06/10/2019
Chúa Nhật 27 Thường Niên năm C
(Phần I)
BÀI ĐỌC I: Kb 1, 2-3;
2, 2-4
"Người công chính sẽ sống
được nhờ trung tín".
Trích sách Tiên tri
Khabacúc.
Lạy Chúa, con kêu cầu
Chúa cho đến bao giờ mà Chúa không nghe? Con phải ức ép kêu lên cùng Chúa, mà
Chúa không cứu con sao? Cớ sao Chúa tỏ cho con thấy sự gian ác và lao khổ, cướp
bóc và bất lương trước mặt con? Dù có công lý, nhưng kẻ đối nghịch vẫn thắng.
Chúa đáp lại tôi rằng:
"Hãy chép điều con thấy, hãy khắc nó vào tấm bảng, để đọc được dễ dàng. Bởi
hình lạ còn xa, nó sẽ xuất hiện trong thời sau hết, và sẽ chẳng hư không. Nó kết
duyên với ngươi, hãy chờ đợi nó, vì nó sẽ đến không trì hoãn. Chắc chắn nó sẽ đến,
không sai. Người không có lòng ngay thì ngã gục, nhưng người công chính sẽ sống
nhờ trung tín".
Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 94, 1-2.
6-7. 8-9
Đáp: Ước chi
hôm nay các bạn nghe tiếng Người: "Các ngươi đừng cứng lòng!" (c.
8).
Xướng:
1) Hãy tới, chúng ta
hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hô Đá Tảng cứu độ của ta! Hãy ra trước thiên nhan với
lời ca ngợi, chúng ta hãy xướng ca để hoan hô Người. - Đáp.
2) Hãy tiến lên, cúc
cung bái và sụp lạy; hãy quỳ gối trước nhan Chúa, Đấng tạo thành ta. Vì chính
Người là Thiên Chúa của ta, và ta là dân Người chăn dẫn, là đoàn chiên thuộc ở
tay Người. - Đáp.
3) Ước chi hôm nay các
bạn nghe tiếng Người: "Đừng cứng lòng như ở Meriba, như hôm ở Massa trong
khu rừng vắng, nơi mà cha ông các ngươi đã thử thách Ta; họ đã thử Ta mặc dầu
đã thấy công cuộc của Ta. - Đáp.
BÀI ĐỌC II: 2 Tm 1,
6-8, 13-14
"Con chớ hổ thẹn làm chứng
cho Chúa chúng ta".
Trích thư thứ hai của
Thánh Phaolô Tông đồ gửi cho Timô-thêu.
Con thân mến, cha
khuyên con hãy làm sống lại ơn Thiên Chúa đã ban cho con do việc đặt tay của
cha. Vì chưng, Thiên Chúa không ban cho chúng ta một thần khí nhát sợ, mà là thần
khí dũng mạnh, bác ái và tiết độ. Vậy con chớ hổ thẹn làm chứng cho Chúa chúng
ta, và cho cha nữa, là tù nhân của Người, nhưng con hãy đồng lao cộng tác với
cha vì Tin Mừng, nhờ quyền năng của Thiên Chúa.
Con hãy lấy những lời
lành lẽ phải, con đã nghe cha nói, làm mẫu mực trong đức tin và lòng mến nơi Đức
Giêsu Kitô. Con hãy cậy nhờ Thánh Thần là Đấng ngự trong chúng ta mà gìn giữ
kho tàng tốt đẹp.
Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Ga 10, 27
Alleluia, alleluia!
- Chúa phán: "Con chiên Ta thì nghe tiếng Ta: Ta biết chúng và chúng theo
Ta". - Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 17, 5-10
"Nếu các con có lòng
tin".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, các Tông đồ
thưa với Chúa Giêsu rằng: "Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con".
Chúa liền phán rằng: "Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải, thì dẫu các
con khiến cây dâu này rằng: 'Hãy bứng rễ lên mà đi trồng dưới biển', nó liền
vâng lời các con.
"Ai trong các con
có người đầy tớ cày bừa hay chăn súc vật ngoài đồng trở về, liền bảo nó rằng:
'Mau lên, hãy vào bàn dùng bữa', mà trái lại không bảo nó rằng: 'Hãy lo dọn bữa
tối cho ta, hãy thắt lưng và hầu hạ ta cho đến khi ta ăn uống đã, sau đó ngươi
mới ăn uống'. Chớ thì chủ nhà có phải mang ơn người đầy tớ, vì nó đã làm theo lệnh
ông dạy không? Thầy nghĩ rằng: Không. Phần các con cũng vậy, khi các con làm
xong mọi điều đã truyền dạy các con, thì các con hãy nói rằng: 'Chúng tôi là đầy
tớ vô dụng, vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải
làm'".
Đó là lời Chúa.
Suy niệm
Tin Mừng hôm nay cung
cấp một tường thuật rất ý nghĩa về đức tin và một dụ ngôn vắn về vai trò làm
tôi tớ Thiên Chúa của chúng ta. Hai giáo huấn khác nhau này trong Tin Mừng Luca
được trình bày theo sau một giới luật gắt gao của Đức Giêsu về tội và sự tha thứ,
và dẫn tới câu chuyện Chúa Giêsu chữa lành mười người phong cùi. Không có mối
liên kết rõ ràng, lôgích nào giữa các giáo huấn của Đức Giêsu trong Luca 17,
hay giữa các giáo huấn ấy và câu chuyện chữa lành theo sau. Tuy nhiên, khi suy
niệm về ơn gọi truyền giáo của người Kitô hữu, chúng ta trở thành những bạn đồng
hành với các môn đệ (ở đây gọi là tông đồ) khi các ngài cầu xin với Chúa Giêsu:
“Xin Thầy thêm đức tin cho chúng con” (Lc 17:5).
Đáp lại lời cầu xin
tăng thêm đức tin (rõ ràng là một lời cầu xin thánh thiện cho sự tăng trưởng
thiêng liêng), Đức Giêsu nêu lên một sự so sánh giữa hai thái cực, phối hợp
hình ảnh một hạt cải nhỏ xíu trong ngạn ngữ với hình ảnh một cây dâu to lớn.
Khi sử dụng hình ảnh ngạn ngữ này, Đức Giêsu thúc đẩy chúng ta vượt lên trên lối
suy nghĩ lôgích thường ngày, bằng cách gợi ý rằng đức tin không hoạt động theo
các tiêu chuẩn nhân loại bình thường, nhưng có vẻ khó hiểu đối với con mắt của
loài người giống như một cây cải ở giữa đại dương. Tự cơ bản, đức tin là sự tín
thác sâu xa vào Thiên Chúa và theo các cách thức Thiên Chúa hoạt động. Có lẽ mọi
người truyền giáo có chút kinh nghiệm đều đã từng nhìn thấy những kết quả được
tạo ra bởi hành động của Thiên Chúa trong các hoàn cảnh có vẻ hoàn toàn chống lại
mọi kết quả. Bài Tin Mừng hôm nay thách thức chúng ta tin tưởng vào Thiên Chúa
vượt lên trên các giới hạn của cái lôgích nhân loại và ý nghĩa của cái có thể xảy
ra, nhờ đó chúng ta trở nên một với tinh thần, trí tưởng tượng, lối suy nghĩ và
trái tim của Thiên Chúa.
“Các Tông Đồ thưa với
Chúa Giêsu rằng: ‘Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con’” (Lc 17:5- 6). Ở
đây Thánh Luca gọi mười hai người đã được Đức Giêsu chọn khúc khởi đầu sứ vụ của
Người (x. Lc 6:12-16) là “Tông Đồ”. Có nghĩa là “được sai đi”. Trong khi các
sách Tin Mừng khác chỉ sử dụng thuật ngữ ngày một lần duy nhất để chỉ về nhóm cụ
thể các môn đệ này của Đức Giêsu, Luca sử dụng từ “tông đồ” sáu lần trong
sách Tin Mừng của ngài và hai mươi tám lần trong sách Công vụ Tông Đồ. Hội
Thánh sơ thời ý thức rằng đặc quyền của Nhóm Mười Hai này là không thể chuyển
nhượng; tính xác thực về sự uỷ nhiệm và sứ mạng của họ được dựa trên sự chọn lựa
của chính Đức Giêsu. Người đã chọn và sai họ đi. Vì thế những tông đồ ấy là những
chứng nhân chính thức cho Tin Mừng về Chúa Phục Sinh! Và theo nghĩa này, họ sẽ
phải có đủ đức tin vào Người. Họ là những chứng nhân ưu việt về những lời giảng
dạy và những phép lạ của Đức Giêsu (x. Lc 18:31), và đồng thời họ cũng là những
con người mỏng dòn như tất cả chúng ta, cũng có những hoài nghi và thiếu lòng
tin (x. Lc 24:11.25.38-39). Đó là lý do của lời cầu xin họ dâng lên Đức Giêsu
trong bài Tin Mừng hôm nay, “Xin tăng thêm lòng tin cho chúng con”, với niềm
tin chắc rằng Người là Thiên Chúa.
Điều này có nghĩa là
gì đối với tất cả chúng ta là những người “được sai đi” hôm nay? Chúng ta phải
khiêm tốn nhìn nhận rằng chúng ta rất thiếu lòng tin trong sứ mạng loan báo Tin
Mừng cho thế giới. Có lẽ Đức Giêsu không bảo chúng ta, “Nếu anh em có lòng tin
lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: ‘Hãy bật rễ lên, xuống dưới
biển kia mà mọc,’ nó cũng sẽ vâng lời anh em” (Lc 17:6). Do đó, không thể có
lòng tin để chuyển núi dời non nếu chúng ta thiếu lòng tin cơ bản vào Đức
Giêsu là Chúa, Đức Giêsu phục sinh và đang sống trong Hội Thánh của Người. Có
ích gì khi muốn có một đức tin làm được phép lạ trước đám đông, hay có khả năng
chữa bệnh, hay có sức mạnh phi thường gây kinh ngạc cho người ngoại giáo và người
có đạo hôm nay? Bản thân Đức Giêsu đã từng làm nhiều, rất nhiều phép lạ trước mặt
những người đương thời và các tông đồ của Người, nhưng điều đó đã không tăng
thêm đức tin cho họ. Điều cốt yếu đối với chúng ta là có lòng khiêm nhường của
các tông đồ để xin Chúa không ngừng đến trợ giúp chúng ta. “Tôi tin! Nhưng xin
Thầy giúp lòng tin yếu kém của tôi!” Đây là lời thốt lên của người cha có đứa
con bị quỷ ám mắc bệnh động kinh (Mc 9:24; x. Lc 9:37-43). Mỗi khi đến bàn tiệc
Thánh Thể, được gặp Chúa Giêsu phục sinh, chúng ta hãy xin Người ban đức tin cần
thiết cho chúng ta để gặp Người trong cuộc sống và trong thế giới của chúng ta.
Chỉ có cầu nguyện không ngừng, linh hồn của việc truyền giáo, mới làm cho đức
tin chúng ta sống động.
Ngay sau đó (x. Lc
17:5-10), đoạn tường thuật của Tin Mừng Luca đặt chúng ta đối diện với một cảnh
được lấy từ đời sống hằng ngày trong nhà để dạy chúng ta về việc tông đồ: dù
công việc chúng ta làm có những kết quả tuyệt vời đến đâu, chúng ta vẫn chỉ
là đang chu toàn nhiệm vụ được Chúa giao cho. Trong nếp sống hằng ngày vào thời
Đức Giêsu, có sự thiết lập rõ ràng những mong đợi của chủ và tớ liên quan đến
vai trò của mỗi người. Chủ ra lệnh và đầy tớ thì thi hành. Đầy tớ được yêu cầu
chuyển từ công việc đồng áng sang công việc nhà và thậm chí không được nghỉ. Đầy
tớ không thể phản đối vì mệt, đói hay khát. Chắc chắn không được hiểu những lời
của Chúa Giêsu như là một sự biện minh cho thể chế nô lệ thời xưa; Người chỉ
đang sử dụng một thực tế xã hội thời xưa như một ẩn dụ để gợi ý về một sự giống
nhau giữa thực tế này với việc chúng ta phục vụ Thiên Chúa.
Khi Đức Giêsu đặt câu
hỏi tu từ: “Chẳng lẽ ông chủ lại biết ơn đầy tớ vì nó đã làm theo lệnh truyền
sao?” Người hỏi đám đông, bao gồm cả chúng ta, và chờ đợi câu trả lời đương
nhiên là “Không”. Rồi Đức Giêsu nói tiếp rằng khi chúng ta đã làm tất cả những
gì Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta, chúng ta phải thưa với Người, “Chúng tôi là những
đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm những gì chúng tôi phải làm.” Hình ảnh cực
đoan này có ý là một bài học sư phạm để hoán cải người môn đệ truyền giáo về với
cái lôgích của đức tin - không phải hiệu quả và lợi ích của việc phục vụ, nhưng
là kết quả của đức tin là sự hiệp thông với Chúa Giêsu.
Bằng các lời nói của
chúng ta và qua kinh nghiệm hằng ngày, Đức Giêsu đặt chúng ta đối diện với
sự thật rằng việc mong đợi phần thưởng thì không tương xứng với thực tại. Tuy
nhiên, cái tương xứng ở đây là sự hiểu biết rằng Thiên Chúa là ai và chúng ta mắc
nợ Người điều gì. Đức Giêsu muốn chúng ta nhìn nhận rằng Thiên Chúa mong đợi
chúng ta một sự cam kết nghiêm túc và chân thành với công việc mà Thiên Chúa
kêu gọi chúng ta làm, đó là sứ mạng làm cho Đức Kitô được biết đến trong thế giới.
Hai bài đọc khác của
ngày hôm nay mời chúng ta suy tư về các chủ đề đức tin và việc phục vụ Thiên
Chúa này, nhưng từ hai viễn tượng khác. Sách ngôn sứ Khabacúc, được viết một thời
gian ngắn trước khi dân Do Thái bị lưu đày xa quê hương vào thế kỷ 6 trước
C.N., kêu cầu sự trợ giúp của Thiên Chúa giữa cảnh phá phách và bạo tàn. Đáp lại,
Thiên Chúa tuyên bố rằng một số kẻ nghênh ngang tự đắc mặc dù họ không có sự
“công chính”, trong khi “người công chính sẽ sống bởi đức tin” (Kb 2:4).
Khabacúc nhấn mạnh rằng, trái với những kẻ phá phách và bạo tàn, một số người
tin tưởng nơi Thiên Chúa. Đây là đức tin đơn sơ và tinh tuyền; đây là cái làm
cho họ nên công chính trước mặt Thiên Chúa.
Khi Phaolô gặp Đức
Giêsu Phục Sinh, cách hiểu về đức tin của Khabacúc đã được biến đổi. Ngài bắt đầu
biết được những cách thức phi thường của Thiên Chúa khi yêu thương chúng
ta, khoảng cách mà Thiên Chúa đã vượt qua để đưa chúng ta trở về với mối quan hệ
đúng đắn với Người. Phaolô thấy rằng sự tin tưởng vào quyền năng sáng tạo của
Thiên Chúa cũng hoạt động trên chúng ta, trong Đức Giêsu Kitô. Phaolô đã khám
phá ra chính sự tự do và đức tin trong mối quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa,
và nó thúc đẩy ngài và mọi tín hữu sau ngài đi ra thế giới để làm cho mọi người
biết tin mừng về tình yêu tái sinh của Thiên Chúa, và loan báo cuộc Phục Sinh cứu
độ của Chúa Giêsu.
Cách nhìn mới của đức
tin về các sự vật được tập trung vào Đức Kitô. Tin vào Đức Kitô đem lại ơn cứu
độ bởi vì nơi Người cuộc sống của chúng ta được mở ra một cách triệt để cho một
tình yêu đi trước chúng ta, một tình yêu biến đổi chúng ta từ bên trong, hành động
trong chúng ta và qua chúng ta. Điều này được thấy rõ ràng trong cách chú giải
của Phaolô về một bản văn từ sách Đệ Nhị Luật, một chú giải phù hợp với trọng
tâm của sứ điệp Cựu Ước. Ông Môsê nói với dân rằng lệnh truyền của Thiên Chúa
không ở quá cao cũng không ở quá xa chúng ta. Không cần phải nói: “Ai sẽ lên trời
lấy xuống cho chúng tôi?”, hay “Ai sẽ sang bên kia biển lấy về cho chúng tôi?”
(Đnl 30:11-14). Phaolô giải thích sự gần gũi của lời Thiên Chúa bằng sự hiện diện
của Đức Kitô trong các Kitô hữu. “Ðừng tự hỏi: ‘Ai sẽ lên trời?’ (ngụ ý
là: để đem Ðức Kitô xuống), hay ‘Ai sẽ xuống âm phủ?’ (ngụ ý là: để đưa Ðức
Kitô lên từ cõi chết)” (Rm 10:6-7). Đức Kitô đã xuống trần gian và đã sống lại
từ cõi chết; bằng việc nhập thể và phục sinh của Người, Con Thiên Chúa đã ôm ấp
toàn thể đời sống và lịch sử loài người, và bây giờ đang ở trong lòng chúng ta
nhờ Thánh Thần. Đức tin biết rằng Thiên Chúa đã đến gần chúng ta, Đức Kitô đã
được ban cho chúng ta như một ân huệ lớn lao nhằm biến đổi bên trong chúng ta,
cư ngụ trong chúng ta và nhờ đó ban cho chúng ta ánh sáng chiếu soi nguồn gốc
và chung cuộc của sự sống.
Do đó chúng ta thấy được
sự khác biệt mà đức tin tạo ra cho chúng ta. Những ai tin thì được biến đổi bởi
tình yêu mà họ đã mở lòng mình ra cho trong đức tin. Nhờ sự mở lòng cho món quà
tình yêu nguyên thuỷ này, cuộc sống họ được mở rộng và triển nở. “Không còn là
tôi sống, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2:20). “Xin cho anh em, nhờ lòng
tin, được Ðức Kitô ngự trong tâm hồn” (Ep 3:17). Sự ý thức về mình của người
tín hữu bây giờ được mở rộng bởi vì sự hiện diện của một người khác; bây giờ sự
tự thức ấy sống trong người khác này và vì vậy, trong tình yêu, sự sống mang lấy
một hơi thở hoàn toàn mới. Ở đây chúng ta thấy Chúa Thánh Thần hoạt động. Người
Kitô hữu có thể nhìn bằng con mắt của Đức Giêsu và chia sẻ tinh thần của
Người, thái độ con thảo của Người, vì họ được chia sẻ tình yêu của Người là
chính Thần Khí. Trong tình yêu của Đức Giêsu, chúng ta một cách nào đó nhận được
cái nhìn của Người. Nếu không nên giống Người trong tình yêu, không có sự hiện
diện của Thần Khí, thì không thể tuyên xưng Người là Chúa (x. 1 Cr 12:3). (ĐGH
Phanxicô, Lumen Fidei, 20-21).
(Trích 31 bài giảng
của uỷ ban loan báo Tin Mừng trong tháng truyền giáo ngoại thường 10/2019)
Nguồn: Uỷ ban loan
báo Tin Mừng
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Chủ Nhật 27 Thường Niên, Năm C
Bài đọc: Hab
1:2-3; 2:2-4; 2 Tim 1:6-8, 13-14; Lk 17:5-10.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Kiên nhẫn và trung thành bước theo đường lối của Thiên Chúa.
Khi chứng kiến những bất công hay tai nạn xảy ra cho người
vô tội, con người thường hay đặt những câu hỏi có khuynh hướng nghi ngờ uy quyền
và tình thương của Thiên Chúa. Ví dụ, biến cố 9/11, cơn bão Katrina, hay trận động
đất tại Haiti, nhiều người đặt 2 câu hỏi: (1) Nếu một Thiên Chúa uy quyền, Ngài
phải ngăn cản không cho những chuyện đó xảy ra; nếu Ngài không thể ngăn cản,
Ngài không có uy quyền. (2) Nếu Ngài có uy quyền mà không ngăn cản những chuyện
đó đừng xảy ra, Ngài là một Thiên Chúa quá ác. Cả hai lý do đều là cớ cho họ
không còn tin tưởng nơi Thiên Chúa nữa!
Các bài đọc hôm nay tập
trung trong 3 thái độ đe dọa đức tin cho các tín hữu và những lời khuyên cần
thiết để thoát khỏi. Trong bài đọc I, con người thường có khuynh hướng bắt
Thiên Chúa phải làm ngay. Khi ngôn sứ Habakkuk chứng kiến những cảnh bất công xảy
ra cho người lành, ông thắc mắc tại sao Thiên Chúa không ra tay tiêu diệt bọn
ác nhân! Thiên Chúa trả lời: Chuyện đó chắc chắn sẽ xảy ra, bổn phận của con
người là phải kiên nhẫn chờ đợi với lòng trung thành. Thiên Chúa có thời gian của
Ngài, con người không được bắt Thiên Chúa phải làm ngay. Trong bài đọc II,
Phaolô khuyên môn đệ Timothy phải kiên nhẫn chịu đau khổ vì Tin Mừng, vì ông đã
được Thiên Chúa chuẩn bị để làm chuyện đó. Khi con người mất kiên nhẫn chờ đợi
và không trung thành làm theo ý Thiên Chúa, họ sẽ tự giải quyết lấy theo kiểu của
họ, và sẽ phải mang lấy hậu quả khốc hại muôn đời. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu
khuyên các môn đệ phải biết thân phận của mình trước mặt Thiên Chúa để đừng đòi
quyền lợi như: nếu làm điều này thì phải được Thiên Chúa thưởng công cái này. Tất
cả đều là ân huệ Thiên Chúa ban, khi con người đã chu toàn tốt lành mọi bổn phận,
con người vẫn chỉ là những người đầy tớ giả sử phải làm những việc được trao
phó cho mình.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Người công chính sẽ được sống nhờ lòng thành tín của mình.
1.1/ Sao Ngài lặng thinh
khi kẻ gian ác nuốt trửng người chính trực hơn mình?
Tiên tri Habakkuk có lẽ
họat động đồng thời với tiên tri Nahum, trong thời gian từ 640-598 BC, thời kỳ
lưu đày của Israel bên Assyria. Lý do vương quốc Israel bị thất thủ và vua quan
cùng dân chúng bị lưu đày là tội bất trung với Chúa chạy theo các thần ngoại
như tiên tri Hosea đã tuyên cáo, và tội bất công chèn ép dân nghèo như tiên tri
Amos đã tuyên cáo.
Tiên tri Habakkuk
đã mất kiên nhẫn chờ đợi khi thấy Assyria tội lỗi hơn Israel,
tại sao Chúa lại để những đứa ác nhân như thế mặc sức chà đạp Dân Chúa và ông đặt
câu hỏi với Thiên Chúa: “Từ muôn thuở, Ngài chẳng là Đức Chúa, là Thiên Chúa
con thờ, là Đức Thánh của con, là Đấng Bất Tử sao? Lạy Đức Chúa, chính vì để
xét xử mà Ngài đã đặt dân ấy lên. Lạy Đức Chúa là đá tảng, chính vì để thi hành
án phạt mà Ngài đã cho nó được mạnh sức. Mắt của Ngài thật quá tinh tuyền không
thể chịu được điều gian ác, Ngài không thể nhìn xem cảnh khốn cùng, tại sao
Ngài cứ đứng nhìn quân phản bội, sao Ngài lặng thinh khi kẻ gian ác nuốt trửng
người chính trực hơn mình?”
1.2/ “Ai không có tâm hồn
ngay thẳng sẽ ngã gục, còn người công chính thì sẽ được sống, nhờ lòng thành
tín của mình."
Habakkuk, cũng như
Job, muốn hiểu lý do tại sao Chúa lại làm như thế. Ông nói: “Tôi sẽ ra đứng ở
chòi canh, đứng gác trên tường luỹ canh chừng xem Người nói với tôi điều gì và
đáp lại nỗi bất bình của tôi ra sao!” Và Đức Chúa trả lời và nói với Habakkuk:
"Hãy viết lại thị kiến và khắc vào tấm bia cho ai nấy đọc được xuôi chảy.
Đó là một thị kiến sẽ xảy ra vào thời ấn định. Nó đang tiến nhanh tới chỗ hoàn
thành, chứ không làm cho ai thất vọng. Nếu nó chậm tới, thì cứ đợi chờ,
vì thế nào nó cũng đến, chứ không trì hoãn đâu.”
Chúa có chương trình
và thời giờ của Chúa, Ngài không cần ai làm cố vấn cho Ngài. Chúa có thể dùng kẻ
gian ác như Assyria như cái roi để sửa phạt Israel, Ngài cũng có thể dùng quân
thù khác để trừng trị kẻ cầm roi, như Ngài sẽ dùng Babylon để sửa phạt Assyria.
Con người có tội không có quyền để tra vấn Chúa, nhưng phải kiên nhẫn chờ đợi
trong đức tin ngày Chúa cất đi những hình phạt cho mình: “Này đây, ai không có
tâm hồn ngay thẳng sẽ ngã gục, còn người công chính thì sẽ được sống nhờ lòng
thành tín của mình."
Người nào mất kiên nhẫn
rồi sinh ra bất bình với Thiên Chúa và không tin tưởng và đi theo đường lối của
Ngài nữa, người ấy sẽ bị ngã gục và lãnh hình phạt của những kẻ bất lương.
Người nào kiên trì
trong đau khổ và nhất quyết bước theo đường lối của Thiên Chúa, người đó sẽ sống
và sẽ nhìn thấy sự công thẳng của Thiên Chúa.
2/ Bài đọc II: Anh hãy đồng lao cộng khổ với tôi để loan báo Tin Mừng.
2.1/ Thiên Chúa đã trang
bị cho con người đầy đủ để sống và làm chứng cho Tin Mừng.
Thiên Chúa không bao
giờ bắt con người làm chuyện không thể, khi muốn con người làm chuyện gì, Ngài
ban đầy đủ ơn thánh qua các bí tích để con người có thể làm chuyện đó. Trong
trình thuật hôm nay, Phaolô nhắc nhở cho môn đệ Timothy những gì Thiên Chúa đã
ban cho ông trong ngày lãnh nhận chức Giám-quản (episcopos): “Tôi nhắc
anh phải khơi dậy đặc sủng của Thiên Chúa, đặc sủng anh đã nhận được khi tôi đặt
tay trên anh. Vì Thiên Chúa đã chẳng ban cho chúng ta một thần khí làm cho
chúng ta trở nên nhút nhát, nhưng là một Thần Khí khiến chúng ta được đầy sức mạnh,
tình thương, và biết tự chủ.”
Thánh Thần của Thiên
Chúa đã ban cho Timothy những ơn thánh sau đây qua việc đặt tay của Phaolô: (1)
Ơn sức mạnh để sống và làm chứng cho sự thật. Lãnh đạo một giáo đoàn đòi
Timothy phải có sức mạnh để dám sống và làm chứng cho sự thật giữa bao đe dọa của
các thế lực ma quỉ và của thế gian. (2) Tình yêu (agapê) đến từ Thiên
Chúa để ông sẵn sàng hy sinh cho đoàn chiên. (3) Tự chủ hay tự kỷ luật: Đây là
nhân đức cần thiết cho mọi người, đặc biệt cho các nhà lãnh đạo, vì họ phải
đương đầu với rất nhiều cám dỗ và phải nêu gương sáng cho các tín hữu.
Tất cả các nhân đức
này được ban cho Timothy là để ông sống và làm chứng cho Tin Mừng. Phaolô
khuyên Timothy: “Vậy anh đừng hổ thẹn vì phải làm chứng cho Chúa chúng ta, cũng
đừng hổ thẹn vì tôi, người tù của Chúa; nhưng dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa,
anh hãy đồng lao cộng khổ với tôi để loan báo Tin Mừng.”
2.2/ Chịu đau khổ vì Tin
Mừng: Khi phải đương đầu với đau khổ, con
người dễ mất kiên nhẫn và niềm tin của họ vào Thiên Chúa. Phaolô cũng nhắc nhở
cho Timothy hai lý do tại sao ông phải kiên nhẫn trung thành với Tin Mừng:
(1) Trọng tâm của Tin
Mừng là Đức Kitô. Ngài đã chết, đã sống lại, đã hiện ra với Phaolô trên đường
đi Damas, và sẽ đến trong Ngày Phán Xét. Vì Đức Kitô đã sống lại, ơn cứu độ chắc
chắn được ban cho những ai đặt niềm tin nơi Ngài. Phaolô xác quyết: “Chính vì
lý do ấy mà tôi phải chịu những đau khổ này; nhưng tôi không hổ thẹn, vì tôi biết
tôi tin vào ai, và xác tín rằng: Người có đủ quyền năng bảo toàn giáo lý đã được
giao phó cho tôi, mãi cho tới Ngày đó.”
(2) Đức Kitô vẫn đang
hoạt động nơi người rao giảng qua Thánh Thần: Tuy Đức Kitô không còn công khai
hoạt động, nhưng Ngài vẫn liên kết với các môn đệ qua sự hoạt động của Thánh Thần.
Bổn phận của những người rao giảng là phải lắng nghe sự hướng dẫn của Thánh Thần
và trung thành với Tin Mừng được lãnh nhận.
3/ Phúc Âm: Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc
bổn phận đấy thôi.
3.1/ Chúng tôi đã chỉ làm
việc bổn phận đấy thôi: Để hiểu ý nghĩa câu
truyện dẫn chứng của Chúa Giêsu, chúng ta cần phân biệt 2 hành động:
(1) Bổn phận phải làm:
Bổn phận của đầy tớ là phải phục vụ chủ, không cần biết việc phải làm nhiều đến
đâu. Chúa Giêsu kể cho các môn đệ một câu truyện thực tế, để các ông luôn biết
nhận ra vai trò của mình trong mối liên hệ với Thiên Chúa: "Ai trong anh
em có người đầy tớ đi cày hay đi chăn chiên, mà khi nó ở ngoài đồng về, lại bảo
nó: "Mau vào ăn cơm đi!" chứ không bảo: "Hãy dọn cơm cho ta ăn,
thắt lưng hầu bàn cho ta ăn uống xong đã, rồi anh hãy ăn uống sau!” Dĩ nhiên là
chủ sẽ làm theo thái độ thứ hai. Ông làm mà không hối hận vì đó là đầy tớ của
ông; hơn nữa, ông cũng chẳng nghĩ đến việc ơn nghĩa, vì đó là bổn phận của đầy
tớ phải làm.
(2) Việc thiện nguyện:
Nếu một người không phải là đầy tớ, nhưng tình nguyện phục vụ người khác; đó mới
là việc thiện nguyện. Người lãnh nhận phải biết ơn người tình nguyện phục vụ
giúp mình.
Cũng vậy, con người có
bổn phận phục vụ Thiên Chúa, vì Ngài đã dựng nên con người. Hơn nữa, Thiên Chúa
còn đầu tư vào con người tất cả những gì cần thiết để làm việc sinh lời cho
Ngài như: ơn thánh, thời gian, sức khỏe, tài năng… Khi con người ra sức làm việc
để sinh lời tương xứng cho Chúa, đó mới chỉ là hoàn tất bổn phận hay công bằng,
vì mượn vốn thì phải trả cả lời lẫn vốn. Vì mọi sự trên đời là của Thiên Chúa,
nên Ngài không cần phải biết ơn con người như Chúa Giêsu nói hôm nay: “Đối với
anh em cũng vậy: khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói:
chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy
thôi.”
Tuy nhiên, nếu Thiên
Chúa ưu đãi và đối xử tốt với con người như trong trình thuật khác của Lucas:
“Khi chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì thật là phúc cho họ. Thầy
bảo thật anh em: chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà
phục vụ” (Lk 12:37). Đó hoàn toàn vì Ngài rộng lượng và quá thương yêu con người
mà thôi. Đây là điều tối quan trọng mà con người cần xác tín, để rồi đừng bao
giờ bắt Thiên Chúa phải làm theo ý mình, phải ban ơn khi mình cầu xin, hay ngã
lòng không thờ phượng Thiên Chúa nữa khi phải chịu đau khổ.
3.2/ Cần có một đức tin vững
mạnh: Đức tin của con người rất yếu kém và dễ
bị lung lay giữa bao cám dỗ của ma quỉ, thế gian, và xác thịt. Điều cần là con
người phải nhận ra điều đó và cầu xin như các Tông Đồ hôm nay: "Thưa Thầy,
xin thêm lòng tin cho chúng con." Tuy nhiên, ngoài việc cầu nguyện, con
người còn phải luyện tập bằng cách kiên trì trong những đau khổ; nếu không chịu
tập luyện, đức tin dần dần sẽ mất.
Một đức tin vững mạnh
sẽ giúp con người vượt qua mọi thử thách của cuộc đời để trung thành với Thiên
Chúa. Chúa Giêsu dạy các tông đồ: "Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải,
thì dù anh em có bảo cây vả này: "Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc",
nó cũng sẽ vâng lời anh em.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta cần biết
thân phận của mình chỉ là loài thọ tạo hèn hạ. Đừng bao giờ làm quân sư hay cố
vấn cho Thiên Chúa, hay bắt Thiên Chúa phải làm theo ý định “khôn ngoan” của
mình.
- Bổn phận của con người
là khiêm nhường làm theo những gì Thiên Chúa dạy, trung thành trong ơn gọi, và
kiên nhẫn đợi chờ. Vội vàng quyết định bất trung sẽ tự chuốc cho mình và gia
đình những thảm bại cả đời này và đời sau.
- Khi bị cám dỗ để
trách Chúa, nghi ngờ Ngài, hay nguy cơ bị đánh mất đức tin, hãy cầu nguyện như
các tông đồ: “Lạy Thầy, xin ban thêm đức tin cho con.”
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
ĐỨC MẸ MÂN CÔI
Bài đọc
I: CV 1, 12-14
Bấy giờ các ông từ núi
gọi là núi Ô-liu trở về Giê-ru-sa-lem. Núi này ở gần Giê-ru-sa-lem, cách đoạn
đường được phép đi trong ngày sa-bát. Trở về nhà, các ông lên lầu trên, là nơi
các ông trú ngụ. Đó là các ông: Phê-rô, Gio-an, Gia-cô-bê, An-rê, Phi-líp-phê,
Tô-ma, Ba-tô-lô-mê-ô, Mát-thêu, Gia-cô-bê con ông An-phê, Si-môn thuộc nhóm Quá
Khích, và Giu-đa con ông Gia-cô-bê. Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí,
chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Ma-ri-a thân mẫu Đức
Giê-su, và với anh em của Đức Giê-su.
Đáp ca: 1 Sm 2,1.4-5.6-7.8
Đáp: Tâm hồn tôi nhảy mừng trong Chúa, Đấng Cứu độ tôi
(c. 1a).
1) Tâm hồn tôi nhảy mừng trong Chúa, và sức mạnh tôi được gia tăng trong
Thiên Chúa tôi; miệng tôi mở rộng ra trước quân thù, vì tôi reo mừng việc Chúa
cứu độ tôi.
2) Chiếc cung những người chiến sĩ đã bị bẻ gãy, và người yếu đuối được
mạnh khoẻ thêm. Những kẻ no nê phải làm thuê độ nhật, và những người đói khát
khỏi phải làm thuê; người son sẻ thì sinh năm đẻ bảy, còn kẻ đông con nay phải
héo tàn.
3) Chúa làm cho chết và Chúa làm cho sống, Chúa đày xuống Âm phủ và Chúa
dẫn ra. Chúa làm cho nghèo và làm cho giàu có, Chúa hạ xuống thấp và Chúa nâng
lên cao.
4) Từ nơi cát bụi, Chúa nâng người yếu đuối; từ chỗ phân nhơ, Chúa nhắc
kẻ khó nghèo, để cho họ ngồi chung với các vương giả, và cho họ dự phần ngôi
báu vinh quang.
Bài đọc II: Gl 4,4-7:
“Thiên Chúa đã sai Con
Ngài sinh hạ bởi người phụ nữ”
Anh em thân mến,
Khi đã tới lúc thời gian đầy đủ, Thiên Chúa đã sai Con Ngài sinh hạ bởi
người phụ nữ, sinh dưới chế độ Lề Luật, để cứu chuộc những người ở dưới chế độ
Lề Luật, hầu cho chúng ta được nhận làm dưỡng tử. Sở dĩ vì anh em được làm con,
Thiên Chúa đã sai Thần Trí của Con Ngài vào tâm hồn chúng ta, kêu lên rằng:
“Abba”, nghĩa là Lạy Cha. Thế nên, bạn không còn phải là tôi tớ, nhưng là con,
mà nếu là con, tất bạn cũng là người thừa kế, nhờ ơn Thiên Chúa
ALLELUIA : Lc 1, 28
- Kính chào Maria đầy
ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng Trinh Nữ; Trinh Nữ được chúc phúc giữa các người phụ
nữ. - Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 1, 26-38
"Này Trinh nữ sẽ thụ thai
và sinh một Con trai".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Thiên Thần
Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một
trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Đavít, trinh nữ ấy
tên là Maria. Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: "Kính chào Trinh Nữ
đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Trinh Nữ". Nghe lời đó, Trinh Nữ bối rối
và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì. Thiên thần liền thưa: "Maria đừng sợ,
vì đã được ơn nghĩa với Chúa. Này Trinh Nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và
đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Đấng Tối Cao. Thiên
Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Đavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời
trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận.
Nhưng Maria thưa với
thiên thần: "Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người
nam?"
Thiên thần thưa:
"Chúa Thánh Thần sẽ đến với trinh nữ và uy quyền Đấng Tối Cao sẽ bao trùm
trinh nữ. Vì thế, Đấng trinh nữ sinh ra sẽ là Đấng Thánh và được gọi là Con
Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ trinh nữ cũng đã thụ thai con trai trong lúc
tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ gọi là son sẻ;
vì không có việc gì mà Chúa không làm được".
Maria liền thưa:
"Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền". Và
thiên thần cáo biệt trinh nữ.
Đó là lời Chúa.
Suy niệm : Mân côi
Hôm nay là ngày lễ kính
Mẹ Mân Côi, tôi muốn chia sẻ một vài ý nghĩ đơn sơ về chuỗi tràng hạt của chúng
ta.
Trước hết kinh Mân Côi
là một việc đạo đức do chính Mẹ đã truyền dạy. Thực vậy, vào năm 1206, bè rối
Albigeois nổi lên và trở thành một mối đe doạ cho Giáo Hội tại nước Pháp. Thánh
Đaminh được sai đến để cảm hoá. Mặc dù đã cố gắng rất nhiều, nhưng vẫn thất bại,
bè rối mỗi ngày một lan rộng. cuối cùng thánh Đaminh đã cầu xin với Đức Mẹ, và
theo truyền thuyết thì chính Đức Mẹ đã hiêẹn ra, truyền dạy thánh Đaminh phép lần
hạt Mân Côi. Nhờ kinh Mân Côi mà thánh Đaminh đã cảm hoá được những người theo
bè rối, dẫn đưa họ trở về cùng Giáo Hội.
Tiếp đến kinh Mân Côi
là một việc đạo đức có nội dung phong phú và cao cả. Đúng thế, xét về những lời
kinh chúng ta đọc, thì kinh Lạy Cha là lời kinh do chính Chúa Giêsu đã truyền dạy,
còn kinh Kính Mừng là lời kinh được rút tỉa từ lời chào kính của sứ thần
Gabriel và của bà Elisabeth, tất cả đều xuất phát tự Kinh Thánh. Nhưng quan trọng
hơn là về những mầu nhiệm suy gẫm. Đó là những biến cố trong cuộc đời của Chúa
Giêsu có liên quan mật thiết với Mẹ Maria, trình bày cho chúng ta tất cả mầu
nhiệm nhập thể và cứu độ mà Thiên Chúa đã vì yêu thương mà thực hiện cho chúng
ta qua dòng thời gian. Đồng thời qua mỗi biến cố, qua mỗi sự kiện, chúng ta đều
rút ra một nhân đức, một bài học cụ thể áp dụng vào đời sống thiêng liêng. Từ
đó chúng ta có thể kết luận: Kinh Mân Côi chính là một bản tóm lược cuộc đời
Chúa Giêsu, một bản đúc kết Tin Mừng Phúc Âm.
Sau cùng, kinh Mân Côi
còn là một việc đạo đức được Mẹ ưu chuộng và được Giáo Hội khuyến khích. Thực vậy
khi hiện ra tại Fatima, Mẹ đã truyền cho chúng ta ba mệnh lệnh đó là tôn sùng
Trái Tim Mẹ, cải thiện đời sống, và lần hạt Mân Côi. Nếu suy nghĩ chúng ta sẽ
nhận thấy việc lần hạt Mân Côi sẽ bao gồm cả hai mệnh lệnh kia, vì nhờ kinh Mân
Côi chúng ta biểu lộ được lòng tôn sùng kính mến Mẹ cũng như tìm thấy được những
tiêu chuẩn hướng dẫn cho việc đổi mới đời sống. Ngoài ra các Đức Giáo Hoàng
không ngừng nhắc nhở chúng ta chu toàn việc đạo đức cao cả này. Đức Lêo XIII đã
nói: Kinh Mân Côi phảng phất hương thơm và duyên dáng những cánh hồng, xứng
đáng được dâng kính Đức Trinh Nữ Maria. Đức Piô X thì bảo: Nếu các con muốn cho
gia đình mình được êm ấm và hạnh phúc, các con hãy lần hạt Mân Côi mỗi buổi tối
trong giờ kinh gia đình. Đức Piô XII đã viết: Trong những lời kinh và những
cách cầu nguyện tôn kính Mẹ Maria thì chuỗi Mân côi là một việc đạo đức cao cả
nhất. Đức Thánh Cha Gioan XXIII thì bảo: Kinh Mân Côi là hơi thở của mọi tâm hồn.
Sau cùng Đức Phaolô VI đã xác quyết: Kinh Mân Côi rất thích hợp với người tín hữu,
đồng thời cũng rất làm cho Mẹ được hài lòng, hầu ban xuống cho chúng ta những
ơn lành cần thiết.
Tuy nhiên điều Giáo Hội
nhấn mạnh không phải chỉ là đọc kinh Mân Côi, mà còn là suy nghĩ và sống kinh
Mân Côi, nhờ đó mà kinh Mân Côi tăng cường đức tin, nuôi dưỡng đời sống đạo đức
và giúp chúng ta cải thiện đời sống. Thế nhưng chúng ta đã đọc, đã gẫm và đã sống
kinh Mân Côi như thế nào? Phải chăng chúng ta cố đọc cho thật nhiều như một cái
máy sản xuất ra những lời kinh, mà tâm tình thì lại trống rỗng, còn cuộc sống
thì lại chìm ngập trong tội lỗi.
06/10/2019
CHÚA NHẬT TUẦN 27 TN – C
Kính trọng thể Đức Mẹ Mân Côi
Lc 1,26-38
Kính trọng thể Đức Mẹ Mân Côi
Lc 1,26-38
ĐẤNG BA LẦN PHÚC
“Kính mừng Ma-ri-a đầy ơn phúc…, Mẹ có phúc lạ hơn mọi người
nữ…” (Kinh Kính Mừng)
Suy niệm: Trong chuỗi Mân Côi, kinh Kính Mừng là kinh được lặp đi lặp lại nhiều
hơn cả. Kinh này có hai phần. Phần một suy niệm về ân phúc nhờ đó Mẹ được ca tụng;
phần hai là lời khẩn nguyện của mỗi tâm hồn. Ở phần một, tiếng phúc được nhắc đến
ba lần. "Phúc", vì Thiên Chúa ở cùng Mẹ. "Phúc", vì Mẹ được
chọn giữa các người nữ. "Phúc", vì Đức Giê-su ở trong lòng Mẹ. Nếu suốt
chuỗi dài của lịch sử dân tộc mình, người Do Thái đã thấy hạnh phúc và bình an
khi có Hòm Bia Thiên Chúa ở giữa họ, dù Hòm Bia chỉ là dấu chỉ, là sự thông báo
có Đấng ban muôn ân phúc cho họ, thì nay, Đấng ấy đến trong lịch sử nhân loại,
hiện diện trong lòng Mẹ. Mẹ là kho tàng ân phúc, bởi Đức Giê-su trong lòng Mẹ
là nguồn mạch mọi ân phúc. Do đó, khi xướng kinh Kính Mừng, tín hữu vừa ca tụng
tình yêu Chúa, vừa chúc mừng Mẹ, vừa nhận ra mình đang hạnh phúc như Mẹ: Chúa
đang ở trong mình.
Mời Bạn: Mỗi khi hiện ra, Mẹ luôn kêu gọi siêng năng lần hạt Mân Côi, và Thánh
giáo hoàng Phao-lô VI đã nói: Sau giờ kinh phụng vụ, chuỗi Mân Côi là cao điểm
của kinh nguyện gia đình. Vậy bạn còn trung thành lần chuỗi Mân Côi không?
Sống Lời Chúa: Bạn dâng một chuỗi cầu nguyện cho một người hay một gia đình đang xa
Chúa. Xin cho họ được phúc có Thiên Chúa ở cùng.
Cầu nguyện: Lạy Mẹ, Mẹ được hạnh phúc vì Thiên Chúa ở cùng Mẹ và Mẹ sống
tận hiến đáp lại tình Chúa yêu. Xin cho con đừng quên lãng hạnh phúc này, nhất
là khi rước Thánh Thể con Mẹ. Xin cho con biết tận hiến như Mẹ.
(5 Phút Lời Chúa)
Làm điều phải làm (6.10.2019
– Chúa nhật 27 TN, Năm C)
Suy niệm:
Người đầy tớ đi cày
hay đi chăn chiên suốt ngày.
Khi chiều về, anh còn
phải lo cơm nước cho chủ.
Anh chỉ được ăn uống
nghỉ ngơi khi chủ đã ăn xong.
Ðó là chuyện hết sức
bình thường và tự nhiên
đối với một người làm công
được ông chủ mướn.
Chủ không cần phải tỏ
lòng biết ơn anh đầy tớ
vì anh đã vâng phục mọi
lệnh truyền của ông.
Chúng ta có thể là một
Kitô hữu đạo đức,
có thể đã vất vả nhọc
nhằn phụng sự Chúa suốt đời.
Nhưng Thiên Chúa không
phải chịu ơn hay mắc nợ chúng ta,
và chúng ta không có
quyền đòi Ngài phải trả công cho xứng.
Ðơn giản chúng ta là
tôi tớ của Thiên Chúa,
chúng ta chỉ làm điều
phải làm.
Khó biết chừng nào khi
làm được nhiều điều tốt đẹp
mà vẫn giữ tấm lòng
khiêm nhu.
Những việc đạo đức
chúng ta làm
có thể khiến chúng ta
tự mãn trước Thiên Chúa.
Ðó là sa ngã của một số
người Pharisêu
và đó vẫn là cám dỗ
thường xuyên của chúng ta.
Người Pharisêu lên đền
thờ cầu nguyện,
mà thực ra là khoe
công trạng của mình (x. Lc 18,9-14).
Công trạng, công đức,
công nghiệp có thể thành vật cản
khiến tôi chỉ thấy sự
thánh thiện của tôi
mà không thấy, cũng chẳng
cần tình thương của Chúa.
Việc tốt tôi làm có thể
làm tôi tự tôn trước anh em.
Người anh cả chỉ thấy
những năm dài phục vụ cha,
không khi nào trái lệnh,
nên anh chẳng muốn đón
nhận người em út.
Làm thế nào để chúng
ta thật sự khiêm hạ
trước Thiên Chúa, trước
tha nhân và trước cả lòng mình.
Nhận mình chỉ là đầy tớ
bình thường, không gì nổi bật,
mình chỉ cố làm tròn bổn
phận được giao.
Có nhiều bổn phận ta phải
chu toàn.
Bổn phận của một thụ tạo
trước Thiên Chúa Chí Thánh.
Bổn phận là con cái của
Cha trên trời.
Bổn phận là môn đệ
trung tín của Ðức Kitô.
Bổn phận là anh em của
mọi người.
Yêu mến, phụng sự, tôn
kính, ca ngợi Thiên Chúa:
đó là điều ta chẳng
dám tự hào mình đã vuông tròn.
Giả như ta có làm được
điều gì sáng danh Chúa
thì cũng là nhờ ơn
Chúa đỡ nâng.
Cả một ước muốn tốt
lành nơi ta cũng đến từ Chúa.
Thiên đàng không phải
là sự trả công của Thiên Chúa.
Ngài không ký hợp đồng
với người sống đạo đức
để rồi Ngài buộc phải
cho họ thiên đàng.
Thiên đàng là một quà
tặng bất ngờ, ngỡ ngàng,
không do công của tôi,
nhưng do lòng tốt của Thiên Chúa.
Thiên đàng hạnh phúc
vì tôi được gần Chúa hơn bao giờ.
Chúng ta không chọn
Chúa để được thiên đàng.
Chúng ta mong thiên
đàng để được gần Chúa.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã yêu trái đất này,
và đã sống trọn phận người ở đó.
Chúa đã nếm biết
nỗi khổ đau và hạnh phúc,
sự bi đát và cao cả của phận người.
Xin dạy chúng con biết đường lên trời,
nhờ sống yêu thương đến hiến mạng cho anh em.
Khi ngước nhìn lên quê hương vĩnh cửu,
chúng con thấy mình được thêm sức mạnh
để xây dựng trái đất này,
và chuẩn bị nó đón ngày Chúa trở lại.
Lạy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Thiên Chúa,
xin cho những vất vả của cuộc sống ở đời
không làm chúng con quên trời cao;
và những vẻ đẹp của trần gian
không ngăn bước chân con tiến về bên Chúa.
Ước gì qua cuộc sống hằng ngày của chúng con,
mọi người thấy Nước Trời đang tỏ hiện.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
6 THÁNG MƯỜI
Bánh Nuôi Nhiệm Thể
Đức Kitô
Thánh Thể là bí tích của
sự hiệp thông sự sống với Chúa Kitô. Đó cũng là bí tích xây dựng cộng đoàn. Cây
nho và những cành nho là hình ảnh của cộng đoàn này, bao gồm tất cả những ai được
liên kết trong Đức Kitô nhờ ân sủng và sự thật. Hình ảnh cây nho và các cành
nho nhắc chúng ta về nhu cầu phải sống thực tại Giáo Hội trong mối hiệp thông
sâu xa với Đức Kitô và với anh chị em mình. Giáo Hội là Nhiệm Thể của những nguời
tin – trong đó Chúa Kitô là Đầu và tất cả các tín hữu là những chi thể.
Sự sống của thân thể
này đến từ mạch nhựa sống siêu nhiên là ân sủng và thân thể này lớn lên nhờ ánh
sáng của Chúa Thánh Thần. “i” (2 Tm 3,5) của đức tin chúng ta nằm trong chính
thân thể này; cũng chính trong thân thể này chứa đựng các mô liên kết giúp đem
lại ý nghĩa và mối hiệp nhất cho các cộng đoàn Kitô hữu trên khắp cùng thế giới.
Chân lý này được minh
họa bằng một hình ảnh rút ra từ một kỹ thuật nông nghiệp, gọi là “ghép”. Nhờ
Phép Rửa, chúng ta được ghép vào với Đức Kitô (Rm 1,17). Chúng ta trở nên những
cành nho, được nuôi sống bởi cây nho. Vì thế chúng ta đuợc mời gọi sống hiệp nhất
với Đức Kitô và với anh chị em mình. Như vậy, chúng ta là cộng đoàn của những
người đã được nhận Phép Rửa và được cứu chuộc. Chúng ta vẫn còn thuộc về cộng
đoàn này bao lâu chúng ta còn ở lại trong mối hiệp thông với Đức Kitô và với
anh chị em mình. Đức Giêsu vạch cho chúng ta thấy rõ điều gì sẽ xảy ra khi
chúng ta tự tách mình ra khỏi Ngài và anh chị em. Hình ảnh minh họa của Thánh
Kinh giải thích điều này hết sức rõ: Nếu cành nho không ở lại trong mối liên kết
với thân nho thì nó sẽ khô héo đi. Nó bị chặt đi và bị quăng vào lửa.
Nhưng Thánh Thể không
chỉ hàm chứa mối tương quan mật thiết giữa Đức Kitô và mỗi người tín hữu. Thánh
Thể còn được thiết lập để hiệp nhất mọi Kitôhữu trong tư cách là thân thể của
Chúa. Thánh Thể tạo lập trong chúng ta một ý thức sâu xa về mối dây hiệp nhất,
về tình huynh đệ, về sự liên đới trong Đức Kitô. Thánh Thể tác động trong chúng
ta một cảm thức sâu xa mối gắn bó thiêng liêng, bởi lẽ chúng ta là những người
được nuôi dưỡng bởi cùng một bánh để làm nên một thân thể duy nhứt trong Đức
Kitô.
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by
Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 02 -10
Chúa Nhật XXVII Thường
Niên
Kb 1,2-3; 2,2-4;
2Tm 1,6-8. 13-14; Lc 17,5-10
Lời suy niệm “Các Tông Đồ thưa với Chúa Giêsu: Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho
chúng con. Chúa đáp: Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có
bảo cây dâu này: Hãy bật rể lên, xuống dưới biển mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời
anh em.”
Các Tông Đồ, đã nghe tiếng gọi của Chúa Giêsu, các ông đã vâng lời và đi
theo Người. Các ông đã chứng kiến biết bao điều lạ Chúa đã thực hiện điều lành
trên những người đau khổ, do bệnh tật và sự bỏ rơi của người đồng loại. Nghe được
những Giáo huấn mới lạ, có cái gì đó đi ngược với quan niệm của thế gian như là
“Tám Mối Phúc Thật” “Bánh Hằng Sống”. đã làm chao đảo lòng tin của các ông. Các
ông đã chân thành đến xin Chúa Giêsu tăng thêm lòng tin cho các ông.
Lạy Chúa Giêsu, mỗi người trong chúng con đang được sống trong tình yêu
thương và cứu độ của Chúa. Đức tin là điều cần thiết cho đời sống Đạo trong việc
thờ phượng Chúa, thực hiện lòng sám hối và thực hiện đức bác ái đối với tha
nhân. Xin cho chúng con ngày càng trưởng thành trong đức tin trong cầu nguyện
xin ơn và tạ ơn.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 06-10
Thánh BRUNÔ
Linh Mục (1035 -
1101)
Thánh Brunô sinh khoảng
năm1035 tại Cologne, nước Đức và từ trần năm 1101 tại Calabria, miền nam nước
Ý. Chúng ta biết được rất ít và đời sống thơ ấu của Ngài. Có lẽ Ngài thuộc gia
đình quý phái Der Hautenfaust và được giáo dục ở truờng thánh Cunibert tại sinh
quán.
Sau đó dường như Ngài
đã bỏ Cologne để theo học tại Reims và từ đó tiếp tục học triết ở Tours. Sau
này chúng ta biết Ngài làm thủ lãnh các trường Reims, làm chưởng ấn địa phận và
làm kinh sĩ toà tổng giám mục. Chắc chắn Ngài là một trong những học giả lừng
danh thời đó. Nhiều người đã tới Reims để thụ giáo với Ngài, trong số đó có
Eudes de Chantaillen là người sẽ trở thành giáo hoàng với danh hiệu Urbano II.
Các sách chú giải về thánh vịnh và các thư thánh Phaolô là những tác phẩm chúng
ta còn lưu giữ được, chứng tỏ thánh nhân là một học giả có thế giá và là người
hiểu biết tiếng Hy lạp và tiếng Do thái. Vào thời của Ngài ít có người hiểu biết
được như vậy.
Các thử thách đổ xuống
cuộc đời thánh Brunô, kể từ khi Đức Tổng giám mục Gevase qua đời năm 1068 và
Manasses được đặt kế vị. Manasses là một người khô khan và hung bạo, đã chiếm
đã ngai tòa giám mục nhờ việc buôn thần bán thánh. Brunô đứng đầu những nhóm
kinh sĩ chống lại và bị triệu về Roma. Manasses trả thù bằng cách tịch biên tài
sản và buộc các Ngài phải trốn khỏi thành phố. Brunô trốn về một nơi gọi là
Rocher, ở tại nhà một người bạn tên là Adam. Lần kia, trong khi đi dạo tại vườn
nhà Adam, Brunô với hai người bạn là Ralph và Fulcius đã bàn về bản chất giả tạo
của các thú vui trần thế và niềm vui của đời sống chiêm niệm. Lửa nhiệt tình
bùng cháy, họ quyết định sẽ bỏ thế gian để sống đời cầu nguyện, ngay khi nào
hoàn cảnh cho phép. Nhưng rồi Fulcius phải đi Roma để trình bản cáo trạng tổng
giám mục. Brunô không thể bỏ Reims khi Đức tổng giám mục còn tại vị. Cuối cùng,
khi Đức Tổng giám mục bị truất ngôi, chi còn Brunô trung kiên với dự tính.
Sau khi Manasses bị
truất ngôi, vị đặc sứ tòa thánh muốn đặt Brunô làm tổng giám mục. Nhưng lúc ấy
thánh nhân đã trốn khỏi Reims cùng với sáu người bạn, tới một nơi gọi là
Sèche-Phontaine. Ngài ở gần tu viện Molesme là nơi thánh Robertô làm đan viện
phụ. Có lẽ Brunô là tu sĩ của tu viện này một thời gian ngắn.
Tuy nhiên Brunô đã
không ở lâu tại Sèche-Phontaine. Ngài muốn tìm một nơi xa vắng hơn để khỏi bị
du khách quấy rầy. Năm 1084, Ngài cùng với sáu người bạn tìm đến miền núi
Savoy. Trên đường đi, các Ngài dừng chân tại Grenoble để tham khảo ý kiến Đức
Cha Hugues de Chateaineuf, một học trò cũ của Ngài. Vị giám mục thánh thiện đã
mơ thấy bảy ngôi sao sáng trên một miền xa thuộc dẫy núi Cjartreuse. Biết rằng
Brunô cùng với sáu người bạn của Ngài là những ngôi sao ấy, đức cha đã không chần
chờ dẫn họ ngay tới nơi mà giấc mơ đã chỉ cho Ngài. Đây là một nơi đủ yên tĩnh.
Brunô và các bạn liền cư ngụ tại đó. Các Ngài làm một nhà nguyện nhỏ và bảy cái
lều chung quanh. Đó là bước đầu của một tu viện lớn vẫn còn tồn tại cho tới
ngày nay, là nhà mẹ của một hội dòng mang tên CHARTREUSE.
Nhưng rồi thánh Brunô
đã quá lừng danh và không thể yên thân được lâu. Năm 1090, Đức Urbanô II, một học
trò cũ của Ngài đã nhớ đến thày cũ và triệu về Roma làm cố vấn. Dầu vậy, đức
giáo hoàng cũng sớm nhận ra rằng: không có chỗ trong giáo triều dành cho Brunô.
Ngài ban phép cho thánh nhân rời Roma, với điều kiện là phải có mặt tại nước Ý.
Trong thời gian vắn vỏi
tại giáo triều, thánh Brunô đã gặp nhà quý tộc Roger miền Sicily. Khi rời Roma,
Ngài đến cư ngụ ở nơi nhà quý tộc hiến cho, tại La Torre miền Calabria. Ngài
thiết lập ở đó một tu viện thứ hai, theo kiểu mẫu dòng Chartreuse. Ngày 6 tháng
10 năm 1101, Ngài từ trần, khi chưa có dịp trở về thăm tu viện thứ nhất của
Ngài.
(daminhvn.net)
06 Tháng Mười
Bưu Ðiện Lớn Nhất Thế Giới
Có lẽ bưu điện lớn
nhất thế giới phải là bưu điện trước cổng Thiên đàng... Mỗi ngày có không biết
bao nhiêu thư viết bằng không biết bao nhiêu ngôn ngữ được gửi đến... Tất cả đều
là những lời cầu xin. Theo sự phân loại của các thiên thần, thì ba vị nhận được
nhiều thư nhất đó là Ðức Maria, rồi đến thánh Antôn và thánh nữ Rita.
Một ngày kia, không
còn cầm được tính tò mò, các thiên thần không những đã mở thư gửi cho các
thánh, mà ngay cả các lá thư gửi đến cho Ðức Mẹ, các vị cũng không tha. Nhưng
các vị thiên thần đã thất vọng bởi vì nội dung và cách viết thư đều giống nhau.
Ðại khái thì cũng chỉ là: Lạy Mẹ, xin chữa cho con chóng lành bệnh... Xin cho
con của con được khỏe mạnh... Xin cho con tìm được việc làm... Xin giúp con thi
đỗ... Xin cho con tìm lại được chồng con...
Cả một loạt kinh cầu
mà các vị thiên sứ cũng đành phải nhàm chán, đến độ các vị phải thốt lên: dường
như Thiên Chúa chỉ tạo dựng con người có một cái miệng, một cái bụng. Họ không
có linh hồn, bởi vì tất cả những lời cầu xin của họ đều qui về hai bộ phận ấy.
Ðức Maria ngày nào
cũng như ngày nào đều phải đọc lại những lá thư có cùng nội dung và một công thức.
Tình cờ, có một là thư làm Mẹ chú ý. Lá thư đó viết như sau: "Lạy Trinh Nữ
rất thánh, con chỉ xin Mẹ một điều mà thôi, xin Mẹ cho con mỗi ngày được nên giống
Chúa Giêsu hơn".
Ðọc xong lá thư, Ðức
Maria bật khóc vì cảm động. Ngài nói với các thiên sứ phục vụ tại bưu điện:
"đây là lá thư mà Mẹ mong đợi từng ngày".
Theo sự thăm dò của
nhiều tờ báo lớn trên thế giới, thì tước hiệu "Người đàn bà của năm
1987" đã được dành cho thủ tướng nước Anh là bà Margueret Thatcher, người
đã đắc cử vào chức vụ này liên tiếp trong ba nhiệm kỳ.
Ðứng hàng thứ hai
trong danh sách những người đàn bà trong năm là nữ tổng thống Aquinô của Phi Luật
Tân, người đang đương đầu với không biết bao nhiêu xáo trộn trong nước.
Người thứ ba trong
danh sách là Mẹ Têrêsa thành Calcutta (người đã được lãnh giải thưởng Nobel về
hòa bình năm 1979). Kế đó là nữ hoàng Elizabeth II của nước Anh, bà Simone
Veil, chủ tịch quốc hội Âu Châu v.v...
Ðối với chúng ta, những
người Kitô, thì người đàn bà trong năm và nhứt là trong tháng mười này phải là
Mẹ Maria, người Mẹ không phải của một gia đình, một dân tộc. Vị nữ hoàng không
phải của một dân tộc, nhưng là của tất cả nhân loại... Mẹ đang lắng nghe chúng
ta trong suốt tháng 10 này. Chúng ta hãy thưa với Mẹ tất cả những gì chúng ta
đang cần.
Nhưng điều mà Mẹ luôn
chờ đợi để trợ giúp chúng ta: đó là mỗi ngày chúng ta nên giống Chúa Giêsu con
Mẹ. Bởi vì, trong tất cả mọi ơn cần cho chúng ta, đó là ơn cao trọng nhứt. Càng
nên giống Chúa Giêsu, chúng ta càng nên giống Mẹ và được đến gần Mẹ.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét