Trang

Thứ Bảy, 5 tháng 10, 2019

06-10-2019 : (phần II) CHÚA NHẬT XXVII THƯỜNG NIÊN năm C - (KÍNH TRỌNG THỂ ĐỨC MẸ MÂN CÔI)


06/10/2019
Chúa Nhật 27 Thường Niên năm C
(Phần II)


Phụng Vụ Lời Chúa: Chúa Nhật 27 Thường niên năm C
ĐỨC MẸ MÂN CÔI
Cv 1,12-14; Gl 4,4-7; Lc 1,26-38
VAI TRÒ CỦA MẸ MARIA
Bấy giờ bà Maria nói: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa,
xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38).
Dù chỉ nhận mình là một nữ tỳ thấp hèn, khiêm hạ, nhưng Đức Maria lại được Thiên Chúa tuyển chọn để cộng tác vào công trình cứu độ của Ngài. Qua tiếng “xin vâng” đầy xác tín, khiêm nhu và trách nhiệm, Mẹ đã cho thấy vai trò quan trọng của mình trong mầu nhiệm nhập thể của Chúa Giêsu, giữa cộng đoàn môn đệ sau khi Chúa Giêsu về trời, và trong kế hoạch cứu độ nhiệm mầu của Thiên Chúa để nhân loại được thứ tha tội lỗi, được gọi Thiên Chúa là Cha và được đồng thừa kế với Trưởng Tử Giêsu.
I. CÁC BÀI ĐỌC
1. Bài đọc 1:
Đối với tác giả Luca, sau biến cố phục sinh, các tông đồ cần phải ở lại Giêrusalem để chờ đợi “điều Chúa Cha đã hứa” (Cv 1,4). Trong khi chờ đợi, các tông đồ họp nhau cùng với Mẹ Maria và một số phụ nữ.
Trước hết, ngoài danh sách mười một tông đồ, tác giả Luca cho thấy có sự hiện diện của Mẹ Maria, thân mẫu của Đức Giêsu, mấy người phụ nữ và anh em của Đức Giêsu (x. Cv 1,14). Sự hiện diện của Đức Mẹ giữa cộng đoàn môn đệ không phải là điều ngẫu nhiên, dù đây là lần đầu tiên trong sách Công vụ, thánh Luca gọi tên “bà Maria, thân mẫu Đức Giêsu”. Quả vậy, ngay từ đầu Tin Mừng Luca, Thánh Thần đã ngự xuống trên Mẹ để Mẹ cưu mang và sinh ra Con Thiên Chúa (Lc 1,35), thì giờ đây Mẹ hiện diện với cộng đoàn các môn đệ để chờ đón Thánh Thần, Đấng sẽ ngự xuống trên các môn đệ và khai sinh Giáo Hội (x. Cv 2,1-12). Sự hiện diện của Đức Mẹ giữa cộng đoàn các môn đệ trong thời khắc có nhiều xáo trộn, âu lo, tạo nên sự nối kết và hiệp nhất trong niềm xác tín vào lời hứa của Chúa Giêsu về sức mạnh của Thánh Thần.
Sau nữa, đặc điểm nổi bật của cộng đoàn các tông đồ và môn đệ trong lúc chờ đợi điều Chúa Giêsu đã hứa là sự đồng tâm nhất trí. Vì cầu nguyện là thói quen của Chúa Giêsu (x. Lc 3,21; 5,16; 6,12; 22:41-44) và cũng là thói quen Người dạy cho các môn đệ (x. Lc 9,28-29; 11,1-4; 18,1; 22,46), nên trong giây phút chờ đợi Chúa Giêsu thực hiện lời hứa ban “quyền năng từ trên cao” (x. Lc 24,49), họ một lòng một ý họp nhau cầu nguyện. Sự đồng tâm nhất trí cùng nhau cầu nguyện giúp liên kết cộng đoàn môn đệ trong thời khắc khó khăn.
Tóm lại, sau khi Chúa Giêsu về trời, sự hiện diện của Mẹ Maria giữa các môn đệ liên kết họ thành một cộng đoàn hiệp nhất trong đức tin vào lời hứa của Chúa Giêsu về “quyền năng từ trên cao”; đồng thời giúp họ đồng tâm nhất trí trong lời cầu nguyện trong khi chờ đợi ơn Thánh Thần.
2. Bài đọc 2:
Thánh Phaolô trình bày công trình cứu độ của Thiên Chúa Ba Ngôi được thực hiện qua mầu nhiệm nhập thể của Chúa Con, nhờ sự cộng tác của một người phụ nữ là Đức Maria.
Trước hết, sinh làm con một người phụ nữ và sống dưới lề luật là cách nói ám chỉ nhân tính của Con Thiên Chúa. Là con của một người phàm, Đức Giêsu thật sự là người thật; là người sống dưới lề luật, Đức Giêsu chịu ảnh hưởng và lệ thuộc định chế của con người. Như thế, dù Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, nhưng lại trải nghiệm cách đầy đủ các điều kiện sống của nhân loại trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Hơn nữa, theo thánh Phaolô, Thiên Chúa chấp nhận để Con của Ngài làm người với hai mục đích: một là, để “chuộc những ai sống dưới lề luật”, nghĩa là giải thoát họ khỏi ách nô lệ tội lỗi; hai là, để “được ơn làm nghĩa tử”, nghĩa là được Thiên Chúa ban cho tư cách làm con trong gia đình mới của Ngài là Hội Thánh (x. Gl 4,5).
Sau nữa, vì là Con nên khi cầu nguyện Đức Giêsu gọi Thiên Chúa là Cha (x. Mt 11,25-26;  Mc 14,36; Lc 22,42; 23,34.46) và Người cũng dạy các môn đệ cầu nguyện với Cha (x. Mt 6,9; Lc 11,2). Giờ đây, Thiên Chúa lại sai Thánh Thần đến ngự trong lòng các tín hữu mà dạy cho họ nhận biết mà cầu nguyện cùng Thiên Chúa là Cha của họ. Như thế, qua việc nhập thể của Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, và nhờ ơn Thánh Thần, nhân loại nhận biết mà tôn thờ Thiên Chúa là Cha; đồng thời, nhận ra phẩm giá của mình như là những người con được quyền thừa kế, nghĩa là được đồng thừa kế với Trưởng Tử là Đức Kitô (Gl 4,7; x. Rm 8,17).
Tóm lại, theo thánh Phaolô, công trình cứu độ của Thiên Chúa Ba Ngôi được thực hiện nhờ sự cộng tác của Đức Maria, để nhân loại được giải thoát khỏi tội lỗi, được gọi Thiên Chúa là Cha và được đồng thừa kế với Đức Giêsu.
3. Bài Tin Mừng:
Đứng trước lời truyền tin của sứ thần, Đức Maria thể hiện ba thái độ khác nhau: từ “bối rối, lo sợ” đến “thắc mắc” và cuối cùng là “xác tín” bằng tiếng xin vâng.
Trước hết, đứng trước lời chào của sứ thần “mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà” (1,28), Đức Maria “rất bối rối” và “lo sợ”. Mẹ bối rối và không hiểu được lý do tại sao Mẹ lại được Thiên Chúa đoái nhìn và ban đầy ân sủng, vì Mẹ biết mình chỉ là một nữ tỳ hèn mọn (x. Lc 1,48). Mẹ lo sợ vì thấy mình chỉ là một thụ tạo nhỏ bé và khiêm cung trước một Thiên Chúa quyền năng; Mẹ thấy mình không xứng đáng để được “Đức Chúa ở cùng”. Mẹ bối rối vì chưa thể hiểu được ý nghĩa của niềm vui lớn lao mà thiên sứ loan báo cho Mẹ. Sự “bối rối, lo sợ” của Mẹ là biểu hiện của một tâm hồn khiêm hạ, đơn sơ và đầy lòng kính sợ Chúa.
Thêm vào đó, sau khi nghe sứ thần loan báo về việc Mẹ “sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu”, phản ứng của Đức Mẹ chuyển từ “bối rối, lo sợ” sang “thắc mắc”. Mẹ thắc mắc vì không biết việc thụ thai sẽ xảy ra thế nào khi Mẹ chưa về chung sống với người chồng Giuse (1,27). Mẹ thắc mắc vì chưa thể hiểu vì sao con Mẹ sinh ra lại được gọi là “Con Đấng Tối Cao”; thừa kế “ngai vàng vua Đavít” nghĩa là gì? Và “trị vì nhà Giacóp đến muôn đời” là thế nào? Sự thắc mắc của Mẹ là biểu hiện của một tâm hồn chiêm niệm và tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa trên cuộc đời mình. Sự thắc mắc của Mẹ dẫn Mẹ đi sâu hơn vào mầu nhiệm lớn lao mà Thiên Chúa sắp thực hiện trên cuộc đời Mẹ.
Cuối cùng, sau khi được sứ thần mặc khải về ân sủng Thánh Thần sẽ xuống trên Mẹ và quyền năng của Thiên Chúa sẽ rợp bóng trên Mẹ; sau khi Mẹ nghe biết về việc kỳ diệu mà Thiên Chúa đã thực hiện trên cuộc đời bà chị họ, Mẹ đã thốt lên lời xin vâng với tất cả lòng xác tín vào Thiên Chúa, Đấng “không có gì là không thể làm được”. Mẹ xác tín bằng tiếng xin vâng vì Mẹ tin chắc Mẹ được Thiên Chúa đoái thương nhìn đến và thực hiện nơi cuộc đời Mẹ những điều cao cả, dù Mẹ vẫn chỉ là một nữ tỳ khiêm hạ của Thiên Chúa (x. Lc 1,38.48-49). Tiếng xin vâng của Mẹ là sự tín thác hoàn toàn Mẹ đặt nơi Thiên Chúa, dù Mẹ hiểu chặng đường phía trước còn lắm mịt mù và chông gai.
Tóm lại, từ “lo âu, sợ hãi”, đến “thắc mắc”, để rồi cuối cùng xác tín bằng tiếng “xin vâng”, Mẹ Maria là mẫu mực của một thụ tạo khiêm nhu tìm hiểu thánh ý Thiên Chúa và trao vào tay Ngài cả cuộc đời mình với tất cả sự tín thác, cậy trông hoàn toàn.
II. GỢI Ý ÁP DỤNG:
1/ Đoạn sách Công Vụ Tông Đồ tường thuật về cuộc họp mặt của cộng đoàn các môn đệ xung quanh Mẹ Maria sau biến cố Chúa Giêsu về trời. Trong lúc hoang mang và lạc hướng, các môn đệ quây quần bên Đức Mẹ; mọi người đều đồng tâm nhất trí cầu nguyện và chờ đợi đón nhận “quyền năng từ trên cao” theo như lời Chúa Giêsu đã hứa (x. Lc 24,49). Sự hiện diện của Đức Mẹ giữa cộng đoàn các môn đệ trong giây phút khó khăn tạo nên sự nối kết và hiệp nhất trong niềm xác tín vào lời hứa của Chúa Giêsu về sức mạnh của Thánh Thần. Tất cả những ai đang hoang mang, lo lắng, sợ hãi, mất định hướng, hãy cùng Mẹ Maria lặng thầm cầu nguyện và đặt trọn niềm tin nơi Chúa theo gương Mẹ.
2/ Thánh Phaolô trình bày công trình cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện qua mầu nhiệm nhập thể của Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, nhờ đó, nhân loại được giải thoát khỏi tội lỗi, được làm nghĩa tử của Thiên Chúa là Cha và được đồng thừa kế với Trưởng Tử Giêsu. Trong công trình cứu độ đó, Mẹ Maria đã tích cực cộng tác để nhờ Con Thiên Chúa làm người mà nhân loại được chia sẻ chức vị làm con Thiên Chúa. Cũng như Mẹ Maria, mỗi Kitô hữu đều được Thiên Chúa mời gọi cộng tác với Ngài để công trình cứu độ được tiếp nối, nhờ đó mỗi ngày có thêm nhiều người con nhận ra và tôn thờ Thiên Chúa là Cha của họ.
3/ Trong biến cố truyền tin, Đức Maria đã đi từ cảm giác bối rối, lo sợ đến sự xác tín qua tiếng xin vâng theo thánh ý Chúa sau khi được sứ thần giải thích cặn kẽ. Lời xin vâng của Mẹ là cả một tiến trình đón nhận mặc khải, tìm hiểu và cầu nguyện để có thể nhận ra và vâng theo ý định của Thiên Chúa trên cuộc đời mình. Với tâm hồn trinh trong, khiêm hạ và phó thác, Mẹ Maria đã mở lòng ra đón nhận ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa, dù Mẹ hiểu rằng tương lai phía trước còn lắm chông gai và thử thách. Theo gương Mẹ Maria, mỗi Kitô hữu đều được mời gọi khám phá ý định của Thiên Chúa trên cuộc đời mình và sẵn sàng cộng tác với Thiên Chúa để chương trình cứu độ của Ngài được thực hiện trong thế giới hôm nay.
III. LỜI NGUYỆN CHUNG:
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Thiên Chúa đã tuyển chọn Ðức Maria với vai trò đặc biệt trong chương trình cứu chuộc loài người. Trong ngày mừng lễ Đức Mẹ Mân Côi hôm nay, chúng ta cùng chung lời ngợi khen Thiên Chúa và hiệp với Mẹ tha thiết khẩn cầu:
1. “Các Tông đồ luôn đồng tâm nhất trí và chuyên cần cầu nguyện cùng với Đức Maria.” Chúng ta hãy cầu nguyện cho mọi thành phần dân Chúa luôn liên kết với nhau trong một Hội Thánh Công giáo, duy nhất, thánh thiện và tông truyền, biết lấy Đức Maria làm gương mẫu cho đời sống cầu nguyện.
2. “Anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con.” Chúng ta cùng cầu xin cho mọi dân tộc trên thế giới biết tin nhận Đức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa và là Đấng cứu độ trần gian, để trong Người tất cả được giải thoát khỏi tội lỗi, nhận lại ơn làm nghĩa tử, và là người thừa kế gia nghiệp Nước Trời.
3. “Kinh Mân Côi là một trường học thật sự của đức tin và lòng đạo đức.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi Kitô hữu luôn ý thức giá trị của kinh mân côi, và siêng năng lần chuỗi như một phương thế để tái khám phá đức tin và đào sâu các mầu nhiệm cuộc đời của Đấng cứu độ trần gian.
4. Đức Maria thưa: “Vâng, xin Người thực hiện cho tôi như lời sứ thần nói.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta, biết noi gương Đức Maria, luôn vững lòng tin cậy nơi quyền năng của Thiên Chúa, biết sống tín thác và trở nên khí cụ cho dự án yêu thương của Người.
Chủ tế: Lạy Chúa, Chúa đã muốn Con Một Chúa mặc lấy xác phàm trong cung lòng Trinh Nữ Maria. Xin nhận lời chúng con cầu nguyện và giúp chúng con biết noi gương Mẹ, luôn trung thành gắn bó với Đức Kitô, Con Chúa. Người hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.


Sợi Chỉ Đỏ Chúa Nhật 27 TN C
Chủ đề :
Đức tin và Phục vụ

“Hãy bật rễ đi” (Lc 17,6)
Sợi chỉ đỏ :
Các bài đọc hôm nay đều nói về Đức tin, mỗi bài đề cập đến đức tin dưới một khía cạnh :
– Bài đọc I : Tin là kiên nhẫn chờ đợi chương trình của Thiên Chúa được thực hiện.
– Tin Mừng : Đức tin là nguồn sức mạnh giúp ta làm được những việc phi thường.
– Bài đọc II : Tin là dựa vào sức mạnh của Chúa để hoàn thành sứ mạng Ngài giao.
Ngoài ra, phần thứ hai của bài Tin Mừng cũng đề cập đến thái độ phục vụ khiêm tốn như một người đầy tớ.

I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Chúng ta vẫn nói rằng mình là tín hữu, nghĩa là người có đức tin. Nhưng thực ra đức tin của chúng ta còn rất yếu, và chúng ta chưa thực sự sống đức tin của mình.
Trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy thưa với Chúa như các tông đồ xưa “Thưa Thầy, xin ban thêm đức tin cho chúng con”.
II. Gợi ý sám hối
– Chúng ta giao động không muốn tin nữa khi gặp phải những khó khăn trong đời sống.
– Chúng ta chưa thể hiện đức tin mình ra bằng một cách sống siêu nhiên phó thác nơi Chúa quan phòng.
– Chúng ta không khiêm tốn phục vụ mọi người như một người tôi tớ.
III. Lời Chúa
1.     Bài đọc I (Kb 1,2-3 ; 2,2-4)
Ngôn sứ Kha-ba-cúc than thở với Chúa về những cảnh bất công cứ tồn tại và những người ác cứ nhởn nhơ. Đáp lại, Thiên Chúa bảo ông hãy giữ vững lòng tin và đừng nản lòng, vì khi đến thời của Ngài, Ngài sẽ ra tay tái lập sự công chính.
2.                 Đáp ca (Tv 94)
Tiếp nối tư tưởng của đoạn sách trên, Thánh vịnh 94 kêu gọi đừng khép kín cõi lòng, nhưng hãy biết lắng nghe tiếng Chúa để biết được ý định của Ngài trong những lúc gian truân thử thách.
3.                 Tin Mừng (Lc 17,5-10)
Đoạn Tin Mừng này gồm 2 giáo huấn của Chúa Giêsu : a/ Về sức mạnh của Đức tin ; b/ Về việc phục vụ cách khiêm tốn.
1.     Đức tin : Những người trong tập thể Giáo Hội hãy cố gắng củng cố lòng tin của mình. Nếu có lòng tin thì sẽ làm được nhiều điều phi thường.
2.     Phục vụ : Chúa Giêsu dạy muốn phục vụ, trước hết hãy khiêm tốn, khiêm tốn đến mức tự coi mình là đầy tớ. Khi ta đã tự coi mình là đầy tớ rồi thì ta sẽ không ngại phục vụ người khác, hơn nữa ta sẽ coi tất cả những gì ta làm cho người khác ta đều là bổn phận.
    4. Bài đọc II (2 Tm 1,6-8.13-14)
Thánh Phaolô kêu gọi Timôtêô đừng ngả lòng trước những khó khăn mục vụ, trái lại hãy củng cố đức tin bằng cách khơi dậy đặc sủng của Thánh Thần mà Timôtêô đã nhận được khi được đặt tay trao sứ mạng, và hãy dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa để tiếp tục nhiệm vụ mình.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Đức tin – phục vụ
Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Thánh Luca ghi lại 2 điều Chúa Giêsu căn dặn những kẻ muốn làm môn đệ Ngài.
1.     Điều thứ nhất là về đức tin : Câu chuyện khởi đầu với lời xin của các tông đồ “Xin Thầy thêm đức tin cho chúng con”. Ta hãy chú ý họ là các tông đồ chứ không phải chỉ là môn đệ thường. Họ đã từng sống với Chúa Giêsu một thời gian dài, nghe biết bao điều Ngài giảng dạy, thấy biết bao điều Ngài làm. Họ là thành phần ưu tú được chọn riêng ra trong số 72 môn đệ. Thế mà họ vẫn cảm thấy mình thiếu đức tin.
Các tông đồ mà còn cảm thấy thiếu đức tin, thì huống chi chúng ta ! Nhiều khi chúng ta quỳ chầu trước Thánh Thể mà hình như không tin có Chúa đang ngự trong Nhà tạm. Nhiều khi chúng ta rước lễ mà hình như không tin có Chúa đang thực sự ở trong lòng ta. Và nhiều khi đứng trước một hoàn cảnh khó khăn, chúng ta hình như không tin lời Chúa dạy “Can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian”. Mặc dù chúng ta đã học giáo lý nhiều, đã đọc Thánh Kinh nhiều, nhưng tại sao chúng ta không vững đức tin ? Như thế đủ biết Đức tin không phải là kết quả của học hỏi, của kiến thức. Đức tin chính là một ơn ban. Tại sao rất nhiều bậc thông thái không có đức tin, còn chúng ta không thông thái gì, thế mà có đức tin. Rõ ràng vì Chúa thương chúng ta nên ban đức tin cho chúng ta. Và chính vì đức tin là một ơn ban, cho nên chúng ta phải xin như các tông đồ ngày xưa : “Lạy Thầy, xin ban thêm đức tin cho chúng con”.
Đức tin không phải là kết quả của học hỏi và của kiến thức. Ngược lại nhiều khi càng học biết nhiều thì càng khó mà tin. Tại sao thế ? Thưa tại vì trong đức tin luôn có một phần mờ tối, khi ta tin thì luôn có một phần mạo hiểm. Nếu tất cả đều sáng tỏ hết rồi ta mới tin thì đấy không phải là đức tin. Nếu tất cả đều chắc chắn rồi ta mới dấn thân thỉ đấy cũng không phải là một hành vi đức tin. Đức tin luôn có phần mờ tối, tin luôn đòi ta mạo hiểm dấn thân. Nhưng nói thế không phải là chúng ta tin cách mù quáng, trái lại chính vì chúng ta yêu. Xin lấy một thí dụ trong đời thường : ở một vùng kinh tế mới nọ, có một thanh niên và một thiếu nữ quen nhau. Mỗi người họ đến từ một miền khác nhau. Quen nhau một thời gian rồi họ yêu nhau. Và một hôm người thanh niên ngõ lời xin cưới cô gái. Cô gái ưng thuận ngay. Người thanh niên mới hỏi : Em không biết gốc gác của anh, không biết gia đình anh, em không sợ bị anh gạt hay sao mà dám giao phó cuộc đời cho anh ? Cô gái đáp : không. Anh chàng hỏi thêm : Tại sao ? Và cô gái trả lời rất gọn : vì em yêu anh.
Người con gái ấy vì yêu nên đã tin người thanh niên nọ. Chúng ta cũng thế, nếu chúng ta yêu Chúa thì chúng ta mới tin Chúa được, yêu càng nhiều thì tin càng mạnh. Cho nên ngoài việc xin Chúa ban thêm đức tin, chúng ta cũng cần xin Chúa ban thêm lòng yêu mến cho chúng ta.
1.     Điều thứ hai Chúa dạy trong bài Tin Mừng hôm nay là : người môn đệ Chúa phải biết phục vụ, và phục vụ cách vô vụ lợi. Giống như một người đầy tớ, sau khi đã đi cày, sau khi đã chăn chiên rồi về nhà còn phải dọn cơm cho chủ, đứng đó hầu hạ chủ, rồi dọn dẹp. Xong xuôi hết thì nói “Tôi chỉ là đầy tớ vô dụng”. Nhiều chuyên viên Thánh Kinh nói rằng dịch chữ vô dụng không được đúng lắm. Ý nghĩa của nó là “Tôi chỉ là một người đầy tớ mà thôi, không hơn không kém”. Người đầy tớ thì đương nhiên phải phục vụ, phục vụ là bổn phận của người đầy tớ. Cho nên dù có phục vụ nhiều thì cũng không có gì là công lao để đòi chủ biết ơn.
Khi Chúa Giêsu dùng hình ảnh người đầy tớ để làm bài học cho các môn đệ, Ngài muốn nhắc chúng ta rằng làm môn đệ, làm tông đồ chính là làm đầy tớ. Bởi thế Đức giáo Hoàng xưng mình là “Đầy tớ của các đầy tớ”.
Có một điểm rất sâu sắc về từ ngữ : trong Thánh Kinh, chữ “phục vụ” vừa chỉ việc làm của một người đầy tớ đối với chủ, vừa chỉ việc làm của người tín hữu phụng thờ Chúa. Tế lễ là phục vụ Chúa. Như thế, khi chúng ta phục vụ người ta thì cũng có nghĩa là chúng ta đang phụng thờ Chúa. Và nếu như suốt ngày chúng ta lo phục vụ anh em thì điều đó có nghĩa trọn ngày hôm đó của chúng ta là một Thánh lễ nối dài.
* 2. Chiếc bình trống rỗng
Một thầy Rabbi già đau bệnh nằm liệt giường. Các môn đệ thì thầm nói chuyện bên cạnh ông. Họ hết lời ca tụng các nhân đức vô song của thầy.
Một người trong bọn họ nói : “Từ thời Salomon đến nay, chưa có ai khôn ngoan như thầy”. Người khác nói : “Đức tin của thầy ngang ngửa với đức tin của tổ phụ Abraham”. Người thứ ba nói : “Chắc chắn sự kiên nhẫn của thầy không thua sự kiên nhẫn của ông Gióp”. Người thứ tư châm vào : “Về sự cầu nguyện thân mật với Chúa, chỉ có Môsê và thầy mà thôi”.
Vị Rabbi tỏ ra bồn chồn không vui. Khi các môn đệ đã ra về hết, vợ ông mới hỏi :
Ông có nghe họ ca tụng ông không ?
– Có.
– Thế tại sao ông lại tỏ ra bực dọc như thế ?
Vị Rabbi than phiền :
– Vì không có ai nhắc đến sự khiêm tốn của tôi ?
*
Mong người ta ca ngợi sự khiêm tốn của mình thì chẳng còn khiêm tốn ! Cho dù thầy Rabbi có khôn ngoan như Salomon, đức tin ngang ngửa với Abraham, kiên nhẫn như ông Gióp và thân mật với Chúa như Môsê mà không có lòng khiêm tốn thì tất cả các nhân đức ấy cũng chỉ đổ sông đổ biển mà thôi. Nếu người ta thực hành các nhân đức, chu toàn các việc đạo, làm nhiều việc thiện, nhưng để tự mãn và khoe khoang công trạng thì ngay lúc đó họ không còn thánh thiện nữa.
Vì khiêm tốn là nền tảng của mọi nhân đức, nên hôm nay Chúa Giêsu đã dạy các Tông đồ : “Khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói : “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi” (Lc 17,10). Thật vậy, chúng ta là những đầy tớ của Thiên Chúa, chúng ta chỉ làm những gì phải làm. Cho dù là đức Thánh Cha cũng luôn luôn nhận mình là “đầy tớ của các đầy tớ Chúa”. Đã là đầy tớ thì phải vâng lệnh chủ, làm tất cả những gì ông sai bảo mà không được kể công, cũng không buộc ông phải nhớ ơn. Đó là chuyện hết sức bình thường, chuyện bổn phận. Có rất nhiều bổn phận phải chu toàn như bổn phận “mến Chúa yêu người”, có ai đám nhận mình không hề thiếu sót. Cho dù họ có làm được điều gì tôn vinh Thiên Chúa hay phục vụ anh em đồng loại, thì cũng là nhờ ơn Thiên Chúa ban cho.
Kẻ kiêu ngạo không bao giờ cảm thấy mình cần Chúa, họ luôn tự mãn với thành quả mình đã đạt được, luôn cho rằng thành công là do mình tạo nên. Đó là nỗi bi đát cố hữu của những kẻ kiêu ngạo, của nhóm Pharisêu, và cũng là cám dỗ thường xuyên của mỗi người chúng ta.
Người khiêm tốn trái lại, luôn hãnh diện về những thiếu sót của mình, chính vì thiếu sót nên họ càng phải cậy dựa vào Chúa nhiều hơn. Thế nên, khi được thành công thì họ rất vui mừng cho rằng đó là món quà bất ngờ Chúa ban. Đó là lý do tại sao Chúa lại yêu thích những con người khiêm tốn như thế.
Nếu đã ý thức mình là thân phận nhỏ bé, là “đầy tớ vô dụng”, thì cho dù khiêm tốn bao nhiêu cũng không đủ nhưng kiêu căng một chút đã quá nhiều. Vì thế, chỉ có những ai thấu hiểu thân phận yếu đuối của mình, mới chứa nổi Đấng mạnh mẽ vô song. Chỉ có những kẻ xoá mình ra không mới có chỗ cho Đấng Vô Cùng. Chỉ có những chiếc bình trống rỗng mới có thể đón nhận tràn đầy hồng ân.
*
Lạy Chúa, có một ân huệ nào chúng con đã nhận lãnh mà không phải do Chúa thương ban, có một điều thiện nào chúng con thực hiện mà chẳng do Chúa tác thành.
Xin tiếp tục đổ đầy vào tâm hồn nhỏ bé, yếu đuối và bất toàn của chúng con những điều tốt lành mà Chúa đã khởi sự cho chúng con. Amen. (TP)
* 3. Phục vụ trong tình yêu
Nhiều người xem Chúa như một ông chủ thuê người làm việc và con người là những người được thuê ấy. Bởi thế, sau khi làm được một việc gì, họ nghĩ rằng Chúa phải ban ơn cho họ, như một cách trả tiền công.
Suy nghĩ trên hoàn toàn sai. Và rất may là suy nghĩ đó sai, bởi vì nếu Chúa thực sự đối xử với ta như một ông chủ đối xử với người làm thì chắc chúng ta chẳng nhận được bao nhiêu từ tay Ngài, bởi vì công lao của chúng ta chẳng có là bao.
Qua bài Tin Mừng này, Chúa Giêsu dạy chúng ta biết rằng tương quan của Thiên Chúa đối với loài người chúng ta là tương quan ân sủng và tình yêu, bởi vì Thiên Chúa là Cha và chúng ta là con. Con cái làm việc theo ý Cha đâu phải để được Cha trả lương ; và Cha ban gì cho con đâu phải vì trả nợ.
Vả lại Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta và ban rất nhiều ơn cho chúng ta trước khi chúng ta làm được việc gì xứng đáng với tình yêu của Ngài. Thánh Phaolô nói rằng Thiên Chúa còn yêu thương chúng ta ngay khi chúng ta còn là những tội nhân. Vì thế tất cả những gì chúng ta làm bây giờ chỉ là để đáp lại tình yêu của Ngài.
Còn nữa, chúng ta tuân giữ những điều răn của Chúa không phải để được Ngài yêu thương, nhưng chúng ta tuân giữ các điều răn Chúa bởi vì Ngài yêu thương chúng ta.
Toàn bộ Tin Mừng của Chúa Giêsu có thể được diễn tả thế này : Chúa nhân từ kêu gọi các môn đệ hãy phục vụ Ngài vì tình yêu chứ không phải vì bổn phận. Vì vậy, chỉ đức tin thôi chưa đủ, còn phải có tình yêu nữa. Trong khi đức tin khiến cho mọi sự trở thành có thể, thì tình yêu khiến cho mọi sự trở thành dễ dàng. (FM)

4.                 Chuyện minh họa
a/ Đức tin lớn lao
            Có một bà nổi tiếng đạo đức, nhân hậu và luôn bình tâm trước mọi thử thách. Một bà khác ở cách xa ít dặm, nghe nói thì tìm đến, hi vọng học được bí quyết để sống bình tâm và hạnh phúc. Bà hỏi :
– Thưa bà, có phải bà có một đức tin lớn lao ?
– Ồ không, tôi không phải là người có đức tin lớn lao, mà chỉ là người có đức tin bé nhỏ đặt vào một Thiên Chúa lớn lao.
b/ Tin người đáng tin
            Một bà già đứng ở ngã tư có nhiều chuyến tàu đi qua. Vì ít khi ra ngoài, nên bà chẳng biết tàu nào về đâu. Sợ đi lạc, bà giơ vé ra hỏi một người đứng kế bên :
– Tôi định đi Bay City, có phải đi tàu này không ?
– Phải đó bà.
Nhưng bà chưa an tâm. Biết đâu người ấy cũng không rành. Bà gặp người khác, cũng hỏi :
– Tôi định đi Bay City, có phải đi tàu này không ?
– Phải đó bà.
Nhưng bà vẫn chưa hết áy náy. Rồi bà gặp một người đeo phù hiệu nhân viên hoả xa, bà hỏi :
– Tôi định đi Bay City, có phải đi tàu này không ?
– Phải, thưa bà.
Thế là bà an tâm bước lên tàu. Bà đã tin người đáng tin. Đức tin là thế !
c/ Phục vụ là hạnh phúc
Tại văn phòng của một Cố vấn Tâm lý, một thiếu phụ vừa trẻ vừa giàu giải bày tâm sự : “Bất cứ thứ gì tôi muốn thì chồng tôi đều cho cả. Tôi có đủ mọi “sự” nhưng trong lòng trống vắng vô cùng. Xin bà hãy cho tôi một lời khuyên”. Nhà Cố vấn tâm lý không trả lời, nhưng bảo cô thư ký của bà kể chuyện đời cô. Cô này kể : chồng tôi đã chết, cách nay 3 tháng con tôi cũng chết vì xe đụng. Tôi cảm thấy mất tất cả, tôi không ngủ được, tôi không muốn ăn uống, tôi không bao giờ cười. Một hôm tôi đi làm về hơi khuya. Có một chú mèo con cứ đi theo sau tôi. Trời lạnh. Tôi cũng tội nghiệp nó, nên tôi mở cửa cho nó vào nhà. Tôi pha cho nó một ly sữa. Nó kêu meo meo và cọ mình vào chân tôi. Lần đầu tiên tôi cười. Rồi tôi nghĩ : nếu việc giúp cho một chú mèo con có thể làm tôi cười, thì việc giúp cho người nào đó chắc có thể làm tôi hạnh phúc. Thế là hôm sau tôi nướng vài ổ bánh đem cho bà cụ hàng xóm đang bệnh. Mỗi ngày tôi cố làm vài việc gì đó cho những người tôi gặp được vui vẻ. Và quả thực tôi đã thấy hạnh phúc. Tôi nghiệm ra được điều này là ta sẽ không hạnh phúc khi ta chỉ chờ người khác đem lại hạnh phúc cho mình ; ngược lại ta sẽ hạnh phúc thật khi ta làm cho người khác hạnh phúc”. Nghe đến đó, người thiếu phụ trẻ bật khóc. Cô đã có bất cứ thứ gì đồng tiền có thể mua được nhưng cô đã đánh mất những thứ mà đồng tiền không mua nổi. Và cô quyết định noi gương cô thư ký nọ. (Charlene Johnson).
5.                 Mảnh suy tư
Đức tin làm cho cuộc đời có ý nghĩa : vì một cuộc đời không có niềm tin cũng giống như một đêm tối không ánh sao.
Đức tin ban cho cuộc đời tinh thần hăng hái và niềm hy vọng : vì chúng ta cần hy vọng cũng như cuộc sống cần lương thực. Nhưng muốn hy vọng thì phải có đức tin, và đức tin sẽ mang đến niềm vui.
Nhưng chúng ta đừng mong rằng đức tin sẽ soi tỏ hết mọi vấn đề, bởi vì đức tin là trông cậy chứ không phải là sự hiển nhiên chắc chắn.
Đức tin không phải là một sự vật mà là một mối tương quan, tương quan với Chúa.
Người ta không nhận được đức tin trọn vẹn trong ngày rửa tội, nhưng phải nuôi lớn đức tin hằng ngày.
Đức tin lớn dần lên qua việc tập sống đức tin.
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế : Anh chị em thân mến, đức tin là món quà vô giá Chúa ban tặng cho mỗi người chúng ta. Với tâm tình cảm tạ tri ân Thiên Chúa là Tình yêu, chúng ta cùng dâng lời cầu xin :
1.     Đức Thánh Cha có sứ mạng củng cố đức tin của toàn thể dân thánh Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ân cần săn sóc giữ gìn người / để nhờ người / đức tin của mọi tín hữu luôn bền vững sắt son.
2.     Tin là gắn bó với Chúa / là dấn thân theo Người / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu / nhất là các Kitô hữu trẻ / dám xả thân vì Chúa và vì anh em / hầu mang sứ điệp yêu thương đến cho biết bao người chưa nhận biết Chúa.
3.     Ngày nay / một số thanh niên đánh mất niềm tin của mình vì vốn liếng giáo lý còn quá ít / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu biết tận dụng thời giờ Chúa ban / để học hỏi sâu rộng giáo lý của Chúa / nhờ đó đức tin của họ ngày càng trưởng thành và vững chắc hơn.
4.     Tin còn là vâng theo thánh ý Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết noi gương Đức Mẹ / vâng theo thánh ý Chúa trong đời sống đức tin thường ngày.
Chủ tế : Lạy Chúa, Chúa dạy chúng con phải luôn tin tưởng vào Chúa giữa muôn vàn thử thách của cuộc đời, nhưng do bản tính yếu đuối, chúng con dễ buồn chán và thất vọng khi gặp khó khăn. Vậy xin Chúa ban thêm lòng tin cho chúng con. Chúng con cầu xin :
VI. Trong Thánh Lễ
– Trước kinh Lạy Cha : Chúng ta không phải là đầy tớ của Chúa, mà là con của Ngài. Vậy chúng ta hãy hân hoan trìu mến cùng dâng lên Ngài lời Kinh Lạy Cha.
VII. Giải tán
Trong Thánh lễ hôm nay, Chúa đã nhắc chúng ta rằng Ngài là Cha của chúng ta và tha nhân là anh em của chúng ta. Vậy trong tuần này chúng ta hãy sống với Thiên Chúa trong tin yêu như con cái đối với Cha, và hãy phục vụ tha nhân như anh em phục vụ nhau.
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI


Lectio Divina: Chúa Nhật XXVII Thường Niên (C)
Sunday 6 October, 2019
Lectio Divina | Lection Divina Năm C
Chúa ban thêm đức tin cho chúng ta,
để đời sống chúng ta có thể tự nguyện phục vụ Thiên Chúa và tha nhân
Lc 17:5 –10


1.  Lời nguyện mở đầu
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy sai Thần Khí Chúa đến giúp chúng con đọc Kinh Thánh với cùng tâm tình mà Chúa đã đọc cho các môn đệ trên đường Emmau.  Trong ánh sáng của Lời Chúa, được viết trong Kinh Thánh, Chúa đã giúp các môn đệ khám phá ra được sự hiện diện của Thiên Chúa trong nỗi đau buồn về bản án và cái chết của Chúa.  Vì thế, cây thập giá tưởng như là sự kết thúc của mọi niềm hy vọng, đã trở nên nguồn mạch của sự sống và sự sống lại.
Xin hãy tạo trong chúng con sự thinh lặng để chúng con có thể lắng nghe tiếng Chúa trong sự Tác Tạo và trong Kinh Thánh, trong các sự kiện của đời sống hằng ngày và trong những người chung quanh, nhất là những người nghèo khó và đau khổ.  Nguyện xin Lời Chúa hướng dẫn chúng con để, giống như hai môn đệ từ Emmau, chúng con cũng sẽ được hưởng sức mạnh sự phục sinh của Chúa và làm chứng cho những người khác rằng Chúa đang sống hiện hữu giữa chúng con như nguồn mạch của tình anh em, công lý và hòa bình.  Chúng con cầu xin vì danh Chúa Giêsu, con Đức Maria, Đấng đã mặc khải cho chúng con về Chúa Cha và đã sai Chúa Thánh Thần đến với chúng con.  Amen.

2.  Bài Đọc
a)  Chìa khóa dẫn đến bài đọc: 
Bài Tin Mừng của phần phụng vụ Chúa Nhật tuần này là một phần của một đoạn Phúc Âm tiêu biểu và dài của Luca (Lc 9:51 đến 19:28), trong đó mô tả chuyến đi lên Giêrusalem chậm chạp của Chúa Giêsu, nơi Người sẽ bị trở thành tội nhân, bị kết án và chịu chết.  Một phần lớn của đoạn Tin Mừng này là để hướng dẫn cho các môn đệ.  Bài Tin Mừng của chúng ta là một phần của lời hướng dẫn ấy.  Chúa Giêsu chỉ dạy cho các ông cách sống trong cộng đoàn (Lc 17:1).

b)  Phân đoạn bài Tin Mừng để trợ giúp cho bài đọc:
Lc 17:5:  Các tông đồ xin Chúa Giêsu ban thêm đức tin cho các ông
Lc 17:6:  Sống với người có lòng tin lớn bằng hạt cải
Lc 17:7-9:  Sống với đời sống của người tự nguyện phục vụ Thiên Chúa và tha nhân
Lc 17:10:  Áp dụng sự so sánh với người đầy tớ vô dụng

c)  Phúc Âm:

Khi ấy, các tông đồ thưa với Chúa Giêsu rằng:  “Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con.”  6 Chúa liền phán rằng:  “Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải, thì dẫu các con khiến cây dâu này rằng:  ‘Hãy bứng rễ lên mà đi trồng dưới biển,’ nó liền vâng lời các con.  7 Ai trong các con có người đầy tớ cày bừa hay chăm sóc súc vật ngoài đồng trở về, liền bảo nó rằng:  ‘Mau lên, hãy vào bàn dùng bữa’, 8 mà trái lại không bảo nó rằng:  ‘Hãy lo dọn bữa tối cho ta, hãy thắt lưng và hầu hạ ta cho đến khi ta ăn uống đã, sau đó ngươi mới ăn uống.’  9 Chớ thì chủ nhà có phải mang ơn người đầy tớ, vì nó đã làm theo lệnh ông dạy không?  Thầy nghĩ rằng: ‘Không’.  10Phần các con cũng vậy, khi các con làm xong mọi điều đã truyền dạy các con, thì các con hãy nói rằng:  ‘Chúng tôi là đầy tớ vô dụng, vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải làm.’”

3.  Giây phút cầu nguyện trong thinh lặng
Để Lời Chúa có thể thấm nhập và soi sáng đời sống chúng ta.
4.  Một vài câu hỏi gợi ý
Để giúp chúng ta trong việc suy gẫm cá nhân.
a)   Phần nào của bài Phúc Âm này tôi thích nhất hoặc điều gì đã đánh động tôi nhất?
b)   Tin vào ai đây?  Tin vào Thiên Chúa?  Tin vào người khác?  Hay tin vào chính mình?
c)   Đức tin lớn chỉ bằng hạt cải:  có phải đức tin của tôi là như thế không?
d)   Hiến dâng đời sống của một người cho việc phục vụ mà không mong đáp trả:  tôi có khả năng sống đời sống như thế chăng?

5.  Chìa khóa dẫn đến bài Tin Mừng
 Dành cho những ai muốn đào sâu vào chủ đề

a)  Bối cảnh lịch sử của đoạn Phúc Âm:
 Bối cảnh lịch sử của Phúc Âm viết bởi Luca luôn có hai chiều:  vào thời Chúa Giêsu của thập niên 30, khi những điều được mô tả trong văn bản đã xảy ra, và vào thời điểm của các cộng đoàn là những người mà sách Tin Mừng của thánh Luca chú tâm tới, hơn năm mươi năm sau khi sự việc đã xảy ra.  Khi Luca tường trình những lời và các cử chỉ của Chúa Giêsu, ông không chỉ nghĩ đến những việc đã xảy ra vào thập niên 30, mà đúng hơn là đời sống của các cộng đoàn của những năm thuộc thập niên 80 với tất cả các vấn nạn và mối quan tâm của họ, và ông đã cố gắng cung cấp cho họ một số ánh sáng và các giải pháp khả thi (Lc 1:1-4). 

b)  Chìa khóa dẫn đến Phúc Âm:  Bối cảnh văn học:
Bối cảnh văn học (Lc 17:1-21) trong đó có đoạn Tin Mừng của chúng ta (Lc 17:5-10) giúp chúng ta hiểu rõ hơn về những Lời của Chúa Giêsu.  Trong đoạn Tin Mừng này, thánh Luca tập hợp những Lời của Chúa Giêsu dùng để giảng dạy cách người ta phải sống như thế nào trong cộng đoàn.  Thứ nhất (Lc 17:1-2), Chúa Giêsu lôi cuốn sự chú ý của các môn đệ đến những người nhỏ bé, đó là những người bị gạt ra ngoài lề xã hội.  Các cộng đoàn phải ghi nhớ kỹ điều này.  Thứ hai (Lc 17:3-4), Chúa tạo sự chú ý đến những thành viên yếu kém của cộng đoàn.  Về vấn đề của họ, Chúa Giêsu muốn các môn đệ phải có trách nhiệm đối với họ và có một thái độ hiểu biết và hòa giải với họ.  Thứ ba (Lc 17:5-6) (và ở đây bắt đầu đoạn Tin Mừng của chúng ta), Chúa Giêsu nói về đức tin vào Thiên Chúa phải là động lực đời sống của các cộng đoàn.  Thứ tư (c 17:7-10), Chúa Giêsu bảo các môn đệ phải phục vụ tha nhân với lòng xả kỷ và vị tha tối đa, tự nhận mình là các tôi tớ vô dụng.  Thứ năm (Lc 17:20-21), Chúa Giêsu dạy các ông cách làm thế nào để nhận sự phục vụ của người khác.  Họ phải tỏ lòng biết ơn.  Thứ sáu (Lc 17:20-21), Chúa Giêsu dạy các ông phải nhìn vào thực tế chung quanh mình.  Người bảo các ông không nên chạy theo các lời truyền giáo giả dối của những kẻ loan báo rằng Nước Thiên Chúa, khi xuất hiện, sẽ được chứng kiến bởi tất cả mọi người.  Chúa Giêsu lại dạy khác.  Nước Trời sắp đến, không như vương quốc của các kẻ cai trị ở thế gian, sẽ không trông thấy được.  Đối với Chúa Giêsu, Vương Quốc Nước Trời đã đến rồi!  Nó đang ở giữa chúng ta, độc lập với những nỗ lực và thành tích của chúng ta.  Đó là thuần khiết ân sủng!  Và chỉ có đức tin mới có thể lãnh hội được.

c)  Lời bình giải về đoạn Phúc Âm:
 Lc 17:5:  Các tông đồ xin Chúa Giêsu ban thêm đức tin cho các ông
Các môn đệ nhận thức rằng không phải dễ dàng gì để có được những phẩm chất mà Chúa Giêsu vừa mới đòi hỏi nơi họ:  chăm sóc cho những người bé mọn (Lc 17:1-2) và hòa đồng với những anh chị em cô thế trong cộng đoàn (Lc 17:3-4).  Và với nhiều đức tin!  Không chỉ là niềm tin vào Thiên Chúa, mà cũng còn là lòng tin vào khả năng mua chuộc lại anh chị em.  Đó là lý do tại sao các ông đến và thưa với Chúa Giêsu:  “Xin Thầy ban thêm đức tin cho chúng con!”

Lc 17:6:  Sống với người có lòng tin lớn bằng hạt cải
Chúa Giêsu trả lời:  “Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải, thì dẫu các con khiến cây dâu này rằng:  ‘Hãy bứng rễ lên mà đi trồng dưới biển,’ nó liền vâng lời các con”.  Câu nói này của Chúa Giêsu đặt ra hai câu hỏi:  (1) Có phải Chúa đang nói bóng gió rằng các thánh tông đồ không có đức tin lớn bằng hạt cải không?  Sự so sánh của Chúa Giêsu thật là mạnh mẽ và bóng gió xa xôi.  Hạt cải thì rất bé, nhỏ bé như sự tầm thường của các môn đệ.  Nhưng với đức tin, các ông có thể trở nên mạnh mẽ, mạnh hơn núi rừng hoặc biển cả!  Nếu là thời bây giờ, có lẽ Chúa Giêsu sẽ nói:  “Nếu các con có lòng tin bằng hạt nguyên tử, thì các con có thể san bằng ngọn núi này.”  Đó là, mặc dù có những khó khăn cố hữu, việc hòa giải giữa các anh chị em là việc có thể làm được, bởi vì đức tin có thể làm cho những điều dường như không thể lại trở thành sự thật.  Nếu không có trục chính là đức tin, thì mối quan hệ sứt mẻ không thể nào hàn gắn và cộng đoàn được Chúa Giêsu mong muốn không thể nào thực hiện được.  Đức tin của chúng ta phải mang chúng ta đến điểm mà chúng ta có thể dời được ngọn núi của những thành kiến trong lòng chúng ta và vất nó xuống biển.  (2)  Với câu nói này, Chúa Giêsu có đang đề cập tới đức tin vào Thiên Chúa hoặc niềm tin vào khả năng đem lại những anh chị em yếu kém nhất không?  Có lẽ câu nói này đề cập đến cả hai.  Khi tình yêu Thiên Chúa được thể hiện cụ thể trong tình yêu tha nhân, cũng như đức tin vào Thiên Chúa phải được thực hiện cụ thể trong niềm tin vào anh chị em, trong sự hòa giải và tha thứ đến bảy mươi lần bảy!  (Mt 18:22)  Đức tin là sự điều khiển từ xa của quyền năng Thiên Chúa, Đấng đã làm và mặc khải chính Người trong mối tương quan loài người được phục hồi được sống trong cộng đoàn!

Lc 17:7-9:  Chúa Giêsu đã chỉ cho biết chúng ta phải thực hành các bổn phận của chúng ta đối với cộng đoàn như thế nào
Để dạy rằng trong đời sống cộng đoàn tất cả mọi người đều phải chối bỏ và tách rời khỏi bản thân mình, Chúa Giêsu đã dùng thí dụ của người đày tớ.  Vào thời bấy giờ, một người đày tớ không thể được hưởng một công trạng nào.  Người chủ nhà, khó khăn và đòi hỏi, chỉ muốn sự phục vụ của các đày tớ.  Người đày tớ hiếm khi được cảm ơn.  Đối với Thiên Chúa, chúng ta giống như một người đày tớ trước mặt ông chủ mình.
Nó có vẻ kỳ lạ khi Chúa Giêsu phải dùng một ví dụ chói tai như thế trích ra từ một tổ chức xã hội bất công thời bấy giờ, để mô tả mối quan hệ của chúng ta với cộng đoàn.  Người đã làm việc này vào một dịp khác khi Người so sánh cuộc sống trên Nước Trời với một tên trộm.  Điều quan trọng là mục đích của sự so sánh này:  Thiên Chúa đến như một kẻ trộm, không lời báo trước, vào lúc mà chúng ta không ngờ nhất; giống như một người đày tớ trước mặt chủ mình vì vậy chúng ta không thể và không nên kể công trước anh chị em chúng ta trong cộng đoàn.

Lc 17:10:  Áp dụng sự so sánh với người đầy tớ vô dụng
Chúa Giêsu áp dụng ví dụ này vào đời sống trong cộng đoàn:  như một người đày tớ trước mặt chủ mình, do đó thái độ của chúng ta cũng phải tùy thuộc vào cộng đoàn:  chúng ta chẳng làm được những điều gì để đáng được thưởng công, tán thành, thăng thưởng hay khen ngợi, nhưng chỉ để cho thấy rằng chúng ta thuộc về Thiên Chúa!  “Vì vậy, với bạn, khi bạn đã làm xong tất cả những việc bạn đã được bảo phải làm, thì hãy nói:  ‘Chúng tôi chỉ là những người đầy tớ; chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải làm’.”  Trước mặt Thiên Chúa, chúng ta không xứng đáng bất cứ điều gì.  Bất cứ những gì chúng ta nhận lãnh, chúng ta đã không xứng đáng.  Chúng ta đang sống nhờ vào tình yêu cho không của Thiên Chúa.

c)  Phần tìm hiểu thêm về đức tin và sự phục vụ: 
 i)  Đức tin vào Thiên Chúa được thể hiện cụ thể trong việc đem anh chị em trở lại
 Sự kiện thứ nhất:  Trong thời Đệ Nhị Thế Chiến ở Đức, chuyện xảy ra cho hai người Do-Thái, Samuel và Gioan bị đẩy vào trại tập trung.  Họ bị đối xử tàn nhẫn và thường bị hành hạ.  Gioan là người trẻ hơn, lấy làm bực dọc.  Anh ta đã trút bỏ sự tức giận của mình bằng cách nguyền rủa và dùng những lời lẽ thô tục đối với quân nhân Đức Quốc Xã là những người đối cử tàn tệ và đánh đập họ.  Samuel, là người lớn tuổi hơn, tỏ ra bình tĩnh.  Ngày kia, trong một lúc phân tâm, Gioan nói với Samuel:  “Làm cách nào mà anh có thể giữ được sự thản nhiên khi anh bị đối xử tàn nhẫn như thế?  Tại sao anh có được lòng can đảm lớn lao như thế?  Lẽ ra anh phải phản ứng và tỏ lòng bất mãn của anh đối với chế độ vô lý này chứ!”   Samuel đáp lại:  “Giữ cho được bình tĩnh thì khó hơn tỏ ra can đảm.  Tôi không tìm kiếm sự can đảm, vì tôi sợ rằng, do sự tức giận của tôi, anh ta có thể dập tắt tia lửa nhân đạo cuối cùng đang tiềm ẩn trong người lính dã man này”.
Sự kiện thứ hai:  Trong thời gian đế quốc La-Mã chiếm đóng vùng Paléstin, Chúa Giêsu bị kết án tử hình bởi Thượng Hội Đồng Do Thái.  Chính vì đức tin của Người vào Chúa Cha, Chúa Giêsu đón nhận tất cả mọi người như anh chị em, và khi làm như thế, Người đã thách đố một cách mạnh mẽ cái hệ thống nhân danh Thiên Chúa, đã khiến cho rất nhiều người chịu thiệt thòi.  Bản án của Thượng Hội Đồng Do Thái đã được duyệt xét bởi Đế quốc La-Mã và Chúa Giêsu đã bị dẫn đến đồi Canvê để chịu chết.  Các quân lính La-Mã đã thi hành bản án.  Một người trong bọn họ đã đâm thủng bàn tay Chúa Giêsu với những chiếc đinh.  Phản ứng của Chúa Giêsu là:  “Lạy Cha, xin Cha tha cho họ, vì họ không biết việc họ đang làm!” (Lc 23:34).  Đức tin vào Thiên Chúa cho thấy tự nó đã có sự tha thứ đối với những kẻ đang giết Chúa.

ii)  Việc phục vụ cho dân Chúa và cho tha nhân
 Vào thời của Chúa Giêsu, đã có một loạt các kỳ vọng khác nhau vào đấng cứu thế.  Theo nhiều lời giải thích từ các lời tiên tri, đã có người mong đợi một vị Vua Cứu Thế (Lc 15:9-32), Đấng Thánh của Thiên Chúa (Mc 1:24), một Thiên Tướng (Lc 23:5; Mc15:6; 13:6-8), một Thày Thuốc Cứu Tinh (Ga 4:25; Mc 1:22-27); một Đấng Phán Xét Mêssia (Lc 3:5-9; Mc 1:8); một vị Thiên Sai Tiên Tri (Mc 6:4; 14:65).  Tất cả mọi người, theo lợi ích riêng của họ hoặc theo tầng lớp xã hội, ngóng chờ Đấng Thiên Sai theo như ước nguyện và sự mong đợi của họ.  Dường như không một ai, ngoại trừ người cùng đinh, người nghèo của Đấng Gia-Vê, đã mong đợi một Đấng Cứu Thế Tôi Trung, đã được công bố bởi tiên tri Isaia (Is 42:1; 49:3; 52:13).  Người nghèo khó thường nhớ lại lời hứa đấng cứu tinh được xem như một sự phục vụ tặng cho nhân loại qua dân của Chúa.  Đức Maria, người nghèo khó của Thiên Chúa, đã nói với thiên sứ:  “Này tôi là tôi tá của Chúa!”  Từ Đức Maria, Chúa Giêsu đã học được cách phục vụ.  Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ” (Mc 10:45).
 Hình ảnh của Người Tôi Trung được mô tả trong bốn bài thánh ca của tiên tri Isaia (Is 42:1-9; 49:1-6; 50:4-9; 52:13 đến 53:12), đã không chỉ về một cá nhân riêng rẽ nào, nhưng nói về dân tộc bị trị (Is 41:4-9; 42:18-20; 43:10; 44:1-2; 44:21; 45:4; 48:20; 54:17), được mô tả bởi tiên tri Isaia như là một dân tộc “bị đàn áp, bị biến dạng, không còn hình thù của một con người và không điều kiện tối thiểu của con người, một dân tộc bị khai thác, bị ngược đãi, không có tiếng nói, không thanh nhã hoặc vẻ đẹp, đầy đau khổ, bị mọi người xa lánh như người cùi hủi, bị lên án như một tội phạm, không được bênh vực hoặc bào chữa” (xem Is 53:2-8).  Đây là hình ảnh trung thực của một phần ba nhân loại ngày nay!  Những người tôi tớ này “không than van, không gào thét, sẽ không để ai nghe tiếng giữa phố phường, sẽ không đành bẻ gãy cây lau bị dập” (Is 42:2).  Bị ngược đãi nhưng không bức hại; bị đàn áp nhưng sẽ không đàn áp; bị giày xéo dưới chân nhưng sẽ không chà đạp những người khác.  Những người này sẽ không sa vào vực thẳm bạo lực của chế độ đã đàn áp.  Thái độ chịu đựng này của Đấng Tôi Trung Thiên Chúa là cội rễ của công lý mà Thiên Chúa mong muốn được nhìn thấy lan tràn khắp thế gian.  Đó là lý do tại sao Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta trở nên tôi tớ của Người với sứ mạng đem công lý chiếu sáng rực rỡ trên khắp thế giới (Is 42:2-6; 49:6).
Chúa Giêsu biết các bài thánh ca này và trong việc thi hành sứ vụ của mình, Người đã để cho những bài thánh ca này hướng dẫn Người.  Vào lúc Người chịu phép rửa trên sông Giođan, Đức Chúa Cha đã giao phó Người với sứ mệnh của người Tôi Trung (Mc 1:11).  Lúc trong hội đường tại Nazarét, Người giải thích chương trình của mình với các dân của Người, Đức Giêsu đã công khai nhận lãnh sứ mệnh này (Lc 4:16-21).  Trong thái độ của sự phục vụ này, Chúa Giêsu mặc khải gương mặt của Thiên Chúa, lôi cuốn chúng ta và chỉ cho chúng ta thấy con đường tìm về với Thiên Chúa.

6.  Cầu Nguyện:  Thánh Vịnh 72 (71)
Hy vọng cho tất cả mọi người rằng Đấng Cứu Thế sắp đến
Tâu Thượng Đế, xin ban quyền bính Ngài cho vị Tân Vương,
trao công lý Ngài vào tay Thái Tử,
để Tân Vương xét xử dân Ngài theo công lý,
và bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn.
Núi đem lại cảnh hoà bình trăm họ,
đồi rước về nền công lý vạn dân!
Người sẽ bảo toàn quyền lợi dân cùng khổ,
ra tay cứu độ kẻ khó nghèo,
đập tan lũ cường hào ác bá.
Nguyện chúc Người tuổi thọ sánh vầng ô,
như bóng nguyệt đến muôn đời muôn kiếp!
Mong Người xuống tựa mưa sa nội cỏ,
ơn vũ lộ thấm nhuần cả đất đai.
Triều đại Người, đua nở hoa công lý
và thái bình thịnh trị tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn.
Người làm bá chủ từ biển này qua biển nọ,
từ Sông Cả đến tận cùng cõi đất.
Dân vùng sa mạc khúm núm quy hàng,
tất cả đối phương nhục nhằn cắn cỏ.
Từ Tác-sít và hải đảo xa xăm,
hàng vương giả sẽ về triều cống.
Cả những vua Ả-rập, Xơ-va,
cũng đều tới tiến dâng lễ vật.
Mọi quân vương phủ phục trước bệ rồng,
muôn dân nước thảy đều phụng sự.
Người giải thoát bần dân kêu khổ
và kẻ khốn cùng không chỗ tựa nương,
chạnh lòng thương ai bé nhỏ khó nghèo.
Mạng sống dân nghèo, Người ra tay tế độ,
giải thoát cho khỏi áp bức bạo tàn,
từng giọt máu họ, Người đều coi là quý.
Tân Vương vạn vạn tuế!
Thiên hạ sẽ đem vàng Ả-rập tiến dâng lên,
và cầu xin cho Người luôn mãi,
ngày lại ngày chúc phúc cho Người.
Mong cho xứ sở đầy dư gạo thóc,
đỉnh non cao sóng lúa rì rào,
trổ bông vàng đẹp tựa núi Li-băng,
thâu lượm được nhiều như cỏ dại.
Danh thơm Người sẽ trường tồn vạn kỷ,
nức tiếng gần xa dưới ánh mặt trời.
Ước gì mọi sắc tộc trần gian, nhờ Người được chúc lành,
và muôn dân thiên hạ ngợi khen Người có phúc.
Chúc tụng ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa Ít-ra-en,
chỉ có Ngài làm nên những công trình kỳ diệu.
Muôn muôn đời xin chúc tụng danh Chúa hiển vinh,
ước gì vinh quang Chúa chiếu toả khắp hoàn cầu!
A-men. A-men.

7.  Lời nguyện kết
Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ Chúa về Lời Chúa đã giúp chúng con hiểu rõ hơn ý muốn của Chúa Cha.  Nguyện xin Thần Khí Chúa soi sáng các việc làm của chúng con và ban cho chúng con sức mạnh để thực thi Lời Chúa đã mặc khải cho chúng con.  Nguyện xin cho chúng con, được trở nên giống như Đức Maria, thân mẫu Chúa, không những chỉ lắng nghe mà còn thực hành Lời Chúa.  Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Đức Chúa Cha trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.  Amen.




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét