10/01/2020
Thứ Sáu sau lễ Hiển
Linh
BÀI ĐỌC I: 1 Ga 5, 5-6.
8-13 (Hl 5-13)
“Thánh Thần, nước và máu”.
Trích thư thứ nhất
của Thánh Gioan Tông đồ.
Các con thân mến, ai là người chiến thắng thế gian, nếu không phải là người
tin rằng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa? Đấng đã đến nhờ nước và máu, chính là Đức
Giêsu Kitô, không phải trong nước mà thôi, nhưng trong nước và máu nữa. Có
Thánh Thần làm chứng rằng Chúa Kitô là chân lý. Và trên mặt đất có ba nhân chứng:
Thánh Thần, nước và máu, cả ba chỉ là một. Nếu chứng của người đời mà chúng ta
còn nhận lấy, thì chứng của Thiên Chúa còn mạnh hơn. Vì đó là chứng của Thiên
Chúa, chứng mạnh hơn là Người đã làm chứng về Con Mình.
Ai tin kính Con Thiên Chúa, thì có chứng của Thiên Chúa nơi mình. Còn ai
không tin Thiên Chúa, thì cho Người là gian dối, vì kẻ ấy không tin nơi chứng
mà Thiên Chúa đã làm chứng về Con Mình. Và chứng đó là thế này: Thiên Chúa đã
ban cho chúng ta sự sống đời đời, và sự sống đó ở trong Con của Người. Ai có
Chúa Con, thì có sự sống; còn ai không có Chúa Con, thì cũng không có sự sống.
Ta viết các điều này cho các con, để các con biết rằng các con là những người
tin vào danh Con Thiên Chúa, các con có sự sống đời đời. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 147, 12-13.
14-15. 19-20
Đáp: Giêrusalem hỡi,
hãy ngợi khen Chúa (c. 12a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Giêrusalem hỡi, hãy ngợi khen Chúa! Hãy ngợi khen Thiên Chúa của
ngươi, hỡi Sion! Vì Người đã giữ chặt các then cửa thành ngươi; Người đã chúc
phúc cho con cái ngươi trong thành nội. – Đáp.
2) Người sắp đặt bờ cõi ngươi trong thanh bình, cho ngươi hưởng no nê những
tinh hoa lúa miến. Người đã sai Lời Người xuống cõi trần ai, và Lời Người lanh
chai chạy rảo. – Đáp.
3) Người đã loan truyền Lời Người cho Giacóp, những thánh chỉ và huấn lệnh
Người cho Israel. Người đã không làm cho dân tộc nào như thế; Người đã không
công bố cho họ các huấn lệnh của Người. – Đáp.
ALLELUIA: 1 Tm 3,36
Alleluia, alleluia.
– Lạy Chúa Kitô, Đấng được rao giảng cho lương dân, vinh danh Chúa! Lạy Chúa
Kitô, Đấng được tin kính ở thế gian, vinh danh Chúa! – Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 5, 12-16
“Lập tức người ấy khỏi phong hủi”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Luca.
Xảy ra khi Chúa Giêsu đang ở trong một thành kia, thì có một người mình đầy
phong hủi, thấy Chúa Giêsu, liền sấp mặt xuống đất, van xin Ngài rằng: “Lạy Thầy,
nếu Thầy muốn, Thầy có thể cho tôi được sạch”. Người giơ tay chạm đến người ấy
và nói: “Ta muốn, hãy nên trơn sạch”. Lập tức, người ấy khỏi phong hủi. Người
ra lệnh cho người ấy không được nói với ai, nhưng: “Hãy đi trình diện với tư tế,
và hãy dâng lễ vật như luật Môsê đã dạy, để làm chứng cho người ta biết ngươi
được sạch”. Nhưng tiếng đồn về Người cứ lan rộng, và dân chúng đông đảo kéo
nhau đến để nghe Người và được chữa lành bệnh tật. Còn Người, thì lánh vào nơi
hoang vắng và cầu nguyện. Đó là lời Chúa.
Suy Niệm : Chữa một người
phung hủi
Bài Tin mừng hôm nay cho thấy cử chỉ ưu ái mà Chúa Giêsu dành cho những
người cùng khổ, những kẻ bị xã hội ruồng rẫy.
Với sự nhạy cảm của một lương y, thánh sử Luca ghi lại một chi tiết đáng
chú ý, đó là sự kiện Chúa Giêsu giơ tay chạm đến người phung hủi, biểu lộ một
tình yêu xoá bỏ mọi ngăn cách, một tình yêu đi đến và dừng lại nơi những đau khổ
của con người. Đối với Chúa Giêsu, con người cùi hủi ấy không còn là một phế
nhân, môt kẻ bị loại bỏ, mà là một con người đáng cảm thông và thương yêu. Người
phung hủi được chữa lành, nhưng nhất là được phục hồi nhân phẩm, được sống như
một con người giữa mọi người.
Chung quanh chúng ta có biết bao người bị đẩy ra bên lề xã hội. Họ đang
chờ đợi một cánh tay nâng đỡ, một lời an ủi, một nụ cười cảm thông. Bao nhiêu
nghĩa cử là bấy nhiêu phép lạ.
Ước gì chúng ta biết sống thế nào để Chúa Giêsu có thể thực hiện phép lạ
tình yêu của Ngài đối với tất cả mọi người.
Ngày 10 tháng 1 GS
Bài đọc: 1 Jn 5:5-13; Lk 5:12-16.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Niềm tin vào
Đức Kitô giải thoát con người khỏi mọi tội và cho con người được sống muôn đời.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
Binh pháp Tôn Tử dạy “Tri kỷ tri bỉ bách chiến bách thắng”, có nghĩa, “Biết
ta biết người trăm trận trăm thắng.” Trong trận chiến thiêng liêng cũng vậy,
chúng ta cần biết mình là con người yếu đuối, giới hạn và không biết hết sự thật;
trong khi Thiên Chúa là Đấng khôn ngoan và có quyền năng vô hạn. Ngài biết tất
cả sự thật và không có gì là không thể đối với Ngài.
Hai bài đọc hôm
nay minh chứng chân lý này. Trong Bài đọc I, tác giả Thư thứ nhất Gioan xác nhận
cả hai sự sống: thể lý và đời đời không phải do chúng ta có được; nhưng do bởi
Thiên Chúa. Ngài dựng nên chúng ta và cho chúng ta chung hưởng cuộc sống đời đời
nếu chúng ta đặt trọn vẹn tin tưởng vào Ngài. Để hiểu biết những chân lý này,
chúng ta cần học hỏi để biết Thiên Chúa và Đức Kitô là ai. Trong Phúc Âm, một
anh phong hủi biết mình không thể tự mình chữa lành; nhưng biết Chúa Giêsu là
người có thể chữa anh khỏi bệnh nên anh đã đến xấp mình trước mặt Chúa Giêsu và
van xin Ngài: “Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.”
Chúa Giêsu đã chữa lành anh vì nhận ra sự khiêm nhường và lòng tin tưởng vững mạnh
của anh.
1/ Bài đọc I: Đức Kitô là sự sống và là sự sống
đời đời của chúng ta.
1.1/
Ai có Chúa Con thì có sự sống; ai không có Con Thiên Chúa thì không có sự sống.
(1) Phải tin vào Con Thiên Chúa để có sự sống: Niềm tin vào Đức Kitô là
điều kiện duy nhất được đòi hỏi để một người được sống theo Tin Mừng Gioan: “Đức
Giê-su đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ; nhưng những dấu lạ đó
không được ghi chép trong sách này. Còn những điều đã được chép ở đây là để anh
em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được
sự sống nhờ danh Người.” (Jn 20:30-31) và Thư thứ nhất Gioan: “Thiên Chúa đã
ban cho chúng ta sự sống đời đời, và sự sống ấy ở trong Con của Người. Ai có
Chúa Con thì có sự sống; ai không có Con Thiên Chúa thì không có sự sống.” (I
Jn 5:11b-12)
(2) Ai tin Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa sẽ nhận được sự sống đời đời:
Trong tiếng Hy-lạp, có nhiều danh từ dùng để chỉ sự sống như psyche (sự
sống thể lý) hay aionios (sự sống đời đời). Cả hai tác giả của
Tin mừng Gioan và Thư thứ nhất Gioan đều dùng danh từ aionios để
chỉ sự sống đời đời. Các tác giả không muốn nói sự sống thể lý của con người sẽ
kéo dài đến muôn đời; nhưng muốn nói tới sự sống đời đời mà chúng ta sẽ có ở
nơi Thiên Chúa, một sự sống hoàn hảo, bình an và hạnh phúc, không còn khổ đau,
ly tán hay bệnh tật.
1.2/
Có nhiều hơn hai nhân chứng đã làm chứng cho Đức Kitô là Thiên Chúa và là người
thật.
Luật chỉ đòi hai
nhân chứng để biết đó là chứng thật. Trong trường hợp của Chúa Giêsu, chúng ta
có nhiều hơn hai nhân chứng xác nhận Đức Kitô là Thiên Chúa thật để chúng ta có
thể tin vững vàng vào Ngài.
(1) Ba nhân chứng tác giả nêu ra hôm nay:
1.
Thần Khí hay Thánh Thần: Tại phép rửa của Đức Kitô làm bởi Gioan Tẩy Giả
bên giòng sông Jordan. Khi Chúa Giêsu lên khỏi nước, Thánh Thần xuất hiện dưới
dạng chim bồ câu và đậu lại trên Ngài (Mt 3:16, Lk 3:22, Mk1:10).
2.
Nước: Theo truyền thống, đây là phép rửa Gioan làm cho dân để tỏ lòng ăn
năn thống hối, chứ không có quyền năng để tha tội. Nhưng phép rửa làm bởi Chúa
Giêsu và Giáo Hội có sức để thanh tẩy hết mọi tội lỗi cho chúng ta.
3.
Máu: là biểu tượng lạ tác giả dùng ở đây để nhấn mạnh đến sự đau khổ và
cái chết của Chúa Giêsu. Như chúng ta đã nói từ đầu, những người theo chủ thuyết
Ngộ Đạo, họ dễ dàng tin vào hai biểu tượng Thánh Thần và nước; nhưng từ chối Đức
Kitô phải chịu đau khổ vì họ quan niệm Thiên Chúa chẳng dại gì để mang lấy một
thân xác xấu xa và chịu đau khổ. Hơn nữa, Cerinthus, một người đồng thời với
tác giả của Thư thứ nhất Gioan, đã đưa ra những cắt nghĩa kỳ quặc để từ chối những
đau khổ mà Con Thiên Chúa phải chịu. Chẳng hạn: tại phép rửa tại sông Jordan,
Chúa Giêsu có thần tính của Đức Kitô nhập vào; nhưng sau đó thần tính lìa bỏ
Chúa Giêsu về trời để chỉ còn lại người tên Jesus phải chịu thương khó và chịu
chết. Giáo Hội dạy chúng ta hoàn toàn ngược lại: chính vì những đau khổ và máu
Con Thiên Chúa đổ ra mà tất cả tội nhân loại được tha thứ và mang ơn cứu độ cho
mọi người.
(2) Thiên Chúa đã làm chứng hai lần cho con của Ngài: Lần thứ nhất tại biến
cố chịu phép rửa của Chúa Giêsu khi dân chúng nghe tiếng Chúa Cha từ trời phán
xuống: “Này là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng” (Mt 3:17; Mk 1:11). Lần thứ
hai tại biến cố biến hình của Chúa Giêsu trước mặt ba môn đệ, tiếng Chúa Cha
làm chứng: “Đây là Con Ta, Người Ta tuyển chọn, hãy nghe lời Người” (Lk 9:30,
Mk 9:7, Mt 17:5). Lời chứng của Chúa Cha là lời chứng có thế giá và mạnh mẽ hơn
cả.
(3) Ngoài ra, chúng ta còn có lời chứng của John Baptist, khi ông thấy
Chúa Giêsu đi ngang qua, ông chỉ vào Ngài và giới thiệu cho các môn đệ của
mình: “Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá tội trần gian” (Jn 1:29, 36). Hơn nữa,
chính tác giả của Thư thứ nhất Gioan cũng làm chứng về Chúa Giêsu ngay trong
câu mở đầu như sau: “Điều vẫn có ngay từ lúc khởi đầu, điều chúng tôi đã nghe,
điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng
tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống. Quả vậy, sự sống đã được tỏ bày, chúng tôi
đã thấy và làm chứng, chúng tôi loan báo cho anh em sự sống đời đời: sự sống ấy
vẫn hướng về Chúa Cha và nay đã được tỏ bày cho chúng tôi.”
2/ Phúc Âm: “Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài
có thể làm cho tôi được sạch.”
2.1/
Niềm tin của người phong hủi:
(1) Anh tin Đức
Kitô có quyền năng chữa anh khỏi bệnh phong hủi: Thông thường, trước khi làm
phép lạ, Chúa Giêsu thường hỏi bệnh nhân: “Anh có tin là Ta có thể làm điều ấy
cho anh không?” Trong trình thuật hôm nay, chúng ta không thấy câu hỏi của Chúa
Giêsu, nhưng trong câu xin của anh phong hủi đã bày tỏ mạnh mẽ niềm tin của anh
vào Chúa Giêsu: “Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.”
(2) Việc anh phong
hủi khiêm nhường biểu tỏ niềm tin bằng việc sấp mình trước mặt Chúa Giêsu chứng
tỏ anh biết Chúa Giêsu là ai và anh là ai. Việc biết mình và biết người rất
quan trọng để anh có thái độ cung kính trước Chúa Giêsu và để nhận lãnh việc chữa
lành.
2.2/
Phản ứng của Chúa Giêsu:
Thời xưa, con người coi bệnh cùi là bệnh truyền nhiễm; vì thế bệnh nhân
phải sống một nơi cô lập, xa hẳn những người lành mạnh; và không có thứ thuốc
nào có thể chữa cho lành mạnh.
(1) Người giơ tay đụng
vào anh ta và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi.” Lập tức, chứng phong hủi biến khỏi
anh. Việc Chúa Giêsu giơ tay đụng đến anh chứng tỏ Chúa Giêsu không quan tâm đến
việc lây bệnh; nhưng chỉ quan tâm đến sức khoẻ và cuộc sống của anh. Ngài sẵn
sàng giơ tay đụng đến anh để anh được chữa lành.
(2) Sau đó, Người truyền cho anh làm 3 việc:
– Thứ nhất, Ngài truyền cho anh không được nói với ai. Điều này thường xảy
ra trong Tin Mừng Marcô nhiều hơn trong Lucas, vì Marcô cố ý dùng cách này, “bí
mật Đấng Thiên Sai” để muốn nhấn mạnh rằng không ai nhận ra Đấng Thiên Sai chịu
đau khổ, chỉ có một người duy nhất tuyên xưng là viên quan đại đội trưởng khi
chứng kiến Chúa Giêsu hấp hối trên Thập Giá: “Quả thật! Người này là Con Thiên
Chúa” (Mk 15:39b).
– Thứ hai, Chúa Giêsu truyền cho anh: Hãy đi trình diện với các tư tế.
Ngày xưa dân chúng không có các y sĩ như chúng ta có hiện giờ. Các tư tế là những
người có bổn phận khám xét và kiểm chứng. Nếu bệnh nhân thực sự được lành sạch
hẳn, họ sẽ viết một chứng thư cho anh tuyên bố anh đã được sạch.
– Hãy dâng lễ vật đền tội như Luật truyền để làm chứng cho người khác biết:
Dâng lễ vật sau khi đã được thanh sạch khỏi bệnh hủi được mô tả cách rất chi tiết
trong Sách Levi (x/c 14:1-32).
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Biết mình và biết người rất cần thiết trong việc cư xử với nhau.
– Chúng ta cần học biết về Thiên Chúa qua Kinh Thánh để biết cách cư xử với
Ngài khi cầu nguyện và xin ơn.
– Chúng ta cần đặt trọn vẹn tin tưởng nơi Đức Kitô cho đến hơi thở cuối
cùng để được hưởng cuộc sống đời đời.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
10/01/2020 – THỨ SÁU SAU LỄ HIỂN LINH
Lc 5,12-16
KHI ĐỨC KI-TÔ MUỐN
Có một người đầy
phong hủi vừa thấy Người, liền sấp mặt xuống, xin Người rằng: “Thưa Ngài, nếu
Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” Người giơ tay đụng vào anh ta và
bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi.” Lập tức chứng phong hủi biến khỏi anh. (Lc 5,12-13)
Suy niệm: Một bàn tay giơ lên và một
lời nói được thốt ra: “Tôi muốn, anh hãy sạch đi”, ngay lập tức hiệu quả được
thực hiện. Không phải là bàn tay và lời nói của bất cứ ai mà phải là của Đức
Ki-tô. Chúa Giê-su đã lập các bí tích như thế đó. Nơi các Bí Tích, ý muốn cứu độ
của Đức Ki-tô được thành sự thông qua việc thực hiện những lời nói và những cử
chỉ, không phải là của bất cứ ai, mà là của những người đã được Đức Ki-tô uỷ
thác, đó là các tông đồ, và nối tiếp, là những người được các tông đồ uỷ thác.
Truyền thống tông đồ ấy vẫn tiếp nối trong Giáo Hội cho đến ngày hôm nay, nơi
các giám mục và linh mục. Thế nhưng vẫn còn một điều không thể thiếu, đó là đức
tin nơi người lãnh nhận mà đại diện là niềm tin nơi người phong hủi: “Thưa
Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.”
Mời Bạn: Sở dĩ người ta coi các bí
tích như những thứ bùa chú, hoặc như một việc làm theo hình thức, là bởi vì họ
đã không nhận ra được sự hiện diện thiêng liêng của Đức Ki-tô nơi đó. Điều đáng
ngạc nhiên và đáng buồn là chính chúng ta, những người ki-tô hữu, cử hành các
bí tích lắm khi cũng đã hồ nghi hoặc lãnh đạm như vậy.
Chia sẻ: Làm thế nào để việc học hỏi
giáo lý về các bí tích được hữu hiệu hơn?
Sống Lời Chúa: Thành khẩn xin Chúa ban
thêm đức tin mỗi khi lãnh nhận bí tích.
Cầu nguyện: Đọc kinh Tin (Lạy Chúa,
con tin thật…)
(5 Phút Lời Chúa)
Suy Niệm : Hãy đi
trình diện tư tế
Suy niệm:
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu vừa tỏ mình, vừa giấu mình.
Ngài giấu mình khi Ngài ra lệnh cho người phong không được nói với ai.
Nhưng hẳn anh ấy cũng khó giữ kín chuyện này, khi anh đi gặp các tư tế.
Thế nên cuối cùng tiếng đồn về Ngài đã lan ra,
khiến người ta nô nức, lũ lượt kéo đến với Ngài (c. 15).
Đức Giêsu đã không thể giấu mình trước đám đông dân chúng.
Ngài lôi cuốn họ như một vị giảng thuyết và như một người chữa lành.
Con người mãi mãi cần sức mạnh tinh thần và sức khỏe thân xác.
Đức Giêsu đem đến cả hai điều ấy cho hạnh phúc con người.
Hãy nhìn người phong, mình anh đầy những vết lở loét.
Anh đến với Đức Giêsu, sấp mặt xuống nài xin.
“Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch” (c.12).
Lời nguyện của người phong là lời cầu xin mẫu mực cho ta.
Dĩ nhiên là anh ấy rất muốn được khỏi căn bệnh nan y này,
căn bệnh đã làm tan nát thân xác anh và cả cuộc đời anh,
Hơn nữa, nó còn bắt anh trở nên kẻ sống ngoài lề xã hội và tôn giáo.
Nhưng anh vẫn không để ước muốn quá đỗi bình thường của mình lấn lướt.
Anh đặt ước muốn ấy dưới ước muốn của Đức Giêsu.
“Nếu Ngài muốn !” nghĩa là Ngài có thể và có quyền không muốn.
Anh để cho Đức Giêsu được tự do muốn điều Ngài muốn.
“Ngài có thể làm tôi được sạch: anh tin vào khả năng của Ngài,
khả năng làm cho những vết lở loét kia biến mất.
Chính khi Đức Giêsu được tự do, được tin cậy và phó thác,
thì dường như Ngài không thể từ chối được nữa.
“Tôi muốn, anh hãy được sạch.”
Đức Giêsu tẩy sạch anh bằng một ước muốn được nói ra lời,
kết hợp với một cử chỉ đầy yêu thương là đưa bàn tay ra đụng vào anh.
Khi cầu xin, bạn hãy để cho Chúa được tự do giúp bạn,
theo ý muốn của Chúa, theo cách của Chúa, vào lúc của Chúa.
Đừng dạy Chúa phải làm gì, vì Chúa biết điều tốt nhất cho bạn.
Cầu nguyện :
Chỉ mong tôi chẳng còn gì,
nhờ thế Người là tất cả của tôi.
Chỉ mong ý muốn trong tôi chẳng còn gì,
nhờ thế tôi cảm thấy Người ở mọi nơi,
đến với Người trong mọi sự,
và dâng Người tình yêu trong mọi lúc.
Chỉ mong tôi chẳng còn gì,
nhờ thế tôi không bao giờ muốn tránh gặp Người.
Chỉ mong mọi ràng buộc trong tôi chẳng còn gì,
nhờ đó tôi gắn bó với ý muốn của Người
và thực hiện ý Người trong suốt đời tôi. (R. Tagore)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
10 THÁNG GIÊNG
Aùnh Sáng Cho Các
Dân Tộc
Lời Chúa giới thiệu cho chúng ta hình ảnh Đức Giê-su Na-da-rét như là
“người tôi tớ của Thiên Chúa” đã được báo trước trong Sách Ngôn sứ Isaia, như
là người được Thiên Chúa tuyển chọn và hài lòng. Trong tư cách là người tôi tớ
của Thiên Chúa, Đức Giêsu đã chu toàn sứ mạng của Người với sự dấn thân trọn vẹn
cho Thánh Ý Thiên Chúa; và Người nêu mẫu gương khiêm nhường trong quan hệ với mọi
người. Như vậy, Thiên Chúa đã đặt Người “như một giao ước với con người”, “như
một ánh sáng cho các dân tộc”, để đem lại ánh sáng cho người mù và trả lại tự
do cho các tù nhân.
Người tôi tớ kỳ diệu ấy của Thiên Chúa là Đức Kitô, Đấng đã đến để đem ơn
cứu độ cho nhân loại – như được mạc khải trong nước của phép Rửa. Trong Tin Mừng
của Luca, Đức Giêsu được Gio-an làm phép Rửa. Bấy giờ trời mở ra, và Chúa Thánh
Thần hiện xuống trên Đức Kitô trong hình một chim bồ câu. Rồi tiếng Chúa Cha
phán: “Đây là Con Yêu Dấu của Ta; Ta hài lòng về Người.” (Mt 3, 17).
Giờ đây sấm ngôn xưa đã được ứng nghiệm. Thiên Chúa vui thỏa đối với tôi
tớ của Ngài; Cha hài lòng về Con đời đời của mình. Bởi người Con ấy đã đảm nhận
bản tính nhân loại. Với lòng khiêm nhường sâu thẳm, Người đã xin Gio-an làm
phép rửa cho Người trong nước. Tuy nhiên, Gio-an Tẩy Giả chỉ là một vị tiền hô
của Đức Kitô, và phép rửa của Gio-an trong nước chỉ là một chuẩn bị cho cuộc xuất
hiện của Đấng Mêsia – một chuẩn bị để đón nhận ân sủng. Đức Giêsu, người tôi tớ
khiêm nhường của Thiên Chúa, mới là người mang ân sủng đến và làm phép Rửa bằng
Thánh Thần và bằng lửa.
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 10/1
1Ga 5,5-13; Lc 5,
12-16.
Lời Suy Niệm: “Thưa Ngài, nếu Ngài muốn; Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” Người giơ
tay đụng vào anh ta và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi.”
Đối với Chúa
Giêsu, Người có quyền năng, Người giàu lòng thương xót và Người luôn sẵn lòng
ban phát mọi ơn lành để cứu vớt, chữa lành cho cả phần hồn lẫn phần xác của con
người.
Lạy Chúa Giêsu.
Trong đời sống của chúng con, luôn có những dấu của chứng bệnh phung hủi trong
tâm hồn cũng như trên thân xác. Xin cho chúng con có được đức tin, tin vào
“Lòng Chúa thương xót” và quyền năng chữa lành cứu vớt của Chúa, để chúng con
luôn chạy đến với lời cầu xin: “Xin Chúa cứu chữa con,”
Mạnh Phương
10 Tháng Giêng
Hạt Giống Của Hy Vọng
Văn hào Shakespeare của nước Anh đã nói rằng: liều thuốc duy nhất còn lại
cho những người khốn khổ chính là niềm Hy Vọng. Bao lâu còn hy vọng, bấy lâu
con người muốn tiếp tục sống.
Những người Mỹ tại một thành phố nọ thường truyền tụng cho nhau
nghe câu chuyện nuôi niềm hy vọng của một gia đình nọ như sau: Có một đôi vợ chồng
nọ vừa yêu người cũng lại vừa yêu thiên nhiên. Ngoài năm đứa con ruột thịt ra,
họ còn nhận thêm năm đứa con nuôi. Niềm vui chung của mọi người trong nhà là được
săn sóc vườn hoa và những thứ cây cảnh trong nhà. Người vợ tưởng chừng như
không biết thế nào là đau khổ. Nhưng cả bầu trời như sụp xuống, vườn hoa trở
thành hoang tàn, khi người chồng ngộ nạn, qua đời. Kể từ đó, người đàn bà không
còn muốn ra khỏi nhà nữa. Thiếu bàn tay săn sóc của bà, ngôi vườn cũng mỗi lúc
một tàn lụi.
Mùa đông đến càng làm cho ngày tháng càng thêm ảm đạm hơn. Thế
nhưng, một bữa sáng nọ, người đàn bà bỗng nghe tiếng cười nói và cào xới trong
ngôi vườn. Kéo tấm màn cửa sổ phòng ngủ lên, bà thấy các con của bà đang hì hục
xới đất. Trước sự ngạc nhiên của bà, người con cả trong gia đình chỉ mỉm cười
đáp: “Má sẽ biết khi mùa xuân đến”. Và nguyên một mùa đông, ngày nào các con của
bà cũng ra vườn để xới đất.
Thế rồi khi mùa xuân đến, bao nhiêu hoa đẹp đều nở rộ trong vườn.
Những hạt giống mà những người con đã âm thầm gieo vãi trong mùa đông nay thức
giấc bừng dậy làm cho ngôi vườn trở thành tươi mát, sặc sỡ.
Cùng với hạt giống của các thứ hoa, những người con đã gieo vào
lòng người mẹ một thứ hạt giống khác: đó là hạt giống của Hy Vọng. Chính niềm
hy vọng đó đã đem người đàn bà trở lại cuộc sống và đánh tan mọi buồn phiền
trong tâm hồn bà.
Câu
chuyện trên đây có lẽ cũng chính là bức tranh của không biết bao nhiêu thăng trầm
trong cuộc sống hiện tại của chúng ta. Có những ngày tháng, mọi sự xem chừng
như vô vọng. Có những lúc mây mù của khổ đau bao phủ kín khiến chúng ta không
còn thấy đâu là lối thoát. Chính trong những lúc đó, chúng ta hãy nhớ đến hạt
giống của niềm Hy Vọng. Thánh Phaolô đã viết trong thư gửi cho các tín hữu Rôma
như sau: “Chính trong niềm Hy Vọng mà chúng ta được cứu thoát. Chính trong niềm
Hy Vọng đó, chúng hãy nhìn thấy Sức Sống đang chờ đợi chúng ta. Chính trong niềm
Hy Vọng đó, chúng ta hãy nhìn thấy những hoa trái của những hạt giống mà chúng
ta đã vất vả gieo vãi.
Một người Hòa Lan và một người Mỹ bàn về ý nghĩa của hai lá cờ quốc
gia. Người hòa Lan phát biểu một cách mỉa mai như sau: lá cờ của chúng tôi có
ba màu: đỏ, trắng, xanh. Chúng tôi tức giận đỏ cả người lên, mỗi khi chúng tôi
bàn đến thuế má. Chúng tôi run sợ đến trắng bệch cả người mỗi khi chúng tôi nhận
được giấy thuế má. Và chúng tôi xanh như tàu lá sau khi đã trả hết các thứ thuế.
Người Mỹ cũng nói lên một cảm tưởng tương tự mỗi khi nhận được các thứ giấy đòi
nợ, nhưng lại bảo rằng: bù lại, chúng tôi chỉ thấy toàn các thứ sao.
Sao trên bầu trời là biểu hiện của chính niềm Hy Vọng. Bên kia những
vất vả thử thách, bên kia những mất mát, bên kia những thất bại khổ đau, phải
chăng người Kitô chúng ta không được mời gọi để thấy được các ngôi sao của niềm
Hy Vọng.
(Lẽ Sống)
Lectio Divina: Luca 5:12-16
Friday 10 January,
2020
Lectio Divina
Mùa Giáng Sinh
1. Lời nguyện
mở đầu
Lạy Chúa Cha toàn
năng,
Cha đã làm cho việc Đấng
Cứu Thế ra đời được biết đến,
Bằng ánh sáng của một
ngôi sao.
Nguyện xin cho Người
tiếp tục hướng dẫn chúng con trong ánh sáng,
Vì Người là Đấng hằng
sống và hằng trị cùng với Cha và Chúa Thánh Thần,
trong sự hiệp nhất, đến
muôn thuở muôn đời. Amen.
2. Bài Đọc
Tin Mừng – Luca 5:12-16
Xảy ra khi Chúa Giêsu
đang ở trong một thành kia, thì có một người mình đầy phong hủi, thấy Chúa
Giêsu, liền sấp mặt xuống đất, van xin Ngài rằng: “Lạy Thầy, nếu Thầy muốn,
Thầy có thể cho tôi được sạch.” Người giơ tay chạm đến người ấy và
nói: “Ta muốn, hãy nên trơn sạch.” Lập tức, người ấy khỏi phong hủi.
Người ra lệnh cho người ấy không được nói với ai, nhưng: “hãy đi trình diện
với tư tế, và hãy dâng lễ vật như luật Môisen đã dạy, để làm chứng cho người ta
biết ngươi được sạch.” Nhưng tiếng đồn về Người cứ lan rộng, và dân chúng
đông đảo kéo đến để nghe Người và được chữa lành bệnh tật. Còn Người, thì
lánh vào nơi hoang vắng và cầu nguyện.
3. Suy Niệm
– Một người bị phong cùi đến gần Chúa
Giêsu. Anh ta phải sống xa lánh người khác, bởi vì bất cứ ai đụng chạm
vào anh ta thì trở nên ô uế! Nhưng người phong cùi đó đã có lòng can đảm
mãnh liệt. Anh ta đã vượt qua các luật lệ của tôn giáo để có thể đến gần
với Chúa Giêsu. Anh ta thưa rằng: “Lạy Thầy, nếu Thầy muốn,
Thầy có thể cho tôi được sạch!” Người đó có ý muốn nói rằng: “Lạy
Thầy, Thầy không cần phải đụng chạm đến tôi.” Chỉ cần Chúa muốn, và Người
đã chữa lành anh ta! Câu nói cho thấy hai điều tệ hại: a) điều tệ
hại của bệnh phong cùi khiến cho anh ta trở nên ô uế; b) điều tệ
hại của việc bị cô lập, vì anh ta đã bị xã hội và tôn giáo lên án. Điều
này cũng cho thấy niềm tin tuyệt vời của người đàn ông vào quyền năng của Chúa
Giêsu. Chúa Giêsu, vô cùng xúc động, chữa lành anh ta khỏi cả hai điều tệ
hại! Trước tiên, để chữa lành việc bị cô lập, Chúa giơ tay chạm đến người
bị phong cùi. Như thể Chúa nói rằng: “Đối với Ta, anh không bị loại
trừ. Ta chấp nhận anh như một người anh em!” Và rồi Người chữa lành
cho người phong cùi bằng cách nói rằng: “Ta muốn, hãy nên trơn sạch.”
– Người bị phong cùi, để có thể tiếp xúc được với
Chúa Giêsu, đã vi phạm những quy tắc của lề luật. Chúa Giêsu cũng vậy, để
có thể giúp đỡ kẻ bị loại trừ đó và mặc khải cho anh ta khuôn mặt mới của Thiên
Chúa, đã vượt qua các quy tắc của tôn giáo và Chúa chạm vào người phong
cùi. Vào thời ấy, bất cứ ai chạm vào một người bị phong cùi đều trở nên ô
uế theo như lời của giới thẩm quyền tôn giáo và theo lề luật thời ấy.
– Chúa Giêsu, không chỉ chữa lành, mà còn muốn người
được chữa lành có thể sống chung với những người khác. Một lần nữa, anh
ta hội nhập lại vào xã hội để anh ta có thể sống chung với người khác.
Vào thời đó, để cho một người bị phong cùi được chấp nhận trở lại sống trong cộng
đoàn, người ấy cần phải có một giấy chứng nhận của một tư tế, rằng anh ta đã được
khỏi bệnh. Ngày nay cũng vậy. Một bệnh nhân rời bệnh viện phải có
giấy xuất viện với chữ ký của bác sĩ. Chúa Giêsu buộc anh ta phải ra đi
và tìm giấy chứng nhận, để anh có thể sống bình thường với những người
khác. Người buộc các người có thẩm quyền phải công nhận rằng người đàn
ông này đã được lành bệnh.
– Chúa Giêsu cấm
người phong cùi không được nói với ai về việc chữa lành. Tin Mừng theo
thánh Máccô cho chúng ta biết rằng sự cấm đoán này không hiệu nghiệm và không
có tác dụng. Người phong cùi đã ra đi, nhưng sau đó đã bắt đầu tự do công
bố và kể lại câu chuyện khắp mọi nơi, vì thế Chúa Giêsu không còn có thể đi lại
công khai vào bất kỳ một thị trấn nào, mà phải lánh vào nơi hoang vắng (Mc
1:45). Tại sao vậy? Chúa Giêsu đã động chạm đến một người
cùi. Vì lý do này, theo ý kiến của tôn giáo thời đó, giờ đây chính Chúa
đã trở thành ô uế và phải lánh xa mọi người. Người không còn có thể đi
vào các làng mạc. Thánh Máccô nói rằng người dân đã hoàn toàn không màng
đến các luật lệ chính thức này, trên thực tế, dân chúng từ khắp nơi kéo
đến với Người (Mc 1:45).
– Sứ điệp đôi mà
các thánh Luca và Máccô đưa ra cho cộng đoàn của thời ấy và cho tất cả chúng ta
là: a) Đi loan báo Tin Mừng có nghĩa là đi làm chứng cho kinh nghiệm cụ thể mà
người ta có về Chúa Giêsu. Người phong cùi đi loan báo điều gì? Anh
ta nói với người khác về điều tốt đẹp mà Chúa Giêsu đã làm cho anh ta. Chỉ
thế thôi! Tất cả chỉ thế! Đây là nhân chứng thúc đẩy người khác phải
chấp nhận Tin Mừng Nước Trời, do Chúa Giêsu đem đến; b) Để đưa Tin Mừng đến với
mọi người, không cần phải sợ vi phạm các quy tắc tôn giáo trái với chương trình
của Thiên Chúa và khiến cho việc giao tiếp, đối thoại và kinh nghiệm sống về
tình yêu thương trở nên khó khăn, ngay cả khi điều này bao hàm sự khó khăn cho
người dân, như đã xảy ra với Chúa Giêsu.
4. Một vài
câu hỏi cá nhân
– Để giúp đỡ người chung quanh, Chúa Giêsu đã vi phạm
lề luật về thuần khiết. Trong Giáo Hội ngày nay, có luật lệ nào gây khó
khăn hay ngăn cản việc thực hành tình yêu thương đối với người chung quanh
không?
– Để được chữa lành, người bị phong cùi đã can đảm
thách thức dư luận thời đó. Tôi có lòng can đảm như thế không?
– Tôi có đối xử
với người vô gia cư trên đường phố như người cùi hủi không? Hãy nghĩ
xem. Tôi đã có đưa tay ra và nắm lấy bàn tay hoặc một cái ôm vai, hay là
tôi lại đi băng ngang đường hoặc giả vờ như họ không ở đó không?
– Chúa Giêsu đã
cho đi những gì người phong cùi cần, không phải là một bố thí hay một số tiền.
Khi tôi được yêu cầu giúp đỡ, tôi có dành thời giờ để đưa ra sự giúp đỡ cần thiết
để “chữa lành” vấn đề không, hay là tôi chỉ đóng góp một ít tượng trưng (nếu
có) và tiếp tục bước tới không ?
5. Lời nguyện
kết
Giêrusalem hỡi, nào
tôn vinh CHÚA!!
Này Sion, hãy ca ngợi
Thiên Chúa của ngươi!
Then cửa nhà ngươi,
Chúa làm cho thêm chắc,
con cái trong thành,
Người giáng phúc thi ân.
(Tv 147:12-13)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét