16/04/2018
Thứ Hai tuần 3 Phục Sinh
BÀI ĐỌC I: Cv 6,
8-15
"Họ không thể đương đầu với sự khôn ngoan và Thánh Thần vẫn giúp cho ông nói".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
"Họ không thể đương đầu với sự khôn ngoan và Thánh Thần vẫn giúp cho ông nói".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, Têphanô đầy ân sủng và sức mạnh, làm nên những điều kỳ diệu và những phép lạ cả thể trong dân. Bấy giờ có nhóm người kia thuộc hội đường mệnh danh là "của những người Tự Do, người Xirênê và Alexandria", và những người khác từ xứ Cilicia và Tiểu Á, đã nổi dậy. Họ tranh luận với Têphanô, nhưng họ không thể đương đầu với sự khôn ngoan và Thánh Thần vẫn giúp cho ông nói. Họ xúi giục một số người nói lên rằng: "Chúng ta đã nghe nó nói những lời lộng ngôn phạm đến Môsê và Thiên Chúa". Họ xách động dân chúng, các kỳ lão và luật sĩ; rồi họ tuôn đến bắt Têphanô điệu tới công nghị. Họ đưa ra những người làm chứng gian nói rằng: "Tên này không ngớt nói những lời xúc phạm đến nơi thánh và lề luật, vì chúng tôi nghe nó nói rằng: 'Ông Giêsu Nadarét sẽ phá nơi này, và thay đổi các tập tục Môsê truyền lại cho chúng ta'". Toàn thể cử toạ trong công nghị chăm chú nhìn Têphanô, thấy mặt người giống như mặt thiên thần. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 118, 23-24. 26-27. 29-30
Đáp: Phúc cho ai theo đường lối tinh toàn (c. 1a).
Hoặc đọc: Alleluia.
1) Dầu vua chúa hội lại và buông lời đả kích, tôi tớ Ngài
vẫn suy gẫm về thánh chỉ Ngài. Vì các lời nghiêm huấn của Ngài là điều con ưa thích, các thánh chỉ Ngài là những bậc cố vấn của con. - Đáp.
2) Con
đã trình bày đường lối của con và Chúa nghe con, xin dạy bảo con các thánh chỉ
của Ngài. Xin cho con am hiểu đường lối huấn lệnh của Chúa, để con suy gẫm các
điều kỳ diệu của Ngài. - Đáp.
3) Xin
đưa con xa cách con đường gian dối, và rộng tay ban luật pháp của Ngài cho con.
Con đã chọn con đường chân lý, con quyết tâm theo các thánh chỉ của
Ngài. - Đáp.
ALLELUIA: Ga 16,
28
Alleluia, alleluia! - Thầy bởi Cha mà ra, và đã đến trong thế gian, rồi bây giờ Thầy bỏ thế gian mà về cùng Cha. - Alleluia.
Alleluia, alleluia! - Thầy bởi Cha mà ra, và đã đến trong thế gian, rồi bây giờ Thầy bỏ thế gian mà về cùng Cha. - Alleluia.
PHÚC ÂM: Ga 6,
22-29
"Hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát,
nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống đời đời".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
"Hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát,
nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống đời đời".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Hôm sau, đám người còn ở lại bên kia biển thấy rằng không có thuyền nào khác, duy chỉ có một chiếc, mà Chúa Giêsu không lên thuyền đó với các môn đệ, chỉ có các môn đệ ra đi mà thôi. Nhưng có nhiều thuyền khác từ Tibêria đến gần nơi dân chúng đã được ăn bánh sau khi Chúa dâng lời tạ ơn. Khi đám đông thấy không có Chúa Giêsu ở đó, và môn đệ cũng không, họ liền xuống các thuyền kia và đến Capharnaum tìm Chúa Giêsu.
Khi gặp Người ở bờ biển bên kia, họ nói với Người: "Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ?" Chúa Giêsu đáp: "Thật, Ta bảo thật các ngươi, các ngươi tìm ta không phải vì các ngươi đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn bánh no nê. Các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống đời đời, là của ăn Con Người sẽ ban cho các ngươi. Người là Đấng mà Thiên Chúa Cha đã ghi dấu". Họ liền thưa lại rằng: "Chúng tôi phải làm gì để gọi là làm việc của Thiên Chúa?" Chúa Giêsu đáp: "Đây là công việc của Thiên Chúa, là các ngươi hãy tin vào Đấng Ngài sai đến". Đó là lời Chúa.
SUY NIỆM : Hoán cải nội
tâm
Ở thời đại nào, đám
đông cũng có thể là một sức mạnh mù quáng, hành động thiếu suy nghĩ và bị lôi
cuốn bởi những dòng chảy của sự dữ. Trước khi bị các thượng tế và tổng trấn
Philatô kết án, Chúa Giêsu đã bị chính đám đông kết án. Cái đám đông đã từng
tung hô Ngài trong ngày Ngài khải hoàn tiến vào Giêrusalem, cũng cái đám đông ấy
gào thét, đòi đóng đinh Ngài vào thập giá. Bi kịch ấy dường như được thánh
Gioan báo trước qua đoạn Tin Mừng được Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe và suy
niệm hôm nay. Ðám đông được Chúa Giêsu cho ăn no nê ngày hôm trước, ngày hôm
sau vẫn còn đứng bên kia bờ Biển hồ. Chúa Giêsu đã đọc được động lực thúc đẩy họ
tìm kiếm Ngài, họ đã đi tìm kiếm Ngài không phải vì Ngài là đối tượng của khát
vọng tìm kiếm của họ, mà chỉ vì đã được Ngài cho ăn no nê; họ đi tìm kiếm không
phải vì đã nhận ra ý nghĩa của phép lạ nhân bánh và cá ra nhiều; họ đi tìm kiếm
Ngài không phải vì chính Ngài đã mang lại ý nghĩa và giá trị cho cuộc sống của
họ; họ đi tìm kiếm Ngài không phải vì giáo huấn của Ngài; họ đi tìm kiếm Ngài
không phải vì những giá trị cao quí của cuộc sống mà Ngài đến để bày tỏ. Cái
đám đông ấy bị lôi kéo bởi những cái hời hợt, nhất thời và chóng qua là cơm
bánh. Ðây chính là bi kịch đã xảy ra cho Chúa Giêsu. Ðám đông đã khước từ Ngài
và treo Ngài lên thập giá chỉ vì họ đã không hành động theo những xác tín thâm
sâu thể hiện trên đạo lý, trên tiếng gọi của lương tâm, mà chỉ sống theo cảm
tính và những xu thế mù quáng. Ðây cũng chính là nguy cơ mà người tín hữu Kitô
có thể rơi vào.
Dĩ nhiên, nói đến đạo
là nói đến đám đông. Chúng ta lãnh nhận đức tin trong một cộng đồng. Chúng ta sống
và thể hiện đức tin trong một cộng đồng. Chúng ta cần có một đám đông nào đó để
nâng đỡ niềm tin của chúng ta. Tuy nhiên, cái đám đông ấy cũng dễ lôi kéo và biến
việc thể hiện đức tin của chúng ta thành một lối giữ đạo hình thức và máy móc.
Ðạo dễ trở thành một chuỗi biểu dương bên ngoài hơn là một cuộc gặp gỡ thâm sâu
giữa tha nhân và Chúa. Ðạo sẽ chỉ còn là những bó buộc và nghĩa vụ mà đám đông
thôi thúc để tuân giữ hơn là được thực thi vì xác tín và lòng mến.
Nguyện xin Chúa Kitô
Phục Sinh mà chúng ta đón nhận mỗi ngày trong Thánh Thể và gặp gỡ thường xuyên
qua tha nhân trở thành đối tượng của sự khao khát và tìm kiếm không ngơi nghỉ của
chúng ta, để trong tất cả mọi sự, chúng ta có thể thốt lên như thánh Phaolô:
"Tôi sống nhưng không phải là tôi sống, mà chính Chúa Kitô sống trong
tôi".
(Trích trong ‘Mỗi Ngày
Một Tin Vui’)
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Thứ Hai Tuần III PS
Bài đọc: Acts
6:8-15; Jn 6:22-29.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hãy tin vào Đấng mà Thiên Chúa sai đến.
Cùng chứng kiến một sự
kiện, nhưng mỗi người nhìn dưới góc cạnh khác nhau: Có những người nhìn ra sự
thật ngay; có những người mất thời gian lâu dài mới có thể nhận ra sự thật;
nhưng cũng có những người cố giữ thái độ ngoan cố không chịu nhìn nhận sự thật.
Trong biến cố Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Kitô cũng thế: Khi các Tông-đồ và nhiều
người Do-thái nhận ra lầm lỗi của họ, qua việc kết án và đóng đinh Con Thiên
Chúa, họ đã ăn năn sám hối và trở lại làm chứng cho Ngài; nhưng ngược lại, vẫn
có những người ngoan cố không chịu tin, họ tiếp tục dùng sức mạnh và mưu mô để
truy tố và luận tội các môn đệ của Chúa.
Các Bài Đọc hôm nay vạch
ra những cái nhìn sai trái và hành động không đúng của con người. Trong Bài Đọc
I, Phó-tế Stephanô tranh luận với những người Do-thái thuộc Nhóm nô lệ được giải
phóng về giáo lý của Chúa Giêsu về Đền Thờ và Lề Luật. Dù họ không địch nổi với
ông, họ vẫn tìm người phao tin đồn thất thiệt để có cớ bắt ông trao cho Thượng
Hội Đồng. Trong Phúc Âm, dân chúng đi tìm Chúa Giêsu, không phải vì nhận ra
Ngài là Đấng Thiên Sai, nhưng vì để có lương thực hàng ngày. Chúa Giêsu sửa sai
lối nhìn của họ: “Hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát,
nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực
Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã
ghi dấu xác nhận.”
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Họ thấy mặt ông giống như mặt thiên sứ.
1.1/ Xung đột giữa Phó-tế
Stephanô và hội đường của Nhóm nô lệ được giải phóng: Ông
là một trong 7 Phó-tế
mới được chọn để phục vụ cho các bà góa theo văn hóa Hy-lạp. Ông được đầy ân sủng
và quyền năng, đã làm những điềm thiêng dấu lạ lớn lao trong dân.
Đối thủ của ông là những
người thuộc hội đường gọi là hội đường của nhóm nô lệ được giải phóng, gốc
Cyrene và Alexandria. Họ cùng với một số người gốc Cilicia và Asia, đứng lên
tranh luận với ông Stephanô; nhưng họ không địch nổi lời lẽ khôn ngoan mà Thánh
Thần đã ban cho ông. Khi không dùng trí khôn ngoan để thắng ông được, họ quay
qua dùng những thủ đoạn hèn hạ. Họ bầy mưu tố cáo Stephanô bằng cách xui mấy
người phao lên rằng: "Chúng tôi đã nghe hắn nói lộng ngôn xúc phạm đến ông
Moses và Thiên Chúa."
1.2/ Phó-tế Stephanô bị bắt
và buộc tội: Những người này sách động dân
và các kỳ mục cùng kinh sư, rồi ập đến bắt ông và điệu đến Thượng Hội Đồng. Họ
đưa mấy người chứng gian ra khai rằng: "Tên này không ngừng nói những lời
phạm đến Nơi Thánh và Lề Luật. Vì chúng tôi đã nghe hắn nói rằng Giêsu người
Nazareth sẽ phá huỷ nơi này và thay đổi những tục lệ mà ông Moses đã truyền lại
cho chúng ta." Phó-tế Stephanô có lẽ đã tranh luận với họ về 3 điểm chính:
(1) Nơi Thánh (tức Đền
Thờ) phải qua đi để mọi người có thể thờ phượng Chúa trong tinh thần và chân lý
(Jn 4:20-24). Sự thật hiển nhiên là tuy Đền Thờ Jerusalem đã bị phá hủy hoàn
toàn vào năm 70 AD, Dân Chúa vẫn tiếp tục thờ phuợng Chúa ở mọi nơi, mọi thời,
và mọi lúc.
(2) Lề Luật phải hướng
tới sự làm nên trọn vẹn của Đức Kitô, và Tin Mừng của Ngài cần được rao giảng
cho mọi người; chứ không phải để họ tự ý phiên dịch Lề Luật, rồi bóc lột dân
nghèo và đàn áp những người công chính.
(3) Ơn Cứu Độ dành cho
mọi người: Người Do-thái vẫn tự tôn nghĩ rằng chỉ có họ mới là con Thiên Chúa
và xứng đáng được cứu độ, mọi dân tộc khác chỉ xứng đáng làm nô lệ cho họ và tiền
định để sa hỏa ngục. Họ không biết rằng đặc quyền Thiên Chúa ban cho họ, là để
họ mang nhiều người về cho Thiên Chúa.
Họ biết ông vô tội qua
lời trình thuật: “Toàn thể cử toạ trong Thượng Hội Đồng đều nhìn thẳng vào ông
Stephanô, và họ thấy mặt ông giống như mặt thiên sứ.” Nhưng họ vẫn ngoan cố buộc
tội ông như đã từng buộc tội Chúa Giêsu.
2/ Phúc Âm: "Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng
Người đã sai đến."
2.1/ Dân chúng kéo nhau
đi tìm Chúa Giêsu vì muốn được ăn no: Trình
thuật hôm nay tiếp tục trình thuật Chúa làm phép lạ “Bánh hóa nhiều” cho dân
chúng ăn no nê; sau đó, họ muốn tôn Ngài làm vua. Chúa Giêsu truyền lệnh cho
các Tông-đồ chèo thuyền qua Capernaum trước, còn Ngài đi lên núi cầu nguyện.
Ngài đến cứu các ông khi Biển Hồ dậy sóng và đưa các ông cặp bến bình an.
Hôm sau, đám đông dân
chúng còn đứng ở bờ bên kia Biển Hồ, thấy rằng ở đó chỉ có một chiếc thuyền và
Đức Giêsu lại không cùng xuống thuyền đó với các môn đệ, nhưng chỉ có các ông
đi mà thôi. Tuy nhiên, có những thuyền khác từ Tiberias đến gần nơi dân chúng
đã được ăn bánh sau khi Chúa dâng lời tạ ơn. Vậy khi dân chúng thấy Đức Giêsu
cũng như các môn đệ đều không có ở đó, thì họ xuống thuyền đi Capernaum tìm Người.
Khi gặp thấy Người ở
bên kia Biển Hồ, họ nói: "Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy?"
Đức Giêsu thấu hiểu những
gì trong lòng họ, nên Ngài đáp: "Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi
tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh
no nê.”
2.2/ Chúa Giêsu khuyên họ
hãy tìm những giá trị vĩnh cửu.
(1) Lương thực hư nát
và không hư nát: Ngài khuyên bảo họ: “Các ông hãy ra công làm việc, không phải
vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường
sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là
Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận." Lương thực mau hư nát Chúa Giêsu
muốn nói ở đây là của ăn uống nuôi dưỡng phần xác, chúng vào qua cửa miệng rồi
tan biến đi. Lương thực không hư nát là Lời Chúa và Mình Thánh Chúa như sẽ được
đề cập đến gần cuối chương 6; những lương thực này sẽ nuôi dưỡng phần linh hồn
của con người, và giúp họ đạt đến cuộc sống vĩnh cửu sau này.
(2) Thi hành thánh ý của
Thiên Chúa: Họ liền hỏi Người: "Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những
việc Thiên Chúa muốn?" Đức Giêsu trả lời: "Việc Thiên Chúa muốn cho
các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến." Ngoài những lương thực mà
Chúa Giêsu sẽ ban cho, họ còn phải luôn mong muốn chu toàn thánh ý Thiên Chúa,
như chính Chúa Giêsu đã tuyên bố với các Tông-đồ khi các ông thúc giục Ngài ăn:
“Của ăn Ta là làm theo ý Đấng đã sai Ta” (Jn 4:34). Ý của Thiên Chúa muốn cho mọi
người là tin vào Chúa Kitô để được hưởng ơn Cứu Độ.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải giữ một
thái độ khách quan và thiện chí khi đi tìm sự thật, và cầu xin để Chúa Thánh Thần
soi sáng và hướng dẫn chúng ta nhận ra sự thật.
- Chúng ta phải dùng sự
khôn ngoan của Thiên Chúa ban để nhận ra và hướng dẫn người khác nhận ra và chấp
nhận sự thật. Đừng bao giờ dùng sức mạnh để bắt ép, và dùng những mưu mô thủ đọan
để truy tố những người công chính.
- Chúng ta hãy ra sức
tìm những của ăn không hư nát: Thiên Chúa, Lời Chúa, Mình Chúa, Ý Chúa, sự thật,
cuộc sống đời sau, công bằng và bác ái… Đừng để những lo lắng và cám dỗ thế
gian làm chúng ta quên đi hay không dám sống cho những giá trị vĩnh cửu này.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
16/04/2018
THỨ HAI TUẦN 3 PS
Ga 6,22-29
HỒN AN XÁC MẠNH
“Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư
nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh.” (Ga 6,27)
Suy niệm: Dù ý thức hay không thì những
hoạt động của chúng ta đều nhằm đến một tương lai tốt đẹp hơn: ăn uống, học
hành, thể dục, tích lũy của cải... Điều tốt đẹp lý tưởng không chỉ là tiến lên
từ chỗ “ăn no mặc ấm” đến chỗ “ăn ngon mặc đẹp,” mà phải là niềm hạnh phúc của
con người một cách toàn vẹn, nghĩa là - như người ta thường nói - được cả hồn
an xác mạnh. Nếu thân xác cần được cung cấp đầy đủ thức ăn thì linh hồn
cũng cần được nuôi dưỡng như vậy. Thường thì người ta dễ nhận ra và lo lắng về
sự tiều tụy của cơ thể, sự xuống cấp của nhan sắc hơn là sự èo uột của linh hồn!
Và do đó dễ đi đến chỗ thiên lệch“được phần xác, nhếch nhác phần hồn.” Lời
Chúa dạy chúng ta phải lo làm việc chăm lo cho phần xác nhưng không phải chỉ
vì “của ăn mau hư nát” mà để thân xác cũng được thánh hóa và
cùng với linh hồn hưởng phúc trường sinh.
Mời Bạn: Để có được của ăn nuôi sống
linh hồn luôn đòi chúng ta có những hy sinh về mặt thể xác; chính những nỗ lực
này làm cho chúng ta trở nên cao cả hơn. Cái chết của Đức Ki-tô là để chúng ta
đạt được sự cao cả đó. Một Ki-tô hữu sống lè tè ‘sát đất’ luôn là hình ảnh bôi
nhọ Đức Ki-tô vậy.
Chia sẻ: Nhận định xem những hoạt động nào chỉ phục vụ thân xác mà
không bồi bổ cho tâm hồn.
Sống Lời Chúa: Từ bỏ một tật xấu gây cản
trở cho việc trưởng thành tâm linh.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con khát khao những hoạt động đem lại lợi
ích thiêng liêng để con dễ dàng từ chối những đam mê ti tiện ở đời này. Amen.
(5 phút Lời Chúa)
Lương thực thường tồn (16.4.2018 – Thứ hai Tuần 3 Phục sinh)
Theo Mẹ Têrêsa Calcutta, người nghèo hôm nay cần cơm bánh, nhưng còn cần những thức ăn tinh thần khác nữa.
Suy niệm:
Xóa đói giảm nghèo, giảm
số trẻ em suy dinh dưỡng,
nâng chiều cao của giới
trẻ Việt Nam lên bằng các nước trong vùng,
đó là mối quan tâm của
những người mang trách nhiệm,
vì sức khỏe thân xác cần
thiết cho sự phát triển toàn diện con người.
Làm sao để con người lớn
lên cân đối về mọi mặt,
đó là mục tiêu tối hậu
của mọi công tác giáo dục.
Đức Giêsu đã làm phép lạ
bánh hóa nhiều để nuôi đám đông.
Ngài quan tâm đến nhu cầu
của thân xác họ.
Nhưng Ngài cũng biết rằng
không thể làm phép lạ như thế mãi.
Hơn nữa, phép lạ này chỉ
giúp họ khỏi đói trong vài giờ,
và đây là cái đói của
thân xác.
Phép lạ này dù lớn, nhưng
chỉ nuôi được một đám đông vài ngàn người,
vẫn còn bao người trên
thế giới cần được nuôi ăn.
Đức Giêsu mong nuôi được
nhiều người hơn, nuôi được mọi người.
Không phải chỉ nuôi về
thân xác, mà nhất là về tinh thần.
Không phải chỉ nuôi bằng
thức ăn trần thế là bánh và cá,
mà nuôi bằng giáo huấn
của mình, bằng chính con người mình.
Sau phép lạ bánh hóa
nhiều, khi đám đông định tôn Đức Giêsu lên làm vua,
chắc họ đã nghĩ đến sự
bảo đảm về mặt vật chất mà Ngài mang lại.
Lúc nào cũng có bánh ăn
no nê,
đó là ước mơ của nhiều
người nghèo thời ấy.
Nhưng Đức Giêsu đã từ
chối đứng lên khởi nghĩa giành độc lập.
Ngài không phải là một
Mêsia làm chính trị.
Bánh và cá mà Ngài giúp
họ tạm thời vượt qua cơn đói
chỉ là thứ lương thực mau
hư nát dành cho xác thân (c. 27).
Lương thực đó là dấu chỉ
cho một thứ lương thực khác Ngài sắp ban.
Đó là lương thực thường
tồn đem lại sự sống vĩnh cửu (c. 27).
Hẳn nhiên, lương thực sau
này quan trọng hơn nhiều.
Theo Mẹ Têrêsa Calcutta,
người nghèo hôm nay cần cơm bánh,
nhưng còn cần những thức
ăn tinh thần khác nữa.
Cái đói của thân xác
không cồn cào bằng cái đói tinh thần.
Con người đói công bằng
và hạnh phúc, đói yêu thương và kính trọng.
Con người khát niềm vui
và bình an, cảm thông và sự thật.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
có một ngọn đèn dầu gần Nhà Tạm,
ngọn đèn đỏ mời con dừng bước chân,
và nhắc con về sự hiện diện của Chúa.
Con mong sự hiện diện ấy lan tỏa khắp nơi,
để đâu đâu cũng thấy những ngọn đèn đỏ.
Nơi xóm nghèo mùa mưa nhớp nháp,
nơi lớp học tình thương
lúc chiều tà,
nơi những trung tâm phục
hồi nhân phẩm,
nơi bảo sanh viện nâng
niu sự sống của trẻ thơ,
nơi khách sạn năm sao,
noi quán bia đầu ngõ,
nơi các tiệm cho mướn
băng video,
noi tình yêu trong ngần
của đôi bạn trẻ...
Nhưng lạy Chúa, trước hết,
xin cho đời con là một ngọn đèn,
xin cho chúng con là
những ngọn đèn màu đỏ,
mời người ta dừng lại,
trầm tư,
và gặp được Chúa.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
16 THÁNG TƯ
Bảo Toàn
Ơn Tinh Sạch Do
Phép Rửa
“Tảng đá mà những người
thợ xây loại bỏ đã hóa nên tảng đá góc tường” (Tv 118,22). Giáo Hội nhận chính
sự sống của mình từ cuộc Phục Sinh của Đức Kitô. Thực tại này được chuyển tải
trong phụng vụ, đặc biệt phụng vụ Mùa Phục Sinh.
Chẳng hạn, chúng ta có
một truyền thống về Chúa Nhật in Albis Depositis. Tên gọi ấy bắt nguồn từ một
nghi thức đã được thực hành thuở xa xưa trong Giáo Hội vào ngày thứ bảy sau
Chúa Nhật Phục Sinh. Về sau, nghi thức ấy được cử hành vào Chúa Nhật sau Phục
Sinh. Vào ngày này, những người tân tòng trả lại chiếc áo choàng trắng mà họ đã
nhận trong nghi thức Phép Rửa buổi tối Vọng Phục Sinh. Khi lãnh Phép Rửa, họ đã
bỏ lại sau lưng y phục cũ của họ để nói lên rằng linh hồn họ đã được thanh tẩy
bởi Đức Kitô. Giờ đây, họ trả lại chiếc áo choàng trắng của Phép Rửa sau Tuần Lễ
Phục Sinh để làm biểu tượng cho sự cam kết rằng họ sẽ gìn giữ ơn tinh sạch do
Phép Rửa ấy trong cuộc sống hằng ngày của họ.
Trong nghi thức Phép Rửa
của chúng ta ngày nay cũng thế, em bé được mặc áo trắng – để nói lên rằng Phép
Rửa không duy chỉ có nghĩa một sự thay đổi bên ngoài. Không, đó là một sự chuyển
hóa đụng chạm đến gốc rễ của hữu thể chúng ta. Làm mới lại Phép Rửa của mình có
nghĩa là chúng ta cởi bỏ con người cũ và mặc lấy con người mới trong Đức Kitô.
Đức Kitô thanh tẩy và
tái sinh chúng ta. Người mặc chính Người cho chúng ta bằng cách tháp nhập chúng
ta vào thân thể Người. Và như vậy, được làm con trong Chúa Con, chúng ta bước
đi trong sự sống mới. Chúng ta sống một cuộc sống đã được cứu độ. “Anh em là những
người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy
có lòng thương cảm, khiêm nhu, nhân hậu, hiền hòa, nhẫn nại.” (Cl 3,12)
Hạnh Các Thánh
Thánh Bernadette
Soubirous
(1844 - 1879)
Thánh Bernadette Soubirous tên thật là Mary Bernard, con của một gia đình thật
nghèo làm nghề xay bột ở Lộ Ðức, thuộc miền nam nước Pháp. Ngay từ khi còn nhỏ,
cô bị bệnh suyễn thật nặng nên sức khỏe rất yếu kém.
Vào
ngày 11 tháng Hai 1858, cô được Ðức Trinh Nữ Maria hiện ra với cô trong một cái
hang nằm trên con đê của sông Gave, gần Lộ Ðức. Cô được thị kiến Ðức Trinh Nữ tất
cả 18 lần, lần sau cùng vào ngày lễ Ðức Mẹ Núi Carmel, 16 tháng Bảy. Khi kể lại
lần thị kiến đầu tiên, cô đã tự đặt mình vào tình trạng nguy hiểm đối với nhà
chức trách. Nhưng Ðức Trinh Nữ hiện ra với cô hàng ngày đã khiến đám đông tuốn
đến hang ngày càng đông. Nhà chức trách tìm cách đe dọa để cô công khai rút
lui, nhưng cô vẫn trung thành với những gì được thấy.
Vào
ngày 25 tháng Hai, một suối nước chảy ra từ hang mà cô Bernadette đã dùng tay
đào xới khi vâng theo lời Ðức Trinh Nữ. Nước suối ấy đã chữa được nhiều người
khỏi bệnh kể cả người tàn tật.
Vào
ngày 25 tháng Ba, Bernadette cho biết trinh nữ hiện ra với cô tự xưng là Ðức Vô
Nhiễm Nguyên Tội, và ngài muốn xây một nhà thờ ở đây. Nhiều giới chức dân sự
tìm cách đóng suối nước lại và trì hoãn công việc xây cất nhà thờ, nhưng ảnh hưởng
và tiếng vang đã thấu đến tai Hoàng Hậu Eugenie nước Pháp, vợ của Napoleon III,
do đó việc xây cất được tiến hành tốt đẹp. Ðám đông lại quy tụ về Lộ Ðức, không
bị phiền hà bởi các giới chức chống đối tôn giáo và hàng giáo sĩ.
Vào
năm 1866, Bernadett được gửi vào dòng Nữ Tu Ðức Bà ở Nevers. Ở đây, sơ trở nên
một phần tử của cộng đoàn, và bị sơ giám đốc đệ tử đối xử rất tệ hại. Sự bất nhẫn
ấy chỉ chấm dứt khi họ khám phá rằng sơ Bernadette đang chịu đau khổ vì một căn
bệnh bất trị. Sơ từ trần ở Nevers vào ngày 15 tháng Tư 1879, khi mới 35 tuổi.
Lộ
Ðức đã trở nên trung tâm hành hương lớn nhất thế giới, và suối nước nhỏ bé ấy
hàng ngày vẫn cung cấp nước cho khách thập phương từ khắp nơi trên thế giới.
Sơ
Bernadette được phong chân phước năm 1925, và được Ðức Giáo Hoàng Piô XI phong
thánh năm 1933.
Trích
từ NguoiTinHuu.com
16 Tháng Tư
Không Quyền Lực Nào
"Ðức Tin không thể nào bị bóp nghẹt
bởi bất cứ quyền klực nào!". Ðó là lời tuyên bố của tổng thống Hoa Kỳ
George Bush trong buôi tiễn biệt Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II (19/9/1987) nhân
dịp Ngài viếng thăm Hoa Kỳ. Trong bài diễn văn từ giã Ðức Thánh Cha, phó tổng
thống Hoa Kỳ nói rằng Thiên Chúa vẫn còn tiếp tục làm việc tại Liên Xô sau hơn
60 năm tuyên truyền cho chủ thuyết vô thần.
Ông George Bush kể lại cho Ðức Thánh
Cha như sau: "Trong nghi lễ an táng tổng bí thư Breznev tại Mascơva, một lễ
nghi với nhiều lính tráng và hoa tím, nhưng không có Ðức Tin và Lời Chúa, tôi
theo dõi bà quả phụ đang tiến đến quan tài để nói lời từ biệt... Kìa, có Chúa
làm chứng cho tôi, giữa sự lạnh cóng của một chế độ độc tài, bà Breznev chăm
chú nhìn người chồng, rồi cúi nhẹ xuống và làm dấu thánh giá trên ngực của người
chết...".
Ông Bush cũng kể lại rằng ông đã gặp
Mao Trạch Ðông trước khi ông này qua đời. Chủ tịch họ Mao đã tâm sự với ông như
sau: "Tôi sắp sửa về Trời, tôi đã nhận được lời mời gọi của Chúa".
Ðưa ra hai sự kiện trên đây, ông Bush
kết luận: Không có quyền lực nào, không có luật pháp nào có thể quét sạch những
gì đã ăn rễ sâu trong lòng người...
Lời
phát biểu trên đây của ông George Bush có lẽ phải làm cho chúng ta phấn khởi.
Thiên Chúa vẫn luôn có mặt trong cuộc sống của chúng ta. Chính những nơi mà
chúng ta tưởng Ngài đã bị gạt bỏ hoàn toàn, chính những lúc mà chúng ta tưởng
như Ngài không có mặt, Ngài vẫn tiếp tục hoạt động. Bởi vì Thiên Chúa không thể
là Thiên Chúa nếu Ngài không yêu thương con người.
Chúng ta tiếp nhận sự sống từ chính Chúa, như trái đất nhận lãnh ánh sáng từ mặt
trời. Thiếu ánh sáng mặt trời thì không thể có sự sống trên trái đất. Cũng thế,
không có Chúa thì không thể có sự sống... Thiên Chúa thông ban sự sống cho
chúng ta, bởi vì Ngài yêu thương chúng ta. Ngài yêu thương tất cả mọi người,
ngay cả những kẻ chối bỏ hoặc thù ghét Ngài.
Trích sách Lẽ Sống
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét