổn phận
mang ánh sáng Chúa đến cho mọi người.
– Chúng ta có tội vì
quá thờ ơ với việc mang ánh sáng Tin Mừng đến cho lương dân.
– Chúng ta có tội vì cộng
đoàn xứ đạo chúng ta không nêu gương sáng trước mặt mọi người.
– Chúng ta có tội vì
không quan tâm tìm ý Chúa qua những đấu chỉ hằng ngày.
Mặc dù đang sống trong
chốn lưu dày, ngôn sứ Isaia đã mơ tới ngày hồi hương. Khi đó Giêrusalem sẽ được
tái thiết lại huy hoàng và là nơi thu hút muôn dân tuôn đến :
– Trong khi cả trái đất
ngập chìm trong tăm tối thì Giêrusalem lại bừng sáng, vì có Chúa là Ánh sáng
đang ngự ở đó.
– Bởi thế, muôn dân từ
khắp nơi sẽ tuốn về ánh sáng của Giêrusalem.
Trên thực tế, dân do
thái đã được hồi hương và Giêrusalem đã được tái thiết. Nhưng Giêrusalem đâu có
được đúng như Isaia đã mơ. Giấc mơ của Isaia chỉ được thực hiện trọn vẹn nơi Đức
Giêsu. Ngài chính là Ánh sáng đến trần gian.
Tv này cầu nguyện cho
một vị vua lý tưởng mà trong triều đại ngài hòa bình và công lý ngự trị, mọi
người đều hạnh phúc.
Vị vua lý tưởng ấy
cũng chính là Chúa Giêsu.
Các “đạo sĩ” là những
nhà trí thức ở vùng Babylon phía Đông xứ Palestine. Do niềm tin có phần mê tín
rằng ngôi sao lạ là điềm báo một Đấng cứu tinh đã sinh ra, họ đã đi theo ánh
sao và tìm đến với Hài nhi Giêsu.
Nhưng cuộc hành trình
của các vị cũng không phải là trơn tru dễ dàng vì có lúc ánh sao biến mất.
Nhưng nhờ các vị kiên trì, ánh sao đã xuất hiện lại và cuối cùng các vị đã tìm
đến nơi.
Như thế, qua ánh sao lạ,
Chúa Hài nhi đã tỏ mình ra cho đại diện lương dân, đang khi các nhà trí thức do
thái ở Giêrusalem tuy thông thạo Thánh Kinh nhưng đã không nhận ra Chúa.
Để thấy được nét độc
đáo của đoạn thư này, trước hết chúng ta hãy lưu ý đến tâm thức của người do
thái : họ cho rằng dân tộc họ được Thiên Chúa đặc biệt tuyển chọn, cho nên
ơn cứu độ là độc quyền của họ.
Thánh Phaolô thì không
nghĩ như vậy. Trong thư viết cho dân thành Êphêxô, một “dân ngoại”, ngài tiết lộ
cho họ biết một “mầu nhiệm”, đó là Thiên Chúa đã trao sứ mạng cho ngài đem ân sủng
của Tin Mừng phân phát cho tất cả các dân. Nhờ Tin Mừng này, mọi dân tộc đều trở
thành “đồng một thân thể” với nhau và với Đức Giêsu Kitô, hơn thế nữa họ trở
nên “đồng thừa tự” để hưởng gia tài của Đức Giêsu Kitô và “đồng thông phần” với
lời hứa cứu độ của Ngài.
Chúa Giêsu là Ánh
Sáng, ánh sáng huy hoàng hơn cả mặt trời.
Nếu mặt trời không phải
là của riêng ai, thì Chúa Giêsu cũng là của mọi người, mọi dân. Ngài mang ơn cứu
độ đến cho muôn dân. “Không ai thắp đèn rồi để dưới đáy thùng, nhưng đặt trên
giá để soi cho mọi người”.
Bởi thế, ngay sau khi
giáng sinh, tỏ mình ra cho những kẻ chăn chiên nghèo hèn, Chúa Giêsu cũng sớm tỏ
mình ra cho các đạo sĩ đại diện cho lương dân.
Vì Chúa muốn tỏ mình
ra cho muôn dân, cho nên lương dân có quyền được biết Chúa, và những người đã
biết Chúa có bổn phận giúp cho lương dân biết Chúa.
Lời Chúa trong Thánh lễ
hôm nay dùng một hình ảnh vừa rất đẹp vừa rất hay để dạy chúng ta cách giúp cho
người khác biết Chúa, đó là Ánh Sáng :
– Hãy đưa cao Tin Mừng
như người ta nâng cao ngọn đuốc sáng để soi chiếu mọi vùng tăm tối.
– Cách sống của những
người đã biết Chúa phải là một ngọn đèn sáng gương mẫu cho những người chung
quanh. Chúa Giêsu nói : “Sự sáng của chúng con cũng hãy tỏa sáng trước mặt
mọi người. Còn Thánh Phaolô thì nói : “Anh em hãy chiếu sáng như những
tinh tú trên bầu trời”.
Hành trình của các đạo
sĩ là hình ảnh minh họa cho hành trình của mọi kẻ tin :
a/ Hành trình khởi đầu
bằng một điều gì đó lạ lùng khiến người ta chú ý (thí dụ ánh sao lạ đối với các
đạo sĩ). Điều lạ lùng này mời gọi người ta từ bỏ nếp sống đã quen để dấn thân
đi tìm một cái gì đó cao hơn, xa hơn, tốt đẹp hơn.
b/ Tiếp theo là những
bước thăng trầm trong cuộc hành trình : có khi con đường rất bằng phẳng êm
ái, có khi lại quanh co gồ ghề, có lúc ánh sao sáng tỏ trên bầu trời, có lúc nó
vụt biến mất.
c/ Nhưng miễn là người
ta không nản lòng mà cứ kiên trì dấn bước thì cuối cùng người ta sẽ gặp được
Chúa.
Đó là cuộc hành trình
của kẻ chưa có đức tin tìm đến với Chúa, mà cũng là cuộc hành trình của kẻ đã
tin rồi nhưng muốn đến với Chúa một cách gần gũi thân tình hơn.
Có những người tìm kiếm
như các đạo sĩ, lên đường như Abraham. Cũng có những người ngồi một chỗ như
Hêrôđê. Muốn biết ư ? Ông đã có các chuyên viên. Muốn tiêu diệt đối phương
ư ? Ông có cả ngàn quân lính dưới quyền. Thiên Chúa hướng dẫn những ai muốn
tìm Người cách lạ lùng. Người trốn thoát khỏi những kẻ muốn tìm bắt. Người
không hung hãn chống lại những kẻ muốn huỷ diệt Người. Người tự xóa mình đi và biến
mất.
Người ở đâu, Đức Giêsu
ẩn dấu của thời đại ? Trong làng quê heo hút nào, trong gia đình nghèo khó
nào có ánh sáng Thiên Chúa mời ta nhận ra Người ? “Ta đói các ngươi đã cho
Ta ăn… Thực, Ta bảo các ngươi : mỗi lần các ngươi làm cho một trong những
kẻ bé nhỏ nhất là anh em Ta đây, là các ngươi làm cho chính Ta” (Mt 25,35-40).
Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng có lời kinh thánh : Ta đã không bị cám dỗ
dùng lời Kinh Thánh để át giọng kẻ quấy rầy ư ? Đức Giêsu đâu để cho ta đền
bù. Nếu ta muốn nắm lấy Người để được an tâm, Người sẽ thoát khỏi tầm tay ta. Nếu
ta chấp nhận lên đường tìm kiếm Người, ta sẽ như các đạo sĩ, được đầy tràn niềm
vui và tìm thấy Người (…) Đọc kỹ Kinh Thánh thôi chưa đủ, còn phải để Kinh
Thánh gợi hứng cho đời ta, để ta đem ra thực hành, để ta đặt mình dưới sự điều
khiển của Kinh Thánh. Các luật sĩ và các thầy thượng tế biết lời sấm lắm chứ.
Nhưng họ chỉ biết trưng dẫn thôi… Hêrôđê thì dùng Kinh Thánh để tìm cách giết
Hài nhi… Còn các đạo sĩ, bản thân chẳng biết Kinh Thánh, chỉ được Hêrôđê chỉ dẫn,
đã lên đường tìm kiếm Đức Giêsu và họ đã gặp Người… (Mgr Lucien Daloz, Le Règne
des cieux s’est approché, Trích dịch bởi Fiches dominicales, trang 55-56).
Ánh sáng và bóng tối
Các đạo sĩ đã đi trong
bóng tối nhờ tia sáng của một ánh sao dẫn đường.
Các ông đã tìm được
Chúa vì không sợ bóng tối nhờ tin vào ánh sáng.
Thực ra, ta chỉ thấy
được ánh sáng của ngôi sao khi trời tối
Trời càng tối thì sao
càng sáng.
Tất cả chúng ta cũng
là những khách lữ hành đi trong đêm tối
Nhưng chúng ta đừng sợ
vì Đức Kitô là ánh sáng đã đến trần gian :
– Ánh sáng bừng lên
trong đêm tối
– Ánh sáng xóa tan tăm
tối
– Ánh sáng mà không sự
tối tăm nào dập tắt được.
a/ Tôn giáo nào có
Chúa ?
Ngày nọ, Chúa và tôi đến
một hội chợ, không phải hội chợ thương mại, mà là Hội chợ Tôn giáo. Nhưng những
người tham dự luôn tỏ ra hung bạo và tuyên truyền ầm ĩ.
Tại quầy hàng của người
Do thái, chúng tôi nhận được những tờ quảng cáo nói rằng Chúa là Đấng thương
xót và dân Do thái là dân được Ngài tuyển chọn. Ngoài những người Do thái,
không ai khác được chọn như họ.
Tại quầy hàng của người
Hồi giáo, chúng tôi học biết rằng Chúa đầy lòng khoan dung và Mohammed là ngôn
sứ duy nhất của Ngài. Sự cứu độ đến nhờ việc nghe ngôn sứ duy nhất của Chúa.
Tại quầy hàng của người
Kitô giáo, chúng tôi khám phá ra Chúa là tình yêu và không có sự cứu độ ở ngoài
giáo hội. Hoặc gia nhập giáo hội hoặc phải chịu kết án đời đời.
Trên đường trở ra, tôi
hỏi Chúa : “Ngài nghĩ gì về những điều nói về Chúa ?”
Chúa nói : “Ta
không tổ chức Hội chợ đó. Ta thấy xấu hổ ngay cả khi đến thăm nó”.
b/ Các tôn
giáo
Chúa Giêsu nói rằng
Ngài chưa bao giờ xem bóng đá. Vì thế, bạn tôi và tôi dẫn Ngài đi xem một trận.
Đó là trận đấu gay cấn giữa những người Tin lành và những người Công giáo.
Người Công giáo ghi
bàn thắng trước. Chúa Giêsu reo hò và tung mũ lên. Rồi đến người Tin lành ghi
bàn thắng, Chúa Giêsu cũng reo hò và tung mũ. Điều này gây khó chịu cho anh
thanh niên ngồi sau chúng tôi. Anh vỗ nhẹ lên vai Chúa Giêsu và hỏi : “Này
anh bạn tốt, anh ủng hộ bên nào ?”
Lúc này Chúa Giêsu thấy
hứng thú vì trận đấu, Ngài trả lời : “Tôi hả ? Ồ, Tôi không đứng về
bên nào. Tôi chỉ thưởng thức trận đấu”.
Anh quay sang người bạn
bên cạnh, nhếch mép cười : “Hừ, kẻ vô thần“.
Trên đường trở về,
chúng tôi cho Chúa Giêsu biết về tình trạng các tôn giáo trên thế giới ngày
nay : “Chúa ạ, thật buồn cười về những người trong các tôn giáo. Dường như
họ luôn nghĩ rằng Chúa chỉ đứng về phía họ và chống lại những người khác”.
Chúa Giêsu đồng
ý : “Đó là lý do tại sao Ta không ủng hộ các tôn giáo. Ta ủng hộ con người.
Con người quan trọng hơn tôn giáo. Con người quan trọng hơn ngày Sabát”.
Một trong chúng tôi
nói với vẻ lo lắng : “Ngài phải thận trọng. Ngài biết, Ngài đã một lần bị
đóng đinh vì nói như thế”.
CT : Anh chị em thân mến
Thiên Chúa yêu thương
và muốn cứu độ hết thảy mọi người. Người đã dùng ngôi sao hướng dẫn muôn dân đến
gặp gỡ Đấng Cứu Thế. Với tâm tình cảm tạ tri ân Thiên Chúa là Cha nhân hậu,
chúng ta cùng dâng lời cầu xin.
1- Chúa là Vua lãnh đạo
muôn dân / Người đã mời gọi các hiền sĩ / là những người ngoại giáo đầu tiên đến
thờ lạy Người tại Bêlem / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi người trong Hội
Thánh / biết tôn thờ và phụng sự Chúa hết lòng.
2- Chúa là Vua công
bình chính trực / Người đến giải thoát người nghèo cô thân cô thế / chúng ta hiệp
lời cầu xin cho những người cùng khổ sầu đau / luôn được Chúa thương xót đỡ
nâng.
3- Chúa đến làm ánh
sáng chiếu soi muôn người / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những người đang tìm Chúa
/ qua những bóng mờ và hình ảnh / được ánh hào quang của Đức Kitô soi sáng và
hướng dẫn / để họ thêm phấn khởi trên đường tìm chân lý.
4- Mỗi tín hữu phải là
một ngôi sao dẫn đường cho người khác tìm về với Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu
xin cho công đoàn giáo xứ chúng ta / biết dùng đời sống bác ái yêu thương / phục
vụ khiêm tốn / mà giới thiệu Chúa cho những anh chị em chưa nhận biết Chúa.
CT : Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa đã sai chúng con mang sứ
điệp Tin Mừng đến tận cùng trái đất. Xin cho đời sống thường ngày của chúng con
thể hiện một cách trung thực tình yêu bao la của Chúa đối với nhân loại. Chúa hằng
sống và hiển trị muôn đời.
– Trước kinh Lạy
Cha : Chúa Giêsu đã tỏ mình ra cho lương dân vì Ngài muốn quy tụ
tất cả mọi người trong Nước của Ngài. Chúng ta hãy cùng với Ngài thiết tha cầu
xin cho Nước Chúa mau trị đến.
Ngày xưa Chúa đã dùng
ánh sao lạ dẫn đường các đạo sĩ đến với Ngài. Ngày nay Ngài muốn dùng mỗi người
chúng ta như một ánh sao lạ dẫn đường cho anh em lương dân đến với Ngài. Rồi
nhà thờ trở về với cuộc sống, chúng ta hãy sống như một ánh sao trước mặt mọi
người. Chúc anh chị em bình an.
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI
Lectio Divina: Chúa Hiển Linh
Sunday 5 January, 2020
Lectio Divina | Lectio
Divina Năm A
Hành trình đức
tin của ba vị Đạo Sĩ
Việc bái thờ
Chúa Giêsu Hài Đồng là Vua và là Chúa
Mt 2:1-12
1. Lời nguyện
mở đầu
Lạy Cha nhân từ, Chúa
đã gọi con để gặp gỡ Chúa trong lời này của Tin Mừng, bởi vì Chúa muốn con
được có sự sống, Chúa muốn ban cho con chính bản thân Chúa. Con cầu
xin Chúa, xin Chúa hãy sai Thánh Thần Chúa xuống trên con để con được dẫn dắt
trên con đường thiên liêng của đoạn Kinh Thánh này. Hôm nay, nguyện
xin cho con có thể bước ra khỏi nhà tù của chính mình để bắt đầu cuộc hành
trình đi tìm kiếm Chúa. Xin cho con có thể nhận ra ánh sao mà Chúa
đã thắp sáng như là dấu hiệu tình yêu của Chúa trên cuộc hành trình của con để
bước theo nó không hề mệt mỏi, một cách mạnh dạn, dấn thân cả cuộc đời
con. Cuối cùng, xin cho con được bước vào nhà Chúa và ở đó được
trông thấy tôn nhan Chúa, xin cho con biết cúi lạy cách khiêm tốn để bái thờ
trước nhan Chúa và dâng lên Chúa cuộc sống của con, cả con người con và tất cả
những gì con có. Lạy Chúa, nhờ vào ân sủng Chúa, xin cho con có thể
trở về bằng một con đường mới, mà không bao giờ đi qua những con đường cũ của tội
lỗi.
2. Bài
đọc
a) Bối
cảnh của đoạn Tin Mừng
Đoạn Tin Mừng này thuộc
về hai chương đầu tiên của sách Tin Mừng Mátthêu, tạo thành lời mở đầu cho toàn
bộ tác phẩm. Ở đây chúng ta được giới thiệu về nguồn gốc lịch sử của
Đấng Cứu Thế là con cháu của vua Đavít, cũng như nguồn gốc thiên tính của Đức
Giêsu Kitô, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta. Ngay lập tức, thánh Mátthêu
dẫn chúng ta vào trong một sự suy niệm sâu lắng và lôi cuốn, đặt trước chúng ta
một sự chọn lựa chính xác qua con người mà ông giới thiệu trong câu chuyện: chúng
ta hoặc nhận ra và chào đón Chúa là Đấng vừa được sinh ra, hay là chúng ta vẫn
lãnh đạm thờ ơ, thậm chí còn muốn loại trừ và giết bỏ Người. Đoạn
Tin Mừng này cống hiến cho chúng ta một câu chuyện đẹp về cuộc hành trình của
ba nhà Đạo Sĩ, những người đến từ phương xa bởi vì họ muốn tìm kiếm và chào
đón, yêu thương và tôn thờ Chúa Giêsu. Nhưng cuộc hành trình dài và
miệt mài tìm kiếm của họ, việc hoán cải tâm hồn của họ là sự kiện đang nói về
chúng ta, sự kiện đã được ghi lại trong cuốn sách câu chuyện thiêng liêng của
chính chúng ta.
b) Phần phụ
chú để giúp cho việc đọc bài Tin Mừng:
Đoạn Tin Mừng này có
thể được chia ra làm hai phần chính, được xác định theo nơi câu chuyện xảy
ra: phần thứ nhất (đoạn 2:1-9a) xảy ra tại Giêrusalem, trong khi phần
thứ hai lại tập trung xung quanh thành Bêlem (đoạn 2:9b-12).
Mt 2:1-2: Đoạn Tin Mừng bắt đầu với những dấu hiệu
chính xác như nơi chốn và thời gian chào đời của Chúa Giêsu: tại Bêlem, thuộc xứ
Giuđêa, trong đời vua Hêrôđê. Trong lời mô tả khá rõ ràng này, các
nhà Đạo Sĩ đột nhiên xuất hiện, những người đến từ phương xa, tìm đến
Giêrusalem dưới sự hướng dẫn của một ánh sao. Chính họ là những người
loan báo sự ra đời của vị Vua Thiên Chúa. Họ hỏi thăm xem Người hiện
đang ở đâu bởi vì họ muốn đến để triều bái Người.
Mt 2:3-6: Khi nghe những lời của các vị Đạo Sĩ nói, vua
Hêrôđê, và tất cả thành Giêrusalem cùng với nhà vua, bối rối và sợ
hãi. Thay vì chào đón Chúa và chọn Người, họ tìm cách trừ khử Người. Vua
Hêrôđê triệu tập tất cả các thượng tế Do Thái và Kinh Sư trong
dân. Chính các nhà Đạo Sĩ, nhờ sự giúp đỡ của các ngôn sứ thuở xưa,
là những người nói và mặc khải Bêlem là nơi để tìm thấy Đấng Mêssia.
Mt 2:7-8: Vua Hêrôđê ngầm cho vời các nhà Đạo Sĩ bởi vì
nhà vua muốn dùng họ cho mục đích xấu xa của mình. Việc hỏi han cặn
kẽ của nhà vua hoàn toàn nhắm vào việc loại trừ Đức Kitô.
Mt 2:9a: Các nhà Đạo Sĩ, được thúc đẩy bởi sức mạnh đức
tin và được hướng dẫn bởi ánh sao, lại lên đường và hướng về thành Bêlem.
Mt 2:9b-11: Ngôi sao lại xuất hiện, đi với các vị Đạo Sĩ
và dẫn họ đến đúng nơi chỗ Chúa Hài Đồng Giêsu ở. Tràn đầy niềm vui
mừng, họ tiến vào nhà và phủ phục sụp lạy Người; họ dâng tiến Người lễ vật quý
giá vì họ nhận biết Người là vua và là Chúa.
Mt 2:12: Khi đã chiêm ngắm và thờ lạy Chúa, các vị Đạo
Sĩ nhận được sự mặc khải từ Thiên Chúa; chính Chúa nói với họ. Các
ông là những con người mới; họ có trong mình một trời mới đất mới. Các
vị Đạo Sĩ đã thoát khỏi sự lừa dối của vua Hêrôđê, và do đó, họ quay trở lại với
đời sống mình bằng một nẻo đường hoàn toàn mới.
c) Phúc Âm:
1 Khi Chúa Giêsu sinh hạ tại Bêlem, thuộc xứ Giuđêa, trong
đời vua Hêrôđê, có mấy nhà đạo sĩ từ Đông Phương tìm đến Giêrusalem. 2 Các
ông nói: “Vua người Do-Thái mới sinh ra hiện đang ở
đâu? Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Đông Phương, và
chúng tôi đến để triều bái Người.”
3 Nghe nói thế, vua Hêrôđê bối rối, và tất cả
Giêrusalem cùng với nhà vua. 4 Vua đã triệu tập tất cả các
thượng tế và kinh sư trong dân, và hỏi họ cho biết nơi mà Đức Kitô sinh hạ. 5 Họ
tâu nhà vua rằng: “Tại Bêlem thuộc xứ Giuđêa, vì đó là lời do đấng
tiên tri đã chép: 6 “Cả ngươi nữa, hỡi Bêlem, đất Giuđa,
không lẽ gì ngươi bé nhỏ hơn hết trong các thành trì của Giuđa, vì tự nơi ngươi
sẽ xuất hiện một thủ lãnh, Người đó sẽ chăn nuôi Israel dân tộc của Ta.”
7 Bấy giờ Hêrôđê ngầm triệu mấy nhà Đạo sĩ tới, cặn kẽ
hỏi han họ về thời giờ ngôi sao đã hiện ra. 8 Rồi vua phái
họ đi Bêlem và dặn rằng: “Các khanh hãy đi điều tra cẩn thận về Hài
Nhi, rồi khi đã gặp thấy, hãy báo tin lại cho trẫm, để cả trẫm cũng đến triều
bái Người.” 9 Nghe nhà vua nói, họ lên đường. Và
kìa ngôi sao họ xem thấy ở Đông Phương, lại đi trước họ, mãi cho tới khi tới
nơi và đậu lại trên chỗ Hài Nhi ở. 10 Lúc nhìn thấy ngôi
sao, họ hết sức vui mừng. 11 Và khi tiến vào nhà, họ đã gặp
thấy con trẻ và Đức Maria, mẹ Người, và họ đã quỳ gối xuống, sụp lạy Người. Rồi,
mở bảo tráp ra, họ đã dâng tiến Người lễ vật: vàng, nhũ hương, và mộc
dược.
12 Và khi nhận được lời mộng báo “Đừng trở lại với Hêrôđê”,
họ đã qua đường khác, trở về xứ sở mình.
3. Giây phút thinh
lặng cầu nguyện
Tôi lắng nghe thật sâu
tiếng nói thì thầm của Chúa và để cho hơi thở của Chúa Thánh Thần đến với tôi
và truyền cho tôi. Trong sự thinh lặng này, tôi đi tìm kiếm Chúa và
lặp lại trong lòng tôi: “Lạy Thiên Chúa của con, Chúa đang ở đâu?”
4. Một vài
câu hỏi gợi ý
a) Tôi dùng những lời đầu tiên phát ra từ miệng các nhà Đạo
Sĩ và làm cho chúng trở thành của riêng tôi: “Vua dân Do-Thái mới
sinh ra hiện đang ở đâu?” Tôi có thực sự cảm thấy bị lôi cuốn đến
nơi Chúa ở bởi vì tôi mong ước được ở bên cạnh Người không? Tôi có sẵn
sàng lìa bỏ nơi tối tăm và cũ kỹ của thói quen của tôi, của sự thoải mái của
tôi, để thực hiện một cuộc hành trình đức tin trong việc tìm kiếm Đức Giêsu
không?
b) “Chúng tôi đến để triều bái Người.” Ở đây Lời Chúa kiểm định tôi, đặt tôi qua một
thử thách: tôi có thực sự sống trong một mối quan hệ yêu thương với
Thiên Chúa không? Tôi có thể nào rộng mở cuộc sống tôi trong sự hiện
diện của Người và để cho Người ngự vào trong mỗi nhịp đập của tim tôi không?
c) “Vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh, Người đó sẽ
chăn nuôi Israel dân tộc của Ta.” Tôi có khả năng đặt và dâng trọn xác hồn tôi cho sự hướng dẫn của
Chúa, tin cậy nơi Ngài, tin vào tình yêu của Ngài, trong sự hiện diện rất thật
của Ngài dù rằng Ngài vẫn vô hình không?
d) “Khi tiến vào nhà, họ đã gặp thấy con trẻ.” Đó chính là bởi vì họ chấp nhận bước vào trong nhà, bước
vào sự hiệp thông, dâng trọn vẹn và thật sự con người họ để mắt họ có thể trống
thấy, chiêm ngưỡng và nhận ra. Tại sao tôi không nhận thức được thực
tế là khi tôi càng ở bên ngoài, thì tôi càng xa cách với cuộc sống anh chị em
tôi và tôi càng trở nên u buồn và trống trải?
5. Chìa khóa
dẫn đến bài đọc
Tôi tìm một số chữ
chính, một số chủ đề căn bản, để có thể hướng dẫn và giúp tôi hiểu thấm hơn ý
nghĩa của đoạn Tin Mừng này, để cho đời tôi có thể được soi sáng và thay đổi bởi
Lời của Chúa.
* Hành
trình: Đoạn Tin Mừng này dường
như trải qua với chủ đề lớn của một cuộc hành trình, một cuộc xuất cư, một chuyến
đi. Các vị Đạo Sĩ, những nhân vật bí ẩn, ra đi, đi xa khỏi miền đất
của họ và đi tìm kiếm vị vua, Chúa. Thánh Mátthêu trình bày dữ kiện
này bằng một số các động từ song song với sự phát triển của sự kiện: tìm
đến, chúng tôi đến, phái đi, đi, lên đường, đi trước họ, tiến
vào, đừng trở lại, trở về. Cuộc hành trình thể lý của
các vị Đạo Sĩ ẩn dấu một cuộc hành trình rất quan trọng và có ý nghĩa hơn, cuộc
hành trình đức tin. Đây là sự chuyển động của tâm hồn được nảy sinh
từ lòng ước ao gặp gỡ và biết Chúa. Đồng thời, đó là lời mời gọi của
Thiên Chúa, Đấng kêu gọi và lôi cuốn chúng ta với quyền năng của Người; chính
Người là Đấng nâng chúng ta dậy và chuẩn bị cho chúng ta lên đường, Đấng ban
cho chúng ta các dấu chỉ và không ngừng đồng hành với chúng ta. Kinh
Thánh cho chúng ta nhiều ví dụ quan trọng và những điều đó giúp cho chúng ta bước
vào con đường của ân sủng và phúc lành này. Thiên Chúa đã phán bảo
ông Abraham rằng: “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà
cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi” (St 12:1). Ông Giacóp cũng
là một người hành hương của đức tin và sự hoán cải; trên thực tế, Thánh Kinh đã
viết về ông: “Giacóp ra khỏi Bơ-e-Seba và đi về Kharan” (St 28:10)
và “Giacóp cất bước đi về đất con cái Phương Đông” (St 29:1). Nhiều
năm sau đó, Đức Chúa đã phán với ông rằng: “Hãy trở về quê cha đất tổ,
về với họ hàng ngươi; Ta sẽ ở với ngươi” (St 31:3). Ông Môisen cũng
là người đi trên một cuộc hành trình; chính Thiên Chúa đã chỉ cho ông đường đi,
cuộc Xuất Hành, trong tâm hồn ông, trong cõi lòng ông, và được làm bằng cả cuộc
đời ông cho cuộc hành trình dài của ơn cứu độ cho ông và cho dân tộc
ông: “Bây giờ, ngươi hãy đi! Ta sai ngươi đến với Pharaô
để đưa dân Ta là con cái Israel ra khỏi Ai-Cập!” (Xh 3:10). Dân
riêng mới của Chúa cũng thế, chúng ta là con cái của lời hứa và giao ước mới, hằng
được gọi để lên đường và ra đi trên cuộc hành trình theo chân của Chúa
Giêsu. Cuộc xuất hành không bao giờ ngừng; cuộc giải phóng xuất phát
từ đức tin thì vẫn luôn năng động. Chúng ta hãy nhìn vào Chúa Giêsu,
vào các vị tông đồ của Người, vào thánh Phaolô: không ai đứng yên tại
chỗ, không ai lẩn tránh. Tất cả các nhân chứng này nói với chúng ta
ngày nay bằng những hành động của họ và họ lặp lại: “Phúc thay kẻ lấy
Ngài làm sức mạnh, ấp ủ trong lòng giấc mộng hành hương” (Tv 84:6).
* Ngôi
sao: Đây là một yếu tố trọng
tâm và rất quan trọng trong đoạn Tin Mừng này bởi vì ngôi sao có vai trò hướng
dẫn các vị Đạo Sĩ đi đến nơi họ định đến, nó là sự soi sáng cho họ trong những
đêm trên cuộc hành trình, nó chỉ đúng nơi có sự hiện diện của Chúa, nó cho một
niềm vui tuyệt vời trong tim họ. Khắp suốt bộ Kinh Thánh, ngôi sao
xuất hiện như là dấu chỉ của sự chúc phúc và vinh quang, gần như là một hiện
thân của Thiên Chúa, Đấng không bỏ rơi dân Ngài, và đồng thời, sự nhân cách hóa
của dân tộc đã không quên Thiên Chúa của họ và chúc tụng Ngài (xem Tv 148:3; Br
3:34). Từ ngữ ngôi sao xuất hiện lần đầu tiên trong
Kinh Thánh trong sách Sáng Thế Ký 1:16, khi mà vào ngày thứ tư, câu chuyện về
Thiên Chúa sáng tạo trời đất cho chúng ta biết về sự xuất hiện trên vòm trời: mặt
trời, mặt trăng và các ngôi sao, như là các dấu hiệu và ánh sáng, để thiết lập
trật tự và cho ánh sáng. Thuật ngữ của người Do Thái về chữ “ngôi
sao” (kokhab) rất tuyệt đẹp và đầy ý nghĩa. Thật ra, những mẫu
tự tạo nên chữ mặc khải sự bao la của sự hiện diện mà các yếu tố thiên thể đi
kèm với chúng. Chúng ta thấy hai chữ caf, có nghĩa là “bàn
tay” và kèm theo chữ waw, có nghĩa là con người, được hiểu
trong cấu trúc sự sống của người ấy, trong xương sống người ấy, giúp cho anh ta
đứng vững, giúp anh ta hướng lên trời, tiếp xúc với Thiên Chúa và là Đấng Tạo Dựng
của anh ta. Do đó, bên trong các ngôi sao có hai bàn tay, mẫu tự caf và caf,
được giữ cách yêu thương trong mẫu tự “waw”, con người: đó là
đôi bàn tay của Thiên Chúa không bao giờ ngừng nắm lấy chúng ta, nếu chúng ta
chỉ cần phó thác cho đôi bàn tay ấy. Sau đó xuất hiện mẫu tự bet,
có nghĩa là nhà. Do đó, các ngôi sao nói với chúng ta về cuộc hành
trình hướng về nhà chúng ta, về cuộc di cư liên tục từ đó và trở về, một khi
chúng ta đã đến, từ ngày tạo thiên lập địa và thậm chí từ đời đời. Thiên
Chúa thường so sánh con cháu của Abraham với sao trên trời, như thể mỗi người
là một vì sao, được sinh ra để cho ánh sáng vào ban đêm: “Hãy ngước
mắt lên trời, và thử đếm các vì sao, xem có đếm nổi không” Và rồi Người lại
thêm rằng: “dòng dõi ngươi sẽ như thế đó!” (St 15:5). Đức
Giêsu là một vì sao, một vì sao xuất hiện từ nhà Giacóp (Ds 24:17), rằng bắt
nguồn từ trên cao, là Sao Mai sáng ngời, như sách Khải Huyền đã viết (22:16). Thật
ra, trong Người tình yêu vô hạn của Thiên Chúa đã mặc lấy xác thịt, mà chiếu hướng
về phía chúng ta, con cái của Người, và mở rộng vòng tay để tụ tập và chào đón
chúng ta. Chỉ có tình yêu như vậy mới có thể ban cho sự yếu đuối vô
hạn của chúng ta khả năng và lòng dũng cảm, sự kiên trì và niềm hân hoan của việc
chấp nhận ra đi, đi trên cuộc hành trình dài và gian khổ của đức tin, dẫn chúng
ta đến làng Bêlem, đến nơi Thiên Chúa xuất hiện với chúng ta.
* Tôn thờ
triều bái: Hành động tôn thờ
triều bái thì xưa như chuyện nhân loại, bởi vì ngay từ đầu, mối quan hệ với
Thiên Chúa đã được đi kèm theo với nhu cầu của sự yêu thương, của sự khiêm nhường,
của sự tận hiến. Trước sự cao cả của Thiên Chúa, chúng ta, những con
người bé nhỏ, cảm nhận và khám phá ra rằng chúng ta không là gì, một hạt bụi, một
giọt nước trong biển khơi. Trong Cựu Ước, cử chỉ tôn thờ xuất hiện
như một hành động của tình yêu sâu sắc đối với Chúa, một cử chỉ đòi hỏi sự tham
dự của cả bản thân: tâm trí, ý muốn chọn lựa, tình yêu tràn đầy ước vọng và một
bản thân cúi lạy và thậm chí còn phủ phục dưới đất. Người ta nói rằng
ở một vài nơi cử chỉ tôn thờ triều bái được kèm theo cả việc phủ phục dưới đất;
khuôn mặt của một người, ánh mắt, hơi thở của người ấy sẽ trở về bụi đất một
khi người đó có nguồn gốc của mình và tại đó người ấy nhìn nhận mình là tạo vật
của Thiên Chúa, như hơi thở đến từ Thiên Chúa. “Hãy vào đây ta cúi
mình phủ phục, quỳ trước tôn nhan Chúa là Đấng dựng nên ta” (Tv
95:6): đây là lời mời của Kinh Thánh cho chúng ta mỗi ngày, chỉ cho
chúng ta thấy đường đi để chúng ta có thể nhiều lần trở lại với sự thật và để sống
trọn vẹn.
Tân Ước còn đi sâu hơn
trong sự suy niệm tinh thần về sự kiện này và dường như còn muốn cùng đồng hành
với chúng ta trên cuộc hành trình sư phạm của sự hoán cải và trưởng thành trong
đời sống nội tâm của chúng ta. Trong các sách Tin Mừng, chúng ta thấy
các môn đệ, nam và nữ, thờ lạy Chúa Giêsu sau khi Người sống lại (Mt 28:9; Lc
24:52), bởi vì họ nhận ra Người chính là Thiên Chúa. Lời của Chúa Giêsu
trong cuộc đối thoại với người phụ nữ Samaritanô cho chúng ta một cái nhìn sâu
sắc vào sự thật của cử chỉ này, mà sau cùng, liên quan đến cả cuộc đời và là
thái độ của con tim: việc thờ lạy là dành cho Chúa Cha và không xảy
ra đây đó mà là trong Chúa Thánh Thần và trong chân lý, đó là trong Chúa Thánh
Thần và trong Chúa Con, Đức Giêsu. Chúng ta không được phép tự lừa dối
mình; đó không phải là việc đi hết nơi này sang nơi nọ, cũng chẳng phải vì tìm
kiếm một nhân vật thần thánh này hay nhân vật khác để chúng ta có thể tôn thờ
Thiên Chúa. Việc di chuyển, cuộc hành trình là một chuyến đi nội tâm
và xảy ra trong nơi tận cùng sâu thẳm nhất của chúng ta và là sự hàng phục hoàn
toàn của chính mình, của đời sống chúng ta, cả con người chúng ta, vào đôi cánh
của Chúa Thánh Thần và trong vòng tay của Chúa Giêsu, đang mở rộng trên thập
giá và luôn sẵn sàng đón nhận tất cả mọi thứ đến với Người. Thánh
Phêrô đã nói rõ ràng: “Đức Kitô là Đấng Thánh, hãy tôn Người làm
Chúa ngự trị trong lòng anh em” (1Pr 3:15). Cử chỉ cúi mình trên đất,
phủ phục trước mặt Chúa đến từ trái tim. Nếu chúng ta để cho Chúa đụng
chạm vào tâm hồn chúng ta, nếu chúng ta cho phép Chúa đi vào lòng mình, không
gian thiêng liêng, thì Người sẽ thay đổi chúng ta hoàn toàn, biến đổi toàn bộ
con người chúng ta và biến đổi chúng ta trở nên những con người mới.
6. Cầu nguyện: Thánh
Vịnh 84
Một bài Thánh Vịnh về lòng tin tưởng của con người trên
cuộc hành trình tiến về nhà Chúa
Đáp
ca: Lạy Chúa, con đã thấy ngôi sao của Chúa,
Và con đã đến để thờ
lạy Chúa!
Lạy Chúa Tể càn khôn,
cung điện Ngài xiết bao khả ái.
Mảnh hồn này khát khao mòn mỏi
mong tới được khuôn viên đền vàng.
Cả tấm thân con cùng là tấc dạ
những hướng lên Chúa Trời hằng sống mà hớn hở reo mừng.
Mảnh hồn này khát khao mòn mỏi
mong tới được khuôn viên đền vàng.
Cả tấm thân con cùng là tấc dạ
những hướng lên Chúa Trời hằng sống mà hớn hở reo mừng.
Lạy Chúa Tể càn khôn
là Đức Vua, là Thiên Chúa con thờ,
ngay chim sẻ còn tìm được mái ấm,
cánh nhạn kia cũng làm tổ đặt con
bên bàn thờ của Chúa!
ngay chim sẻ còn tìm được mái ấm,
cánh nhạn kia cũng làm tổ đặt con
bên bàn thờ của Chúa!
Phúc thay người ở
trong thánh điện
họ luôn luôn được hát mừng Ngài.
họ luôn luôn được hát mừng Ngài.
Phúc thay kẻ lấy Ngài
làm sức mạnh,
ấp ủ trong lòng giấc mộng hành hương.
ấp ủ trong lòng giấc mộng hành hương.
Lúc trẩy qua thung
lũng Khô Cằn,
họ biến nó thành nguồn suối nước,
mưa đầu mùa đổ phúc lộc chứa chan.
họ biến nó thành nguồn suối nước,
mưa đầu mùa đổ phúc lộc chứa chan.
Càng tiến lên, họ càng
mạnh bước
đến chiêm ngưỡng Chúa Trời ngự trên núi Xi-on.
đến chiêm ngưỡng Chúa Trời ngự trên núi Xi-on.
Lạy CHÚA là Chúa Tể
càn khôn,
xin đoái nghe lời con cầu nguyện.
Xin lắng tai, lạy Chúa nhà Giacóp.
xin đoái nghe lời con cầu nguyện.
Xin lắng tai, lạy Chúa nhà Giacóp.
Lạy Chúa là khiên mộc
chở che,
xin thương xem nhìn đến
gương mặt đấng Ngài đã xức dầu.
xin thương xem nhìn đến
gương mặt đấng Ngài đã xức dầu.
Một ngày tại khuôn
viên thánh điện
quý hơn cả ngàn ngày.
Thà con ở cổng đền Thiên Chúa
vẫn còn hơn sống trong trại ác nhân!
quý hơn cả ngàn ngày.
Thà con ở cổng đền Thiên Chúa
vẫn còn hơn sống trong trại ác nhân!
Thiên Chúa là vầng thái
dương, là thuẫn đỡ,
CHÚA tặng ban ân huệ với vinh quang.
Ai sống đời trọn hảo, Người chẳng nỡ từ chối ơn lành.
CHÚA tặng ban ân huệ với vinh quang.
Ai sống đời trọn hảo, Người chẳng nỡ từ chối ơn lành.
Lạy Chúa Tể càn khôn,
phúc thay người tin tưởng vào Chúa!
7. Lời nguyện
kết
Lạy Chúa, là Cha của
chúng con, con đã thực sự nhìn thấy ngôi sao của Chúa, con đã mở mắt ra với sự
hiện diện tình yêu và ơn cứu rỗi của Chúa và con đã lãnh nhận ánh sáng của sự sống. Con
đã lặng ngắm bóng đêm biến đổi thành ánh sáng, nỗi đau khổ trở nên niềm hân
hoan, nỗi cô đơn thành sự hiệp thông; vâng, tất cả những điều này đã xảy ra trước
nhan thánh Chúa, trong Lời Chúa. Chúa đã dẫn con qua sa mạc; Chúa đã
đưa con đến nhà Chúa và mở cửa cho con bước vào. Ở đó con trông thấy
Chúa, , Đức Giêsu Con Một Chúa, Đấng Cứu Độ của đời con; con đã cầu nguyện và
thờ lạy, con đã khóc và tìm thấy nụ cười của Chúa, con giữ im lặng và học
nói. Trong nhà Chúa, là Cha nhân từ, con đã tìm được sự sống một lần
nữa!
Và giờ đây con sắp trở
lại, con tiếp tục cuộc hành trình của mình, nhưng đường đi không phải là con đường
mà con đã đi trước đây và cuộc sống con không phải là cuộc sống như trước đó nữa. Lời
Chúa đã để lại trong con một quả tim mới, có khả năng mở ra để yêu thương, để lắng
nghe, để chào đón và trở thành mái ấm cho nhiều anh chị em mà Chúa đã đặt để họ
trên đường con đi. Lạy Chúa, con đã không biết, nhưng Chúa đã làm
cho con trở nên trẻ thơ một lần nữa, Chúa đã sinh ra con với Chúa
Giêsu. Lạy Cha, xin cảm tạ Cha, ôi Cha của con!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét