Trang

Chủ Nhật, 21 tháng 4, 2019

22-04-2019 : THỨ HAI - TUẦN BÁT NHẬT PHỤC SINH


22/04/2019
Thứ hai tuần BÁT NHẬT PHỤC SINH


Bài Ðọc I: Cv 2, 14. 22-32
"Thiên Chúa đã cho Ðức Kitô phục sinh, và tất cả chúng tôi làm chứng về Người".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong ngày lễ Ngũ Tuần, Phêrô cùng với mười một Tông đồ đứng ra, lên tiếng nói rằng: "Hỡi các người Do-thái và tất cả những ai ở Giêrusalem, xin hãy biết điều này và lắng nghe lời tôi! Hỡi những người Israel, xin hãy nghe những lời này:
"Ðức Giêsu Nadarét là người đã được Thiên Chúa chứng nhận giữa anh em bằng những việc vĩ đại, những điều kỳ diệu và những phép lạ, mà Thiên Chúa đã dùng Người để thực hiện giữa anh em, như chính anh em đã biết. Theo như Thiên Chúa đã định và biết trước, Người đã bị nộp, và anh em đã dùng tay kẻ độc ác mà hành hạ rồi giết đi. Nhưng Thiên Chúa đã giải thoát Người khỏi những đau khổ của cõi chết mà cho Người phục sinh, vì không thể nào để cho Người bị cầm giữ trong đó. Vì chưng, Ðavít đã nói về Người rằng:
'Tôi hằng chiêm ngưỡng Chúa trước mặt tôi, vì Người ở bên hữu tôi, để tôi không nao núng. Vì thế, lòng tôi hân hoan, miệng lưỡi tôi hát mừng, và xác tôi yên nghỉ trong niềm cậy trông; vì Chúa không để linh hồn tôi trong cõi chết, và không để Ðấng Thánh của Chúa thấy sự hư nát. Chúa đã cho tôi biết con đường sự sống và cho tôi tràn đầy hân hoan tận hưởng nhan thánh Chúa'.
"Hỡi anh em, xin cho phép tôi được bạo dạn nói với anh em về tổ phụ Ðavít rằng: ngài đã băng hà, đã được an táng và lăng tẩm của ngài còn nằm giữa chúng ta cho đến ngày nay. Nhưng vì ngài là tiên tri, và biết Thiên Chúa đã thề hứa với ngài sẽ cho một người trong dòng dõi ngài ngồi trên ngai vàng của ngài, nên thấy trước, ngài đã nói về việc Chúa Kitô phục sinh, vì Người không phải bị bỏ rơi trong cõi chết, và xác Người không bị huỷ diệt. Ðức Giêsu đó, Thiên Chúa đã cho sống lại; chúng tôi hết thảy xin làm chứng về điều ấy".
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 15, 1-2a và 5. 7-8. 9-10. 11
Ðáp: Xin bảo toàn con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa (c. 1).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Xin bảo toàn con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa; con thưa cùng Chúa: "Ngài là chúa tể con. Chúa là phần gia nghiệp và phần chén của con, chính Ngài nắm giữ vận mạng của con". - Ðáp.
2) Con chúc tụng Chúa vì đã ban cho con lời khuyên bảo, đó là điều lòng con tự nhủ, cả những lúc đêm khuya. Con luôn luôn đặt Chúa ở trước mặt con, vì Chúa ngự bên hữu con, con sẽ không nao núng. - Ðáp.
3) Bởi thế lòng con vui mừng và linh hồn con hoan hỉ: ngay cả đến xác thịt của con cũng nằm nghỉ an toàn, vì Chúa chẳng bỏ rơi linh hồn con trong Âm phủ, cũng không để thánh nhân của Ngài thấy sự hư nát. - Ðáp.
4) Chúa sẽ chỉ cho con biết đường lối trường sinh, sự no đầy hoan hỉ ở trước thiên nhan, sự khoái lạc bên tay hữu Chúa tới muôn muôn đời! - Ðáp.

Alleluia: Tv 117, 24
Alleluia, alleluia! - Ðây là ngày Chúa đã thực hiện, chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan về ngày đó. - Alleluia.

Phúc Âm: Mt 28, 8-15
"Hãy đi nói với anh em đến Galilêa mà gặp Ta ở đó".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, các bà vội ra khỏi mồ vừa sợ lại vừa hớn hở vui mừng, chạy báo tin cho các môn đệ Chúa. Và này Chúa Giêsu đón gặp các bà, Người nói: "Chào các bà". Các bà liền lại gần ôm chân Người và phục lạy. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo: "Các bà đừng sợ. Hãy đi báo tin cho các anh em Ta phải trở về Galilêa, rồi ở đó họ sẽ gặp Ta".
Ðang khi các bà lên đường, thì mấy người lính canh vào thành báo tin cho các thượng tế biết tất cả những gì đã xảy ra. Các thượng tế liền họp với các kỳ lão, và sau khi đã bàn định, họ cho lính một số tiền lớn và bảo rằng: "Các anh hãy nói rằng: Ban đêm khi chúng tôi đang ngủ, thì môn đệ ông đến lấy trộm xác ông. Nếu việc này đến tai tổng trấn, chúng tôi sẽ thương lượng với ông, không để các anh phải phiền hà đâu". Bọn lính canh nhận tiền và đã làm y như họ căn dặn chúng. Bởi thế, lời đó được phao truyền nơi người Do-thái cho đến ngày nay.
Ðó là lời Chúa.


Suy Niệm: Phép lạ Phục Sinh
Truyện các thánh ẩn tu trong sa mạc thời Giáo Hội tiên khởi có kể lại câu chuyện như sau:
Một người đàn ông nọ nghe đồn về rất nhiều phép lạ do các bậc chân tu thánh thiện thực hiện, nhưng ông không chấp nhận một lời đồn đại nào, ông chỉ tin những gì mắt thấy tai nghe. Thế là ông lên đường để diện kiến cho bằng được vị chân tu, ông gọi một đệ tử lại và hỏi:
- Thầy của anh đã làm được bao nhiêu phép lạ rồi?
Người đệ tử trả lời:
- Không thể đếm xuể được. Trong xứ của ông, người ta xem như là phép lạ mỗi khi Thiên Chúa làm theo ý muốn của con người. Còn ở đây thì trái lại, chúng tôi coi là phép lạ mỗi khi con người thực thi thánh ý Chúa.
Phép lạ mỗi khi con người thực thi thánh ý Chúa. Ðó có thể là ý tưởng được rút ra từ bài Tin Mừng hôm nay. Thánh Mátthêu là tác giả duy nhất đã so sánh thái độ của hai dạng chứng nhân về việc Chúa phục sinh: một bên là những phụ nữ đã từng theo Chúa Giêsu, và một bên là những lính canh mồ do các thượng tế và biệt phái sắp đặt. Cả hai bên đều nhận lãnh một sứ điệp: những phụ nữ được các thiên thần cổ võ đã lên đường loan báo sứ điệp Phục Sinh cho các tông đồ; những lính canh mồ thoạt tiên cũng nhận lãnh các sứ điệp như thế: họ đã chứng kiến một phép lạ, nhưng thay vì tuân phục với đức tin, họ đã bóp méo và chối bỏ sự thật. Một sự kiện nhưng hai phản ứng: với sự tuân phục của đức tin, các phụ nữ đã đón nhận phép lạ và trở thành sứ giả của Tin Mừng Phục Sinh; trong khi đó, với thái độ mù quáng và khước từ, những lính canh mồ đem biến sự kiện thành một bôi nhọ phỉ báng.
Hai ngàn năm qua và mãi mãi về sau, sứ điệp Phục Sinh vẫn tiếp tục được loan báo. Phép lạ Phục Sinh vẫn mãi mãi tiếp diễn. Các Tông Ðồ và những phụ nữ được Chúa hiện ra có lẽ diễm phúc hơn chúng ta. Thế nhưng, các ngài cũng không được trang bị hơn chúng ta khi đứng trước việc Chúa sống lại và hiện ra. Những lính canh mồ cũng chứng kiến các điều lạ lùng, nhưng với họ, những điều đó chưa phải là phép lạ.
Phép lạ thiết yếu không phải là một việc phi thường, nhưng trước tiên là một gặp gỡ trong đức tin. Chỉ trong đức tin, con người mới tin nhận phép lạ. Có phép lạ khi con người thực thi thánh ý Chúa. Thiên Chúa vẫn tiếp tục thể hiện tình yêu của Ngài. Thiên Chúa vẫn tiếp tục hiện diện và tác động trong lịch sử nhân loại. Nhưng chỉ khi nào con người tin nhận và sống theo thánh ý Thiên Chúa, con người mới nhận ra sự hiện diện và tình yêu của Ngài. Chúa Giêsu đã tuyên bố: "Phúc cho những ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa". Có tâm hồn trong sạch chính là để cho Chúa ngự, chính là chiều theo tư tưởng và ý muốn của Ngài.
Nguyện xin ánh sáng Chúa Kitô Phục Sinh soi sáng và hướng dẫn tâm tư hành động của chúng ta, để trong mọi sự, chúng ta sống theo thánh ý Ngài, và như vậy, cảm nhận được phép lạ của tình yêu Ngài trong từng phút giây của cuộc sống.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)



LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Thứ Hai Tuần I BNPS
Bài đọc: Acts 2:14, 22-32; Mt 28:8-15.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hãy rao giảng Tin Mừng “Chúa đã sống lại” khắp thế gian.
Để tin một điều là sự thật, chúng ta có nhiều cách: hoặc chính chúng ta chứng kiến, hoặc qua các chứng nhân, hoặc qua hậu quả mà nó để lại. Không ai nhìn thấy Chúa sống lại từ mộ đi ra, nhưng các chứng nhân nhìn thấy Chúa sau khi Ngài sống lại. Chúng ta nhờ những chứng nhân này, hậu quả của sự kiện Chúa sống lại trên con người họ, và những lời Kinh Thánh để tin “Chúa đã sống lại thật.”
Các Bài Đọc hôm nay xoay quanh biến cố Chúa Giêsu sống lại. Trong Bài Đọc I, thánh Phêrô và các Tông đồ làm chứng Chúa sống lại qua những dữ kiện thực tế và lời tiên tri của Vua David trong Thánh Vịnh 16. Trong Phúc Âm, sứ thần của Chúa làm chứng Chúa Giêsu sống lại, và chính Chúa Giêsu xuất hiện với các phụ nữ và truyền họ mang tin Ngài sống lại cho các Tông đồ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa đã phác họa Kế hoạch Cứu Độ qua cái chết và sự sống lại của Đức Kitô.
1.1/ Đức Kitô là Đấng Thiên Sai: Vấn đề cốt yếu mà Phêrô phải minh chứng cho người Do-thái là Đấng Thiên Sai phải ngang qua con đường đau khổ, cái chết, và sống lại vinh quang; vì người Do-thái mong muốn một Đấng Thiên Sai uy quyền, họ không thể chấp nhận một Đấng Thiên Sai chịu đau khổ. Phêrô chứng minh điều này đầu tiên bằng những sự kiện thực tế đã xảy ra, sau đó ông chứng minh bằng lời Kinh Thánh.
Về những sự kiện thực tế, ông nhắc lại những gì Đức Kitô đã làm giữa họ: “Đức Giêsu Nazareth, là người đã được Thiên Chúa phái đến với anh em. Và để chứng thực sứ mệnh của Người, Thiên Chúa đã cho Người làm những phép mầu, điềm thiêng và dấu lạ giữa anh em. Chính anh em biết điều đó.”
Thiên Chúa đã tiền định cái chết và sống lại của Đức Kitô: “Theo kế hoạch Thiên Chúa đã định và biết trước, Đức Giêsu ấy đã bị nộp, và anh em đã dùng bàn tay kẻ dữ đóng đinh Người vào thập giá mà giết đi. Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại, giải thoát Người khỏi những đau khổ của cái chết. Vì lẽ cái chết không tài nào khống chế được Người mãi.”
1.2/ Vua David đã nói tiên tri về sự chết và sự sống lại của Đức Kitô: Việc Chúa Giêsu sống lại làm trọn lời tiên báo của Vua David.
(1) Thánh Vịnh 16:8-11: Tác giả TĐCV trích dẫn lời TV 16 như sau: “Tôi luôn nhìn thấy Đức Chúa trước mặt tôi, vì Người ở bên hữu, để tôi chẳng nao lòng. Bởi thế tâm hồn con mừng rỡ, và miệng lưỡi hân hoan, cả thân xác con cũng nghỉ ngơi trong niềm hy vọng. Vì Chúa chẳng đành bỏ mặc linh hồn con trong cõi âm ty, cũng không để Vị Thánh của Ngài phải hư nát. Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống, và cho con được vui sướng tràn trề khi ở trước Thánh Nhan.”
Câu quan trọng là câu 10 của TV 16, các học giả tranh luận: Lời này áp dụng cho Vua David hay Đức Kitô? Giải thóat cho khỏi cái chết bất tử và phục hồi sự liên hệ thần linh hay giải thóat cho khỏi sự hư nát sau khi chết? Vì chữ “hư nát, shahat” có thể dịch là sự hủy họai như bản LXX hay dịch đơn giản là vực thẳm.
(2) Phêrô cắt nghĩa lời Thánh Vịnh: Vua David là nhân vật có thật: “Thưa anh em, xin được phép mạnh dạn nói với anh em về tổ phụ David rằng: người đã chết và được mai táng, và mộ của người còn ở giữa chúng ta cho đến ngày nay.” Đức Kitô là giòng dõi Vua David: “Nhưng vì là ngôn sứ và biết rằng Thiên Chúa đã thề với người là sẽ đặt một người trong dòng dõi trên ngai vàng của người.” Đức Kitô hòan thành lời tiên tri của Vua David khi Ngài sống lại từ cõi chết sống lại: “Người đã không bị bỏ mặc trong cõi âm ty và thân xác Người không phải hư nát.”
“Chính Đức Giêsu đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại; về điều này, tất cả chúng tôi xin làm chứng.”
2/ Phúc Âm: Chúa đã thực sự sống lại.
2.1/ Chúa Giêsu truyền các bà loan Tin Mừng cho các Tông-đồ.
(1) Sứ thần loan báo Tin Mừng Phục Sinh: Những bà đồng hành với Chúa trong Cuộc Thương Khó của Ngài ra mộ từ sáng sớm để niệm xác Chúa. Vừa tới nơi, họ thấy một sự thể ngòai sức tưởng tượng: Tảng đá mà các thượng tế đã niêm phong đã được mở ra dưới con mắt ngạc nhiên và run rẩy của các lính canh gác, một sứ thần của Thiên Chúa trắng như tuyết đang ngồi trên tảng đá và nói với các bà: “Đừng sợ! Tôi biết các bà đang tìm gì, Chúa Giêsu đã bị đóng đinh. Ngài không còn ở đây; vì Ngài đã sống lại như lời Ngài đã nói. Hãy đến và nhìn nơi Ngài đã nằm. Hãy đi ngay và nói cho các môn đệ biết: Ngài đã sống lại từ cõi chết. Và Ngài đi trước các ông tới Galilee; tại đó họ sẽ gặp Ngài” (Mt 28:1-7). Các bà vội vã rời khỏi mộ, tuy sợ hãi nhưng cũng rất đỗi vui mừng, chạy về báo tin cho môn đệ Đức Giêsu hay.
(2) Chúa Giêsu hiện ra với các bà: Trên đường đi, bỗng Chúa Giêsu đón gặp các bà và nói: "Chào chị em!" Các bà tiến lại gần Người, ôm lấy chân, và bái lạy Người. Bấy giờ, Đức Giêsu nói với các bà: "Chị em đừng sợ! Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Galilee. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó."
Thương yêu Chúa không phải giữ Chúa ở với mình, nhưng phải loan Tin Mừng của Chúa để mọi người cùng tin vào Chúa. Chúng ta sẽ thấy điều quan trọng này được nhắc đi nhắc lại trong những ngày tới. Mọi người cần được nghe Tin Mừng Phục Sinh: cuộc sống không chỉ chấm dứt với cái chết ở đời này, nhưng mở rộng đến cuộc sống muôn đời mai sau với Thiên Chúa.
2.2/ Kế hoạch bưng bít sự thật:
(1) Trước khi Chúa sống lại: Người Do-thái đến gặp quan Philatô và yêu cầu ông sai lính canh giữ mộ Chúa Giêsu cẩn thận, vì khi còn sống Chúa đã tuyên bố Ngài sẽ sống lại sau ba ngày. Họ sợ các môn đệ của Chúa sẽ đến đánh cắp xác rồi phao tin là Chúa đã sống lại; lúc đó họ sợ sự sai trá sẽ nguy hại hơn trước. Philatô nói với họ: “Các ông có lính của Đền Thờ, hãy sai họ đi và canh chừng cẩn mật như các ông có thể làm.” Họ đi và niêm phong tảng đá vào cửa, và đặt lính canh giữ mộ (x/c Mt 27:62-66).
(2) Sau khi Chúa sống lại: Trong khi các bà đi báo cho các môn đệ biết tin mừng Chúa sống lại; có mấy người trong đội lính canh mồ vào thành báo cho các thượng tế biết mọi việc đã xảy ra. Các thượng tế liền họp với các kỳ mục; sau khi bàn bạc, họ cho lính một số tiền lớn, và bảo quân lính: "Các anh hãy nói như thế này: Ban đêm đang lúc chúng tôi ngủ, các môn đệ của hắn đã đến lấy trộm xác. Nếu sự việc này đến tai quan Tổng Trấn, chính chúng tôi sẽ dàn xếp với quan và lo cho các anh được vô sự." Lính đã nhận tiền và làm theo lời họ dạy. Câu chuyện này được phổ biến giữa người Do-thái cho đến ngày nay.
Khi con người đã làm điều sai trái, họ sẽ tiếp tục làm điều sai trái, sự sai trái này sẽ kéo theo sự sai trái khác. Người Do-thái tìm lý do gian trá “Chúa phạm thượng” để bắt Chúa, rồi lại tìm một cớ gian khác “Ông này xưng mình là Vua” để xin Philatô buộc Chúa chống lại Caesar, giờ lại dùng tiền để bịt miệng lính canh giữ mồ Chúa. Không phải họ không biết sự thật, nhưng họ cố tình ở trong sự gian trá, vì ghen ghét và vì những lợi lộc họ đang được hưởng.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- “Chúa đã thực sự sống lại.” Chúng ta phải tin điều này và loan báo cho mọi người biết Tin Mừng Phục Sinh; đồng thời phải sống và làm chứng cho mọi người biết: có cuộc sống đời sau.
- Như mưu mô của các thượng tế trong trình thuật hôm nay, ma quỉ và thế gian vẫn đang tìm các để bưng bít sự thật này bằng tiền của và hưởng thụ vật chất.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.


22/04/19 THỨ HAI TUẦN BÁT NHẬT PS
Mt 28,8-15


CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI, ALLÊLUIA!
“Chị em đừng sợ! Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Ga-li-lê. Họ sẽ được gặp Thầy ở đó.” (Mt 28,10)

Suy niệm: “Sự kiện Chúa Giê-su trỗi dậy từ cõi chết thì hiển nhiên hơn cả việc J. Caesar đã từng có mặt trên đời hay việc Alexander Đại đế chết lúc 33 tuổi” (B. Graham). Cùng chứng kiến sự kiện ngôi mộ trống mà lại có hai lời loan tin trái chiều: Các phụ nữ, “tông đồ của các tông đồ,” loan Tin Mừng Chúa Giê-su đã sống lại, họ đã đi đến ngôi mộ trống, gặp gỡ Đấng Phục sinh, ôm chân Ngài và bái lạy. Trái lại, các binh sĩ, bị các thượng tế mua chuộc, lại báo tin dữ: Ngài đã chết hẳn, bị cướp mất xác! Hai kiểu loan báo ấy tiêu biểu cho hai khuynh hướng nơi con người: tin nhận hay chối từ Ngài là Thiên Chúa làm người. Hai cung cách ấy cũng có thể hiện diện nơi chính các Ki-tô hữu: sự kiện Chúa phục sinh là bước nhảy cho một niềm tin giúp biến đổi cuộc sống hay chẳng âm hưởng gì trên đời sống họ.
Mời Bạn: “Việc phục sinh không chỉ quan trọng cho đức tin Ki-tô lịch sử; không có phục sinh, chẳng có Ki-tô giáo. Đó còn là giáo thuyết đưa Ki-tô giáo trổi vượt hơn các tôn giáo khác” (A. Rogers). Niềm tin Chúa Ki-tô phục sinh phải đem lại cho bạn niềm hy vọng giữa những thử thách, cống hiến cho bạn một cái nhìn tích cực mới về cuộc đời.
Sống Lời Chúa: Tôi điều chỉnh lại cái nhìn của mình về cuộc đời, để mục tiêu tối hậu của đời người – phụng thờ Chúa, đạt được ơn cứu độ cho mình và người khác – chi phối mọi suy nghĩ, thái độ, cách ứng xử của tôi.
Cầu nguyện: Lạy Đấng Phục sinh, con mừng hát Chúa đã sống lại vinh hiển trong những ngày này. Xin giúp niềm vui ấy âm hưởng  trên đời con. Amen.
(5 phút Lời Chúa)

“Chào chị em!” (22.4.2019 – Thứ Hai trong Tuần Bát nhật Phục sinh)

Đức Giêsu phục sinh đã hiện ra cho các phụ nữ trước tiên. Nhìn thấy ngôi mộ trống chưa đủ, còn cần gặp chính Đấng phục sinh. Khi trở về gặp các môn đệ, các bà sẽ là những người làm chứng tuyệt vời.

Suy nim:
Trong bốn sách Tin Mừng, các phụ nữ luôn được kể là người ra viếng mộ trước tiên.
Trong Tin Mừng Mátthêu, đó là hai bà có cùng tên Maria.
Sau khi được thiên thần giao nhiệm vụ loan báo gấp cho các môn đệ
về sự phục sinh và cuộc hẹn gặp của Thầy ở Galilê (28, 7),
các bà đã mau mắn lên đường, vội vã rời bỏ ngôi mộ trống.
Ngôi mộ này là nơi các bà đặt tình cảm thân thương,
vì đây là nơi đặt xác của người Thầy yêu dấu
Bây giờ ngôi mộ không còn xác Thầy nữa, Thầy đã được trỗi dậy rồi,
nên ngôi mộ chẳng phải là nơi các bà dừng lại mà khóc lóc than van.
Nó trở nên một bằng chứng về sự sống lại của Thầỵ
Ngôi mộ trống thực sự đã đem lại một niềm vui vô bờ bến.
Chính những mất mát lại là dấu hiệu cho một sự hiện diện viên mãn hơn.
Vì thế vừa sợ hãi lại vừa hết sức vui mừng,
các bà chạy đi loan báo cho các môn đệ điều mình vừa nghe nói.
Trên con đường hối hả đi gặp các môn đệ,
các bà không ngờ mình lại là người đầu tiên được gặp Chúa phục sinh.
Điều mới nghe thiên thần nói, bây giờ được thấy tận mắt.
Thánh Mátthêu chỉ nói một cách đơn sơ: “Đức Giêsu gặp các bà” (c. 9).
Không thấy mô tả Đức Giêsu oai phong rực rỡ như thế nào.
Có vẻ Ngài gặp các bà lần này như Ngài đã từng gặp bao lần trong quá khứ.
Các bà nhận ra ngay vị Thầy được sống lại
cũng là vị Thầy chịu đóng đinh mà mình đã đi theo từ Galilê.
Chính Đức Giêsu ngỏ lời chào trước: “Chị em hãy vui lên.”
Lời chào này cũng là lời chào bình thường hằng ngày vào thời đó.
Vì thế các bà đã bạo dạn tiến lại gần, ôm chân và bái lạy Thầỵ
Như vậy các bà có thể thấy được và đụng chạm được Đấng phục sinh.
Các bà còn có thể nghe được lời dặn dò của Ngài.
Lời này giống lời thiên thần, chỉ có điều Ngài gọi các môn đệ là anh em:
“Hãy đi và báo cho anh em của Thầy...” (c. 10).
Các môn đệ vẫn được gọi là anh em ngay cả khi họ đã bỏ rơi Ngài.
Khi gọi họ là anh em, Đức Giêsu đã muốn tha thứ mọi vấp ngã của họ.
Đức Giêsu phục sinh đã hiện ra cho các phụ nữ trước tiên.
Nhìn thấy ngôi mộ trống chưa đủ, còn cần gặp chính Đấng phục sinh.
Khi trở về gặp các môn đệ, các bà sẽ là những người làm chứng tuyệt vời.
Không chỉ là ngôi mộ trống với lời chứng của thiên thần,
mà còn là lời chứng của chính họ, của người đã chứng kiến tận mắt và đụng chạm.
Đức Giêsu phục sinh dám nhờ các phụ nữ làm chứng,
dám nhờ các phụ nữ đi loan Tin Mừng cho các môn đệ của mình,
dù thời của Ngài người ta không tin lời chứng của phụ nữ.
Chúng ta không quên những đóng góp của các phụ nữ cho Giáo Hội từ thời đầu.
Mong vai trò ấy vẫn được đề cao và tôn trọng.
Cầu nguyn:

Lạy Chúa Giêsu phục sinh
lúc chúng con tìm kiếm Ngài trong nước mắt,
xin hãy gọi tên chúng con
như Chúa đã gọi tên
chị Maria đứng khóc lóc bên mộ.

Lúc chúng con chán nản và bỏ cuộc,
xin hãy đi với chúng con trên dặm đường dài
như Chúa đã đi với hai môn đệ Emmau.

Lúc chúng con đóng cửa vì sợ hãi,
xin hãy đến và đứng giữa chúng con
như Chúa đã đến đem bình an cho các môn đệ.

Lúc chúng con cố chấp và xa cách anh em,
xin hãy kiên nhẫn và khoan dung với chúng con
như Chúa đã không bỏ rơi ông Tôma cứng cỏi.

Lúc chúng con vất vả suốt đêm
mà không được gì,
xin hãy dọn bữa sáng cho chúng con ăn,
như Chúa đã nướng bánh và cá cho bảy môn đệ.

Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
xin tỏ mình ra
cho chúng con thấy Ngài mỗi ngày,
để chúng con tin là Ngài đang sống, đang đến,
và đang ở thật gần bên chúng con. Amen.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ


Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
22 THÁNG TƯ
Phải Chăng Chúng Ta Tự Hài Lòng Với Một Tình Yêu Giả Hiệu?
Sau lời nói trao ban Thánh Thần cho các Tông Đồ, Đức Kitô nói về việc tha tội. Người phán: “Anh em tha tội cho ai thì tội người ấy được tha; anh em cầm buộc ai thì người ấy bị cầm buộc” (Ga 20,22-23). Sở dĩ Đức Kitô nói điều đó bởi vì sự tha thứ tội lỗi giả định việc nhận biết và xưng thú tội. Và cả hai việc này đều liên quan với cố gắng sống trong sự thật và trong tình yêu.
Sự nhận biết và xưng thú tội lỗi đích thực sẽ đem lại sức mạnh của sự thật và tình yêu cho đời sống chúng ta. Nó làm cho chúng ta trở nên những con người mới và nó biến đổi thế giới.
Điều ngược lại sẽ xảy ra khi chúng ta lấp liếm sự thật và đánh lận tình yêu. Bấy giờ, chúng ta đã bôi xóa lằn ranh giữa sự thiện và sự ác. Chẳng hạn, chúng ta dán nhãn “nhân bản” cho điều thực sự là tội lỗi!
Đáng buồn, những ví dụ như vậy đang diễn ra nhan nhãn. Trong thời đại của chúng ta, sự khủng bố bị tố cáo là một tội ác và là một xúc phạm thô bạo đến những quyền căn bản của con người. Hành vi ngộ sát cũng bị tố cáo là vô nhân đạo tại các nước văn minh. Nhưng việc tước đoạt sự sống của những con người chưa được sinh ra thì lại được gọi là “nhân bản” và được cho là một “bằng chứng của tiến bộ”. Người ta gọi đó là tự do. Thế nhưng, sự tự do đích thực luôn bao hàm sự tôn trọng phẩm giá của nhân vị con người!
Anh chị em thân mến! Nói lên những điều này, tôi không nhằm tố cáo bất cứ ai. Tôi muốn san sẻ nỗi đau của mình đối với sự sống của các em bé chưa được sinh ra, đối với phẩm giá của nhân vị con người.
Chúng ta đừng tự lừa dối chính mình! Tất cả chúng ta phải nhìn thẳng vào tội lỗi và phải dứt khoát với tội lỗi. Chỉ có sự thật mới giải phóng chúng ta (cf. Ga 8,32). Chỉ có sự thật mới có sức mạnh biến đổi thế giới, mới có thể đem lại tiến bộ đích thực, đem lại tính “nhân bản” Kitô giáo đích thực. Xin đừng nói rằng những đòi hỏi của sự thật, của lương tâm và của phẩm giá con người chỉ là một sự lựa chọn “chính trị”. Không! Đó là những đòi hỏi khẩn thiết để có thể làm người đích thực. Xin đừng xem thường nữa những điều mang tầm quyết định đến sự sống còn của con người, những điều cốt yếu làm nên nhân tính.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 22-4
THỨ HAI TRONG TUẦN BÁT NHẬT PHỤC SINH
Cv 2, 14.22-33; Mt 28, 8-15.

LỜI SUY NIỆM“Các thượng tế liền họp với các kỳ mục; sau khi bàn bạc, họ cho lính một số tiền lớn.”
Các Thượng tế và các Kỳ mục  người Do-Thái, sau khi nghe các lính canh mồ Chúa Giêsu loan báo Chúa đã “Sống Lại”. Họ đã mua chuộc linh canh với một số tiền lớn, và hứa bảo đảm an toàn trước chính quyền Rôma, để chối bỏ một sự thật, mà còn vu cáo, bôi nhọ một cách láo lường với luận điệu khó tin. “Ban đêm đang lúc chúng tôi ngủ, các môn đệ của hắn đã đến lấy trộm xác!” và phi lý “Canh giữ mà ngủ”
Lạy Chúa Giêsu. Xin cho mọi thành viên trong gia đình chúng con được ơn cam đảm đứng về phía sự thật.làm chứng cho sự thật với một trách nhiệm cao. Xin đừng để chúng con bị tiền tài, địa vị và việc làm mua chuộc mà làm chứng dối, phản nghịch đức tin; phản lại anh em.
Mạnh Phương


22 Tháng Tư
Món Quà Của Con Cáo

Một câu chuyện giả tưởng thuật lại như sau:
Khi Chúa giáng sinh, các thú vật đều tới mừngChúa. Mỗi con đều dâng Chúa chút quà: Chị bò cái dâng sữa. Cậu khỉ biếu Chúa mấy trái nho.
Chú sóc nâu bé nhỏ tình nguyện ở lại làm đồ chơi cho Chúa.
Chúa Hài Ðồng vui vẻ nhận tất cả. Ðang lúc các thú vật quây quần bên Chúa thì chàng cáo xuất hiện. Các thú vật đều ghét cáo, vì hắn ta gian manh quỷ quyệt... Chúng chặn không cho cáo đến gần Chúa và tự hỏi: Không biết cáo định âm mưu gì.
Cáo nói: Tôi đến dâng lễ vật cho Chúa. Nhưng chẳng thấy cáo mang theo lễ vật nào. Chúa ra hiệu cho cáo vào. Quỳ bên Chúa Hài Ðồng chàng cáo thì thầm dâng lên Chúa long quỷ quyệt của mình.
hú vật đều bỡ ngỡ: Dâng gì kì cục vậy! Trái lai cáo ta vui cười hớn hở, còn Chúa đặt hai tay trên đầu cáo tỏ dấu ưng thuận chúc lành. Xưa nay cáo sung sướng nhờ sự quỷ quyệt của mình, bây giờ dâng cho Chúa rồi, nó sẽ phải kiếm ăn cực nhọc với tấm lòng lương thiện. Chàng cáo đã dâng nhiều hơn hết mọi con vật.
Hẳn chúng ta cong nhớ câu chuyện "Người phụ nữ ngoại tình" trong tin Mừng: Một khi đã phạm tội, bà bị những người xung quanh kết án có thể gọi là "chung thân". hình như bà bị xã hội khắc vào má hai chữ "ngoại tình" không thể nào tẩy xóa được. Giống như chú cáo trong câu chuyện trên: Ðã gian manh quỷ quyệt thì mọi thú đều không thể tưởng tượng cáo có thể thay đổi.
Nhưng với sự xuất hiện và hoạt động của Chúa Giêsu, mọi đổi thay đều có thể xảy ra. Con cáo có thể bỏ tính manh mum xảo trá để làm ăn lương thiện. Qua bao thế hệ, câu nói của Chúa Giêsu: "Tôi cũng thế, tôi không kết tội chị. Vậy chị hãy ra về và từ nay đừng phạm tội nữa" đã giúp đổi đen thành trắng nhiều cuộc đời.
Chúng ta hãy tập đừng vội xét đoán và nhất là đừng bao giờ kết án ai. Trái lại hãy cho nhau những cơ hội mới để mọi người có thể canh tân cuộc sống.
Tiếp đến, hãy tận tình giúo đỡ những người đang gặp khó khăn, những kẻ đang vấp ngã: Hãy giơ cánh tay thân thiện kéo họ ra khỏi những vũng bùn nhơ, thay vì đi nói xấu hay xét đoán và kết án họ.
Lẽ Sống


Lectio Divina: Mátthêu 28:8-15
Thứ Hai 22 Tháng Tư, 2019
Thứ Hai trong Tuần Bát Nhật Phục Sinh        


1.  Lời nguyện mở đầu
Lạy Thiên Chúa hằng sống của chúng con,
Tâm hồn chúng con vui mừng và hân hoan
Và chúng con cảm thấy an bình trong đức tin của mình
Rằng chúng con có một Đấng hằng sống để mà tin tưởng vào, là Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã sống lại từ cõi chết.
Xin hãy để Người chỉ cho chúng con con đường của sự sống,
Xin cho chúng con sống trong niềm hân hoan vì sự hiện diện của Người
Và ban cho chúng con ân sủng được làm chứng nhân,
Để cho chúng con có thể công bố với cả cuộc đời chúng con
Rằng Chúa Giêsu là Thiên Chúa đã sống lại, Chúa hằng sống của chúng con
Bây giờ và muôn đời.

2.  Bài Đọc Tin Mừng – Mátthêu 28:8-15
Khi ấy, các bà vội ra khỏi mồ vừa sợ hãi vừa hớn hở vui mừng, chạy báo tin cho các nhóm môn đệ Chúa.  Và này Chúa Giêsu đón gặp các bà, Người nói:  “Chào các bà”.  Các bà liền lại gần ôm chân Người và phục lạy.  Bấy giờ Chúa Giêsu bảo:  “Các bà đừng sợ.  Hãy đi báo tin cho các anh em Ta phải trở về Galilêa, rồi ở đó họ sẽ gặp Ta.”
Đang khi các bà lên đường, thì mấy người lính canh vào thành báo tin cho các thượng tế biết tất cả những gì đã xảy ra.  Các thượng tế liền họp với các kỳ lão, và sau khi đã bàn định, họ cho lính một số tiền lớn và bảo rằng:  “Các anh hãy nói rằng:  Ban đêm khi chúng tôi đang ngủ, thì môn đệ ông đến lấy trộm xác ông.  Nếu việc này đến tai tổng trấn, chúng tôi sẽ thương lượng với ông, không để các anh phải phiền hà đâu”.  Bọn lính canh nhận tiền và đã làm y như họ căn dặn chúng.  Bởi thế, lời đó được phao truyền nơi người Do Thái cho đến ngày nay.

3.  Suy Niệm
  Chúa Phục Sinh!  Bài Tin Mừng hôm nay mô tả kinh nghiệm về Sự Phục Sinh mà các môn đệ của Chúa Giêsu đã trải qua.  Trong phần mở đầu sách Tin Mừng của mình, trong lời giới thiệu về Chúa Giêsu, thánh Mátthêu đã nói rằng Chúa Giêsu là Đấng Êmmanuel, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta (Mt 1:23).  Giờ đây, tại phần kết, tác giả thông tri và làm gia tăng điều chắc chắn này về đức tin, vì ông tuyên xưng rằng Đức Giêsu đã sống lại (Mt 28:6) và Người sẽ ở với chúng ta luôn mãi, cho đến ngày tận thế! (Mt 28:20).  Trong các mâu thuẫn của đời sống, sự thật này đã bị nghi ngờ, tranh cãi rất nhiều.  Phe đối lập không phải là thiếu.  Những kẻ thù, các thượng tế Do Thái, tự bào chữa cho mình chống lại Tin Mừng Phục Sinh và đánh tiếng rằng thi thể Chúa đã bị các môn đệ đánh cắp (Mt 28:11-13).  Điều này cũng đang xảy ra ngày nay.  Một mặt, nỗ lực của nhiều người sống và làm chứng cho sự sống lại.  Mặt khác, có rất nhiều kẻ ác nhân chống phá sự sống lại và chống lại sự sống.
  Trong sách Tin Mừng Mátthêu, sự thật về việc Phục Sinh của Chúa Giêsu được kể lại qua ngôn ngữ tượng trưng, trong đó mặc khải ý nghĩa tiềm ẩn của sự kiện.  Thánh sử Mátthêu nói về mặt đất rung chuyển, về tia chớp lóe ra và các thiên sứ công bố việc chiến thắng cái chết của Chúa Giêsu (Mt 24).  Đó là ngôn ngữ khải huyền, rất phổ biến vào thời ấy, để loan báo rằng thế gian cuối cùng đã được biến đổi bởi quyền năng của Thiên Chúa!  Niềm hy vọng của người nghèo khổ, những người được tái khẳng định đức tin của họ, đã được ứng nghiệm:  “Chúa đang sống giữa chúng ta!”
  Mt 28:8:  Niềm vui mừng Chúa Phục Sinh đã lấn át nỗi sợ hãi.  Vào sáng sớm Chúa Nhật, ngày thứ nhất trong tuần, hai người phụ nữ đã đi viếng mộ, bà Maria Mađalêna và Maria mẹ ông Giacôbê, cũng được gọi là bà Maria kia.  Đột nhiên mặt đất rung chuyển dữ dội và một thiên thần hiện ra như lằn chớp.  Các lính canh là những người đang gác mộ cũng đã run lên vì sợ hãi đến nỗi chết ngất đi.  Các người phụ nữ đã hốt hoảng nhưng thiên thần đã trấn an các bà, loan báo sự chiến thắng cái chết của Chúa Giêsu và sai họ đi gặp các môn đệ Chúa Giêsu tại Galilêa.  Và tại Galilêa, họ sẽ có thể được thấy Người lần nữa.  Mọi việc bắt đầu từ đó; họ đã nhận được sự mặc khải lớn lao về Chúa Phục Sinh.  Niềm hân hoan của sự Sống Lại đã bắt đầu lấn át nỗi sợ hãi.  Vì thế, lời loan báo sự sống và sự sống lại bắt đầu theo cách này.
  Mt 28:9-10:  Chúa Giêsu hiện ra với các phụ nữ.  Các bà ra đi ngay lập tức.  Trong lòng các bà, sự sợ hãi trộn lẫn với hân hoan.  Đây là những tình cảm điển hình của những người đã có một kinh nghiệm sâu sắc về Mầu Nhiệm Thiên Chúa.  Đột nhiên, Chúa Giêsu đã đón gặp các bà và nói với họ:  “Hãy vui mừng lên!”  Và các bà liền ôm lấy chân Người và phục lạy Người.  Đó là thái độ của người tin tưởng và chấp nhận sự hiện diện của Thiên Chúa, ngay cả khi ngạc nhiên và điều vượt quá khả năng hiểu biết của loài người.  Bây giờ, Chúa Giêsu ra lệnh cho các bà đi báo với các anh em tại Galilêa:  “Các bà đừng sợ.  Hãy đi báo tin cho các anh em Ta phải trở về Galilêa, rồi ở đó họ sẽ gặp Ta.”
  Mt 28:11-15:  Óc tinh ranh hoặc lừa đảo của những kẻ thù của Tin Mừng.  Phe chống đối mà Chúa Giêsu đã phải đối mặt trong cuộc sống của Người, bây giờ lại dấy lên một lần nữa sau khi Chúa Phục Sinh.  Các thượng tế gặp và cho tiền các lính canh.  Họ phải loan tin rằng các môn đệ đã lấy trộm xác của Chúa Giêsu, và điều này để làm vô hiệu tất cả mọi lời nói về sự sống lại.  Các thượng tế không chấp nhận Tin Mừng Phục Sinh.  Họ ưa tin rằng đó là sự bịa đặt từ phía các môn đệ – nam cũng như nữ – của Chúa Giêsu.
  Sự quan trọng của lời chứng của các bà.  Sự hiện diện của những người phụ nữ tại lúc chết, lúc mai táng và tại lúc sống lại của Chúa Giêsu thì quan trọng.  Họ là những nhân chứng về cái chết của Chúa Giêsu (Mt 27:54-56).  Tại lúc mai táng, các bà vẫn còn ngồi trước mộ và vì thế, các bà có thể làm chứng về địa điểm mà Chúa đã được mai táng (Mt 27:61).  Giờ đây, vào sáng Chúa Nhật, các bà lại có mặt ở đó lần nữa.  Các bà biết rằng ngôi mộ trống thực sự là ngôi mộ của Chúa Giêsu!  Kinh nghiệm sâu sắc về cái chết và sự sống lại mà các bà có, đã biến đổi đời sống các bà.  Chính các bà đã trở thành những nhân chứng có đủ tư cách về sự Phục Sinh trong các Cộng Đoàn Kitô hữu.  Đây là lý do tại sao họ nhận được lệnh phải đi thông báo:  “Chúa Giêsu đang sống!  Người đã sống lại từ cõi chết!”

4.  Một vài câu hỏi gợi ý cho việc suy gẫm cá nhân
  Kinh nghiệm về sự sống lại mà tôi có trong đời tôi là gì?  Ở trong tôi đã có một lực nào mà cố gắng chống lại kinh nghiệm về sự sống lại không?  Tôi đã phản ứng ra sao?
–  Ngày nay, sứ vụ của cộng đoàn chúng ta, của chúng ta, các môn đệ của Chúa Giêsu là gì?  Chúng ta có thể rút ra được sức lực, sức mạnh và lòng can đảm từ nơi nào để hoàn thành sứ vụ của mình?

5.  Lời nguyện kết
Con chúc tụng CHÚA hằng thương chỉ dạy,
Ngay cả đêm trường, lòng dạ nhắn nhủ con.
Con luôn nhớ có Ngài trước mặt,
Được Ngài ở bên, chẳng nao núng bao giờ.
(Tv 16:7-8)



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét