Trang

Thứ Bảy, 25 tháng 1, 2020

26-01-2020 : (phần I) CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN năm A - MỒNG HAI TẾT - KÍNH NHỚ TỔ TIÊN VÀ ÔNG BÀ CHA MẸ


26/01/2020
 Chúa Nhật 3 Thường Niên năm A
MỒNG HAI TẾT CANH TÝ 2020.
KÍNH NHỚ TỔ TIÊN VÀ ÔNG BÀ CHA MẸ.
(phần I)


Mùng 2 Tết - Kính Nhớ Tổ Tiên và Ông Bà Cha Mẹ
Bài Ðọc I: Hc 44,1.10-15
"Chúng ta hãy ca ngợi những vị danh nhân, cũng là cha ông của chúng ta qua các thế hệ."
Bài trích sách Huấn Ca.
Giờ đây, chúng ta hãy ca ngợi những vị danh nhân, cũng là cha ông của chúng ta qua các thế hệ.
Nhưng các vị sau đây là những người đạo hạnh, công đức của các ngài không chìm vào quên lãng. Dòng dõi các ngài luôn được hưởng một gia tài quý báu đó là lũ cháu đàn con. Dòng dõi các ngài giữ vững các điều giao ước; nhờ các ngài, con cháu cũng một mực trung thành. Dòng dõi các ngài sẽ muôn đời tồn tại, vinh quang các ngài sẽ chẳng phai mờ. Các ngài được mồ yên mả đẹp và danh thơm mãi lưu truyền hậu thế. Dân dân sẽ kể lại đức khôn ngoan của các ngài và cộng đoàn vang tiếng ngợi khen.
Ðó là lời Chúa.

Bài Ðọc II: Ep 6,1-4.18.23.24
"Hãy tôn kính cha mẹ. Ðể ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này".
Bài trích thư của Thánh Phaolô Tông Ðồ các gửi tín hữu thành Êphêsô.
Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Ðó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: Ðể ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này. Những bậc làm cha mẹ, đừng làm cho con cái tức giận, nhưng hãy giáo dục chúng thay mặt Chúa bằng cách khuyên răn và sửa dạy.
Theo Thần Khí hướng dẫn, anh em hãy dùng mọi lời kinh và mọi tiếng van nài mà cầu nguyện luôn mãi. Ðể được như vậy, anh em hãy chuyên cần tỉnh thức và cầu xin cho toàn thể các thánh. Anh em cũng hãy cầu xin cho tôi nữa, để khi tôi mở miệng nói, thì Thiên Chúa ban lời cho tôi, hầu tôi mạnh dạn loan báo mầu nhiệm của Tin Mừng; tôi là sứ giả của Tin Mừng này cả khi tôi đang bị xiềng xích. Anh em hãy cầu xin cho tôi để khi rao giảng Tin Mừng tôi nói năng mạnh dạn, như bổn phận tôi phải nói.
Nguyện xin Thiên Chúa là Cha, và nguyện xin Chúa Giêsu Kitô ban cho anh em ơn bình an và lòng mến cùng với lòng tin. Xin Thiên Chúa ban ân sủng cho tất cả những ai yêu mến Ðức Giêsu Kitô Chúa chúng ta bằng một tình yêu bất diệt.
Ðó là lời Chúa.

Câu xướng trước Phúc Âm
Hạnh phúc thay người nào kính sợ Chúa, những ưa cùng thích mệnh lệnh Chúa truyền ban. Trên mặt đất, con cháu của họ sẽ hùng cường dòng dõi kẻ ngay lành được Chúa thương chúc phúc.

Bài Tin Mừng: Mt 15, 1-6
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu
Bấy giờ có mấy người Pharisêu và mấy kinh sư từ Giêrusalem đến gặp Ðức Giêsu và nói rằng: "Sao môn đệ ông vi phạm truyền thống của tiền nhân, không chịu rửa tay khi dùng bữa? Người trả lời: "Còn các ông, tại sao các ông dựa vào truyền thống của các ông mà vi phạm điều răn của Thiên Chúa? Quả thế, Thiên Chúa dạy: Ngươi hãy thờ cha kính mẹ; kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử. Còn các ông, các ông lại bảo: "Ai nói với cha mẹ rằng: những gì con có để giúp cha mẹ, đều là lễ phẩm dâng cho Chúa rồi,  thì người ấy, không phải thờ cha kính mẹ nữa". Như thế, các ông dựa vào truyền thống của các ông mà hủy bỏ lời Thiên Chúa.
Ðó là lời Chúa.


Suy niệm : Hiếu Thảo
 “Con người có cố có ông
Như cây có cội như sông có nguồn”
Người Việt Nam mang đậm ý thức về cội nguồn và có truyền thống tỏ lòng hiếu thảo với ông bà cha mẹ. Nét đẹp này rất phù hợp với lời Chúa mạc khải trong Kinh thánh, cụ thể trong điều răn thứ 4 : thảo kính cha mẹ, ông bà khi còn sống cũng như lúc qua đời.
Hôm nay, ngày đầu năm, ngày tết vui tươi của dân tộc, chúng ta cùng nhớ đến công ơn của ông bà cha mẹ đối với từng người chúng ta, nhờ các ngài mà chúng ta có được sự sống và và những ngày xuân hạnh phúc này. Mỗi khi nhắc đến công ơn cha mẹ, tôi nhớ đến bàn tay chai sạn của cha làm lụng vất vả để gánh vác gia đình, kiếm từng miếng cơm manh áo cho chúng tôi; nhớ đến những đêm thức trắng của mẹ để chăm sóc tôi khi yếu đau. Đó là chưa kể đến chín tháng cưu mang, 3 năm bú mớm, những năm tháng đưa đón tôi đến trường, khuyến khích học hành suốt bao nhiêu năm, bao vất vả nhọc nhằn không thể kể ra cho hết được. Tất cả những cực nhọc, lo toan vì con cái hôm nay vẫn còn chưa hết:
“Ru con mắt nhỏ hai hàng
Nuôi con càng lớn mẹ càng lo thêm”
Ông bà cha mẹ đã nhận trách nhiệm nuôi dưỡng, giáo dục ta từ thuở chưa biết gì đến khi khôn lớn, có đủ lông đủ cánh để tự lập cho nên việc tỏ lòng biết ơn đối với các ngài là điều phải lẽ. Đó là đạo hiếu, là điều cơ bản mà mọi người phải giữ.
Chính Chúa đã dạy chúng con phải vâng lời ông bà cha mẹ trong những điều phả lí lẽ và khiêm tốn sửa mình khi được cha mẹ răn bảo. Trong sách châm ngôn nói rõ: “hỡi con, lệnh cha truyền, hãy lo tuân giữ, lời mẹ con dạy, chớ bỏ ngoài tai, vì huấn lệnh là ngọn đèn, lời dạy dỗ là ánh sáng và lời quở trách bảo ban là đường dẫn tới sự sống” (Cn 6, 20. 23). Cha mẹ ông bà là những người thương yêu chúng ta nhất trên đời, những điều các ngài dạy xuất phát từ tình thương nên chúng ta phải vâng theo. Vâng lời là điều đẹp lòng các ngài nhất và thường rất ích lợi cho bản thân chúng ta. Chúa dạy chúng con biết vâng lời cha mẹ ông bà trong những điều phảI lẽ và khiêm tốn sửa mình khi được cha mẹ răn bảo đúng đắn.
Việc thảo kính cha mẹ được Chúa Giêsu nhắc bảo rõ trong Tin Mừng Thánh Matthêu (Mt 15, 3-8). Luật của Thiên Chúa không ai tự ý vi phạm hay sửa đổi được. Khi ông bà cha mẹ còn sống, chúng ta phải có bổn phận chăm sóc; khi các ngài khuất bóng, con cháu phải nhớ thi hành lời dạy của các ngài, đồng thời phải cầu nguyện, xin lễ, viếng mộ … để tỏ lòng hiếu kính, biết ơn.
Khi nhớ về cội nguồn của mình là ông bà, tổ tiên, chúng ta hiểu được lý do phải tôn thờ Thiên Chúa là cội nguồn. Ngài là nguyên lý sáng tạo, là Cha chung của tất cả chúng ta. Chính Ngài đã ban sự sống cho tổ tiên ông bà chúng ta để các ngài truyền lại cho con cháu. Ngài cũng tiếp tục ban ân huệ dư đầy cho từng người chúng ta, nhất là ơn cứu độ của Chúa Giêsu Kitô. Do đó bổn phận của chúng ta là biết ơn và phụng thờ Thiên Chúa Ba Ngôi.
Lạy Chúa, Chúa đã dạy chúng con giữ lòng hiếu thảo đối với ông bà tổ tiên. Xin Chúa tuôn đổ hồng ân xuống trên ông bà cha mẹ chúng con. Xin Chúa trả công cho bội hậu cho những bậc sinh thành dưỡng dục chúng con và ban ơn cho chúng con luôn sống phải đạo đối với các ngài.


Chúa Nhật III Thường Niên - Năm A.
 Chúa Nhật Lời Chúa


Bài Ðọc I: Is 9, 1- 4 (Hr 8, 23b - 9, 3)
"Tại Galilêa các dân tộc và dân chúng thấy một ánh sáng vĩ đại".
Trích sách Tiên tri Isaia.
Lúc đầu, đất Giabulon và Nephthali rất hèn hạ, trong tương lai dần dần trở thành đường biển, bên kia sông Giođan trở thành Galilêa các dân tộc. Dân chúng đi trong tối tăm đã thấy một ánh sáng vĩ đại, và một ánh sáng đã chiếu soi trên dân ở vùng bóng sự chết. Người đã gia tăng dân số, đã ban một nguồn vui lớn; thiên hạ hân hoan trước mặt Người, như hân hoan khi được mùa, nhảy mừng như khi phân chia chiến lợi phẩm. Vì ách đã đè trên họ, đòn ngang nằm trên vai họ, và gậy của kẻ lạm thu họ, Người đã bẻ gẫy tất cả như trong ngày Mađian.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 26, 1. 4. 13-14
Ðáp: Chúa là sự sáng và là Ðấng cứu độ tôi (c. 1a).
Xướng: Chúa là sự sáng, là Ðấng cứu độ; tôi sợ chi ai? Chúa là Ðấng phù trợ đời tôi, tôi sợ gì ai? 
Xướng: Có một điều tôi xin Chúa, một điều tôi kiếm tìm, đó là tôi được cư ngụ trong nhà Chúa suốt đời tôi, hầu vui hưởng sự êm đềm của Chúa, và chiêm ngưỡng thánh điện của Người. 
Xướng: Tôi tin rằng tôi sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh. Hãy chờ đợi Chúa, hãy sống can trường, hãy phấn khởi tâm hồn và chờ đợi Chúa. 
Bài Ðọc II: 1 Cr 1, 10-13. 17
"Tất cả anh em hãy đồng tâm hợp ý với nhau, và giữa anh em, đừng có chia rẽ".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, nhân danh Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tôi xin anh em tất cả hãy đồng tâm hiệp ý với nhau, giữa anh em đừng có chia rẽ; hãy đoàn kết chặt chẽ trong cùng một thần khí và cùng một tâm tình. Anh em thân mến, tôi đã được các người nhà Khloê cho hay rằng: giữa anh em đang có những sự bất đồng. Tôi có ý nói điều này, là mỗi người trong anh em nói: "Tôi, tôi thuộc về Phaolô; - "Tôi về phe Apollô"; - "Còn tôi, tôi về phe Kêpha"; - "Và tôi thuộc về phe Chúa Kitô". Chúa Kitô bị phân chia rồi sao? Có phải Phaolô đã chịu đóng đinh vì anh em đâu? Hay là nhân danh Phaolô mà anh em chịu phép rửa? Ðức Kitô không sai tôi đi rửa tội, mà là đi rao giảng Tin Mừng, không phải bằng lời nói khôn khéo, kẻo thập giá của Ðức Kitô ra hư không.
Ðó là lời Chúa.

Alleluia: Mt 4, 23
Alleluia, alleluia! - Chúa Giêsu rao giảng Tin Mừng nước Trời, và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền trong dân. - Alleluia.

Phúc Âm: Mt 4, 12-23 (bài dài)
"Người vào Capharnaum để ứng nghiệm lời tiên tri Isaia đã tiên báo".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, nghe tin Gioan bị nộp, Chúa Giêsu lui về Galilêa. Người rời bỏ thành Nadarét, đến ở miền duyên hải, thành Capharnaum, giáp ranh đất Giabulon và Nepthali, để ứng nghiệm lời đã phán bởi miệng tiên tri Isaia rằng: "Hỡi đất Giabulon và đất Nepthali, đường dọc theo biển, bên kia sông Giođan, Galilêa của ngoại bang! Dân ngồi trong tối tăm đã thấy ánh sáng huy hoàng; ánh sáng đã xuất hiện cho người ngồi trong bóng sự chết".
Từ bấy giờ, Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng và nói: "Hãy hối cải, vì nước trời đã gần đến!"
Nhân lúc Chúa Giêsu đi dọc theo bờ biển Galilêa, Người thấy hai anh em là Simon, cũng gọi là Phêrô, và Anrê, em ông, cả hai đang thả lưới dưới biển, vì hai ông là ngư phủ. Người bảo hai ông rằng: "Các ngươi hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những ngư phủ lưới người ta". Lập tức hai ông bỏ lưới đó mà theo Người. Ði xa hơn một đỗi, Người lại thấy hai anh em khác là Giacôbê con ông Giêbêđê, và Gioan em ông đang vá lưới trong thuyền với cha là Giêbêđê. Người cũng gọi hai ông. Lập tức hai ông bỏ lưới và cha mình mà đi theo Người.
Và Chúa Giêsu đi rảo quanh khắp xứ Galilêa, dạy dỗ trong các hội đường của họ, rao giảng tin mừng nước trời, chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền trong dân.
Ðó là lời Chúa.
Hoặc đọc bài vắn nàyMt 4, 12-17
"Người vào Capharnaum để ứng nghiệm lời tiên tri Isaia đã tiên báo".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, nghe tin Gioan bị nộp, Chúa Giêsu lui về Galilêa. Người rời bỏ thành Nadarét, đến ở miền duyên hải thành Capharnaum, giáp ranh đất Giabulon và Nepthali, để ứng nghiệm lời đã phán bởi miệng tiên tri Isaia rằng: "Hỡi đất Giabulon và đất Nepthali, đường dọc theo biển, bên kia sông Giođan, Galilêa của ngoại bang! Dân ngồi trong tối tăm, đã thấy ánh sáng huy hoàng, ánh sáng đã xuất hiện cho người ngồi trong bóng sự chết". Từ bấy giờ, Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng và nói: "Hãy hối cải, vì nước trời đã gần đến".
Ðó là lời Chúa.

Suy Niệm: Chúa Giêsu rao giảng tin mừng nước trời
Ðức Yêsu Kitô đã được Chúa Cha sai đến để thực hiện sứ mạng của Người Tôi Tớ, như Chúa nhật trước đã nói. Hôm nay ta thấy Người ra đi làm tròn sứ mạng ấy. Người kêu gọi các môn đệ; Người cứu độ mọi người; Người thực hiện các lời Isaia tiên báo. Nhưng chúng ta đã biết hưởng các ơn của Người mang đến chưa? Ðó là những suy nghĩ của chúng ta trong Chúa nhật hôm nay.

A. Sứ Mạng Tiên Báo
Bài Tiên tri Isaia mở đầu bằng một câu đầy phấn khởi, nối dài niềm hân hoan của mùa Giáng sinh. Tác giả viết: cũng như thời đầu làm suy đốn đất Zabulon và Neptali, thì thời sau sẽ làm rạng vinh. Tiên tri loan báo cho chúng ta biết: thời Ðấng Cứu Thế sẽ đổi mới hẳn mặt đất này; trước sự suy đồi, mọi nơi sẽ trở nên rạng vinh. Ông không nói đến những thay đổi vật chất. Ông trực tiếp đi vào cơ sở của hạnh phúc con người: Dân đi trong tối tăm sẽ nhìn thấy một ánh sáng lớn. Thiên hạ sẽ hân hoan như trong mùa gặt hái, như trong buổi thắng trận. Vì mọi ách nô lệ, mọi sức đàn áp sẽ bị đập tan.
Isaia chỉ biết gợi lên như thế. Ông chẳng hiểu rồi Ðấng Cứu Thế sẽ làm thế nào. Ông suy nghĩ: con người hiện nay đang lầm than khổ sở, như tối tăm mặt mũi. Hạnh phúc sẽ đến, khi có một ánh sáng lớn dọi xuống cho họ, để họ biết ngẩng đầu vươn lên khỏi những gì đang đè họ xuống. Ơn cứu độ vì thế là ơn giải thoát, giải thoát con người để họ được tự do, phấn khởi, sáng suốt xây dựng lại cuộc đời, khiến mặt đất trước kia suy đồi, sau này sẽ rạng vinh. Thế nên sứ mạng của Ðấng Cứu Thế trước tiên nhằm con người, đổi mới nội tâm họ, để chính họ sẽ cải tạo vạn vật.
Thánh Matthêô đã hiểu bài Isaia như vậy nên đã đưa lời tiên tri đó vào phần đầu của bài Tin Mừng hôm nay để giới thiệu công việc của Ðức Yêsu Kitô, khi Người xuất hiện ra đi hoạt động. Chúng ta hãy xem Người thực hiện sứ mạng như thế nào.

B. Sứ Mạng Thực Hiện
Thánh Matthêô viết: bấy giờ Chúa Yêsu bỏ thành Nagiarét, đến ở miền Neptali và Zabulon để làm trọn lời tiên tri Isaia. Nghĩa là Người sẽ làm cho mảnh đất suy đốn ấy trở nên rạng vinh.
Chúng ta biết, Thánh Kinh luôn luôn có cái nhìn đạo đức. Khi dùng chữ "suy đốn" nói đến một vùng đất, Thánh Kinh muốn hiểu về phương diện tôn giáo và nhân đức. Mà quả thực, con đường biển bên kia sông Yordan nổi tiếng là "Galilê các dân ngoại", tức là vùng đông dân ngoại và đời sống ở đó phô trương màu sắc dân ngoại hơn ở những nơi khác trong dân Chúa. Ðức Kitô đã đến đó, nơi tiêu biểu cho thế gian còn sống xa Thiên Chúa. Người phải biến nó nên rạng vinh. Mà ở trong Kinh Thánh, một nơi được rạng vinh, một người được rạng vinh, là khi chính ánh sáng của Chúa đến chiếu soi. Ðức Kitô là ánh sáng muôn dân đến đất suy đốn để chiếu soi bằng sự hiện diện của Người.
Nhưng không phải tự nhiên mà người ta có thể nhận ra ánh sáng của Chúa. Như trên đã nói, người ta còn đi trong tăm tối và đang còn tối tăm mặt mũi, Chúa có lên tiếng gọi, người ta mới biết ngẩng mặt lên. Vì thế, Người đã lên tiếng. Người đã kêu gọi: Hãy thống hối tội lỗi vì Nước Trời đã gần đến!
Người tiếp tục đi xa hơn nữa, không những gọi chung mọi người, mà còn gọi riêng một số người. Họ cũng đang cặm cụi với công việc thường ngày. Người muốn nâng họ lên, bỏ nghề chài lưới cá đi chài lưới người. Quả thật, những ai đi theo Người đều đã được thăng tiến, không phải vì đời sống vật chất đã được khá hơn; ngược lại đau khổ sẽ chờ họ; nhưng tâm hồn họ được nâng cao, đời sống họ mang thêm nhiều ý nghĩa; chính họ thấy được hạnh phúc và họ sẽ hiến thân đi chia sẻ Tin Mừng cho mọi người.
Họ theo Người đi khắp xứ Galilê, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, chữa lành một số bệnh nhân để làm chứng rồi đây không còn khổ đau trong Dân Chúa nữa, khi mà Tin Mừng cứu độ thật sự đã chiếm hữu toàn vẹn tâm hồn con người, đến nỗi khổ đau chỉ có mặt ở mặt ngoài và rất tạm thời. Mầm mống hạnh phúc đã được cắm sâu trong tâm trí. Với thời gian, đôi tay con người sẽ làm ra một thế giới mới...
Nhiều người có thể hoài nghi, 2,000 năm đã qua mà công cuộc của Chúa Cứu Thế chưa đi đến đâu. Không kể bộ mặt bề ngoài của trái đất nhưng kể cả bộ mặt tinh thần của xã hội loài người: tất cả dường như nói lên điều này, sứ mạng mà Ðức Kitô thực hiện chưa đem lại nhiều kết quả. Chúng ta có nên dốc hết niềm tin vào sứ mạng ấy không?

C. Sứ Mạng Tồn Tại
Gạt bỏ vấn nạn trên thật là vô lý; nhưng đầu hàng nó lại càng không phải. Biết đâu chúng ta chẳng quá bất công? 2,000 năm nay cũng đã thay đổi nhiều lắm chứ! Và nhịp tiến bộ mỗi ngày càng nhanh. Nói rằng sứ điệp của Ðức Kitô, sứ mạng của các môn đệ của Người không có công gì trong việc cải tiến xã hội, không biết có phải là bất công không? Và nhất là trong vấn đề cải tiến con người, ai có thể phủ nhận phần đóng góp của Kitô giáo.
Tuy nhiên chúng ta không nên bàn cãi những chuyện như vậy. Vấn nạn hoài nghi sứ mạng của Ðức Kitô phải chăng không phát xuất từ một não trạng "muốn ăn sẵn", muốn thấy sứ mạng đó đã thực hiện hết rồi, để chúng ta chỉ còn việc thừa hưởng?
Chẳng bao giờ có thể như vậy! Con người được sinh ra để làm chủ và làm chủ tập thể. Thiên Chúa luôn chỉ hứa hạnh phúc cho toàn dân, và hạnh phúc cho mỗi người như là một tham dự. Thế mà bài thư Phaolô hôm nay nói, những người theo Chúa vừa nhận được đức tin, đã mau chia rẽ trầm trọng. Họ không còn thấy tất cả phải ở trong một cơ thể của Ðức Kitô nữa và phải tham gia vào cùng sứ mạng với Người. Họ xé lẻ, đánh mảnh, đề cao ý tưởng này, gièm pha cố gắng kia. Họ đã chia rẽ trong đức tin, thì còn xung khắc nhau biết bao trong đời sống thực tế! Họ mất sự đoàn kết chặt chẽ trong cùng một Thần trí và cùng một tâm tình. Họ quên sứ mạng của Ðức Kitô và không còn nhất trí tiếp nối xây dựng sứ mạng ấy.
Thế thì tình trạng còn suy đốn hiện nay của mặt đất ta đang ở, lỗi tại chính những người con Chúa. Họ phải thống hối trở lại vì Nước Trời đã gần đến. Ðúng hơn, họ phải cải tạo để Nước Trời có thể đến được. Thay vì mỗi người xiêu bạt đi theo các dục vọng riêng của mình như các con chiên lạc, tất cả phải biết nghe tiếng Chúa Chiên, chạy lại với Người, chia sẻ của ăn Người ban phát cho, là sự sống và tình yêu của Người, để ăn vào rồi mọi người sẽ thao thức như Chúa, tiếp tục sứ mạng Người đã khởi sự: cải tạo tâm hồn, thay đổi đời sống, xây dựng cuộc đời tự do hạnh phúc chung cho mọi người.
Ðó chính là việc Người muốn làm mỗi khi hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể. Nơi đây Người kêu gọi chúng ta bỏ ý riêng, kết hợp với Người nên một thân thể và thân thể ấy sẽ đem thịt máu xả thân cho mọi người, để ai nấy được hạnh phúc cả hồn lẫn xác. Một viễn tượng như vậy cho ta thấy: sứ mạng đổi mới con người và đời sống, mặc dầu đã được loan báo từ ngàn xưa và đã được Ðức Kitô thực hiện, nhưng còn tồn tại để mọi người chúng ta tham gia. Và như thế cũng chỉ để nâng cao con người và đời sống của mỗi người tham dự.

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)

Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật 3 Thường Niên, Năm A
Bài đọc: Isa 8:23-9:3; 1 Cor 1:1, 10-13, 17; Mt 4:12-23.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hãy để ánh sáng chân lý của Thiên Chúa chiếu soi cuộc đời.
Có một sự khác biệt to lớn giữa người biết và người không biết, người bước đi trong ánh sáng và người ngồi trong bóng tối. Người sống trong ánh sáng biết mình đi đâu, họ luôn vững tin, sống an vui và lạc quan hy vọng trong mọi trạng huống của cuộc đời. Người ngồi trong bóng tối không biết mình sống để làm gì, lúc nào họ cũng sợ hãi, lo âu, bi quan và chán nản cuộc đời.
Điều khác biệt không đơn giản chỉ liên quan tới ánh sáng và bóng tối, nhưng nó còn quyết liệt hơn, vì nó liên quan tới sự sống và sự chết đời đời. Để được giải thoát khỏi bóng tối, con người cần tiếp nhận ánh sáng chân lý của Thiên Chúa chiếu soi, họ cần tin tưởng vào Đức Kitô và thực hành những gì Ngài truyền dạy.
Các bài đọc hôm nay tập trung trong chủ đề Thiên Chúa đã làm mọi cách để đưa con người ra khỏi bóng tối tội lỗi bằng cách cho con người nguồn sáng đích thực là Đức Kitô. Ngài cũng chọn và huấn luyện con người để họ cũng được cộng tác với Ngài trong sứ vụ mang Đức Kitô đến cho mọi người.
Trong bài đọc I, ngôn sứ Isaiah đã nhìn thấy và loan báo trước ngày mà mọi người ở mọi nơi đều được ánh sáng chân lý của Thiên Chúa chiếu soi tới, điển hình là hai vùng đất của Dân Ngoại, Zebulun và Naphthali. Trong bài đọc II, thánh Phaolô nhắc nhở cho các tín hữu Corintô biết không phải khi họ đã trở thành tín hữu là họ hết tối tăm và luôn sống trong ánh sáng. Nếu các tín hữu vẫn còn luyến tiếc các lợi nhuận cá nhân để rồi sống theo óc bè đảng của thế gian, họ không sống theo ánh sáng của Thiên Chúa soi dẫn và họ đang tự hủy cuộc sống của chính họ và của cộng đoàn. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu chọn vùng tả ngạn của Hồ Galilee, tức là vùng đất Zebulun và Naphthali mà ngôn sứ Isaiah đã loan báo trong bài đọc I, để làm nơi bắt đầu sứ vụ rao giảng của Ngài. Chúa Giêsu cũng gọi 4 môn đệ đầu tiên và họ đã mau chóng đáp trả bằng cách bỏ mọi sự đi theo Chúa, để được Ngài huấn luyện và cho tham dự vào sứ vụ mang ánh sáng đến cho mọi người.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Sự khác biệt giữa ánh sáng và bóng tối
Zebulun và Naphthali là hai chi tộc của Do-thái nằm về phía tả ngạn của sông Jordan, và là biên giới giữa Syria và Do-thái. Chi tộc Dan không chịu nổi áp suất của vùng biên giới, nên sau này đã di chuyển về biên giới giữa hai miền Bắc và Nam của Do-thái. Nằm ở vùng biên giới luôn bị đe dọa bởi thảm họa chiến tranh và chết chóc. Vào thời của ngôn sứ Isaiah, vương quốc miền Bắc, dĩ nhiên bao gồm hai chi tộc Zebulun và Naphthali, rơi vào tay đế quốc Assyria, mau chóng tiếp nhận mọi bóng tối tội lỗi của họ, và trở thành miền đất của Dân Ngoại. Ngôn sứ Isaiah được Thiên Chúa cho nhìn thấy ngày mà hai chi tộc này sẽ được nhìn thấy ánh sáng của Đấng Thiên Sai chiếu soi. Trình thuật hôm nay muốn nhấn mạnh đến sự tương phản về hiệu quả của ánh sáng và bóng tối.
1.1/ Ánh sáng giải thoát con người: Khi ánh sáng của Thiên Chúa chiếu soi vào vùng đất tối tăm này, con người sẽ nhìn thấy tất cả bóng tối đang bao phủ quanh họ: “Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi.” Hiệu quả rõ rệt nhất của ánh sáng là niềm vui. Ánh sáng mang lại niềm vui cho tất cả những người được chiếu soi. Ngôn sứ Isaiah dùng hai hình ảnh mà không ai trong vùng đất này xa lạ với là mùa gặt và ngày thắng trận. “Chúa đã ban chứa chan niềm hoan hỷ, đã tăng thêm nỗi vui mừng. Họ mừng vui trước nhan Ngài như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt, như người ta hỷ hoan khi chia nhau chiến lợi phẩm.”
1.2/ Bóng tối giam giữ con người như những nô lệ: Dân chúng sống trong hai vùng của Dân Ngoại này chắc chắn phải chịu nhiều thiệt thòi. Về phương diện tôn giáo, họ sống rất xa Đền Thờ, nên dễ bị ảnh hưởng của các tôn giáo của người Assyria. Về phương diện chính trị, họ bị điều khiển bởi các đế quốc, bị bắt làm nô lệ, và luôn bị đe dọa bởi chiến tranh. Những trận chiến khốc liệt nhất của lịch sử Do-thái đều nằm trong vùng này.
Ngôn sứ Isaiah nhìn thấy trước ngày Thiên Chúa sẽ giải thoát dân chúng khỏi các thế lực chính trị: “Vì cái ách đè lên cổ dân, cây gậy đập xuống vai họ, và ngọn roi của kẻ hà hiếp, Ngài đều bẻ gãy như trong ngày chiến thắng quân Median.”
2/ Bài đọc II: Biết Đức Kitô là phải sống theo những gì Ngài dạy.
Corintô là một hải cảng phồn thịnh của người Hy-lạp. Đời sống của dân chúng tuy dễ chịu về phương diện kinh tế, nhưng bị đe dọa bởi nhiều thứ tội của các nơi mang tới. Dân chúng Corintô dễ mở lòng để đón tiếp những cái hay của tứ phương thiên hạ, nhưng ít khi chịu gạn lọc ra khỏi họ những thói xấu. Thánh Phaolô tuy thành công về phương diện mang ánh sáng của Đức Kitô tới cho họ, nhưng ngài gặp nhiều khó khăn trong việc điều khiển cộng đoàn. Chúng ta chỉ cần đọc hai thư Corintô là biết rõ các vấn đề ngài phải đương đầu với.
Thánh Phaolô nhắc nhở các tín hữu Corintô: Không phải cứ trở thành tín hữu là mọi sự đều tốt đẹp; nhưng người tín hữu phải đoạn tuyệt với tội lỗi, và làm mọi cách để thực thi những lời Đức Kitô dạy bảo. Trong trình thuật hôm nay, điều thánh Phaolô muốn nhấn mạnh là đời sống yêu thương và hiệp nhất trong cộng đoàn.
2.1/ Hiệp nhất là sống theo những lời dạy bảo của Đức Kitô: Sau phần chào hỏi đầu thư, Ngài đi thẳng vào vấn đề của dân thành: “Thưa anh em, nhân danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tôi khuyên tất cả anh em hãy nhất trí với nhau trong lời ăn tiếng nói, và đừng để có sự chia rẽ giữa anh em, nhưng hãy sống hoà thuận, một lòng một ý với nhau.”
Theo thánh Phaolô, căn bản của đời sống Kitô hữu là đức bác ái, và người tín hữu phải làm mọi cách để phát triển nhân đức này (1 Cor 13). Không thể có hiệp nhất nếu không có yêu thương. Chúa Giêsu cũng đã từng nhắn nhủ các môn đệ: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ của Thầy là chúng con yêu thương nhau.”
2.2/ Chia rẽ bè phái là vẫn còn ở trong bóng tối và làm nô lệ cho tội lỗi: Thánh Phaolô cho biết nguyên do của sự chia rẽ trong cộng đoàn: “Thật vậy, thưa anh em, người nhà của bà Chloe cho tôi hay tin có chuyện bè phái giữa anh em. Tôi muốn nói là trong anh em có những luận điệu như: "Tôi thuộc về ông Phaolô, tôi thuộc về ông Apollo, tôi thuộc về ông Kepha, tôi thuộc về Đức Kitô." Thế ra Đức Kitô đã bị chia năm xẻ bảy rồi ư? Có phải Phaolô đã chịu đóng đinh vào khổ giá vì anh em chăng? Hay anh em đã chịu phép rửa nhân danh Phaolô sao?”
Điều thánh Phaolô muốn nhấn mạnh là các tín hữu hãy chú ý đến tình yêu của Đức Kitô biểu lộ qua cái chết của Ngài trên Thập Giá, chứ đừng tìm uy quyền, danh vọng, hay lợi lộc cá nhân để rồi chia năm xẻ bảy thân thể của Đức Kitô.
Lợi lộc cá nhân thường là lý do chính nhưng ẩn sâu trong bóng tối, thúc đẩy con người kéo bè phái và chống lại chân lý, chống lại những người lãnh đạo muốn cho họ bắt chước Đức Kitô. Thánh Phaolô khuyên các tín hữu phải sửa sai kịp thời; nếu không, họ sẽ tự phân tán, và dần dần, họ sẽ từ bỏ luôn Đức Kitô, là nguyên do hạnh phúc cho cuộc đời của họ.
3/ Phúc Âm: Phải có thái độ dứt khoát đi theo nguồn sáng là Đức Kitô khi Ngài đến.
3.1/ Đức Kitô làm trọn lời ngôn sứ Isaiah: “Khi Đức Giêsu nghe tin ông Gioan đã bị nộp, Người lánh qua miền Galilee. Rồi Người bỏ Nazareth, đến ở Capernaum, một thành ven biển hồ Galilee, thuộc địa hạt Zebulun và Naphthali, để ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaiah nói: Này đất Zebulun, và đất Naphthali, hỡi con đường ven biển, và vùng tả ngạn sông Jordan, hỡi Galilee, miền đất của dân ngoại! Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi.”
Có thể nói toàn bộ cuộc đời thơ ấu, các phép lạ và sứ vụ rao giảng đầu tiên của Chúa Giêsu tập trung trong hai vùng đất này: Nazareth, Cana, Capernaum... Hầu hết các tông đồ của Chúa Giêsu đều là người địa phương của hai vùng này, Bethsaida là quê hương của 4 môn đệ đầu tiên, rất gần với Capernaum.
3.2/ Chúa Giêsu mời gọi 4 môn đệ đầu tiên đi theo Ngài:
(1) Ngài mời gọi các ông hướng tới sứ vụ cao trọng hơn: mang ánh sáng chân lý của Thiên Chúa và ơn cứu độ đến cho con người. Thoạt nghe trình thuật của Matthew, chúng ta có thể thắc mắc: Làm sao 4 môn đệ đầu tiên này có thể đáp trả lời mời gọi của Chúa Giêsu cách dứt khoát và nhanh chóng như thế? Bốn ông đều chắc chắn đã có cơ hội nghe Chúa Giêsu rao giảng trong hội đường Capernaum và chung quanh vùng Biển Hồ Galilee, đã chứng kiến các phép lạ Ngài làm, đã nghe dân chúng bàn tán về Ngài... Tất cả những điều này làm các ông phải suy nghĩ nhiều đêm, để rồi hôm nay, khi Ngài chính thức mời gọi: "Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá;" các ông mới có thể bỏ mọi sự đi theo Ngài.
(2) Các môn đệ phải dứt khoát đáp trả: Tuy thế, phản ứng dứt khoát của các tông đồ cũng làm cho chúng ta phải kinh ngạc. Nghề nghiệp không dễ bỏ vì nó liên quan đến vần đề sinh sống. Các ông chắc cũng thắc mắc: “Bỏ nghề rồi làm gì ăn?” Bỏ cha già ở lại trên thuyền với lưới rách còn khó hơn. Ơn sinh thành phải đền trả. Giờ đã đến lúc người cha già yếu phải sống nương tựa vào sức mạnh của con, thế mà hai người con khỏe mạnh đành lòng để cha già ở lại để bước theo Đức Kitô! Hơn nữa, chắc họ cũng phải nhìn lại con người mình và tự hỏi: Làm sao một dân thuyền chài có thể mang ánh sáng chân lý tới cho con người? Chính họ cần được ánh sáng chân lý chiếu soi trước hết.
Các ông có can đảm bước đi theo tiếng gọi của Chúa Giêsu vì các ông được soi sáng để nhận ra đâu là điều quan trọng trong cuộc đời. Các ông đi theo Chúa Giêsu vì các ông nhận ra có những điều trong cuộc đời cao trọng hơn là nghề nghiệp và sự đáp trả công ơn sinh thành bằng việc giúp đỡ phần xác. Chúa Giêsu phải có những điều có thể lấp đầy những nỗi khao khát trong tâm hồn các ông. Các ông thấy dân chúng lũ lượt và nhiệt thành đến với Chúa Giêsu để nghe Ngài dạy dỗ và chữa lành. Các ông cảm thấy hãnh diện được trở thành môn đệ của Chúa Giêsu, và việc tham gia vào sứ vụ cứu độ của Chúa phải là điều đáng ao ước hơn cả.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Nếu không có ánh sáng của Thiên Chúa chiếu soi, chúng ta sẽ không thể nhận ra những tối tăm đang bao phủ cuộc đời chúng ta.
- Chúng ta không chỉ cần nhìn thấy ánh sáng thôi, mà còn phải sống theo ánh sáng chỉ dẫn. Hãy mở tung con người để ánh sáng của Thiên Chúa chiếu soi mọi tăm tối trong con người.
- Chúng ta đừng sợ sẽ bị mất những gì đang có; nhưng hãy mạnh dạn và dứt khoát theo Đức Kitô để Ngài đổi mới và dẫn đưa chúng ta đến những chân trời hy vọng mà chúng ta chưa bao giờ dám nghĩ tới.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP


26/01/2020
CHÚA NHẬT TUẦN 3 TN – A
Mùng Hai Tết, kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ                
Mt 4,12-23

CÁM DỖ NGÀY THƯỜNG
“Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần.” (Mt 4,17)

Suy niệm: Trong những ngày giỗ, tết chúng ta thường kính nhớ tổ tiên để tỏ lòng hiếu kính biết ơn đối với bậc sinh thành, và trên hết, tôn thờ cảm tạ và ngợi khen Thiên Chúa là nguồn gốc mọi sự, là Đấng chúng ta phải tạ ơn và tôn vinh suốt đời, không chỉ trong những biến cố lớn lao, mà cả trong những đau khổ thường ngày. Quả thật, cuộc đời chúng ta không chỉ là những ngày tết, hay những biến cố quan trọng, mà phần lớn là những ngày bình thường như mọi ngày. Cám dỗ lớn nhất của chúng ta là để cho những ngày đó trở thành tầm thường, tẻ nhạt. Chúng ta được mời gọi hoán cải liên lỉ để luôn làm mới các tương quan thường ngày với Chúa, với tha nhân, cách riêng với những người thân cận của mình trong gia đình.

Mời Bạn: ĐTC Phan-xi-cô nói: “Hoán cải hằng ngày là cố gắng liên tục để thanh tẩy trái tim”. “… nếu bạn không thể nói xấu người khác, thì bạn đã đi đúng con đường nên thánh… khi muốn chỉ trích một người láng giềng, hãy cắn lưỡi nhẹ một chút. Lưỡi bạn sẽ hơi sưng nhưng linh hồn bạn sẽ lành thánh hơn trên con đường này… Không có gì to tát, không có việc hành xác, thật là giản dị. Xin đừng lui bước…”. Bạn có sẵn sàng cho việc hoán cải chính mình trong từng việc nhỏ mỗi ngày như vậy không?

Sống Lời Chúa: Quan tâm chăm sóc người thân của mình với ý thức “Bổn phận là ý Chúa trong giây phút hiện tại” (ĐHV.17).

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con biết khiêm tốn và biết đón nhận những hy sinh trong những vất vả hằng ngày; để tâm hồn con được thanh tẩy, để biết yêu mến Chúa và ngày càng trở nên giống Chúa hơn. Amen.
(5 phút Lời Chúa)


Thờ cha kính mẹ – (26.1.2020 – Chúa nhật – Mồng Hai Tết Nguyên đán – Kính nhớ ông bà tổ tiên)
Suy niệm:
Giáo Hội dành Mồng Hai Tết để kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ.
Người Công Giáo thường bị coi là bỏ rơi việc thờ cúng ông bà tổ tiên,
như thế họ có thể bị coi là bất hiếu.
Thật ra thảo kính cha mẹ là điều răn thứ bốn Thiên Chúa đòi chúng ta phải giữ.
Cha Đắc Lộ trong cuốn Phép Giảng Tám Ngày (1651) cho rằng
thảo kính cha mẹ gồm bốn phần, đó là yêu mến, kính sợ, chịu lụy và giúp đỡ.
Cha còn ghi nhận một tập tục đặc biệt vào thời đó.
Ngày Mồng Một Tết, người dân và cả những quan lớn,
sau khi theo vua chúa đi tế Nam Giao về,
“ai nấy về nhà mà lạy cha mẹ ông bà ông vải.”
Vào năm 1625, các thừa sai cho phép cúng giỗ các vị đã khuất.
Trong các gia đình, ngoài bàn thờ kính Chúa, còn có “bàn thờ” tổ tiên
Chỉ có hai điều không được phép,
đó là đốt vàng mã và tin tổ tiên về ăn đồ cúng.
Thật ra, người Công Giáo nhớ đến người quá cố
không qua những nghi lễ giỗ chạp hàng năm,
cho bằng qua việc cầu nguyện và dâng lễ hàng ngày.
Nhà Vua tế Trời ở đàn Nam Giao, nhà sư thờ Phật tại Chùa,
các bậc chức sắc trong làng xã thờ Thành Hoàng tại đình làng,
còn việc cầu nguyện, cúng giỗ tổ tiên được cử hành tại gia đình,
nơi người sống và người đã qua đời vẫn thông hiệp với nhau chặt chẽ.
Trong bài Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu bênh vực quyền lợi của cha mẹ.
Ngài đòi người ta phải giữ điều răn thứ tư của Thiên Chúa.
Thảo kính cha mẹ hàm chứa việc săn sóc và phụng dưỡng cha mẹ.
Cụ thể người con phải giúp cha mẹ về mặt tài chánh.
Đức Giêsu phản đối một truyền thống được bày đặt bởi người Pharisêu,
đó là khi một người con lấy số tiền lẽ ra dành để nuôi cha mẹ
mà dâng cúng cho đền thờ làm lễ phẩm
thì anh ta khỏi phải dùng tiền đó mà nuôi cha mẹ nữa (cc. 5-6).
Đối với Đức Giêsu, làm thế là nhân danh một truyền thống con người
mà “vi phạm điều răn của Thiên Chúa”và “hủy bỏ lời của Thiên Chúa” (cc. 3.6).
Khi suy nghĩ về tương quan giữa cha mẹ và con cái,
chúng ta cần tự hỏi:
Làm sao để có sự cảm thông giữa những thế hệ?
Làm sao để con cái biết vâng phục và tôn kính cha mẹ?
Làm sao để cha mẹ biết giáo dục con cái bằng khuyên răn và sửa dạy?
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
sau hơn 30 năm sống dưới mái nhà ở Nadarét,
Chúa đã thành một người chín chắn
và trưởng thành,
sẵn sàng lãnh nhận sứ mạng Cha giao.
Bầu khí yêu thương đã góp phần không nhỏ
trong việc hình thành nhân cách của Chúa.
Chúa đã học nơi thánh Giuse
sự lao động miệt mài,
sự mau mắn thi hành Thánh ý Thiên Chúa,
sự âm thầm chu toàn trách nhiệm đối với gia đình.
Chúa đã học nơi Mẹ Maria
sự tế nhị và phục vụ,
sự buông mình sống trong lòng tin phó thác
và nhất là một đời sống cầu nguyện thâm trầm.
Xin nhìn đến gia đình chúng con,
xin biến nó thành nơi sản sinh những con người tốt,
biết yêu thương tha thứ,
biết cầu nguyện và phục vụ.
Ước gì xã hội chúng con lành mạnh hơn,
Giáo hội chúng con thánh thiện hơn,
nhờ có những con người khỏe mạnh, khôn ngoan
và tràn đầy ơn Chúa.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng Giêng

26 THÁNG GIÊNG

Nạn Thất nghiệp – Một Tai Ương Xã Hội

Con người luôn luôn là yếu tố quan trọng nhất trong mọi quá trình lao động, từ khởi sự cho đến hoàn thành. Vì thế, trình độ văn minh của một dân tộc phản ảnh nơi chính thái độ của họ đối với những người yếu kém trong xã hội, những người gặp khó khăn trong vấn đề việc làm, những người phải đương đầu với tình trạng thiếu hay không có việc làm. Thật vậy, một trong những bi kịch của thời đại chúng ta là tình trạng có quá nhiều người thất nghiệp, nhất là những người trẻ. Chúng ta phải làm gì đây trước tình hình này?

Cần phải nhận ra rằng tình trạng ì do bắt buộc (nghĩa là muốn hoạt động nhưng không được hoạt động) là một sự dữ . Nó tạo ra một sự ngưng trệ có chiều hướng làm tê liệt chính niềm hy vọng của người ta. Những ước mơ và lý tưởng của người ta bị đe dọa, người ta trở thành quờ quạng, lóng ngóng. Người trẻ, trong trường hợp này, nhận thấy mình bị tước mất cơ hội xây dựng gia đình. Rồi, hậu quả xảy ra là những suy bại khôn lường về đạo đức và tâm lý. Quả là một tình trạng đòi chúng ta phải dành quan tâm một cách khẩn trương.

Tôi muốn nhắc đi nhắc lại rằng “tình trạng thất nghiệp – trong bất luận trường hợp nào – cũng đều là một sự dữ, và đến một mức nào đó, nó có thể trở thành một tai họa thực sự cho xã hội” (Laborem exercens 8). Thất nghiệp là một ‘nạn dịch”. Dịch bệnh này phát triển trong những cơ thể ốm yếu, suy nhược. Khi một xã hội cảm thấy mình đứng trước sự đe dọa của nạn dịch này, xã hội ấy cần phải nghiêm túc xem lại ‘sức khỏe’ của mình.

Chúng ta cần sử dụng mọi phương tiện để khảo sát và nghiên cứu vấn đề hệ trọng này – sao cho có thể tìm ra một giải pháp. Chẳng hạn, khoa xã hội học và kinh tế học chắc chắn có thể giúp ta hiểu rất nhiều về tình trạng thất nghiệp trong ánh sáng của những sự thay đổi lớn lao về công nghệ – là điều đang dẫn tới những thay đổi về điều kiện làm việc trong thời hiện đại của chúng ta.

Trong công cuộc tìm kiếm những giải pháp, chúng ta phải luôn luôn nhớ rằng con người là yếu tố thứ nhất mà chúng ta phải quan tâm. Sự đóng góp của con người là – và mãi mãi vẫn là – yếu tố cốt lõi cho sự tiến bộ đích thực. Không có một máy móc nào – dù tinh vi tới đâu đi nữa – có thể thay thế cho trí tuệ của con người.

- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 26-1
Chúa Nhật III Thường Niên
Is 8,23b-9,3; 1Cr 1,10-13.17; Mt 4,12-23.
Lời suy niệm: “Khi Đức Giêsu nghe tin ông Gioan đã bị nộp, Người lánh qua miền Galilê. Rồi Người bỏ Nadarét, đến ở Caphácnaum, một thành ven biển Hồ Galilê.”
Khi Chúa Giêsu khởi đầu sứ vụ của Người, Người đã dứt khoát rời bỏ Nadarét, và Người cũng lánh xa những gì có thể làm phương hại đến việc loan báo sứ điệp của Người. Điều này giúp cho mỗi người trong chúng ta phải biết khôn ngoan, khi mang trên mình một sứ mạng mà Chúa đã giao phó, không nên đương đầu với sự dữ khi không cần thiết để có thể bảo đảm cho việc chu toàn bổn phận và trách nhiệm của mình.
Lạy Chúa Giêsu. Xin cho mỗi một người trong chúng con được ơn khôn ngoan biết dứt khoát khi chọn lựa nơi chốn và việc làm theo lời Chúa mời gọi.
Mạnh Phương

26 Tháng Giêng

    Quốc Khánh Của Australia
    
    Hôm nay 26 tháng 01 là ngày quốc khánh của người Australia.

    Ngày 26/01/1788, lá cờ của nước Anh lần đầu tiên được cắm trên lãnh thổ của Australia, đánh dấu đợt định cư đầu tiên của 730 người. 730 cựu tù nhân này đã được coi như là thủy tổ của đa số người dân Australia này nay.

    Ðối với chính phủ Anh thời bấy giờ, việc lưu đày các tù nhân qua một vùng đất xa lạ là một biện pháp giúp giải quyết vấn đề ứ đọng tại các nhà tù trong nước. Nhưng đối với 730 người lần đầu tiên của Australia này, thì đây là cơ hội để làm lại cuộc đời. Dù muốn dù không, người dân Australia chính hiệu ngày nay không thể phủ nhận được sự kiện là quốc gia của họ đẫ được lhai sinh do những con người mà xã hội muốn xua đuổi cho rảnh tay.

    Ngày nay, Australia được xếp vào hạng những nước tiên tiến về mọi mặt. Nhưng có lẽ họ không thể quên được công ơn xây dựng của cha ông họ, dù tông tích của họ có là một quá khứ xấu xa đến đâu.

    Câu chuyện lập quốc của nước Australiacó thể giúp chúng ta hiểu được phần nào hai chữ Quan Phòng trong Kitô giáo của chúng ta. Lời của thánh Phaolô là một xác quyết về sự quan phòng ấy: nơi nào có tội lỗi càng nhiều, nơi đó Thiên Chúa càng ban ơn dồi dào.

    Lịch sử của dân Israel và lịch sử ơn cứu rỗi cũng cho chúng ta thấy một chuỗi những vấp ngã của con người và một chuỗi những can thiệp kỳ diệu của Thiên Chúa. Mỗi lần con người phạm tội là mỗi lần Thiên Chúa ban ơn như một khởi điểm cho một công trình mới tốt đẹp hơn.

    Hôm nay Giáo Hội kính nhớ hai Thánh Timôtê và Titô, hai người con tinh thần và cộng sự viên gần gũi của thánh Phaolô mà chúng ta tưởng niệm biến cố trở lại ngày hôm qua.

    Cũng giống như Thánh Phaolô, Timôtêmang hai dòng máu Hy Lạp và Do Thái. Do Thái xem Ngài như một đứa con ngoại hôn. Nhưng cái tư thế bị ruồng rẫy đó đã khiến cho Timôtê trở thành gạch nối giữa Tin Mừng và văn minh của những dân tộc ở ngoài Do Thái giáo. Trong 15 năm sát cánh bên cạnh Thánh Phaolô để phục vụ các cộng đoàn Ephêsô, Timôtê đã để lại một mẫu gương hy sinh, nhẫn nhục và bác ái cao độ.

    Cũng giống như Phaolô và Timôtê, Titô cũng đến từ thế giới dân ngoại. Ngài cũng được Chúa sử dụng để loan báo Tình Thương của Ngài cho mọi tạo vật.

    Ôn lại cuộc đời của ba vị Thánh thuộc thế giới dân ngoại này, chúng ta thấy động tác lạ lùng của ơn Chúa. Mọi người, dù thấp hèn đến đâu, cũng đều có một chỗ đứng trong chương trình cứu rỗi của Chúa. Mọi người đều có thể là trung gian nhờ đó ơn Chúa được thông ban cho người khác. Thế giới không được cứu rỗi nhờ những gì chúng ta làm, mà nhờ những gì Thiên Chúa thực hiện qua cuộc sống của chúng ta.

    Trích sách Lẽ Sống


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét