Trang

Thứ Bảy, 28 tháng 3, 2015

29-03-2015 : (phần I) CHÚA NHẬT LỄ LÁ năm B

29/03/2015
Chúa Nhật Lễ Lá Năm B
(phần I)


Kiệu Lá:
Bài Phúc Âm: Mt 11, 1-10
"Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi các ngài đến gần Giêrusalem ngang qua Bêtania, gần núi Cây Dầu, thì Chúa Giêsu sai hai môn đệ đi và bảo rằng: "Các con hãy đến làng trước mặt kia, vừa vào làng, các con sẽ gặp ngay cột sẵn đó một lừa con chưa ai cỡi, các con hãy mở dây mà dẫn về. Và nếu có ai hỏi các con 'Sao các ông làm thế?', thì hãy nói rằng: 'Chúa cần dùng, xong việc Ngài sẽ trả lại đây'". Hai môn đệ ra đi và gặp lừa con cột trước cửa ngõ, nơi ngã tư đàng, hai ông liền mở dây. Vài người trong những kẻ đứng đó hỏi hai môn đệ rằng: "Các ông làm gì mà mở dây lừa con vậy?" Hai môn đệ đáp lại như lời Chúa Giêsu dạy bảo, và người ta để cho đem đi. Hai ông dắt lừa con về cho Chúa Giêsu, và trải áo lên mình lừa và Ngài lên cỡi. Nhiều người trải áo xuống đường, kẻ khác chặt nhành cây trải lối đi: Kẻ thì đi trước, người theo sau tung hô rằng: "Hoan hô! Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến. Chúc tụng nước Ðavit tổ phụ chúng ta đã đến. Hoan hô trên các tầng trời!"
Ðó là lời Chúa.

Hoặc đọc bài này: Ga 12, 12-16
Hoan hô, chúc tụng vua Israel, Ðấng nhân danh Chúa mà đến!
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, có đám đông dân chúng đến dự lễ, vừa nghe biết Chúa Giêsu đến Giêrusalem, họ liền cầm cành lá đi đón Người và tung hô rằng: "Hoan hô, chúc tụng vua Israel, Ðấng nhân danh Chúa mà đến!" Chúa Giêsu gặp một lừa con, liền cỡi lên, như có lời chép rằng: "Hỡi con gái Sion, đừng sợ chi, này vua ngươi cỡi lừa con đến". Thoạt đầu, các môn đệ Người không hiểu các lời này, nhưng khi Chúa Giêsu được tôn vinh, các ông mới nhớ lại những lời đó đã chép về Người và người ta đã làm những điều ấy cho Người.
Ðó là lời Chúa.


Thánh Lễ:
Bài Ðọc I: Is 50, 4-7
"Tôi đã không giấu mặt mũi tránh những lời nhạo cười, nhưng tôi biết tôi sẽ không phải hổ thẹn".
(Bài ca thứ ba về Người Tôi Tớ Chúa)
Trích sách Tiên tri Isaia.
Chúa đã ban cho tôi miệng lưỡi đã được huấn luyện, để tôi biết dùng lời nói nâng đỡ kẻ nhọc nhằn. Mỗi sáng Người đánh thức tôi, Người thức tỉnh tai tôi, để nghe lời Người giáo huấn. Thiên Chúa đã mở tai tôi, mà tôi không cưỡng lại và cũng chẳng thối lui. Tôi đã đưa lưng cho kẻ đánh tôi, đã đưa má cho kẻ giật râu; tôi đã không che giấu mặt mũi, tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ tôi. Vì Chúa nâng đỡ tôi, nên tôi không phải hổ thẹn; nên tôi trơ mặt chai như đá, tôi biết tôi sẽ không phải hổ thẹn.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 21, 8-9. 17-18a. 19-20. 23-24
Ðáp: Ôi Thiên Chúa! Ôi Thiên Chúa! sao Chúa đã bỏ con? (c. 2a)
Xướng: 1) Bao người thấy con đều mỉa mai con, họ bĩu môi, họ lắc đầu: "Hắn tin cậy Chúa, xin Ngài cứu hắn, xin Ngài giải gỡ hắn, nếu Ngài yêu thương". - Ðáp.
2) Ðứng quanh con là đàn ưng khuyển, một lũ côn đồ bao bọc lấy con. Chân tay con chúng đều chọc thủng, con có thể đếm được mọi đốt xương con. - Ðáp.
3) Phần chúng thì nhìn xem con và vui vẻ, đem y phục của con chia sẻ với nhau, còn tấm áo dài, thì chúng rút thăm... Phần Ngài, lạy Chúa, xin chớ đứng xa con, ôi Ðấng phù trợ con, xin kíp ra tay nâng đỡ. - Ðáp.
4) Con sẽ tường thuật danh Chúa cho các anh em, giữa nơi công hội, con sẽ ngợi khen Người. "Chư quân là người tôn sợ Chúa, xin hãy ca khen Chúa, toàn thể miêu duệ nhà Giacóp, hãy chúc tụng Người, hãy tôn sợ Người, hết thảy dòng giống Israel!" - Ðáp.

Bài Ðọc II: Pl 2, 6-11
"Người đã tự hạ mình; vì thế Thiên Chúa đã tôn vinh Người".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philipphê.
Chúa Giêsu Kitô, tuy là {thân phận} Thiên Chúa, đã không nghĩ phải giành cho được ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Người huỷ bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người, với cách thức bề ngoài như một người phàm. Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu, để khi nghe tên Giêsu, mọi loài trên trời dưới đất và trong địa ngục phải quỳ gối xuống, và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng Ðức Giêsu Kitô là Chúa để Thiên Chúa Cha được vinh quang.
Ðó là lời Chúa.

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Pl 2, 8-9
Chúa Kitô vì chúng ta, đã vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu.

Bài Thương Khó: Mc 14, 1 - 15. 47 (bài dài)
"Sự Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta".
C: Người đọc Chung, Thánh Sử; S: Người đối thoại khác, hoặc Cộng đoàn. J: Chúa Giêsu

C. Bài Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Marcô.
Hai ngày trước Lễ Vượt Qua và Tuần Lễ ăn bánh không men, các thượng tế và luật sĩ tìm mưu bắt giết Chúa Giêsu. Họ bảo nhau rằng:
S. "Ðừng làm trong ngày lễ, kẻo sinh náo động trong dân".
C. Khi Chúa đang dùng cơm ở Bêtania trong nhà ông Simon tật phong, thì có một người phụ nữ mang đến một bình ngọc đựng dầu thơm rất quý giá. Ðập vỡ bình, bà đổ dầu thơm trên đầu Người. Có mấy người khó chịu nghĩ thầm rằng: Làm gì mà phí dầu thơm như vậy? Dầu này có thể bán được hơn ba trăm đồng bạc để bố thí cho kẻ nghèo khó. Và họ nặng lời với bà đó. Nhưng Chúa Giêsu bảo:
J. "Hãy để mặc bà, sao các ông lại làm cực lòng bà? Bà vừa làm cho Ta một việc rất tốt. Vì bao giờ các ông cũng có những kẻ nghèo ở bên mình, và các ông có thể làm phúc cho họ lúc nào tuỳ ý, nhưng Ta, các ông không có Ta ở luôn với đâu. Làm được gì thì bà đã làm, bà đã xức dầu thơm có ý tẩm liệm xác Ta trước. Ta bảo thật các ông: Trong khắp thế giới, Phúc âm này rao giảng đến đâu thì người ta cũng sẽ thuật lại việc bà mới làm để nhớ bà".
C. Khi ấy, Giuđa Iscariô, một trong nhóm Mười Hai, đến tìm các thượng tế để tình nguyện nộp Người cho họ. Nghe vậy, họ mừng rỡ và họ liền hứa cho nó tiền. Và nó tìm dịp tiện nộp Người.
Ngày thứ nhất trong tuần lễ ăn bánh không men là ngày giết chiên mừng Lễ Vượt Qua, các môn đệ thưa Người:
S. "Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn Lễ Vượt Qua tại đâu?"
C. Người liền sai hai môn đệ đi và dặn rằng:
J. "Các con hãy vào thành, và nếu gặp một người mang vò nước thì hãy đi theo người đó. Hễ người ấy vào nhà nào thì các con hãy nói với chủ nhà rằng: Thầy sai chúng tôi hỏi: Căn phòng Ta sẽ ăn Lễ Vượt Qua với các môn đệ ở đâu? Và chủ nhà sẽ chỉ cho các con một căn phòng rộng rãi dọn sẵn sàng và các con hãy sửa soạn cho chúng ta ở đó".
C. Hai môn đệ ra đi vào thành và thấy mọi sự như Người đã bảo, và hai ông dọn Lễ Vượt Qua.
Chiều đến, Người cùng Mười Hai môn đệ tới. Và khi mọi người đang ngồi ăn, thì Chúa Giêsu nói:
J. "Ta bảo thật các con, một trong các con đang ăn cùng Ta, sẽ nộp Ta".
C. Các ông đều buồn rầu và lần lượt từng người thưa Ngài:
S. "Thưa Thầy, có phải con không?"
C. Người đáp:
J. "Là một trong mười hai, kẻ cùng chấm một đĩa với Thầy. Con Người phải ra đi như đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ nộp Con Người. Thà nó đừng sinh ra thì hơn".
C. Ðang khi họ ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các ông mà phán:
J. "Các con hãy cầm lấy, này là Mình Ta".
C. Rồi Người cầm lấy chén, tạ ơn, trao cho các ông và mọi người đều uống. Và Người bảo các ông:
J. "Này là Máu Ta, Máu tân ước sẽ đổ ra cho nhiều người. Ta bảo thật các con: Ta sẽ chẳng còn uống rượu nho này nữa cho đến ngày Ta sẽ uống rượu mới trong nước Thiên Chúa".
C. Sau khi hát Thánh Vịnh, Thầy trò đi lên núi Cây Dầu. Chúa Giêsu bảo các ông:
J. "Ðêm nay, tất cả các con sẽ vấp phạm vì Thầy, vì có lời chép rằng: ta sẽ đánh chủ chăn và đoàn chiên sẽ tan tác. Nhưng sau khi Thầy sống lại, Thầy sẽ đến xứ Galilêa trước các con".
C. Phêrô thưa Người:
S. "Dù tất cả vấp phạm vì Thầy, nhưng con thì không".
C. Chúa Giêsu bảo ông:
J. "Thầy bảo thật con: Hôm nay, nội đêm nay, trước khi gà gáy hai lần, con đã chối Thầy ba lần".
C. Nhưng Phêrô càng lên giọng cương quyết hơn mà rằng:
S. "Không, dầu phải chết với Thầy, con cũng sẽ không chối Thầy".
C. Và tất cả đều nói như vậy.
Ði đến một vườn kia tên là Ghếtsêmani, Người bảo các môn đệ:
J. "Các con hãy ngồi lại đây trong khi Thầy đi cầu nguyện".
C. Rồi Người đem Phêrô, Giacôbê và Gioan theo Người và Người bắt đầu kinh sợ và buồn sầu. Người liền bảo các ông:
J. "Linh hồn Thầy buồn đến chết được, các con hãy ở lại đây và tỉnh thức".
C. Tiến xa hơn một chút, Người phục xuống đất và cầu xin nếu có thể được thì xin cho qua khỏi giờ này. Và Người nguyện rằng:
J. "Abba, Lạy Cha, Cha có thể làm được mọi sự, xin cất chén này khỏi con! Nhưng không theo ý con muốn, một theo ý Cha".
C. Người trở lại và thấy các ông đang ngủ, nên nói với Phêrô:
J. "Simon, con ngủ ư? Con không có sức thức được một giờ sao? Hãy tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ, vì tinh thần thì lanh lẹ, còn xác thịt thì yếu đuối".
C. Rồi Người đi khỏi đó và cầu nguyện cùng lời như trước. Khi trở lại lần nữa và thấy các ông còn ngủ (vì mắt các ông nặng trĩu) và các ông không còn biết thưa Người làm sao. Lần thứ ba, Người trở lại và bảo:
J. "Bây giờ các con hãy ngủ và nghỉ ngơi đi. Thế là xong! Giờ đã đến: Này Con Người sắp bị nộp trong tay những kẻ tội lỗi. Thôi! hãy chỗi dậy, chúng ta đi, kẻ nộp Thầy đã tới nơi".
C. Người còn đang nói, thì Giuđa Iscariô, một trong nhóm Mười Hai đến, cùng đi với một toán đông mang gươm giáo và gậy gộc do các thượng tế, luật sĩ và kỳ lão sai đến. Trước đó, tên phản bội đã ra hiệu cho chúng rằng:
S. "Hễ tôi hôn mặt ai, thì đó chính là Ngài, các ông cứ bắt lấy và điệu đi cho cẩn thận".
C. Vừa đến, nó liền tới gần Người mà nói:
S. "Chào Thầy".
C. Và nó hôn Người. Và chúng tra tay bắt Người. Nhưng một người trong những kẻ đứng xung quanh rút gươm chém tên đầy tớ thầy thượng tế đứt một tai. Chúa Giêsu nói với chúng rằng:
J. "Các ngươi cầm gươm giáo gậy gộc đi bắt Ta như bắt tên cướp! Hằng ngày, Ta ở giữa các ngươi, giảng dạy trong đền thờ mà sao các ngươi không bắt Ta. Nhưng thế là để ứng nghiệm lời Kinh Thánh".
C. Bấy giờ môn đệ bỏ Người và trốn đi hết. Có một thanh niên theo Người, mình chỉ quấn một tấm khăn, họ túm lấy anh ta, nhưng anh ta bỏ tấm khăn lại và chạy trốn mình trần.
Chúng điệu Chúa Giêsu đến thầy thượng tế, các tư tế, luật sĩ và kỳ lão hội lại đông đủ. Còn Phêrô theo Người xa xa đến tận trong dinh thượng tế và ngồi sưởi lửa với đám đầy tớ. Vậy các thầy thượng tế và toàn thể công nghị tìm một chứng cáo Chúa Giêsu để giết Người, song họ không tìm ra. Có nhiều kẻ đã cáo gian Người, nhưng các chứng đó không hợp nhau. Tuy nhiên có nhiều kẻ đứng lên làm chứng gian cho Người rằng:
S. "Chúng tôi đã nghe nó nói: Ta sẽ phá huỷ đền thờ này do tay loài người làm ra, và trong ba ngày, Ta sẽ xây lại một đền thờ khác không bởi tay loài người làm ra".
C. Nhưng chứng cớ của họ cũng không hợp nhau. Khi ấy, thầy thượng tế đứng lên giữa công nghị hỏi Chúa Giêsu rằng:
S. "Sao ông không trả lời gì về những điều các người này tố cáo ông".
C. Nhưng Người vẫn thinh lặng và không đáp lại gì. Thầy thượng tế lại hỏi:
S. "Ông có phải là Ðấng Kitô Con Thiên Chúa đáng chúc tụng chăng?"
C. Chúa Giêsu đáp:
J. "Phải, chính Ta! Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngồi bên hữu Ðấng toàn năng và ngự đến trên đám mây".
C. Thầy thượng tế liền xé áo mình ra và nói:
S. "Chúng ta còn cần chi đến nhân chứng nữa? Các ông đã nghe lời nói lộng ngôn, các ông nghĩ sao?"
C. Ai nấy đều lên án Người đáng chết. Rồi có kẻ bắt đầu nhổ vào Người, che mặt Người và đánh đấm Người mà rằng:
S. "Hãy đoán xem!"
C. Và bọn thủ hạ vả mặt Người.
Phêrô đang ở ngoài sân tiền đường, thì có một đầy tớ gái của thầy thượng tế đến, thấy Phêrô đang sưởi, thì nhìn ông và nói:
S. "Ông cũng theo Giêsu, người Nadarét".
C. Nhưng ông chối phắt mà rằng:
S. "Tôi không biết, tôi không hiểu cô muốn nói gì".
C. Rồi ông đi ra ngoài phía trước tiền đường, và gà liền gáy. Lần nữa người đầy tớ thấy ông, liền nói với những người xung quanh rằng:
S. "Ông này thuộc bọn đó".
C. Nhưng ông lại chối. Một lúc sau, những người ở đó lại nói với Phêrô rằng:
S. "Ðúng ông thuộc bọn đó, vì cả ông cũng là người Galilêa".
C. Ông liền nguyền rủa nặng lời và thề rằng:
S. "Tôi không biết người mà các ông nói đó".
C. Tức thì gà gáy lần thứ hai. Và Phêrô nhớ lại lời Chúa Giêsu đã bảo ông: "Trước khi gà gáy hai lần, con đã chối Ta ba lần". Và ông liền than khóc.
Vừa tảng sáng, các thượng tế hội nghị với các kỳ lão, luật sĩ và toàn thể công nghị. Họ đã trói Chúa Giêsu và giải nạp Người cho Philatô. Philatô hỏi Người:
S. "Ông có phải là vua dân Do-thái không?"
C. Chúa Giêsu đáp:
J. "Ông nói đúng!"
C. Và các thầy thượng tế cáo Người nhiều điều. Philatô lại hỏi Người rằng:
S. "Ông không trả lời gì ư? Hãy coi họ tố cáo Ông biết bao nhiêu điều!"
C. Nhưng Chúa Giêsu không trả lời gì thêm, khiến Philatô ngạc nhiên. Vào mỗi dịp lễ, quan có thói quen phóng thích cho dân một người tù tuỳ ý họ xin. Bấy giờ trong khám có tên Baraba bị giam cùng với những kẻ phiến loạn, vì chúng đã giết người trong cuộc khởi loạn. Dân chúng tiến lên Philatô xin ân xá theo như quan quen làm. Vậy Philatô hỏi:
S. "Các ngươi có muốn ta phóng thích cho các ngươi Vua dân Do-thái không?"
C. (Vì quan đã biết rõ do lòng ghen tương mà các thượng tế nộp Người). Nhưng dân xin quan phóng thích Baraba cho họ. Philatô bảo dân chúng rằng:
S. "Các ngươi muốn Ta làm gì cho vua dân Do-thái?"
C. Nhưng chúng lại kêu lên:
S. "Ðóng đinh nó đi!"
C. Philatô đáp lại:
S. "Người này đã làm gì nên tội?"
C. Song chúng càng la to hơn:
S. "Ðóng đinh nó đi!"
C. Sau cùng Philatô muốn vừa lòng dân, liền tha Baraba và trao Chúa Giêsu cho chúng đánh đòn và đóng đinh vào thập giá. Quân lính điệu Người vào sân tiền đường và tập họp cơ đội lại. Chúng mặc áo choàng đỏ cho Người, rồi quấn một vòng gai đặt trên đầu Người. Ðoạn chào Người rằng:
S. "Tâu Vua dân Do-thái".
C. Rồi chúng lấy cây sậy đánh đầu Người, khạc nhổ vào Người và quỳ gối triều bái Người. Khi đã nhạo cười Người, chúng lột áo choàng đỏ ra, mặc y phục lại cho Người và chúng điệu Người đi đóng đinh vào thập giá. Chúng gặp một người qua đường, tên là Simon, quê ở Xyrênê, là thân phụ của Alexanđrô và Rôphô vừa ở ngoài đồng về, chúng bắt ông vác đỡ thập giá cho Người. Chúng điệu Người đến nơi kia gọi là Golgotha, nghĩa là Núi Sọ. Chúng cho Người uống rượu pha mộc dược, nhưng Người không uống. Chúng đóng đinh Người vào thập giá, rồi chúng chia nhau áo Người bằng cách bắt thăm xem ai được phần nào.
Vào lúc giờ thứ ba, chúng đã đóng đinh Người vào thập giá. Và có bản án ghi rằng: Vua dân Do Thái! Và cùng với Người, chúng đóng đinh hai tên trộm cướp vào thập giá, một đứa bên hữu, một đứa bên tả Người. Như vậy là ứng nghiệm lời Thánh Kinh rằng: Người đã bị liệt vào số những kẻ gian ác. Những người qua đường sỉ nhục Người, lắc đầu và nói:
S. "Kià! Kẻ phá đền thờ Thiên Chúa và xây lại trong ba ngày: hãy tự cứu mình xuống khỏi thập giá đi!"
C. Các thượng tế với các luật sĩ cũng nhạo báng Người và nói với nhau:
S. "Nó đã cứu được những kẻ khác mà không tự cứu mình! Bây giờ Ðấng Kitô Vua Israel, hãy xuống khỏi thập giá đi để chúng ta thấy mà tin nào!"
C. Cả những kẻ cùng chịu đóng đinh với Người cũng lăng nhục Người. Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, tối tăm bao trùm toàn thể lãnh thổ. Và đến giờ thứ chín, Chúa Giêsu kêu lớn tiếng rằng:
J. "Eloi, Eloi, lema sabachtani!"
C. Nghĩa là:
J. "Lạy Chúa con, lạy Chúa con, Tại sao Chúa bỏ con!"
C. Có mấy người đứng đó nghe thấy liền nói rằng:
S. "Kìa, nó gọi Elia!"
C. Bấy giờ có kẻ chạy đi nhúng miếng bông biển đầy dấm và cuốn vào cây sậy và đưa lên cho Người uống mà rằng:
S. "Hãy đợi xem Elia có đến đem nó xuống không?"
C. Nhưng Chúa Giêsu kêu một tiếng lớn và trút hơi thở.
(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)
Màn trong đền thờ xé ra làm đôi từ trên xuống dưới. Viên sĩ quan đứng trước mặt Người thấy Người kêu lên và trút hơi thở như thế, liền nói rằng:
S. "Ðúng người này là Con Thiên Chúa!"
C. Cũng có những phụ nữ đứng nhìn từ đàng xa, trong số đó có bà Maria Mađalêna, Maria mẹ của Giacôbê hậu và của Giuse, và bà Salômê, là những kẻ đã theo giúp Người khi Người còn ở xứ Galilêa. Và nhiều người khác cũng đã lên Giêrusalem với Người.
Trời đã xế chiều và hôm đó lại là ngày chuẩn bị, áp ngày Sabbat. Ông Giuse quê ở Arimathia, một hội viên vị vọng trong công nghị, cũng là người trông đợi nước Thiên Chúa, ông mạnh dạn đến gặp Philatô và xin xác Chúa Giêsu. Philatô ngạc nhiên nghe nói Người đã chết, ông gọi viên sĩ quan đến và hỏi xem Người đã chế thật chưa. Khi được viên sĩ quan phúc trình, quan trao xác Người cho Giuse. Giuse đã mua một khăn trắng, hạ xác Chúa Giêsu xuống khỏi thập giá, liệm vào khăn và đặt trong mộ đã đục sẵn trong đá, và lăn một tảng đá lấp cửa mộ. Lúc đó bà Maria Mađalêna và Maria mẹ ông Giuse nhìn xem nơi Người được an táng.

Hoặc đọc bài vắn này: Mc 15, 1-39
C. Vừa tảng sáng, các thượng tế hội nghị với các kỳ lão, luật sĩ và toàn thể công nghị. Họ đã trói Chúa Giêsu và giải nạp Người cho Philatô. Philatô hỏi Người:
S. "Ông có phải là vua dân Do-thái không?"
C. Chúa Giêsu đáp:
J. "Ông nói đúng!"
C. Và các thầy thượng tế cáo Người nhiều điều. Philatô lại hỏi Người rằng:
S. "Ông không trả lời gì ư? Hãy coi họ tố cáo Ông biết bao nhiêu điều!"
C. Nhưng Chúa Giêsu không trả lời gì thêm, khiến Philatô ngạc nhiên. Vào mỗi dịp lễ, quan có thói quen phóng thích cho dân một người tù tuỳ ý họ xin. Bấy giờ trong khám có tên Baraba bị giam cùng với những kẻ phiến loạn, vì chúng đã giết người trong cuộc khởi loạn. Dân chúng tiến lên Philatô xin ân xá theo như quan quen làm. Vậy Philatô hỏi:
S. "Các ngươi có muốn ta phóng thích cho các ngươi Vua dân Do-thái không?"
C. (Vì quan đã biết rõ do lòng ghen tương mà các thượng tế nộp Người). Nhưng dân xin quan phóng thích Baraba cho họ. Philatô bảo dân chúng rằng:
S. "Các ngươi muốn Ta làm gì cho vua dân Do-thái?"
C. Nhưng chúng lại kêu lên:
S. "Ðóng đinh nó đi!"
C. Philatô đáp lại:
S. "Người này đã làm gì nên tội?"
C. Song chúng càng la to hơn:
S. "Ðóng đinh nó đi!"
C. Sau cùng Philatô muốn vừa lòng dân, liền tha Baraba và trao Chúa Giêsu cho chúng đánh đòn và đóng đinh vào thập giá. Quân lính điệu Người vào sân tiền đường và tập họp cơ đội lại. Chúng mặc áo choàng đỏ cho Người, rồi quấn một vòng gai đặt trên đầu Người. Ðoạn chào Người rằng:
S. "Tâu Vua dân Do-thái".
C. Rồi chúng lấy cây sậy đánh đầu Người, khạc nhổ vào Người và quỳ gối triều bái Người. Khi đã nhạo cười Người, chúng lột áo choàng đỏ ra, mặc y phục lại cho Người và chúng điệu Người đi đóng đinh vào thập giá. Chúng gặp một người qua đường, tên là Simon, quê ở Xyrênê, là thân phụ của Alexanđrô và Rôphô vừa ở ngoài đồng về, chúng bắt ông vác đỡ thập giá cho Người. Chúng điệu Người đến nơi kia gọi là Golgotha, nghĩa là Núi Sọ. Chúng cho Người uống rượu pha mộc dược, nhưng Người không uống. Chúng đóng đinh Người vào thập giá, rồi chúng chia nhau áo Người bằng cách bắt thăm xem ai được phần nào.
Vào lúc giờ thứ ba, chúng đã đóng đinh Người vào thập giá. Và có bản án ghi rằng: Vua dân Do Thái! Và cùng với Người, chúng đóng đinh hai tên trộm cướp vào thập giá, một đứa bên hữu, một đứa bên tả Người. Như vậy là ứng nghiệm lời Thánh Kinh rằng: Người đã bị liệt vào số những kẻ gian ác. Những người qua đường sỉ nhục Người, lắc đầu và nói:
S. "Kià! Kẻ phá đền thờ Thiên Chúa và xây lại trong ba ngày: hãy tự cứu mình xuống khỏi thập giá đi!"
C. Các thượng tế với các luật sĩ cũng nhạo báng Người và nói với nhau:
S. "Nó đã cứu được những kẻ khác mà không tự cứu mình! Bây giờ Ðấng Kitô Vua Israel, hãy xuống khỏi thập giá đi để chúng ta thấy mà tin nào!"
C. Cả những kẻ cùng chịu đóng đinh với Người cũng lăng nhục Người. Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, tối tăm bao trùm toàn thể lãnh thổ. Và đến giờ thứ chín, Chúa Giêsu kêu lớn tiếng rằng:
J. "Eloi, Eloi, lema sabachtani!"
C. Nghĩa là:
J. "Lạy Chúa con, lạy Chúa con, Tại sao Chúa bỏ con!"
C. Có mấy người đứng đó nghe thấy liền nói rằng:
S. "Kìa, nó gọi Elia!"
C. Bấy giờ có kẻ chạy đi nhúng miếng bông biển đầy dấm và cuốn vào cây sậy và đưa lên cho Người uống mà rằng:
S. "Hãy đợi xem Elia có đến đem nó xuống không?"
C. Nhưng Chúa Giêsu kêu một tiếng lớn và trút hơi thở.
(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)
Màn trong đền thờ xé ra làm đôi từ trên xuống dưới. Viên sĩ quan đứng trước mặt Người thấy Người kêu lên và trút hơi thở như thế, liền nói rằng:
S. "Ðúng người này là Con Thiên Chúa!"

Suy Niệm: Ðấng Thiên Sai Ðến Như Một Nô Bộc

Bốn mươi ngày của mùa Chay đã chấm hết để nhường chỗ cho Tuần Thánh, tuần Khổ nạn của Ðức Yêsu. Năm nay Người lại vào thành Yêrusalem; Người sẽ được cộng đoàn giáo dân hoan hô, để rồi lại sẽ bị kết án và tử hình trên Thập giá! Người lại đau khổ và đang đau khổ qua thân phận làm người của chúng ta.
Nghe lại những bài đọc Kinh Thánh trong Chúa Nhật mở đầu tuần Thương khó, chúng ta nhận thấy, hơn bao giờ hết, khuôn mặt của Ðức Yêsu như hiện ra cách rõ rệt, cụ thể. Người trở nên thật sự "cái đinh" của các nghi lễ Phụng vụ, khiến ta có thể quả quyết là tất cả mọi tư tưởng, tất cả mọi nhân vật đều đang chú tâm theo dõi những bước đi của Người.
Thánh sử Marcô năm nay thuật lại các việc Ðức Yêsu tiến vào Yêrusalem. Cũng như thánh Matthêu, Luca và Yoan, Marcô ghi lại biến cố này với một sắc thái đặc biệt. Hẳn chúng ta sẽ ngạc nhiên trước thái độ xem ra có vẻ mâu thuẫn của Người: Người vẫn khước từ mọi lời tung hô, mọi câu tán tụng và nhất là luôn từ chối nguyện vọng của dân chúng, khi họ định tôn phong Người lên làm vua (Yn 6,15; Cf Mc 6,45; Mt 14,22). Thế mà, trong bối cảnh thuật lại ở Marcô 11,1-11, Ðức Yêsu chẳng những không khước từ lời tán tụng, mà còn đóng vai chủ động khi bảo hai môn đệ chuẩn bị cuộc "đăng quang" cho mình (Mc 11,1-3).
Ngoài ra, Yêrusalem không phải là một thành phố xa lạ đối với Người: từ lúc bé, Người đã được cha mẹ đem lên đây để được dâng hiến cho Thiên Chúa (Lc 2,22-39); lúc đến tuổi thành niên về phương diện tôn giáo, Người cũng đã trẩy hội hành hương Yêrusalem (Lc 2,41-49); trong suốt gần 3 năm hoạt động công khai, từ mùa xuân 28 đến mùa xuân 30, thánh Yoan cũng đã ghi lại nhiều lần Ðức Yêsu xuất hiện ở Yêrusalem (Yn 2,23; 7,10-14; 12,12). Nhưng lần này, sự xuất hiện của Người ở đây mang một ý nghĩa đặc biệt: vào Yêrusalem để thực hiện "giờ" của Người.
Quả vậy, đoạn văn của Marcô mở ra cho chúng ta bối cảnh đó: Ðức Yêsu vào Yêrusalem với tư cách là Vị Thiên Sai của Thiên Chúa, Vị Thiên Sai Thiên Chúa hứa ban cho Dân Người, Vị Thiên Sai đã từng được loan báo qua các sấm ngôn của Kinh Thánh:
"Dòng dõi Người sẽ đạp dập đầu ngươi..." (Kn 3,15).
"Vương trượng sẽ không xa lìa khỏi nhà Yuđa, chiếc gậy thủ lãnh cũng sẽ không rời khỏi chân Người, cho đến khi xuất hiện..." (Kn 49,10).
"Ngay trong dân tộc ngươi, ngay giữa anh em ngươi, Yavê Thiên Chúa sẽ gầy dựng cho ngươi một vị tiên tri như Ta! Các ngươi phải nghe theo Người!" (Tl 18,15).
"Ta sẽ củng cố ngai báu của Người đến muôn đời..." (2S 7,12-16).
"Hỡi thiếu nữ Sion, hãy hân hoan!
Hỡi thiếu nữ Yêrusalem, hãy reo hò!
Này đây Vua ngươi đến cùng ngươi..." (Za 9,9).
Nhưng có thật Ðức Yêsu là Vị Thiên Sai mà mọi người mong đợi không?
Thánh Marcô trong bài ghi lại việc Ðức Yêsu vào Yêrusalem (11,1-11) và cuộc thọ hình của Người (14,1-15,47) sẽ soi sáng cho chúng ta tìm được lời giải đáp thỏa đáng cho câu hỏi trên:
"Ðấng Thiên Sai đến như một nô bộc!"

1. Ðấng Thiên Sai Ðến
Việc Ðức Yêsu vào thành Yêrusalem không những khiến chúng ta liên tưởng đến những cuộc đăng quang hay kinh lý của các hoàng đế La Mã, Hylạp ngày xưa, mà còn như diễn lại cảnh lên ngôi của các vị vua trong lịch sử Dothái.
Ðavít đã ra chỉ thị rõ rệt về việc đăng quang của Salômon:
"Các ngươi hãy cho đoàn phòng vệ tháp tùng rồi hãy đặt Salômon ngồi trên chính con lừa của ta, đoạn dẫn người đến thung lũng Ghikhon..." (1V 1,33).
Hoặc trong bối cảnh Yêhu được đặt làm vua, Thánh Kinh thuật lại:
"Tức thì họ cởi áo choàng của mình ra và trải dưới đất người. Họ thổi tù và và la to: "Yêhu là vua!" (2V 9,13).
Khi ghi lại biến cố trên, chắc hẳn Marcô như muốn trình bày cho ta thấy rõ chính dân Yêrusalem đã tiếp đón Ðấng Thiên Sai và rước Người vào thành của mình.
Ngoài ra, hai từ ngữ quan trọng của Marcô giúp ta thêm xác tín về thân thế và sứ mạng của Ðức Yêsu: đó là tước hiệu "Chúa" mà chính Ðức Yêsu gán cho mình, cũng như lời hoan hô của dân chúng: "Hosanna! Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến".
Marcô sử dụng danh từ "Chúa" (Kyrios) với một ý rất thông dụng và thường để chỉ một nhân vật đáng kính, một vị luật sĩ nổi danh nào đó, hoặc dùng trong ngôn ngữ xã giao hằng ngày... như tiếng "ông", tiếng "Ngài" của chúng ta chẳng hạn hoặc để chỉ Ðức Yavê Thiên Chúa theo bản dịch LXX, và khi nói về Ðức Kitô thì từ ngữ thông dụng nhất là "Thầy" hoặc "Con Người", chứ không phải là "Chúa". Câu 3 đoạn 11 là trường hợp duy nhất trong Phúc Âm Marcô, trong đó từ ngữ "Chúa" được áp dụng cho Ðức Yêsu, mà lại do chính Người nói về mình.
"Nếu có ai hỏi chúng con: "Tại sao các ông làm như thế?", thì các con hãy đáp: "Vì Chúa cần dùng, rồi Người sẽ giao hoàn lại sau" (Mc 11,3).
Ðó chính là tước hiệu mà Cựu Ước luôn dành cho Thiên Chúa hoặc Ðấng Thiên Sai, đồng thời cũng là danh hiệu mà các tín hữu tiên khởi sau này sẽ dùng để chỉ về Ðức Kitô Phục sinh: "Chúa Yêsu Kitô".
Ðồng thời tiếng hoan hô chào mừng của dân chúng mang một ý nghĩa rõ rệt:
"Hosanna! Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến" (Mc 11,9).
Trong khi Luca lại ghi:
"Chúc tụng Ðức Vua..." (Lc 19,38).
Các lời hoan hô trên quả như muốn giới thiệu Ðức Yêsu chính thật là Ðấng Thiên Sai đang đến với Dân Người.
Lời hoan hô đó là tiếng nói thoát ra từ tâm tình Thánh vịnh ca ngợi 118,25-26. Dân Dothái thường hát bài tán tụng này vào các dịp đại lễ, đặc biệt dịp lễ Vượt qua để tán dương Thiên Chúa.
Hosanna! Xin hãy thi ân! (2S 14,4).
Có nghĩa: Xin hãy cứu tôi!
Xin dủ tình ban ơn cứu độ!
Trong khung cảnh tưng bừng, giữa tiếng ồn ào náo nhiệt của dân chúng, Marcô ghi thêm: "Ðức Yêsu đã tiến vào đền thờ Yêrusalem".
Người đến như một Vị Thiên Sai. Dân chúng đón tiếp Người với nghi lễ xứng đáng dành cho một Vị Thiên Sai như thấy mô tả trong Kinh Thánh (Za 9,9), nhưng bí mật vẫn bao trùm trên Người:
"Sau khi quan sát chung quanh,
và vì trời đã về chiều,
Người ra khỏi thành để trở về Bêthania với 12 môn đệ!" (Mc 11,11).
Dân chúng hoan hô Người! Dân chúng chờ đợi Người tỏ uy quyền như một Môsê, một Ðavít, một Salômon xưa, hoặc như một lãnh tụ trong ngày công khai ra mắt, nhưng tại sao Người không lưu lại Yêrusalem, hoặc tại sao không đọc một tuyên ngôn vạch rõ chương trình hoạt động?
Người đã khiến đám dân ủng hộ mình phải thất vọng, hoặc chính Người đã phải chua chát trước thái độ vụ hình thức và không hiểu biết của họ...? Hầu như để bổ túc và giải đáp bí ẩn đó, Marcô mới mời gọi chúng ta nghe thuật lại cuộc Khổ nạn của Người (Mc 14,1-15,47).

2. Ðấng Thiên Sai Ðến Như Một Nô Bộc
Quả thật dân chúng đã không gặp được nơi Ðức Yêsu vinh hiển vào Yêrusalem như một Ðavít chiến thắng, một Salômon trẻ trung xưa, cũng như không tìm thấy nơi Người khuôn mặt kiêu hãnh của một vị lãnh tụ, khả dĩ đáp lại nỗi chờ mong của họ.
Ðức Yêsu đã vào Yêrusalem khiêm nhu trên lưng lừa qua hình dáng một người nô bộc! Sự thật quá phũ phàng!
Có lý nào Ðấng Thiên Sai toàn dân mong đợi trông lại thê thảm và tầm thường như thế?
Bằng một lối tả chân sống động, Marcô loan báo cho ta việc Thiên Chúa thực hiện chương trình cứu rỗi một cách "tréo cẳng ngỗng", không ai có thể ngờ!
Ngoài vẻ mặt quen thuộc của người nô bộc được ghi trong Ðệ nhị Isaia mà Ðức Yêsu đã sống lại cách trọn vẹn, hai đặc tính khiêm nhu của Ðấng Thiên Sai, Marcô muốn vẽ lại cho chúng ta, sau biến cố vào Yêrusalem, đó là: sự cô đơn và thinh lặng của Ðức Yêsu trong suốt thời kỳ Khổ nạn!
Marcô đã cố gắng trình bày một cách linh động sự cô đơn tuyệt đối của Ðức Yêsu sau những tiếng hoan hô tán tụng của dân chúng. Chẳng những Người đã bị dân bỏ rơi, mà ngay cả các môn đệ thâm tín của Người cũng xa lìa, trốn tránh!
Tại Ghếtsêmani, đáng lẽ những người này phải tỉnh thức, lắng nghe tâm sự của Người, thế mà họ lại ngủ mê mệt (Mc 14,37-40).
Lúc Người bị bắt, tất cả đều bỏ trốn (Mc 14,50). Và có lẽ để tăng thêm vẻ bi đát cho cảnh cô đơn này, Marcô đã không ngần ngại ghi lại cách châm biếm cảnh một môn đệ trẻ vứt bỏ áo quần mình để thoát thân (Mc 14,51-52). Phêrô cũng mạnh dạn chối từ (Mc 14,62-71). Có chăng là sự hiện diện của một con gà vô tội, cố gáy lên hai lần (Mc 14,72) như thức tỉnh những người thân! Người bị ngay cả Cha của mình bỏ rơi (Mc 15,34-35). Thật là một cảnh cô đơn tuyệt đối:
Ngoài ra, đóng vai thân phận người nô bộc Yavê "bị hành hạ, nhưng Người vẫn khiêm nhu, và không mở miệng thốt lên lời nào. Như một con trừu bị điệu đi giết, như một con chiên câm miệng trước người thợ xén lông, Người đã không mở miệng" (Is 53,7).
Qua sự im lặng lạ kỳ này, Ðức Yêsu, như muốn mời gọi và khiêu khích tính tò mò của ta:
"Ông ấy có phải là Ðấng Thiên Sai thật không?"
Những ai chờ đợi nơi Người những hành động phi thường, những biện bác hùng hồn, chắc hẳn đã thất vọng! Vì nếu họ không hiểu được Người, làm thế nào có thể khiêm nhường và im lặng khám phá ra ý nghĩa của nghịch cảnh khổ giá mà Người sẽ chịu sau này?
Trước cảnh lạ đời ấy, có lẽ chỉ có "những tâm hồn nghèo khao khát Tin Mừng, những kẻ thiếu tự do, những kẻ đui mù, những người bị áp bức, những tâm hồn tan vỡ, những kẻ bị lưu đày, những con người không tiếng nói" (Lc 4,18; Cf Is 61,1; 58,6) mới nhận ra khuôn mặt thật của Người và bắt gặp Người trong địa vị đích thực của Ðấng Thiên Sai Thiên Chúa.
Ðức Yêsu đến, và đến với con người chúng ta qua hình ảnh một người nô bộc; chân lý đó sau này trong tư thế của "con người ngã ngựa", Phaolô sẽ xưng tụng bằng bài ca tuyệt tác trong Ph 2,6-11 mà lịch sử Giáo hội không ngớt loan truyền và làm chứng. Chân lý đó quả đã khiến bao người vấp ngã như đám dân Yêrusalem xưa, bởi họ không nhận ra ý nghĩa cuộc hành trình gian khổ về Ðất Hứa xưa của dân Dothái cũng chính là cuộc hành trình khiêm nhu và thinh lặng của Ðấng Thiên Sai trong giờ Khổ nạn. Ðó cũng chính là cuộc hành trình cứu độ của dân Chúa qua cuộc sống nhân loại ngày hôm nay.


Giảng Lễ
Ngày Chúa nhật Lễ Lá hôm nay kỷ niệm việc Chúa vào thành Yêrusalem. Dân chúng đã đón rước Người như trong một cuộc khải hoàn. Họ chặt lá, cởi áo trải ra đường để Người đi qua. Họ tung hô chúc tụng Người là Con Vua Ðavít, là Ðấng đến nhân danh Thiên Chúa. Họ muốn lần này Người dứt khoát tuyên bố mình là Thiên Sai và thiết lập triều đại mới cho dân tộc đã từng bao năm chờ đợi được giải phóng.
Nhưng nhìn vào Chúa, những người có kinh nghiệm thấy ngay khuôn mặt Người không diễn tả những cảm tình của quần chúng. Người không đến đáp lại những chờ đợi trần gian. Người sẽ không cỡi một con ngựa trận to lớn, nhưng lại ngồi trên một con lừa nhu mì và tầm thường. Khuôn mặt Người chỉ giãi ra một vẻ hiền dịu trong trắng chứ không có vẻ quắc thước và đắc thắng. Ðám rước lúc đầu có vẻ muốn đưa đến một cuộc suy tôn lãnh tụ, nhưng thực ra đã đi vào chốn lặng lẽ tôn nghiêm của Ngôi Ðền Thờ. Ðức Kitô vào thành không phải để làm Vua theo ước muốn của quần chúng nhưng để thi hành một sứ mệnh siêu nhiên, đòi phải từ bỏ hết mọi vinh hoa quyền thế, cho đến cả sự sống của mình. Bài Thương khó tường thuật cuộc Thụ khổ như chúng ta vừa nghe cho thấy rõ: Ðức Kitô đã vào thành để chịu chết, và chết ô nhục trên Thập giá.
Hôm nay kỷ niệm việc Chúa vào thành, Phụng vụ muốn đưa chúng ta đi theo Người cho đến khi chết trong mồ, để có như vậy, chúng ta mới hy vọng được cùng Người chỗi dậy trong đời sống vĩnh cửu. Chân lý này, chúng ta đã rõ. Nhưng hôm nay, Giáo hội muốn chúng ta đào sâu, để thâm tín, để thi hành. Bất cứ ai muốn theo Chúa, phải theo Ngài cho đến chết. Phải cùng chết với Người, mới được phục sinh. Thế mà có nhiều người không theo Chúa cho đến chỗ chết. Họ giống như hầu hết quần chúng Dothái ngày trước: theo Chúa, rước Chúa, tháp tùng Chúa, phấn khởi, hân hoan trong ngày Chúa nhật Lễ Lá nhưng như trong bài Thương khó chúng ta vừa nghe, họ đã từ bỏ, phủ nhận, lên án, đóng đinh Chúa. Họ thay lòng đổi dạ ư? Sự thật không phải thế. Trước sau họ chỉ là những con người ham sống, muốn thứ hạnh phúc thực tiễn, trước mắt rẻ tiền. Họ đang sống trong lầm than, hay ít ra, vất vả của cuộc đời. Nghe nói ông Yêsu là nhà tiên tri, có những quyền phép phi thường, làm cho ngay cả Lazarô chết rữa ra rồi mà còn sống lại. Họ liền nô nức chạy đến với nhà tiên tri đó, muốn công kênh Người lên làm vua, để mưa móc ân huệ trần gian cho họ. Ðến khi thấy Người bất lực trước đối thủ, không cứu được mình huống nữa còn đỡ được ai, họ chỉ còn một thái độ: xô luôn con người đó nhào xuống chết đi, để khỏi thấy mặt, để khỏi bực bội vì đã hy vọng hão huyền. Họ không xứng đáng với con người của Ðức Kitô, với sứ mạng cao cả của Người.
Dĩ nhiên chúng ta không ai muốn đồng hóa mình với đám người Dothái trên. Nhưng có thật chúng ta đã theo Chúa một cách xứng đáng không? Chúng ta cũng đã chứng kiến nhiều trường hợp theo đạo vì gạo, vì vợ, vì thế quyền. Mùa Chay khuyến khích, đòi hỏi mỗi người phải kiểm thảo chính mình, chứ không phải là cứ nhìn vào người khác để phê phán anh em. Ước gì chúng ta có can đảm, sáng suốt, biết phê bình chính cuộc sống đạo đức của mình, để thấy rõ chúng ta có còn đi theo Chúa không, và có dám đi với Người cho đến khi xuống mồ, để cùng chết với Người và sống lại với Người không? Hay là chúng ta đang có khuynh hướng muốn rẽ ngang, không theo đường lối Chúa nữa, nay giấu giếm che đậy chân lý Phúc Âm này, mài có thể bớt dần các thái độ tỏ ra mình là người tín hữu? Ấy là chưa kể, việc đi theo Chúa cho đến chết và chết trên thập giá, đòi chúng ta phải chết đi cho tội lỗi, tiêu diệt các nết xấu, và sống theo giáo lý Phúc Âm. Chúng ta hằng ngày có thực thi những điều ấy không? Ngày xưa, đi theo Chúa cho đến Núi Sọ, không có mấy người. Mười hai tông đồ, bảy mươi hai môn đệ cũng không. Chỉ có Ðức Maria và một số người rất ít.
Như vậy, chúng ta đừng mặc cảm nhận ra cuộc đời đạo đức hời hợt hiện nay của mình. Ðiều cốt yếu trong mùa Chay Thánh và đặc biệt trong Tuần Thánh này, là nhận ra tình trạng còn khuyết điểm của ta để cầu xin ơn tha thứ, để hưởng ơn tha tội của Thập giá Ðức Kitô, mà được sống lại đi vào cuộc đời mới.
Cuộc sống mai ngày vẫn là cuộc đời đi theo Ðức Kitô cho đến chết để được sống lại với Ngài. Thế nên tham dự tinh thần của Tuần Thánh này là hun đúc lại niềm tin, sưởi nóng lại lòng mến, để thề hứa lại trong đêm Vọng Phục Sinh: chúng ta nhất định chọn Chúa, đời đời chọn Chúa, mãi mãi trung thành với đức tin, với Giáo Hội; vì dù được lợi tất cả thế gian, mà mất hạnh phúc muôn thuở, cũng là trơ trơ hai bàn tay trắng cộng thêm ân hận vì đã hỏng cả cuộc đời. Nói đơn sơ hơn, trong Tuần Thánh cử hành mầu nhiệm cái chết và cuộc Phục sinh của Chúa chúng ta, không chân lý nào cần được suy nghĩ và thâm tín bằng lời Phúc Âm sau đây: ai ham sống thì chết; còn ai coi nhẹ sự sống sẽ được sống xứng đáng với nhân phẩm và ao ước hạnh phúc trường cửu của mình.
Người biết khinh chê những mối lợi nhỏ trước mắt như thế, mới dễ có lòng nhân, hy sinh tư kỷ cho hạnh phúc của đồng bào, làm gương và giúp ích được cho việc xây dựng quê hương dân tộc. Chúa Yêsu biết trước môn đệ của mình nhút nhát, sợ đi vào con đường Thập giá. Nhưng Người đã hứa ban Thánh Thần cho các ông sau khi sống lại. Và quả thực, khi nhận được Thánh Thần rồi, các tông đồ không còn ham sống, sợ chết nữa, nhưng nhiệt thành xả kỷ theo chân Chúa tiếp tục việc cứu thế. Ngày nay, chúng ta cũng có ơn Thánh Thần để sẵn trong mầu nhiệm Thánh Thể, để ai có lòng tin nhận lấy, sẽ được thêm tinh thần của Ðức Kitô, không ngại xả thân cứu đời, và hằng lập đi lập lại câu nói diễn tả đường lối Thánh Kinh, đường lối dẫn đến hạnh phúc chân thật: "Con Người phải đi qua gian khổ để đạt tới vinh quang". Chúng ta có chấp nhận vác Thánh giá hằng ngày để cùng chết với Chúa, thì mới hy vọng được cùng Người phục sinh trong hạnh phúc trường sinh.
Hôm nay chúng ta đã vào thành với Chúa, và rồi đây sẽ rước Chúa vào lòng; chúng ta xin Ngài cho chúng ta được kết hợp với Người hằng ngày và mãi mãi, vì chỉ có như vậy chúng ta mới được ơn cứu độ và được tham dự vào công cuộc cứu thế của Người.

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)


Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật Lễ Lá, Năm B
Bài đọc: Isa 50:4-7; Phi 2:5-11; Mk 14-15.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu Kitô
Con người không thích kỷ luật, kiêng khem, luyện tập; nhưng các lực sĩ không thể thắng huy chương nếu không qua tiến trình này. Trên bước đường thiêng liêng cũng thế, con người cũng phải trải qua một tiến trình tương tự, nhất là phải được thử thách bằng gian nan đau khổ, để minh chứng đức tin vững mạnh của họ vào Thiên Chúa, như thánh Phaolô và tục ngữ Việt-nam đã từng nói: “lửa thử vàng, gian nan khốn khó thử nhân đức.” Người có nhân đức là người đã trải qua một tiến trình luyện tập, và đã thắng vượt mọi gian nan đau khổ, mới có thể trở nên hòan thiện như vậy.
Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta những lý do khác nhau của việc chịu đau khổ của Đấng Thiên Sai. Trong Bài Đọc I, tiên-tri Isaiah tường thuật sự đau khổ của Người Tôi Trung của Thiên Chúa trong Bài Ca Thứ Ba. Mục đích là để Ngài có thể an ủi những ai cũng phải ngang qua con đường đau khổ đó. Trong Bài Đọc II, Chúa Giêsu phải ngang qua con đường đau khổ để đạt tới tuyệt đỉnh của vinh quang mà Thiên Chúa đã siêu tôn và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu. Trong Phúc Âm, Marcô tường thuật Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu. Mục đích là để Ngài gánh tội cho nhân loại, và trở nên nguồn ơn cứu độ cho nhiều người.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Bài ca thứ ba về Người Tôi Trung của Thiên Chúa chịu đau khổ.
1.1/ Người Tôi Trung chịu đau khổ vì tin vào Thiên Chúa: Là con người ai, cũng sợ đau khổ; nhưng sở dĩ họ có can đảm để chịu đau khổ, vì họ có một niềm tin vững chắc vào hậu quả sẽ đạt tới; chẳng hạn, huy chương cho các lực sĩ, sự giải thóat của Thiên Chúa cho các con của Ngài.
Người Tôi Trung của Thiên Chúa cũng thế, Ngài tuyên xưng: “Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ. Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế, tôi trơ mặt ra như đá. Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng.”
1.2/ Người Tôi Trung biết nâng đỡ những ai chịu đau khổ: Không những chỉ lãnh nhận huy chương sau cuộc đua, người lực sĩ còn có những phần thưởng khác kèm theo: sức khỏe dẻo dai, ý chí kiên cường … Người Tôi Trung của Thiên Chúa cũng thế, ngoài việc được tuyên dương bởi Chúa Cha, Ngài còn có thể nâng đỡ những ai đang phải chịu đau khổ. Ngài nói: “Đức Chúa là Chúa Thượng đã cho tôi nói năng như một người môn đệ, để tôi biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức. Sáng sáng Người đánh thức, Người đánh thức tôi để tôi lắng tai nghe như một người môn đệ.”
2/ Bài đọc II: Đức Giêsu Kitô trải qua đau khổ để đạt tới vinh quang.
2.1/ Đức Kitô khiêm nhường chịu đau khổ: Thánh Phaolô dùng gương của Chúa Giêsu chịu đau khổ để khuyên bảo các tín hữu Philipphê: “Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Giêsu Kitô. Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây Thập Tự.”
Ngài là Thiên Chúa, nhưng đã hạ mình chấp nhận một thân thể như con người. Điều này làm người Hy-lạp không thể hiểu nổi, vì trong khi họ đang tìm cách thóat ra khỏi thân xác mà họ coi là ngục tù của linh hồn; thì Chúa Giêsu lại muốn bị giam hãm trong một thân xác để nên giống con người. Hơn nữa, Chúa Giêsu còn có uy quyền tuyệt đối của Thiên Chúa để dẹp tan các đau khổ; nhưng Ngài tự nguyện theo con đường của Chúa Cha, chấp nhận chết trên Thập Giá để chuộc tội cho con người.
2.2/ Thiên Chúa đã siêu tôn Đức Kitô: Vì không ai khiêm nhường, vâng lời, hy sinh chịu đau khổ như Chúa Giêsu; nên như một hậu quả, không ai được hưởng vinh quang như Ngài. Thánh Phaolô xác tín: “Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: "Đức Giêsu Kitô là Chúa."”
Chúa Giêsu và Thánh Phaolô cũng dùng gương sáng này để dạy các môn đệ và các tín hữu: “Ai trong các con muốn làm lớn nhất, hãy trở nên rốt hết và phục vụ mọi người” (Lk 22:26). “Một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Người.” (Rom 8:17b).
3/ Phúc Âm: Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu theo Thánh Marcô
3.1/ Chuẩn bị Cuộc Thương Khó: Hai ngày trước lễ Vượt Qua và lễ Bánh Không Men, các thượng tế và kinh sư tìm cách dùng mưu bắt Đức Giêsu và giết đi; vì họ nói: "Đừng làm vào chính ngày lễ, kẻo dân chúng náo động."
Lễ Vượt Qua rơi vào ngày 14 tháng tư. Lễ Bánh Không Men kéo dài 7 ngày sau Lễ Vượt Qua. Lễ Vượt Qua là một trong 3 lễ chính của người Do-thái. Các người Do-thái nam, đã đến tuổi trưởng thành, và sống trong khỏang 15 dặm của Jerusalem, phải lên Đền Thờ để mừng Lễ Vượt Qua. Luật ngày Sabbath áp dụng cho các lễ này. Các thượng tế và kinh sư có lý do để lo sợ, vì dân chúng tụ họp rất đông ở Jerusalem trong ngày Lễ Vượt Qua. Các thượng tế và kinh sư thường phải cầu viện với quân đội Roma để tăng cường an ninh trong những ngày này; nhất là tại cứ điểm Antonia Fortress, cạnh Đền Thờ. Theo sử gia Josephus, dân chúng có thể lên tới 2, 3 triệu người, cứ 10 người sát tế một con chiên. Lễ Vượt Qua có lịch sử trong biến cố Xuất Hành của dân Do-thái ra khỏi Ai-cập. Trong đêm này, sứ thần của Thiên Chúa sẽ vào nhà tàn sát tất cả các con đầu lòng của người Ai-cập; nhưng nhà nào có máu chiên bôi trên cửa, các sứ thần sẽ băng ngang qua và không vào tàn sát.
Trong Kế Họach Cứu Độ, Thiên Chúa cũng muốn dùng chính ngày Lễ này, để bắt đầu một Lễ Vượt Qua mới: ngày mà Chúa Giêsu sẽ từ giã cuộc đời này mà về lại với Chúa Cha; ngày mà toàn dân Thiên Chúa được cứu thoát khỏi làm nô lệ cho tội lỗi và sự chết, nhờ máu Con Chiên là Chúa Giêsu Kitô đổ ra để chuộc tội cho nhân lọai, và đưa họ về cho Thiên Chúa.
(1) Xức dầu thơm táng xác Chúa và sự phản bội của Judah Iscarioth:
- “Lúc đó, Chúa Giêsu đang ở làng Bethany, tại nhà ông Simon Cùi. Giữa lúc Người dùng bữa, có một người phụ nữ đến, mang theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm cam tùng nguyên chất thứ đắt tiền. Cô đập ra, đổ dầu thơm trên đầu Người.” Bethany là một làng nhỏ, nơi mà Chúa thường xuyên lui tới và cho Lazarus sống lại. Làng này nằm trên một ngọn đồi, đối diện với Jerusalem, và được kể như vùng ngọai ô. Khách tới Jerusalem dự lễ có thể hợp pháp trú ngụ tại đây để mừng lễ. Ai là người phụ nữ đã tỏ hành động yêu thương này với Chúa Giêsu? Có người cho là Mary, em của Martha, người ngồi dưới chân Chúa Giêsu và nghe lời Người, khi Chúa Giêsu đến dùng bữa với hai chị em lần trước. Theo lệ thường, họ chỉ rửa chân và xức vài giọt nước hoa trên đó; nhưng người phụ nữ này dường như đã biết trước những gì sẽ xảy ra cho Chúa Giêsu, cô đập tan nát bình để lấy dầu thơm đổ trên đầu Người.
- Phản ứng của khách dự tiệc: Có vài người lấy làm bực tức, nói với nhau: "Phí dầu thơm như thế để làm gì? Dầu đó có thể đem bán lấy trên ba trăm quan tiền mà bố thí cho người nghèo." Rồi họ gắt gỏng với cô. Bethany còn được mệnh danh theo tiếng Do-thái là “nhà của người nghèo, beth aôni.” Có lẽ đó là lý do mà người ta gắt gỏng với cô. Ba trăm quan là một số tiền lớn, tương xứng với 300 ngày làm việc.
- Phản ứng của Chúa Giêsu: "Cứ để cho cô làm. Sao lại muốn gây chuyện? Cô ấy vừa làm cho tôi một việc nghĩa. Người nghèo thì lúc nào các ông chẳng có bên cạnh mình, các ông muốn làm phúc cho họ bao giờ mà chẳng được! Còn tôi, các ông chẳng có mãi đâu! Điều gì làm được thì cô đã làm: cô đã lấy dầu thơm ướp xác tôi, để chuẩn bị ngày mai táng. Tôi bảo thật các ông: Hễ Tin Mừng được loan báo đến đâu trong khắp thiên hạ, thì nơi đó việc cô vừa làm cũng sẽ được kể lại để nhớ tới cô." Chúa Giêsu biết rõ ý định của người phụ nữ: ướp xác khi Ngài còn đang sống. Có những lúc cần phải tiêu những món tiền lớn để tỏ tình yêu và sự quan tâm đến người mình yêu; chứ không phải lúc nào cũng so đo tính tóan hơn thiệt. Những gì Chúa Giêsu nói tiên tri trở thành hiện thực. Người phụ nữ tỏ tình yêu cho Chúa Giêsu đã đi vào lịch sử; mỗi năm, cô đều được mọi người công khai nhớ tới.
- Ngược lại với tình yêu chân thành và không tính tóan hơn thiệt của người phụ nữ là hành động tính tóan và phản bội của Judah Iscarioth: “một người trong Nhóm Mười Hai, đi gặp các thượng tế để nộp Người cho họ. Nghe hắn nói, họ rất mừng và hứa cho tiền. Judah liền tìm cách nộp Người sao cho tiện.” Trình thuật của Matthew nói rõ số tiền bán Chúa là 30 đồng tiền bạc (Mt 16:15). Gioan nói rõ Judah là quản lý của Nhóm Mười Hai, và thường ăn bớt tiền để tiêu riêng (Jn 12:6). Chúng ta phải rất cẩn trọng, vì lòng ham mê tiền bạc làm con người coi thường tín nghĩa; nó có thể làm con người quay lưng lại với sự thật, tình yêu, và sự trung tín.
- Có người cho sở dĩ Judah hành động như thế là để bắt Chúa Giêsu phải ra tay hành động như một Đấng Thiên Sai uy quyền mà dân chúng mong mỏi; nhưng khi Judah tìm ra sự thật – Chúa chết đau khổ thực sự - thì đã quá muộn, hắn quăng tiền trở lại cho người trả hắn; và xấu hổ ra đi thắt cổ tự vẫn! (Mt 27:3-5).
(2) Chúa Giêsu cử hành Lễ Vượt Qua với các môn đệ: Ngày thứ nhất trong tuần Bánh Không Men, là ngày sát tế chiên Vượt Qua, các môn đệ thưa với Chúa Giêsu: "Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu?"
- Chúa Giêsu luôn sẵn sàng mọi sự, Ngài không để sự gì “nước tới chân mới nhảy.” Giống như khi Ngài chuẩn bị để có một con lừa để cỡi khi long trọng vào Thành, Chúa Giêsu cũng chuẩn bị sẵn một căn phòng để cử hành Lễ Vượt Qua với các môn đệ. Người sai hai môn đệ đi, và dặn họ: "Các anh đi vào thành, và sẽ có một người mang vò nước đón gặp các anh. Cứ đi theo người đó. Người đó vào nhà nào, các anh hãy thưa với chủ nhà: Thầy nhắn: "Cái phòng dành cho tôi ăn lễ Vượt Qua với các môn đệ của tôi ở đâu?” Và ông ấy sẽ chỉ cho các anh một phòng rộng rãi trên lầu, đã được chuẩn bị sẵn sàng: và ở đó, các anh hãy dọn tiệc cho chúng ta." Hai môn đệ ra đi. Vào đến thành, các ông thấy mọi sự y như Người đã nói. Và các ông dọn tiệc Vượt Qua.
- Chúa Giêsu cử hành Lễ Vượt Qua và lời tiên đóan phản bội: “Chiều đến, Đức Giêsu và Nhóm Mười Hai cùng tới. Đang khi dùng bữa, Người nói: "Thầy bảo thật anh em, có người trong anh em sẽ nộp Thầy, mà lại là người đang cùng ăn với Thầy." Người đáp: "Chính là một trong Nhóm Mười Hai đây, mà là người chấm chung một đĩa với Thầy. "
- Phản ứng của Chúa Giêsu: Rất can đảm và tự tin nơi kế họach của Thiên Chúa. Ngài có thể chỉ rõ Judah là người toan tính phản bội, hắn sẽ không thóat khỏi bàn tay của các tông-đồ khác, và Ngài sẽ thóat khỏi kế họach của hắn. Nhưng Chúa Giêsu không tố cáo Judah, Ngài cho hắn cơ hội để trở lại; nhưng Judah có tự do và đã chọn để làm ngơ trước lời cảnh cáo của Ngài: “Đã hẳn, Con Người ra đi theo như lời đã chép về Người. Nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người: thà kẻ đó đừng sinh ra thì hơn!”
- Phản ứng của các môn đệ: Các môn đệ đâm ra buồn rầu, và lần lượt hỏi Người: "Chẳng lẽ con sao?" Các môn đệ không biết người sẽ phản bội là ai trong trình thuật của Marcô, và cũng không ngờ người phản bội là Judah. Các ông có lẽ cũng biết sự yếu đuối của mình nên lần lượt hỏi Chúa như vậy.
(3) Chúa Giêsu thành lập Bí-tích Thánh Thể, Lễ Vượt Qua mới: Đang bữa ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho các ông và nói: "Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy." Và Người cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các ông, và tất cả đều uống chén này. Người bảo các ông: "Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra vì muôn người. Thầy bảo thật anh em: chẳng bao giờ Thầy còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến ngày Thầy uống thứ rượu mới trong Nước Thiên Chúa." Hát thánh vịnh xong, Đức Giê-su và các môn đệ ra núi Ôliu.
- Trong bối cảnh của Lễ Vượt Qua cũ, Chúa Giêsu muốn các môn đệ của Ngài hiểu những gì sắp xảy ra trong Lễ Vượt Qua mới. Giống như các ngôn sứ của Cựu Ước phải dùng biểu tượng và hành động, khi dân chúng đã quá quen và không còn hiểu được những gì Thiên Chúa muốn dạy dỗ qua các ngôn sứ nữa; chẳng hạn, Ahijah đã xé chiếc áo ra 12 mảnh và cho Vua Jeroboam 10 mảnh tượng trưng cho 10 chi tộc muốn Vua là người lãnh đạo của họ (1 Kgs 11:29-32), hay tiên-tri Jeremiah làm xiềng xích và gông cùm đeo vào người để cho dân biết những điều như vậy sẽ xảy đến cho dân trong tương lai (Jer 27:2). Chúa Giêsu cũng dùng hai biểu tượng của Lễ Vượt Qua cũ để các tông đồ hiểu những gì xảy ra trong Lễ Vượt Qua mới:
* Giống như tấm bánh không men bị bẻ ra cho mọi người ăn, Mình Ta cũng bị bẻ ra như vậy cho các con. Giống như ly rượu tạ ơn (ly thứ ba), Máu Ta cũng sẽ bị đổ ra như vậy để nhiều người nhận được ơn tha tội.
* Giao ước cũ Thiên Chúa thiết lập với dân là Giao-ước Sinai (Exo 24:3-8). Theo Giao-ước này, Thiên Chúa sẽ săn sóc và bảo vệ dân như dân của Ngài, phía người Do-thái, họ phải giữ cẩn thận Thập Giới. Vì người Do-thái đã vi phạm Giao-ước cũ bằng việc không giữ các Lề Luật, nên Chúa Giêsu phải thiết lập với dân một Giao-ước mới. Theo Giao-ước mới này, Máu của Chúa Giêsu phải đổ ra để chuộc tội cho con người. Họ không còn tùy thuộc vào Lề Luật để được sự săn sóc của Thiên Chúa; nhưng hòan tòan tùy thuộc vào tình yêu của Ngài, đặt căn bản trên Máu của Chúa Giêsu sắp đổ ra.
- Khi nói những lời này, Chúa Giêsu xác tín hai điều: (1) Ngài biết Ngài sắp chết, nhưng Ngài cũng biết Nước Thiên Chúa sắp tới. Ngài biết sẽ phải vác Thập Giá, nhưng vinh quang sẽ theo Ngài sau đó. (2) Tình yêu của Thiên Chúa và của Ngài cho con người sẽ thắng vượt tất cả các tội lỗi của họ.
(4) Chúa Giêsu tiên đoán sự phản bội của các môn đệ: Chúa Giêsu nói với các ông: "Tất cả anh em sẽ vấp ngã, vì Kinh Thánh đã chép: Ta sẽ đánh người chăn chiên, và chiên sẽ tan tác. Nhưng sau khi trỗi dậy, Thầy sẽ đến Galilee trước anh em."
- Chúa Giêsu biết trước và đã chuẩn bị hết những gì có thể cho các tông đồ: dạy dỗ, biến hình, báo trước ... nhưng những gì xảy ra sẽ phải xảy ra, đó là sự bỏ chạy của các ông. Ngài tin các ông sẽ nhận ra sự thật và tin vào Ngài chắc chắn hơn sau Cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Ngài.
- Phêrô không biết sức yếu đuối của mình, nên ông thưa Ngài: "Dầu tất cả có vấp ngã đi nữa, thì con cũng nhất định là không." Chúa Giêsu nói với ông: "Thầy bảo thật anh: hôm nay, nội đêm nay, gà chưa kịp gáy hai lần, thì chính anh, anh đã chối Thầy đến ba lần." Nhưng ông Phêrô lại nói quả quyết hơn: "Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy." Tất cả các môn đệ cũng đều nói như vậy. Chỉ có Thiên Chúa biết chắc chắn những gì sẽ xảy ra cho con người, con người không biết chắc chắn những gì sẽ xảy ra cho mình. Vì thế, phải tin những gì Thiên Chúa nói hơn những gì loài người hay chính mình nói.
(5) Chúa Giêsu cầu nguyện trong Vườn Ghetsemane: Sau đó, Chúa Giêsu và các môn đệ đến một thửa đất gọi là Ghetsemane. Người nói với các ông: "Anh em ngồi lại đây, trong khi Thầy cầu nguyện." Rồi Người đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo. Người bắt đầu cảm thấy hãi hùng xao xuyến. Người nói với các ông: "Tâm hồn Thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức." Trong giờ hấp hối trước Cuộc Thương Khó sắp tới, Chúa Giêsu muốn có sự liên hệ mật thiết với Cha Ngài và với các môn đệ; nhưng Ngài không nhận được sự đáp trả của bên nào: Cha dường như ẩn mặt; các tông đồ có mặt cũng như không! Loay hoay, chạy đi chạy lại trong vườn, Chúa Giêsu cảm thấy hầu như tất cả đều bỏ mình:
- Cầu nguyện lần thứ nhất: Người đi xa hơn một chút, sấp mình xuống đất mà cầu xin cho mình khỏi phải qua giờ ấy, nếu có thể được. Người nói: "Abba, Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều Cha muốn." Chúa Giêsu, trong thân xác con người, sợ hãi những gì sắp xảy ra cho Ngài; nên Ngài cầu xin Cha cất chén đắng, vì Ngài tin Thiên Chúa có thể làm mọi sự. Dẫu vậy, Ngài vẫn một lòng tuân phục thánh ý của Thiên Chúa hơn ý riêng mình. Trong những lúc tăm tối của cuộc đời, con người cũng sẽ cảm thấy như Chúa Giêsu: Thiên Chúa dường như cũng vắng mặt. Trong những lúc như thế, con người càng cần sống niềm tin vào Thiên Chúa hơn lúc nào hết.
Rồi Người trở lại tìm sự an ủi nơi con người, Ngài thấy các môn đệ đang ngủ, liền nói với ông Phêrô: "Simon, anh ngủ à? Anh không thức nổi một giờ sao? Anh em hãy canh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu đuối." Con người hứa hẹn rất nhiều, nhưng khi cần sự an ủi, chẳng có một ai. Trước giờ kinh hoàng sắp xảy đến, các ông vẫn ngủ; dù chỉ một giờ Chúa cần để cùng thức với Ngài, các ông cũng không thức nổi. Chúa nhắc nhở các ông một điều vô cùng cần thiết trong cuộc đời, dù các ông không nghe thấy: Phải canh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ; vì tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu đuối. Con người dễ sa ngã nhất khi con người không chuẩn bị; vì vậy, con người phải luôn biết chuẩn bị sẵn sàng.
- Cầu nguyện lần thứ hai: Người lại đi cầu nguyện, kêu xin như lần trước. Rồi Người trở lại, thấy các môn đệ vẫn ngủ, vì mắt họ nặng trĩu. Các ông chẳng biết trả lời làm sao với Người.
- Cầu nguyện lần thứ ba: Sau khi cầu nguyện, Người trở lại và bảo các ông: "Lúc này mà còn ngủ, còn nghỉ sao? Thôi, đủ rồi. Giờ đã điểm. Này Con Người bị nộp vào tay phường tội lỗi. Đứng dậy, ta đi nào! Kìa kẻ nộp Thầy đã tới!"
3.2/ Cuộc Thương Khó bắt đầu:
(1) Sự phản bội của Judah: Hắn biết rõ nơi Chúa Giêsu thường đến để cầu nguyện; và để phân biệt Chúa Giêsu với các môn đệ khác, hắn cho họ một dấu hiệu và dặn: "Tôi hôn ai thì chính là người đó. Các anh bắt lấy và điệu đi cho cẩn thận." Judah tiến lại gần Người và nói: "Thưa Thầy!" rồi hôn Người. Họ liền tra tay bắt Người. Cái hôn thường được con người dùng để tỏ tình yêu với nhau; người Do-thái có thói quen hôn thầy của họ. Đàng này, Judah lại dùng cái hôn để phản bội Thầy mình. Có lẽ Judah nghĩ ông có thể qua mặt Chúa Giêsu. Trong trình thuật của Luca, Chúa Giêsu vạch cho Judah thấy rõ ràng sự phản bội, khi Ngài nói: “Judah! Anh lấy chiếc hôn để nộp con người sao?” (Lk 22:48).
- Người rút gươm chém đứt tai tên đầy tớ của thượng tế là chính Phêrô, như được nói rõ ràng trong trình thuật của Gioan (Jn 18:10). Phản ứng này rất hợp với tính khí của Phêrô. Ông là người duy nhất có can đảm để bảo vệ Thầy mình.
- Chúa Giêsu nói với họ: "Tôi là một tên cướp sao mà các ông đem gươm giáo gậy gộc đến bắt? Ngày ngày, tôi vẫn ở giữa các ông, vẫn giảng dạy ở Đền Thờ, mà các ông không bắt. Nhưng thế này là để lời Sách Thánh được ứng nghiệm."
- Đúng như lời Chúa Giêsu tiên đóan: “Ta sẽ đánh chủ chăn và chiên sẽ tan tác.” Bấy giờ các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn hết. Họ sợ nếu ở lại, họ sẽ bị liên lụy và phải chịu thiệt thân.
(2) Cậu thanh niên theo Chúa bỏ chạy: “Trong khi đó có một cậu thanh niên đi theo Người, mình khoác vỏn vẹn một tấm vải gai. Họ túm lấy anh. Anh liền trút tấm vải lại, bỏ chạy trần truồng.”
Ai là người thanh niên này? Trước hết, hai câu này chỉ có trong Marcô mà thôi. Phải có lý do tại sao câu này chỉ có trong trình thuật của Marcô. Nhiều người suy đoán cậu thanh niên này chính là John Marcô, tác giả Tin Mừng Marcô. Khi những điều này xảy ra, cậu vẫn còn nhỏ; và nhà cậu ở không xa chỗ Chúa Giêsu dùng Lễ Vượt Qua bao nhiêu (Acts 12:12). Có người cho cậu thấy Judah dẫn người Do-thái đến bắt Chúa Giêsu tại nơi dùng Lễ Vượt Qua. Khi nghe Judah nói sẽ dẫn họ tới Vườn Ghetsemane, cậu vội cuốn tấm vải gai vào người và chạy vội đi loan báo cho các môn đệ trong đêm tối; nhưng khi đến nơi, họ đã tới trước cậu. Có người cho cậu đã có mặt trong Vườn Ghetsemane với Chúa ngay từ đầu. Đó là lý do cậu chứng kiến toàn thể cuộc hấp hối của Chúa Giêsu và tường thuật lại chi tiết, vì các môn đệ đều ngủ cả; và Chúa Giêsu không có cơ hội để nói lại cho các môn đệ, nhất là Phêrô, Thầy của Marcô.
Hai câu này có lẽ thuộc về Marcô. Cậu muốn cho mọi người biết cậu là nhân chứng khi những điều này xảy ra. Có lẽ vì khiêm nhường, cậu không muốn mọi người biết tên cậu.
(3) Cuộc thẩm vấn sơ khởi trước Thượng Hội Đồng: Họ điệu Chúa Giêsu đến vị Thượng Tế Tối Cao. Thượng Hội Đồng được coi như tòa án tối cao của người Do-thái, gồm có tất cả 71 người: các thượng tế, kỳ mục, và các kinh sư. Họ chỉ có quyền trên các vấn đề liên quan đến tôn giáo của người Do-thái mà thôi; và họ không có quyền giết người. Thượng Hội Đồng phải họp tại “Tòa Hewn Stone trong khu vực của Đền Thờ.” Họ đã phá rất nhiều luật không được làm khi xử Chúa Giêsu trong đêm đó. Luật không cho phép: xử người ban đêm, xử trong ngày Lễ Lớn, xét xử không đúng chỗ, các nhân chứng không được điều tra tại các nơi khác nhau và bằng chứng phải được đúng từng chi tiết, mỗi thành phần của Thượng Hội Đồng không cho sự cáo buộc riêng rẽ, bắt đầu từ người trẻ nhất. Nếu là bản án xử tử, thời gian một đêm cần thiết trước khi bản án được thi hành. Mục đích là để mọi thành phần của THĐ có cơ hội suy nghĩ cẩn thận, nếu cần được khoan hồng. Nói tóm, vì họ muốn lọai trừ Chúa Giêsu ngay, nên họ đã xử Chúa Giêsu một cách bất hợp pháp.
Bấy giờ các thượng tế và toàn thể Thượng Hội Đồng tìm lời chứng buộc tội Chúa Giêsu để lên án tử hình, nhưng họ tìm không ra, vì tuy có nhiều kẻ đưa chứng gian tố cáo Người, nhưng các chứng ấy lại không ăn khớp với nhau.
- Tội phá Đền Thờ: Có vài kẻ đứng lên cáo gian Người rằng: "Chúng tôi có nghe ông ấy nói: Tôi sẽ phá Đền Thờ này do tay người phàm xây dựng, và nội ba ngày, tôi sẽ xây một Đền Thờ khác, không phải do tay người phàm!" Nhưng ngay về điểm này, chứng của họ cũng không ăn khớp với nhau. Đây là một chứng gian, vì Chúa Giêsu bảo “Các ông cứ phá;” chứ Ngài không bảo “Tôi sẽ phá” (x/c Jn 2:19). Hơn nữa, Chúa Giêsu không có ý ám chỉ Đền Thờ Jerusalem, nhưng ám chỉ thân thể của Ngài.
- Tội phạm thượng: Vị Thượng Tế lại hỏi Người: "Ông có phải là Đấng Kitô, Con của Đấng Đáng Chúc Tụng không?" Đức Giêsu trả lời: "Phải, chính thế. Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến." Vị Thượng Tế liền xé áo mình ra và nói: "Chúng ta cần gì nhân chứng nữa? Quý vị vừa nghe hắn nói phạm đến Thiên Chúa, quý vị nghĩ sao?"
Vị Thượng Tế vi phạm Luật trầm trọng khi hỏi Chúa Giêsu câu hỏi này, vì Luật không cho phép THĐ hỏi người bị cáo những câu hỏi mà người bị cáo khi trả lời có thể liên quan chính mình trong đó. Vị Thượng Tế biết Chúa Giêsu sẽ trả lời khi hỏi đến sự liên hệ giữa Chúa Giêsu và Thiên Chúa, vì Ngài không thể nói dối. Chúa Giêsu không chút do dự trả lời Ngài chính là Đấng Thiên Sai, một đàng đó là sự thật, một đàng Ngài nghĩ cần chấm dứt trò bẩn thỉu của THĐ. Qua câu trả lời, Ngài muốn cho họ thấy Ngài có dư can đảm để nói sự thật, dẫu sự thật mang lại cho Ngài án tử hình. Nếu Ngài không trả lời điều đó, họ không có lý do để buộc tội Ngài. Điều khác Ngài muốn cho họ thấy, tất cả những gì họ sẽ làm cho Ngài chỉ tạm thời. Họ sẽ nhìn thấy chiến thắng vinh quang của Ngài sau Cuộc Thương Khó.
Nghe lời Vị Thượng Tế buộc tội Chúa Giêsu, tất cả đều kết án Người đáng chết. Thế là một số bắt đầu khạc nhổ vào Người, bịt mặt Người lại, vừa đánh đấm Người vừa nói: "Hãy nói tiên tri đi!" Và đám thuộc hạ tát Người túi bụi.
(4) Phêrô cũng trải qua cuộc thanh luyện đồng thời với Chúa Giêsu: Ông Phêrô theo Người xa xa, vào tận bên trong dinh Thượng Tế, và ngồi sưởi bên đống lửa với đám thuộc hạ. Hai cuộc tra vấn xảy ra đồng thời: khi Chúa Giêsu bị thẩm vấn cách công khai trong dinh, ông Phêrô bị thẩm vấn cách âm thầm ngòai dinh.
- Chối lần thứ nhất: Ông Phêrô đang ở dưới sân, có một người tớ gái của Thượng Tế đi tới; thấy ông ngồi sưởi, cô ta nhìn ông chòng chọc mà nói: "Cả bác nữa, bác cũng đã ở với cái ông người Nazareth, ông Giêsu đó chứ gì!" Ông liền chối: "Tôi chẳng biết, chẳng hiểu cô muốn nói gì!" Rồi ông bỏ đi ra phía tiền sảnh. Bấy giờ có tiếng gà gáy lần thứ nhất. Đàn bà lắm chuyện, tuy vậy, cũng làm cho Phêrô phải sợ hãi bỏ đi.
- Chối lần thứ hai: Người tớ gái thấy ông, lại bắt đầu nói với những người đứng đó: "Bác này cũng thuộc bọn chúng đấy." Nhưng ông Phêrô lại chối.
- Chối lần thứ ba: Một lát sau, những người đứng đó lại nói với ông: "Đúng là bác thuộc bọn chúng, vì bác cũng là người Galilee!" Nhưng ông Phêrô liền thốt lên những lời độc địa và thề rằng: "Tôi thề là không có biết người các ông nói đó!" Ngay lúc đó, gà gáy lần thứ hai. Ông Phêrô sực nhớ điều Chúa Giêsu đã nói với mình: "Gà chưa kịp gáy hai lần, thì anh đã chối Thầy đến ba lần." Thế là ông oà lên khóc.
Dẫu Phêrô chối Chúa ba lần, ông vẫn can đảm hơn các tông đồ khác, vì các ông không dám theo Chúa Giêsu vào dinh. Khác với Judah, ông nhận ra sự phản bội của mình, và tiếng khóc trong lòng của ông giúp ông bắt đầu tiến trình giao hòa và làm chứng cho Chúa Giêsu.
(5) Chúa Giêsu trước tòa Philatô: Vừa tảng sáng, các thượng tế đã họp bàn với các kỳ mục và kinh sư, tức là toàn thể Thượng Hội Đồng. Sau đó, họ trói Đức Giêsu lại và giải đi nộp cho ông Philatô. Như đã nói, THĐ chỉ có quyền trên những vấn đề thuộc tôn giáo và không có quyền ra án tử hình cho bị cáo. Vì thế, sau khi đã tìm được lý do để buộc tội Chúa Giêsu phạm thượng, họ phải tìm một lý do chính trị khác để kiếm án tử hình cho Chúa Giêsu; vì họ biết rằng Philatô sẽ không quan tâm đến những bất đồng ý kiến về tôn giáo, như trình thuật của Luca ghi lại. Họ tìm được một lý do chính trị để Philatô có thể kết án Chúa: Chúa Giêsu xưng mình là Vua dân Do-thái. Khi xưng mình là Vua dân Do-thái là chống lại quyền lực của đế quốc Roma và hòang đế Caesar.
- Chúa Giêsu là Vua dân Do-thái: Ông Philatô hỏi Người: "Ông là vua dân Do-thái sao?" Người trả lời: "Đúng như ngài nói đó." Các thượng tế tố cáo Người nhiều tội, nên ông Philatô lại hỏi Người: "Ông không trả lời gì sao? Nghe kìa, họ tố cáo ông biết bao nhiêu tội!" Nhưng Chúa Giêsu không trả lời gì nữa, khiến ông Philatô phải ngạc nhiên.
Câu trả lời của Chúa Giêsu không hoàn toàn tích cực “Đúng vậy;” nhưng "Đúng như ngài nói đó." Chúa Giêsu muốn nói với Philatô: không phải là vua theo nghĩa chính trị như người Do-thái tố cáo; nhưng là vua theo nghĩa tôn giáo mà thôi. Trong trình thuật của Gioan, Chúa Giêsu nói rõ hơn: “Nước tôi không thuộc về thế gian này ... ” (Jn 18:36).
- Họ coi Chúa Giêsu không bằng một tên cướp, Barabba: “Vào mỗi dịp lễ lớn, ông thường phóng thích cho dân một người tù, tuỳ ý họ xin. Khi ấy có một người tên là Barabba, đang bị giam với những tên phiến loạn đã giết người trong một vụ nổi dậy. Đám đông kéo nhau lên yêu cầu tổng trấn ban ân xá như thường lệ. Đáp lời họ yêu cầu, ông Philatô hỏi: "Các ông có muốn ta phóng thích cho các ông vua dân Do-thái không?" Bởi ông thừa biết chỉ vì ghen tỵ mà các thượng tế nộp Người. Nhưng các thượng tế sách động đám đông đòi ông Philatô phóng thích tên Barabba thì hơn.”
- Họ kêu xin đóng đinh Chúa Giêsu, Vua dân Do-thái: Ông Philatô lại hỏi: "Vậy ta phải xử thế nào với người mà các ông gọi là vua dân Do-thái?" Họ la lên: "Đóng đinh nó vào thập giá!" Ông Philatô lại hỏi: "Nhưng ông ấy đã làm điều gì gian ác?" Họ càng la to: "Đóng đinh nó vào thập giá!"
- Chúa Giêsu chịu đánh đòn: Vì muốn chiều lòng đám đông, ông Philatô phóng thích tên Barabba, truyền đánh đòn Chúa Giêsu, rồi trao Người cho họ đóng đinh vào thập giá.
- Chúa Giêsu chịu đội mão gai: “Lính điệu Đức Giêsu vào bên trong công trường, tức là dinh tổng trấn, và tập trung cả cơ đội lại. Chúng khoác cho Người một tấm áo điều, và kết một vòng gai làm vương miện đặt lên đầu Người. Rồi chúng bái chào Người: "Vạn tuế đức vua dân Do-thái!" Chúng lấy cây sậy đập lên đầu Người, khạc nhổ vào Người, và quỳ gối bái lạy. Chế giễu chán, chúng lột áo điều ra, và cho Người mặc áo lại như trước. Sau đó, chúng dẫn Người đi để đóng đinh vào thập giá.”
- Chúng bắt ông Simon Cyrene vác đỡ Thánh Giá Chúa: “Lúc ấy, có một người từ miền quê lên, đi ngang qua đó, tên là Simon, gốc Cyrênê. Ông là thân phụ hai ông Alexandre và Ruphô. Chúng bắt ông vác thập giá đỡ Đức Giêsu. Chúng đưa Người lên một nơi gọi là Golgotha, nghĩa là Đồi Sọ. Chúng trao rượu pha mộc dược cho Người, nhưng Người không uống.”
(6) Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên Thập Giá:
- Quân dữ nhục mạ và thách thức Chúa Giêsu: “Chúng đóng đinh Người vào thập giá, rồi đem áo Người ra bắt thăm mà chia nhau, xem ai được cái gì. Lúc chúng đóng đinh Người là giờ thứ ba. Bản án xử tội Người viết rằng: "Vua người Do-thái." Bên cạnh Người, chúng còn đóng đinh hai tên cướp, một đứa bên phải, một đứa bên trái. (Thế là ứng nghiệm lời Kinh Thánh: Người bị liệt vào hạng những tên phạm pháp).”
- Kẻ qua người lại đều nhục mạ Người, vừa lắc đầu vừa nói: "Ê, mi là kẻ phá Đền Thờ, và nội trong ba ngày xây lại được,30 có giỏi thì xuống khỏi thập giá mà cứu mình đi!"
- Các thượng tế và kinh sư cũng chế giễu Người như vậy, họ nói với nhau: "Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình. Ông Kitô vua Israel, cứ xuống khỏi thập giá ngay bây giờ đi, để chúng ta thấy và tin." Cả những tên cùng chịu đóng đinh với Người cũng nhục mạ Người.”
- Chúa Giêsu hấp hối trên Thập Giá: “Vào giờ thứ sáu, bóng tối bao phủ khắp mặt đất mãi đến giờ thứ chín. Vào giờ thứ chín, Chúa Giêsu kêu lớn tiếng: "Eloi, Eloi, lama sabacthani!" Nghĩa là: "Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?" Nghe vậy, một vài người đứng đó liền nói: "Kìa hắn kêu cứu ông Elijah." Rồi có kẻ chạy đi lấy một miếng bọt biển, thấm đầy giấm, cắm vào một cây sậy, đưa lên cho Người uống mà nói: "Để xem ông Elijah có đến đem hắn xuống không."”
- Chúa Giêsu trút hơi thở cuối cùng: “Đức Giê-su lại kêu lên một tiếng lớn, rồi tắt thở.Bức màn trướng trong Đền Thờ bỗng xé ra làm hai từ trên xuống dưới.”
- Viên đại đội trưởng tuyên xưng Đức Kitô là Con Thiên Chúa: Viên đại đội trưởng đứng đối diện với Đức Giêsu, thấy Người tắt thở như vậy liền nói: "Quả thật, người này là Con Thiên Chúa."
- Các phụ nữ dưới chân Thập Giá: 3 phụ nữ? Đức Mẹ Maria? Nhiều bà khác?“ Nhưng cũng có mấy phụ nữ đứng xa xa mà nhìn, trong đó có bà Maria Magdala, bà Maria mẹ các ông Giacôbê Thứ và Joseph, cùng bà Salômê. 41 Các bà này đã đi theo và giúp đỡ Đức Giêsu khi Người còn ở Galilee. Lại có nhiều bà khác đã cùng với Người lên Jerusalem, cũng có mặt tại đó.”
(7) Tháo đanh và táng xác Chúa Giêsu:
- Ông Joseph Arimathea xin thi hài Chúa Giêsu: “Chiều đến, vì hôm ấy là ngày áp lễ, tức là hôm trước ngày Sabbath, nên ông Joseph tới. Ông là người thành Arimathea, thành viên có thế giá của Hội Đồng, và cũng là người vẫn mong đợi Triều Đại của Thiên Chúa. Ông đã mạnh dạn đến gặp tổng trấn Philatô để xin thi hài Đức Giêsu.”
- Quan Philatô ngạc nhiên khi nghe Chúa Giêsu đã chết: “Nghe nói Người đã chết, ông Philatô lấy làm ngạc nhiên, và cho đòi viên đại đội trưởng đến, hỏi xem Người đã chết lâu chưa.Sau khi nghe viên sĩ quan cho biết sự việc, tổng trấn đã cho ông Joseph lãnh lấy thi hài.”
- Táng xác Chúa Giêsu trong mồ: “Ông này mua một tấm vải gai, hạ xác Đức Giêsu xuống, lấy tấm vải ấy liệm Người lại, đem đặt vào ngôi mộ đã đục sẵn trong núi đá, rồi lăn tảng đá lấp cửa mộ. Còn bà Maria Magdala và bà Maria mẹ ông Joseph, thì để ý nhìn xem chỗ họ mai táng Người.”

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúa Giêsu chịu đau khổ để con người được sống.
- Đau khổ giúp con người nên hoàn thiện và giúp con người thông cảm với những người đồng cảnh ngộ.
- Qua Cuộc Thương Khó, chúng ta nhận ra rõ ràng tình thương Thiên Chúa và sự gian dối ác độc của con người.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

29/03/15 CHÚA NHẬT LỄ LÁ – B 
Tưởng niệm cuộc Thương Khó của Chúa
Mc 11,1-10

Suy niệm: Dân chúng Giê-ru-sa-lem vừa reo hò tung hô Đức Giê-su: “Hoan hô Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa” trong ngày Ngài vào thành thánh cách trọng thể, thì ít ngày sau, cũng chính họ lại nhao nhao tố cáo và kết án tử cho Ngài. Nghi thức kiệu lá và bài Thương Khó trong phụng vụ thánh lễ ngày Lễ Lá nêu bật tính cách tương phản ấy. Lòng người thay đổi thật nhanh nhưng đồng thời cũng thật dễ bị giật dây, bị tác động. Họ dễ dàng hoà mình vào cái hào khí của đám đông để hoan hô, chúc tụng Đức Giê-su như Đấng Mê-si-a mà họ đang đợi trông. Liền sau đó, họ cũng thật vô ý thức và hèn nhát hùa theo đám đông để đả đảo, đòi lên án tử hình cho Đấng vô tội.
Mời Bạn: Chúng ta vừa chứng kiến một sự sai lầm ghê gớm dẫn đến hậu quả là kết án và giết chết Đấng Cứu Thế. Lắm khi chúng ta cũng áp dụng cung cách sống đó như khuôn vàng thước ngọc để khỏi chuốc lấy bao sự rắc rối: Phán đoán theo chiều gió của dư luận, hành xử theo kiểu ‘ai sao tôi vậy, ai làm bậy tôi làm theo’. Chính vì vậy mà chúng ta không dám tuyên xưng đức tin, không dám bênh vực cho lẽ phải, trái lại, về hùa với số đông, kết án đối xử tệ bạc với những anh chị em thấp bé, nghèo hèn.
Chia sẻ: Có khi nào bạn thấy một người chịu cảnh bất công mà bạn không dám lên tiếng bênh vực?
Sống Lời Chúa: Ta đừng kết án để khỏi bị kết án.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, bản tính con người yếu đuối của con hay xúi giục con lên án, đổ lỗi cho người khác. Xin đừng để con lên án một ai nữa, để ngay bây giờ con đáng được Chúa thứ tha. Amen.

Xin đừng theo ý Con (29.3.2015 – Chúa nhật Lễ Lá, Năm B)
Suy Niệm

Chúa Nhật Lễ Lá là một lễ vui,
nhưng cũng là ngày tưởng niệm cuộc khổ nạn của Chúa.
Chúng ta chứng kiến hai đám rước trái ngược nhau.
Trong ngày Lễ Lá, Ðức Giêsu được đón rước vào thành,
giữa tiếng hò reo vang dậy.
Ngài như vị Vua Mêsia lẫm liệt trên lưng lừa.
đi trên con đường của những nhành cây xanh mới chặt.
Sau đó ít ngày là đám rước lên núi Sọ.
Không có tiếng tung hô, chỉ có lời kết án.
Không có những nhành cây, chỉ có cây thập giá.
Ngày xưa, có ai tham dự cả hai đám rước đó không?
Chúng ta thường mệt mỏi khi nghe bài Thương Khó,
và thấy mình dửng dưng, xa lạ, bàng quan.
Thật ra nỗi khổ đau và cái chết của Chúa
là vì tôi, vì yêu mến tôi (x. Gl 2,20).
Cần nghe đọc bài Thương Khó một cách chậm rãi,
và bước theo Chúa qua từng chặng đường.
Hãy ở lại với Chúa trong lúc khó khăn này.
Cần cảm nghiệm được nỗi cô đơn của Chúa.
Ba môn đệ thân tín đã bỏ rơi Ngài.
Họ ngủ say để mặc Ngài một mình khắc khoải.
Giuđa chỉ điểm bắt Ngài bằng một nụ hôn.
Các môn đệ sợ hãi bỏ Ngài mà chạy trốn.
Phêrô thề là không hề quen biết Ngài.
Ðức Giêsu cô đơn trước đám đông cuồng nộ.
Họ bị kích động đòi đóng đinh Ngài.
Họ coi Ngài còn thua Baraba là tên phiến loạn.
Không rõ đám đông Ngài đã nuôi ăn, nay ở đâu?
Ðức Giêsu đã đi đến tột cùng của nỗi cô đơn
khi Ngài cảm thấy chính Cha cũng vắng bóng:
Lạy Thiên Chúa tôi, tại sao Ngài bỏ tôi?
Cần cảm nghiệm nỗi đau trên thân xác Chúa.
Khuôn mặt ngời sáng của Con Thiên Chúa làm người
nay bị khạc nhổ, bị tát, bị đánh túi bụi.
Ðôi mắt với cái nhìn bao dung ấy
nay bị bịt lại để làm một trò chơi trẻ con.
Tấm thân đã gánh lấy nỗi đau của bao người
giờ đây được phơi ra cho những trận roi cầy nát.
Ðôi bàn tay đã chữa bệnh và chúc lành,
nay co quắp và bầm tím vì những mũi đinh.
Ðôi bàn chân từng rong ruổi khắp nẻo đường truyền giáo,
nay không đủ sức nâng cả thân mình đang trĩu nặng.
Cần cảm nghiệm nỗi ô nhục của Chúa.
Danh dự và phẩm giá vẫn là điều đáng trọng.
Ðức Giêsu bị bắt làm hề, đóng vai Vua dân Do Thái,
được mặc cẩm bào, được đội triều thiên, được cầm vương trượng.
Có vị vua nào được bái lạy như vị vua này không?
Ðức Giêsu bị lột áo trước khi bị đóng đinh.
Con Thiên Chúa đỏ mặt trước cái nhìn của thế giới!
Cuộc thương khó của Chúa vẫn kéo dài đến tận thế.
Thập giá của Chúa, của tôi, của anh em tôi, là một.
Chúa mời tôi vác thập giá của mình theo Chúa hàng ngày,
và giúp tha nhân vác thập giá của họ.
Ước gì thế giới có thật nhiều Simon Kyrênê.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
vì Chúa đã bẻ tấm bánh trao cho chúng con,
xin cho những người nghèo khổ được no đủ.
Vì Chúa đã xao xuyến trong Vườn Dầu,
xin cho các bạn trẻ đủ sức đối diện
với những khó khăn gay gắt của cuộc sống.
Vì Chúa bị kết án bất công,
xin cho chúng con can đảm bênh vực sự thật.
Vì Chúa bị làm nhục và nhạo báng,
xin cho phụ nữ và trẻ em được tôn trọng.
Vì Chúa chịu vác thập giá nặng nề,
xin cho những người bệnh tật được đỡ nâng.
Vì Chúa bị lột áo và đóng đinh,
xin cho sự hiền hoà thắng được bạo lực.
Vì Chúa dang tay chết trên thập giá,
xin cho đất nối lại với trời,
con người nối lại mối dây liên đới với nhau.
Vì Chúa đã phục sinh trong niềm vui oà vỡ,
xin cho chúng con biết đón lấy đời thường
với tâm hồn thanh thản bình an. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
29 THÁNG BA
Một Viễn Tượng Mới Về Lịch Sử Nhân Loại
Mầu nhiệm Vượt Qua là thực tại thần linh đơn nhất chứa đựng cả Nhập Thể và Cứu Chuộc – được Thiên Chúa mạc khải cho con người. Mầu nhiệm này được Thiên Chúa mạc khải cho trái tim và lương tâm của mỗi người trong chúng ta. Mỗi người trong chúng ta đều dự phần trong mầu nhiệm xuyên qua di sản tội lỗi vốn dẫn con người – từ thế hệ này sang thế hệ khác – đến sự chết. Mỗi người trong chúng ta đều tìm thấy trong thực tại này sức mạnh để chiến thắng tội lỗi.
Mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Giê-su Kitô không chấm dứt ở cái chết tự hiến của Người. Nó không thể bị phủ lấp bởi tảng đá lớn mà người ta lăn ra để đóng kín ngôi mộ sau cái chết của Đức Giêsu trên đồi Gôn-gô-tha.
Vào ngày thứ ba, tảng đá này sẽ được lăn ra khỏi bởi quyền năng Thiên Chúa, và nó sẽ bắt đầu “cất tiếng lên”. Tảng đá cất tiếng lên để nói như Thánh Phao-lô: “…Chính vì thế, Thiên Chúa đã tôn dương Người và tặng ban cho Người một danh hiệu vượt quá mọi danh hiệu, để khi nghe Danh Giê-su, mọi vật trên trời dưới đất và trong địa ngục đều phải quì gối sập lạy, và mọi miệng lưỡi đều phải tuyên xưng rằng Đức Giê-su Kitô là Chúa” (Pl 2,9-11). Như vậy, sự cứu chuộc cũng có nghĩa là sự tôn dương.
Sự tôn dương của Đức Kitô – tức cuộc Phục Sinh của Người – đem lại cho chúng ta một viễn tượng hoàn toàn mới về lịch sử nhân loại. Do kế thừa di sản tội lỗi, con người vốn ở dưới ách thống trị của sự chết. Nhưng Đức Kitô đã mở ra cho chúng ta kỷ nguyên của sự sống vượt thắng sự chết. Sự chết là một phần của thực tại thế giới hữu hình. Nhưng sự sống thì ở chính nơi Thiên Chúa. Thiên Chúa của sự sống nói với chúng ta xuyên qua Thập Giá và cuộc Phục Sinh của Con Ngài.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 29-3
Chúa Nhật Lễ Lá
(Tưởng niệm cuộc Thương Khó của Chúa)
Làm phép và rước lá

Mc 11,1-10.
Đấng Cứu Độ
Từ Giê-ri-khô, Chúa Giêsu ‘lên” Giê-ru-sa-lem cùng với đoàn người dự lễ Vượt Qua. Trong số này, có người từ Ga-li-lê. Nhận ra Đức Giêsu trong đám hành hương, họ nghĩ rằng: Người sẽ để dân chúng tôn Người làm Đấng Mê-si-a.
Cho đến thời điểm này, Chúa Giêsu luôn từ chối để người ta tôn mình làm Đấng Mê-si-a, vì họ chờ đợi một sự giải thoát khác với điều Người đem đến cho họ. Nhưng vào lúc này, sứ vụ của người sắp chấm dứt, thì đã đến giờ Đức Giêsu phải tỏ mình ra cách công khai: Người là Đấng Thiên Chúa sai đến, và sau Người sẽ không còn Đấng nào khác.
Đức Giêsu được Thiên Chúa sai đến với mọi dân tộc, nhưng tiên vàn Người đến như Đấng Cứu Độ của dân Ít-ra-en. Người đã đến đúng vào thời điểm dân tộc này cần được cứu độ, vì mọi sự ngày càng xấu hơn. Các Ngôn sứ đã loan báo một vị Vua hiền hòa, đến viếng thăm dân, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa như người dân đơn sơ hiền hòa, thay vì ngồi trên lưng ngựa như vị tướng quân. Vì thế, Chúa Giêsu đã quyết định đi vào thành Giê-ru-sa-lem theo cách thức ấy. các người Ga-li-lê tỏ ra hồ hởi đến ồn ào náo động nhưng Người không lôi cuốn được cư dân trong thành.
Người Do-thái không nghĩ rằng Đấng Cứu Độ của họ lại đến một cách khiêm tốn như thế. Suốt dòng lịch sử, nhiều lần Thiên Chúa đã giải thoát họ khỏi cảnh áp bức, đói khát bởi những người Thiên Chúa sai tới. Lần này Đấng Cứu Độ đích thân đến chỉ cho họ con đường cứu độ là tha thứ và bất bạo động, nhưng họ đã không nhận ra Người. Ngay cả những người Ga-li-lê đang hoan hô nghênh đón Người. (chú giải trong sách Lời Chúa cho mọi người).
Lạy Chúa Giêsu, hôm nay chúng con đang cầm trên tay những cành lá vừa đi vừa tung hô Chúa. Xin cho mọi thành viên trong gia đình chúng con luôn tin và tung hô Chúa trong mọi lúc và mọi nơi chúng con đang sống: Chúa là Đấng Cứu Độ con.
Thánh Lễ

Is 50,4-7; Pl 2,6-11; Mc 14,1-15,47.
LỜI SUY NIỆMTôi bảo thật các ông: :Hễ Tin Mừng được loan báo đến đâu trong khắp thiên hạ, thì nơi đó việc cô vừa làm cũng sẽ được kể lại để nhớ tới cô.”
Chúa Nhật lễ Lá mở đầu cho Tuần Thánh. Giáo Hội mời gọi con cái của mình thể hiện tình yêu Chúa. Muốn thể hiện tình yêu Chúa, chúng ta phải khám phá và cảm nghiệm được tình yêu của Chúa đối với chúng ta, muốn kiểm chứng điều này, chúng ta cần phải xét mình lại, những gì mình đã sống, đã xúc phạm đến Chúa, xúc phạm đến những người chung quanh, những người thân trong gia đình, và chính với bản thân mình. Xét mình lại với những bổn phận mình phải thực hiện mà mình chưa chu toàn, nhưng với Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã vì yêu thương con người, yêu thương chúng ta đã thí mạng vì chúng ta. Chuộc tội chúng ta. Khi đó chúng ta mới thấy tình yêu của Chúa chúng ta là quan trọng và cần thiết cho chúng ta, giúp chúng có sự đáp trả tình yêu với Chúa một cách chân tình sốt sắng
Lạy Chúa Giêsu. Xin cho mọi thành viên trong gia đình chúng con yêu mến Chúa trên hết mọi sự, để chúng con sống xứng đáng với ơn Cứu Độ của Chúa.
Mạnh Phương


29 Tháng Ba
Khúc Nhạc Tuyệt Vời
Một đêm kia, ông Paganini, một nhạc sĩ vĩ cầm nổi tiếng vào thế kỷ 19 bước ra sân khấu và chỉ khám phá nhạc khí ông đang cầm trên tay có cái gì bất bình thường sau khi những tràng pháo tay của khán giả ngưỡng mộ ông nổi lên vang dậy và chấm dứt. Nhìn kỹ lại chiếc đàn lần thứ hai, nhạc sĩ Paganini mới nhận thấy đây không phải là cây vĩ cầm tuyệt hảo quen thuộc đã đưa ông lên đài danh vọng.
Ông đứng bất động trong giây phút, rồi bắt buộc phải lên tiếng xin lỗi khán giả đang nóng lòng chờ đợi nghe những điệu nhạc tuyệt diệu của ông. Paganini giải thích: "Vì lý do kỹ thuật, xin quý vị vui lòng chờ đợi trong giây phút vì tôi đã lấy lộn cây đàn". Cáo lỗi xong, Paganini lách mình sau bức màn sân khấu và yên trí là cây đàn bất hủ của mình vẫn nằm nơi ông đã đặt nó. Nhưng ông không khỏi bàng hoàng khi nhận ra là có người đã đánh cắp nhạc khí quý giá của ông khỏi thùng đàn và đã đặt một cây đàn rẻ tiền khác thay thế vào. Nhạc sĩ Paganini đứng yên như bức tượng một hồi lâu rồi như một ý nghĩ gì lóe lên trong trí óc, ông cương quyết cầm cây đàn tầm thường bị đánh tráo trở lại sân khấu và lớn tiếng tuyên bố:
"Kính thưa quý vị, ai đó đã đánh cắp cây đàn quý giá của tôi, nhưng trong buổi trình diễn này, tôi muốn chứng minh cùng quý vị là: vẻ đẹp và cái tinh túy của nhạc không nằm trong nhạc khí, nhưng nằm trong tâm hồn của nhạc sĩ".
Nói xong, nhạc sĩ tài ba bắt đầu dạo nhạc và từ cây vĩ đàn tầm thường ông đã say sưa trình diễn những khúc nhạc tuyệt vời tưởng chừng như bất tận, cho đến khi khán giả say mê ngây ngất, đã đứng dậy vỗ tay tán thưởng vang dậy vì ông Paganini đã thật sự chứng minh với họ là: Tinh thần nhạc không tùy thuộc ở trong nhạc khí nhưng hàm ẩn trong tâm hồn của nhạc sĩ.
Ðây cũng là sứ mệnh của các tín hữu Kitô: Hằng ngày sau một giấc ngủ yên, họ bừng chỗi dậy để ra sân khấu cuộc đời trình diễn khúc nhạc: "Thiên Chúa là Tình Yêu". Gặp thời kỳ thuận tiện hay bất lợi, gặp môi trường sinh sống xứng hợp với khúc nhạc hay không, gặp những người chung sống có chấp nhận hay từ chối, cuộc sống của người Kitô hữu phải chứng minh rằng: Khúc nhạc "Thiên Chúa là Tình Yêu" không thể bị lệ thuộc vào những hoàn cảnh, vào những môi trường sinh sống bên ngoài, nhưng phải là khúc nhạc xuất phát từ tâm hồn như những điệu nhạc tuyệt vời của nhạc sĩ Paganini không bị lệ thuộc vào nhạc khí, nhưng đã xuất phát từ tâm hồn điêu luyện say mê âm nhạc của ông.
(Lẽ Sống)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét