Trang

Thứ Bảy, 26 tháng 10, 2019

27-10-2019 : (phần I) CHÚA NHẬT XXX THƯỜNG NIÊN năm C


27/10/2019
 Chúa Nhật 30 Thường Niên năm C
(phần I)


BÀI ĐỌC I: Hc 35, 15b-17. 20-22a (Hl 12-14. 16-18)
“Lời cầu nguyện của người khiêm nhường vọng lên tới các tầng mây”.
Trích sách Huấn Ca.
Chúa là quan án, Người không xem sao vinh quang loài người. Chúa không vì nể kẻ nghịch với người nghèo khó, và Người nhậm lời kẻ bị áp bức kêu cầu. Người không khinh rẻ kẻ mồ côi khẩn nguyện, cũng không khinh rẻ người goá bụa, khi nó bày tỏ lời than van.
Nỗi hồn đắng cay, của lễ được nhận, và tiếng kêu oan kíp thấu tầng mây. Lời cầu nguyện của kẻ khiêm nhường vọng lên tới các tầng mây: nó sẽ không yên lòng cho đến khi lời nguyện nó đến nơi, và nó chẳng rút lui cho đến khi Đấng Tối Cao đoái nhìn. Chúa sẽ không trì hoãn, Người sẽ xét đoán những người công chính và sẽ ra lời phán quyết. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 33, 2-3. 17-18. 19 và 28
Đáp: Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe (c. 7a).
Xướng:
1) Tôi chúc tụng Thiên Chúa trong mọi lúc, miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Người. Trong Thiên Chúa linh hồn tôi hãnh diện, bạn nghèo hãy nghe và hãy mừng vui. – Đáp.
2) Thiên Chúa ra mặt chống người làm ác, để tẩy trừ di tích chúng nơi trần ai. Người hiền đức kêu cầu và Chúa nghe lời họ, Người cứu họ khỏi mọi nỗi âu lo. – Đáp.
3) Thiên Chúa gần gũi những kẻ đoạn trường, và cứu chữa những tâm hồn đau thương giập nát. Thiên Chúa cứu chữa linh hồn tôi tớ của Người, và phàm ai tìm đến nương tựa nơi Người, người đó sẽ không phải đền bồi tội lỗi. – Đáp.

BÀI ĐỌC II: 2 Tm 4, 6-8. 16-18
“Từ đây triều thiên công chính đã dành cho cha”.
Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi Timôthêu.
Con thân mến, phần cha, cha đã già yếu, giờ ra đi của cha đã gần rồi. Cha đã chiến đấu trong trận chiến chính nghĩa, đã chạy đến cùng đường và đã giữ vững đức tin. Từ đây triều thiên công chính đã dành cho cha. Và trong ngày đó, Chúa là Đấng phán xét chí công sẽ trao lại cho cha mũ triều thiên ấy; nhưng không phải cho cha mà thôi, mà còn cho những kẻ yêu mến trông đợi Người xuất hiện.
Lần đầu tiên cha đứng ra biện hộ cho cha, thì chẳng ai bênh đỡ cha, trái lại mọi người đều bỏ mặc cha: xin chớ chấp tội họ. Nhưng Chúa đã phù hộ cha và ban sức mạnh cho cha, để nhờ cha mà lời rao giảng được hoàn tất, và tất cả các Dân ngoại được nghe: vậy cha đã thoát khỏi miệng sư tử. Chúa đã giải thoát cha khỏi mọi sự dữ và cứu lấy cha để đưa vào nước Người trên trời. Nguyện chúc Người được vinh quang muôn đời! Amen. Đó là lời Chúa
.
ALLELUIA: Ga 14, 5
Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống; không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”. – Alleluia. 

PHÚC ÂM: Lc 18, 9-14
“Người thu thuế ra về được khỏi tội”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu nói dụ ngôn sau đây với những ai hay tự hào mình là người công chính và hay khinh bỉ kẻ khác: “Có hai người lên đền thờ cầu nguyện, một người biệt phái, một người thu thuế. Người biệt phái đứng thẳng, cầu nguyện rằng: ‘Lạy Chúa, tôi cảm tạ Chúa vì tôi không như các người khác: tham lam, bất công, ngoại tình, hay là như tên thu thuế kia; tôi ăn chay mỗi tuần hai lần và dâng một phần mười tất cả các hoa lợi của tôi’. Người thu thuế đứng xa xa, không dám ngước mắt lên trời, đấm ngực và nguyện rằng: ‘Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội’. Ta bảo các ngươi: người này ra về được khỏi tội, còn người kia thì không. Vì tất cả những ai tự nâng mình lên, sẽ bị hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nâng lên”. Đó là lời Chúa.


Suy niệm
Giáo huấn của nhà khôn ngoan Ben Sira, người kế thừa giáo lý ngôn sứ xưa về sự công chính và lòng ưu ái của Thiên Chúa đối với những người nghèo khổ và bị áp bức, dẫn chúng ta tới những tột đỉnh của linh đạo Kinh Thánh đích thực. Sách Đệ Nhị Luật cảnh báo rằng Thiên Chúa là Ðấng “không thiên vị ai và không nhận quà hối lộ” (Đnl 10:17), ngược hẳn với con người thường thiên vị dựa theo những thành kiến xã hội, chủng tộc, hay ý thức hệ, khiến cuộc sống của những người thấp hèn phải chịu thiệt thòi. Giáo lý này được áp dụng rộng rãi bởi Đức Giêsu trong lời rao giảng và hoạt động giải phóng của Người, cũng như bởi các tông đồ và các tác giả Tin Mừng, được trình bày trong các bài viết của các ngài và được truyền bá trên khắp thế giới. Trong lòng thương xót vô biên của Người, Thiên Chúa luôn luôn đến với những ai ý thức được tội lỗi và những yếu đuối của mình và tìm kiếm sự trợ giúp và tha thứ của Người. Trái lại, đối với những kẻ kiêu căng, Người để mặc họ lang thang và hoang mang với những tư tưởng kiêu hãnh trong lòng họ.
Dụ ngôn của Đức Giêsu về người thu thuế và người Pharisêu chứng tỏ cách Người nhìn con người, cũng là cách Thiên Chúa nhìn con người. Người không xét đoán người ta theo vẻ bề ngoài, cũng không dựa theo thành kiến, nhưng dựa theo những gì Người thấy rõ trong tâm khảm con người, nhận ra động cơ thực sự thúc đẩy các hành động và lời cầu nguyện của họ.
Trên thực tế, trong các sách Tin Mừng, chúng ta lần đầu tiên gặp thấy ý tưởng Thiên Chúa không thiên vị ai, được nói ra từ chính miệng các địch thủ của Đức Giêsu; mặc dù họ âm mưu hãm hại Người, họ vẫn phải công khai nhìn nhận sự chính trực vẹn toàn của Người, khi họ nói, “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy nói và dạy một cách thẳng thắn, không thiên vị ai, nhưng theo sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa” (Lc 20:21; x. Mt 22:16). Đây là đường lối của Thiên Chúa mà Đức Giêsu đã thực hành và đã dạy. Người đã chứng tỏ điều này không những trong cách Người tiếp xúc với những người thấp hèn và những người bị loại trừ và bị gạt ra bên lề xã hội vì bị coi là những kẻ tội lỗi, như những gái điếm và những người thu thuế, hay những người bị coi là ô uế và bị chúc dữ, như những người phong cùi; nhưng Người cũng chứng tỏ điều đó trong tất cả hoạt động loan báo Tin Mừng của Người, phá vỡ mọi bức tường ngăn cách của sự kỳ thị, dù là kỳ thị tôn giáo, xã hội, hay chủng tộc. Thực vậy, Đức Giêsu đã từng chấp nhận lời cầu xin khiêm tốn của viên đại đội trưởng Rôma và đến chữa lành cho đầy tớ ông. Hơn nữa, trong những chuyến đi liên tục như một Thầy dạy lữ hành, Người đã đến thăm vùng Samaria và thường khen ngợi người dân vùng này. Khi đi ngang qua vùng đất dân ngoại, Người đi đến xứ Tyrô và chữa lành cho con gái người phụ nữ Syrô-Phênixê. Băng qua bên kia Biển Hồ Tibêriát, Đức Giêsu đi về phía Thập Tỉnh và chữa lành những người bệnh tật yếu đau. Những chuyến băng qua Biển Galilê liên tục của Người chứng minh Đức Giêsu là Chúa trên thực tại mà biển là biểu tượng; Người cũng có quyền năng dẹp yên bão táp và đi trên mặt biển. Biển cả đáng sợ, một biểu tượng tiêu cực, không còn là một sức mạnh của sự phân cách nữa, nhưng đã trở thành một cây cầu, và qua sứ vụ của Đức Giêsu, trở thành con đường dẫn tới sự hòa giải giữa hai bên, dân Do Thái và Dân Ngoại.
Trong hội đường tại Nadarét, nơi Đức Giêsu giới thiệu chương trình sứ vụ của Người, Người đã thách thức cử tọa về địa vị của Ítraen so với các dân tộc khác như là dân tuyển chọn của Thiên Chúa. Trên thực tế, những người hiện diện đã phản ứng tiêu cục, lên án lời giảng của Người về sự ứng nghiệm các lời ngôn sứ. Các ví dụ về ngôn sứ Êlia, người được sai đến với bà góa xứ Phênixê, và ngôn sứ Êlisê, người từng chữa lành cho viên tướng Naa- man người Syria, đủ để chứng tỏ rằng Thiên Chúa không thiên vị một ai hay một dân tộc nào; mọi tạo vật đều quí giá trong con mắt của Thiên Chúa. Như lời thánh vịnh gia nói, Đức Chúa tốt lành với mọi người, lòng từ ái của Người bao trùm muôn vật. Người đến gần tất cả những ai thành tâm kêu cầu người. Thánh vịnh gia không kể ra cụ thể một chủng tộc hay quốc gia nào, cũng không nói đến địa vị hay màu da. Nếu tình thương của Thiên Chúa thấm nhập mọi loại, đó là vị muôn loài đều là tạo vật từ bàn tay Người làm ra, và vì thế tình thương của Người là tình thương phổ quát, đầy sự chăm lo cho mọi người, không có một sự phân biệt nào.
Nói thế không có nghĩa là phủ nhận rằng Ítraen đã được Thiên Chúa tuyển chọn để đi vào một giao ước đặc biệt với Người. Nhưng sự tuyển chọn này là để phục vụ một sứ mạng đặc biệt vì lợi ích của mọi dân tộc, phản ánh sự hiện diện của Thiên Chúa hằng sống trong lịch sử như là Đấng giải phóng những người bị áp bức và cứu chuộc con người trong tất cả thực tại của nó: Chính các ngươi là nhân chứng của Ta - sấm ngôn của ÐỨC CHÚA - là bề tôi Ta đã tuyển chọn, để các ngươi nhận biết và tin Ta, và hiểu rõ Ta vẫn là Ta: trước Ta, chẳng có thần nào khác được hình thành, và sau Ta cũng vậy. (Is 43:10)
Thực vậy, Thiên Chúa không chỉ chọn người tôi tớ của Người, nhưng còn hình thành và dạy dỗ người ấy: Ta là Ðức Chúa, Ta đã gọi ngươi, vì muốn làm sáng tỏ đức công chính của Ta. Ta đã nắm tay ngươi, đã gìn giữ ngươi và đặt làm giao ước với dân, làm ánh sáng chiếu soi muôn nước, để mở mắt cho những ai mù loà, đưa ra khỏi tù những người bị giam giữ, dẫn ra khỏi ngục những kẻ ngồi trong chốn tối tăm. (Is 42:6-7)
Nhìn kỹ hơn lời dạy của Đức Giêsu trong dụ ngôn của Người về người thu thuế và người Pharisêu trong Đền Thờ, chúng ta thấy rằng sự khác biệt giữa hai người này chính là ở những gì có trong lòng họ, được phơi bày trước sự hiện diện của Thiên Chúa trong cầu nguyện.
Suy cho cùng, chính là với ý hướng cầu nguyện mà người thu thuế và người Pharisêu đi vào Đền Thờ, nhờ đó họ được chia sẻ một thời gian ngắn trong cùng một nơi thánh. Nhưng cái cách riêng mà mỗi người trong họ bắt đầu cầu nguyện chính là yếu tố quyết định số phận và tình trạng thiêng liêng cuối cùng của mỗi người. Người thu thuế, vì có lòng khiêm nhường và thành thật nhìn nhận mình bất xứng và tội lỗi để nài xin ơn tha thứ của Thiên Chúa, nên người này trở về nhà thành một người tốt hơn, được biến đổi và được giao hòa bên trong. Đáp lại lời cầu nguyện chân thực của người này, ơn Chúa đã được ban cho. Một lần nữa, chúng ta học được sự thật rằng “ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên” (Lc 18:14b).
Trái lại, người Pharisêu là một tù nhân bị giam hãm trong cái tháp ngà của tính kiêu ngạo thiêng liêng của mình. Quá ý thức về những việc lành của mình và về giai cấp tôn giáo-xã hội của mình, ông nghĩ mình cao hơn và tốt hơn mọi người khác, dựng lên những rào cản giữa ông và họ, nhục mạ và miệt thị họ. Có lẽ ông là người tốt cho tới lúc ấy, nhưng thái độ của ông cho thấy sự kiêu căng trong lòng ông, làm hại đến nhân đức mà ông tưởng là mình có trong tâm hồn.
Hơn nữa, chúng ta không đến với Thiên Chúa trong Đền Thờ để ăn mừng và nhìn ngắm bản thân mình trong sự ngưỡng mộ, đồng thời đứng ở trên để nhìn những người khác phía dưới. Chúng ta đứng trước mặt Thiên Chúa trong một cuộc gặp gỡ của tình yêu, và để gặp gỡ những người khác trong Thiên Chúa. Theo nghĩa này, cầu nguyền là chiêm ngắm Chúa, vui mừng vì những điều kỳ diệu mà ơn sủng của Người hoạt động hằng ngày trong lòng sự yếu đuối của loài người, và vui mừng vì lòng thương xót không mỏi mệt của Người giúp nâng dậy những người đã ngã và những người muốn đứng dậy trở lại.
Khi nghe dụ ngôn này, chúng ta tức khắc có thể bị cám dỗ tự đồng hóa mình với người thu thuế, đơn giản là vì người này có chỗ đứng tích cực trong câu chuyện. Đó là một dấu hiệu của ước muốn tế nhị của con người là làm cho mình được an tâm. Nhưng dụ ngôn mời gọi chúng ta nhìn vào bên trong để loại bỏ mọi sự ý thức về tính tự mãn của mình và sự khinh dể người khác, để tìm được một trái tim đơn sơ, khiêm nhường và đầy tình huynh đệ, biết cách nhìn vào mình và người khác với một cái nhìn từ tâm và hi vọng. Về phương diện này, thường cần phải đặt câu hỏi về cách chúng ta cầu nguyện. Cầu nguyện bộc lộ cho chúng ta điều gì về chiều sâu và chất lượng của trái tim chúng ta? Cầu nguyện tỏ cho chúng ta biết điều gì về bản thân mình, về cách chúng ta giao tiếp với người khác và về cách chúng ta nhận định về người khác một cách tự nhiên trong tương quan với chúng ta? Nó tỏ lộ cho chúng ta thấy điều gì về mối quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa và ơn cứu độ của Người?
Đức Giáo Hoàng Phanxicô thường xuyên nhắc nhở chúng ta về vị trí trung tâm của cầu nguyện trong tương quan với Hội Thánh và sứ mạng của Hội Thánh. Cầu nguyện là linh hồn của việc truyền giáo, bởi vì hiệu quả của việc gặp gỡ cá nhân với Chúa Kitô, các mức độ tương quan đúng đắn của chúng ta với chính mình và với thế giới trong ánh sáng của Chúa Thánh Thần, là gốc rễ của trải nghiệm về sự thật cứu rỗi chúng ta. Nhờ cầu nguyện, người môn đệ truyền giáo luôn luôn coi mình nằm trong số những người cần được ơn cứu rỗi mà mình được kêu gọi để loan báo và thông truyền trong các bí tích. Điều chắc chắn là sứ mạng loan báo Tin Mừng được uỷ thác cho chúng ta với danh nghĩa là Hội Thánh không thể được thực hiện trong sự thật nếu chúng ta chọn một thái độ thống trị trong quan hệ với người khác, tự tin và tự mãn về ưu thế đạo đức và tôn giáo của chúng ta. Truyền giáo phải là một đề nghị khiêm nhường về tình bạn với Đức Kitô, với một sự kính trọng sâu xa đối với tự do tôn giáo của những người khác thuộc thời đại chúng ta, kính trọng văn hóa và lịch sử của họ. Khiêm nhường đích thực không bao giờ thiếu sự thật. Đúng hơn, nó là một sự hiện diện hiệu quả của sự thật, một sự thật phán xét, tha thứ và cứu rỗi những người rao giảng và những người nghe rao giảng sự thật ấy.
(Trích 31 bài giảng của uỷ ban loan báo Tin Mừng trong tháng truyền giáo ngoại thường 10/2019)
Nguồn: Uỷ ban loan báo Tin Mừng 


Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật 30 Thường NiênNăm C
Bài đọcSir 35:12-14, 16-18; 2 Tim 4:6-8, 16-18; Lk 18:9-14.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Niềm tin và những thái độ cần có khi cầu nguyện với Thiên Chúa.
Làm thế nào để lời cầu nguyện của một người được Thiên Chúa đoái nhận là chủ đề của Lời Chúa tuần này. Trước khi cầu nguyện, con người phải có một số những hiểu biết căn bản để rồi có thái độ thích hợp khi cầu nguyện: Thiên Chúa là quan tòa không bao giờ thiên vị; mọi lời cầu xin sẽ được Thiên Chúa cứu xét; những gì Thiên Chúa hứa Ngài sẽ giữ lời; con người không bao giờ có thể tự mình trở nên công chính vì tất cả đều phạm tội; con người chỉ có thể công chính bằng đặt niềm tin nơi Thiên Chúa và cố gắng tuân giữ các điều Ngài truyền dạy.
Các bài đọc hôm nay dẫn chứng những hiểu biết căn bản này. Trong bài đọc I, tác giả Sách Huấn Ca mô tả Thiên Chúa là một quan tòa chí công vô tư. Ngài bênh vực quyền lợi cho kẻ bị áp bức, và nghe tiếng van nài của mẹ góa con côi. Trong bài đọc II, Phaolô biết trước những gì sẽ xảy ra cho ông trong những ngày cuối đời tại Rôma, ông sẽ bị bạn đồng hành bỏ rơi và bị ngược đãi bởi người Do-thái cũng như nhà cầm quyền; nhưng ông vẫn một niềm tin tưởng nơi Thiên Chúa, Ngài sẽ bảo vệ ông khỏi mọi nguy hiểm và đã sắm sẵn cho ông một triều thiên công chính trên trời. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu kể một câu truyện để nhắc nhở các môn đệ thái độ phải có khi cầu nguyện: đừng cậy dựa sức mình, đừng khinh thường tha nhân; nhưng phải biết cậy dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa và khiêm nhường thú nhận tội lỗi của mình.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa lắng nghe mọi lời nguyện xin.
1.1/ Thiên Chúa là Đấng xét xử chí công vô tư.
Không giống như các vua chúa hay những nhà lãnh đạo thế gian, họ thường xét xử theo tình cảm và lợi lộc vật chất; Thiên Chúa là quan tòa chỉ xét xử theo sự thật. Ngài không thiên vị ai, và cũng chẳng ai có thể mua chuộc Thiên Chúa.
Hơn nữa, vì tất cả mọi người đều là con cái của Ngài, nên Ngài tỏ lòng quan tâm đặc biệt đến những người cô thân cô thế. Tác giả Sách Huấn Ca liệt kê hai hạng người được Thiên Chúa quan tâm đặc biệt:
(1) Những người nghèo hèn bị đối xử bất công: “Người không vị nể mà làm hại kẻ nghèo hèn, nhưng nghe lời kêu xin của người bị áp bức.”
(2) Mẹ góa, con côi: Vì họ không có chồng hay không có cha, Thiên Chúa sẽ bảo vệ họ khỏi những kẻ lợi dụng: “Người không coi thường lời khấn nguyện của kẻ mồ côi, hay tiếng than van của người goá bụa.”
1.2/ Thiên Chúa cứu xét mọi lời cầu nguyện.
Nhiều người tự hỏi làm sao Thiên Chúa có thể nghe và cứu xét tất cả lời cầu nguyện của con người; nhất là của những người thấp mũi bé miệng; những người không có công trạng gì trước mặt Thiên Chúa? Nhiều lần chúng ta đã nói Thiên Chúa điều khiển vũ trụ bằng cách dùng các thiên thần. Họ là những sứ giả mang lời cầu nguyện của con người lên Thiên Chúa và chuyển những ơn lành từ Thiên Chúa xuống cho con người. Sứ thần Raphael đã củng cố điều này khi nói cho Tobia hiểu kế hoạch của Thiên Chúa cho gia đình ông.
Tác giả Sách Huấn Ca cũng xác nhận Thiên Chúa nghe tất cả lời cầu nguyện của con người và sẽ cứu xét từng trường hợp để có thể ban như lời con cái kêu xin. Khi một người luôn làm theo ý Thiên Chúa kêu xin, Ngài sẽ đáp lời họ: “Kẻ phục vụ Đức Chúa theo ý Người sẽ được Người chấp nhận, lời họ kêu xin sẽ vọng tới các tầng mây. Lời nguyện của người nghèo vượt ngàn mây thẳm.”
Vì thế, thái độ con người cần có khi cầu nguyện là kiên trì tin tưởng lời cầu nguyện của mình sẽ được thiên thần mang lên trước thiên nhan Chúa. Ngài sẽ cứu xét từng trường hợp và sẽ ban như ý họ kêu xin.
2/ Bài đọc II: Giờ đây tôi chỉ còn đợi triều thiên dành cho người công chính.
2.1/ Phaolô hoàn toàn tin tưởng nơi sự quan phòng của Thiên Chúa.
Sau khi đã làm chứng cho Đức Kitô tại Jerusalem, Ngài đã hiện ra với ông trong một thị kiến ban đêm để an ủi và cho ông biết ông sẽ làm chứng cho Ngài tại Roma nữa; đồng thời Ngài cũng cho ông biết những gian nan nguy hiểm đang chờ ông tại Roma.
Phaolô viết thư này cho môn đệ Timothy khi ông đang bị giam trong tù tại Roma, với mục đích để khích lệ tinh thần cho Timothy sẵn sàng làm chứng cho Đức Kitô: “Còn tôi, tôi sắp phải đổ máu ra làm lễ tế, đã đến giờ tôi phải ra đi. Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính; Chúa là vị Thẩm Phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho tôi trong Ngày ấy, và không phải chỉ cho tôi, nhưng còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người xuất hiện.”
Phaolô không cho là ông xứng đáng với triều thiên dành cho người công chính bằng những công việc ông làm; nhưng Phaolô muốn nhấn mạnh đến niềm tin trung thành nơi Đức Kitô. Ngài là Thẩm Phán Chí Công, Ngài là Đấng sẽ tuyên bố Phaolô là người công chính, và sẽ trao phần thưởng là triều thiên công chính cho ông.
Đoạn văn này là bằng chứng cho những người hiểu lầm học thuyết của Phaolô khi ông nói con người được công chính nhờ đặt niềm tin nơi Đức Kitô, mà không cần phải làm gì để chứng tỏ niềm tin. Phaolô chứng minh niềm tin của ông vào Thiên Chúa bằng việc hoàn tất sứ vụ rao giảng Tin Mừng cho Dân Ngoại mà Đức Kitô đã trao cho ông, và giờ đây, ông còn sẵn sàng đổ máu để làm chứng cho Tin Mừng ông rao giảng trên đất Rôma của Dân Ngoại.
2.2/ Phaolô có thể vượt qua mọi trở ngại là nhờ ông vững tin nơi Thiên Chúa.
Nhìn lại cuộc đời rao giảng Tin Mừng của Phaolô, chúng ta không khỏi ngạc nhiên về sự kiên trì phi thường của ông, khi phải đương đầu với những đau khổ bên trong cũng như bên ngoài, như trong trình thuật hôm nay, ông viết: “Khi tôi đứng ra tự biện hộ lần thứ nhất, thì chẳng có ai bênh vực tôi. Mọi người đã bỏ mặc tôi. Xin Chúa đừng chấp họ.” Tuy phải chịu đau khổ như thế, nhưng ông đã noi gương Đức Kitô, chẳng những không trách cứ họ, mà còn cầu nguyện cho họ nữa.
Phaolô nhận ra sức mạnh để chịu đựng và sự thành công trong việc rao giảng Tin Mừng không đến từ con người yếu đuối của ông; nhưng nhờ ông đặt niềm tin trọn vẹn nơi Đức Kitô. Ông viết: “Có Chúa đứng bên cạnh, Người đã ban sức mạnh cho tôi, để nhờ tôi mà việc rao giảng được hoàn thành, và tất cả các dân ngoại được nghe biết Tin Mừng. Và tôi đã thoát khỏi nanh vuốt sư tử. Chúa sẽ còn cho tôi thoát khỏi mọi hành vi hiểm độc, sẽ cứu và đưa tôi vào vương quốc của Người ở trên trời. Chúc tụng Người vinh hiển đến muôn thuở muôn đời. A-men.”
3/ Phúc Âm: Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.
Trước hết, chúng ta cần chú ý: mục đích của Chúa Giêsu khi kể câu truyện này là muốn răn dạy những người tự cho mình là công chính và khinh chê người khác.
3.1/ Thái độ của người Pharisee:
(1) Tác phong của người Pharisee: Tác phong của một người nói lên rất nhiều về tính khí của người đó. Trình thuật kể ông đứng thẳng trước thiên nhan của Thiên Chúa, chứ không xấp mình đấm ngực như người thu thuế.
(2) Hai cách ông làm để đề cao mình: nói xấu người khác và nói tốt về mình. Ông nói xấu hay giảm giá trị của người khác khi ông cầu nguyện: “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia.” Cầu nguyện là lúc con người nói chuyện của mình với Thiên Chúa; chứ không phải là lúc để tố tội người khác. Có lẽ ông cám ơn Thiên Chúa đã cho ông sức mạnh để ông trở thành người quá tốt như thế; nhưng đó không phải là những gì Thiên Chúa muốn nghe. Ngài muốn ông nhận ra những khuyết điểm của mình, chứ không muốn ông luận tội người khác, vì đó không phải là việc của ông. Ông khoe thành tích của mình: “Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con.” Việc khoe thành tích của ông chứng tỏ ông không biết Thiên Chúa là ai. Ngài biết tất cả việc ông làm và ý hướng bên trong của ông, Ngài không cần ông phải nhắc nhở. Việc ông đóng góp 10% cho Đền Thờ cũng chỉ là dâng lại những gì Thiên Chúa ban cho ông. Nếu để ý lời cầu nguyện của người Pharisee, chúng ta thấy ông không xin Thiên Chúa điều gì cả, ông chỉ tạ ơn Chúa; nói đúng hơn ông chỉ khoe thành tích của ông với Thiên Chúa.
3.2/ Thái độ của người thu thuế:
(1) Tác phong của người thu thuế: Ông đứng đằng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.”
(2) Ông biết ông là người tội lỗi. Ông biết ông không có công trạng gì trước mặt Thiên Chúa. Ông hoàn toàn cậy dựa hoàn toàn vào lòng từ bi của Thiên Chúa.
3.3/ Kết quả của việc cầu nguyện: Chỉ có Thiên Chúa là Đấng nhận lời cầu nguyện của con người. Chúa Giêsu tuyên bố rõ ràng kết quả: “Tôi nói cho các ông biết: người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi; còn người kia thì không.” Lý do được chấp nhận hay từ chối: “Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.”
Việc tuyên bố ai là công chính hoàn toàn là việc của Thiên Chúa, vì không ai là người không có tội. Con người được trở nên công chính là nhờ niềm tin vào Đức Kitô, Đấng đã gánh tội cho con người và hòa giải con người với Thiên Chúa. Thái độ tự cho mình là công chính gây ra rất nhiều nguy hiểm cho con người:
– Vì thấy mình quá tốt lành nên họ không cần tình thương tha thứ của Thiên Chúa. Thời nào cũng có những loại người này: các Pharisees thời của Chúa Giêsu, Pelagism hay Semi-Pelagism thời của thánh Augustine. Thánh Gioan khuyên nhủ các môn đệ của Ngài: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta… Nếu chúng ta nói là chúng ta đã không phạm tội, thì chúng ta coi Người là kẻ nói dối, và lời của Người không ở trong chúng ta” (1 Jn 1:8-10).
– Họ không thấy có tội là vì chưa xét mình cẩn thận hay lương tâm đã quá chai đá đó thôi. Nếu chịu khó xét mình cẩn thận, họ sẽ nhận ra họ cũng là tội nhân như bao người khác.
– Khi thấy mình hoàn hảo, họ dễ khinh thường và xét đoán người khác. Tật xấu này gây cho họ nhiều bất an và phá hủy gia đình cũng như cộng đoàn của họ; vì họ luôn bắt những người chung quanh phải sống theo tiêu chuẩn của họ, những gì mà họ nghĩ là “hoàn hảo.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Lời cầu nguyện với lòng thành tín làm theo ý Thiên Chúa chắc chắn sẽ được Ngài nhậm lời. Không một lời cầu nguyện nào mà không được dâng lên trước tôn nhan Thiên Chúa.
– Chúng ta phải sẵn sàng đương đầu với mọi gian nan trong cuộc đời để làm chứng cho Thiên Chúa. Ngài sẽ bảo vệ và cung cấp cho chúng ta sức mạnh cần thiết để vượt qua.
– Chúng ta cần phải có thái độ khiêm nhường khi cầu nguyện: nhận mình là người tội lỗi và trông chờ ơn tha thứ của Thiên Chúa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP


27/10/2019 – CHÚA NHẬT 30 TN – C
Lc 18,9-14


NGƯỜI ĐÁNG ĐƯỢC THỨ THA
“Người này khi trở xuống về nhà, thì đã được nên công chính rồi; còn người kia thì không.” (Lc 18,14)

Suy niệm: Tại sao người thu thuế được coi là công chính, được ơn cứu độ, còn người Pha-ri-sêu lại không? Trước hết, ta phải công nhận ông này đạo đức đúng như lời ông nói: ăn chay tuần hai lần, đóng thuế Đền thờ đến mười phần trăm lợi tức, một con số lớn lắm! Thế nhưng, việc ông tự cho mình là công chính và khinh miệt người anh em thu thuế đang ở trong Đền thờ, lại là hành vi kiêu ngạo, lỗi đức bác ái. Ông đến với Chúa, nhưng ông không cần Ngài, mà chỉ để khoe khoang công trạng của mình. Ông không cần Chúa, làm sao có thể được ơn cứu độ? Trái lại, người thu thuế ý thức mình là kẻ tội lỗi, biết đấm ngực ăn năn, xác tín mình cần đến Chúa, ơn tha thứ của Ngài. Thái độ khiêm hạ của anh đẹp lòng Chúa, Đấng “nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” (Lc 1,52). Lòng khiêm tốn là phương cách hữu hiệu để mở kho tàng tha thứ của Chúa, ơn cứu độ của Ngài.
Mời Bạn: Bạn cần Chúa trong cuộc đời, cần lòng tha thứ của Chúa, cần được Ngài cứu chuộc, được ơn công chính hóa. Dẫu vậy, đừng lạm dụng lòng thương xót của Ngài. Lòng thương xót ấy bao giờ cũng đi kèm điều kiện là con người phải nhận ra tại sao mình được tha thứ.
Sống Lời Chúa: Không ai công chính bằng Thiên Chúa. Tập sống công chính chính là tập sống tha thứ cho anh chị em mình.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, Chúa dạy con ý thức mình cần đến ơn tha thứ, sự cứu độ của Thiên Chúa. Xin cho con biết Chúa và cho con biết con. Biết Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, và biết con mọn hèn yếu đuối. Nhờ thế, con sẽ sống khiêm nhường hơn. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)


Xin thương xót con (27.10.2019 – Chúa Nhật 30 TN, năm C)
Suy niệm:


Khi Ðức Giêsu đưa ra kết luận:
người thu thuế được nên công chính, còn người pharisêu thì không.
những người nghe Ngài hẳn đã ngỡ ngàng, chưng hửng.
Ông pharisêu là mẫu mực trong việc giữ Luật.
Những điều xấu xa tiêu cực, ông không làm.
Những điều Luật đòi hỏi, ông còn làm hơn thế.
Lời cầu nguyện của ông heat sức tự phát và chân thành,
một lời nguyện mà nhiều người đạo đức thèm muốn.
Tại sao Thiên Chúa lại không nhìn đến ông?
Tại sao Thiên Chúa lại thương người thu thuế tội lỗi,
dù anh ta nào đã hứa bỏ cái nghề tồi tệ đó.
nào đã chịu đền bù bao nhũng lạm mình gây ra?


Tình thương của Thiên Chúa thì nghịch lý, nhưng không vô lý.
Chúng ta cần nhìn ông pharisêu cầu nguyện.
Ông đứng tách biệt với những người khác trong Ðền Thờ.
Mắt ông vẫn thấy anh thu thuế đứng tuốt phía dưới.
Chúng ta cần nghe lời ông cầu nguyện.
Ông muốn dâng lên Thiên Chúa một lời tạ ơn,
nhưng tạ ơn lại trở thành so sánh mình với người khác,
và đầy ú cái tôi tự mãn, tự hào:
tôi không như bao kẻ khác, tôi ăn chay, tôi nộp thuế...
Cái tôi của ông thật tuyệt vời, hơn hẳn người khác.
Cái tôi của ông quá ngon lành, bảo đảm,
nên ông không cần xin Chúa thêm điều gì.
Ông chỉ khoe Chúa những thành tích của ông,
hay đúng hơn ông đang ngắm mình độc thoại.
Ðời sống của ông pharisêu đầy đặn quá, tròn trịa quá
đến nỗi Thiên Chúa trở nên thừa.
Ngài chẳng tìm ra một kẽ hở nào để vào đời ông
nên Ngài chịu đứng ngoài.


Ngược lại anh thu thuế thì run rẩy xấu hổ,
chẳng dám ngước nhìn Chúa, chẳng dám lại gần tha nhân.
Anh thấy rõ các tội của mình,
và thấy mình bị kẹt cứng, tự sức không sao tháo gỡ.
Anh chỉ còn biết cậy dựa và phó thác cho Tình thương.
Người thu thuế thật là con người tội lỗi,
nhưng tội của anh đã trở nên một kẽ hở
để Thiên Chúa có thể đi vào đời anh.
Chính sự trống rỗng của anh đã thành khoảng trống cho Thiên Chúa.
Tội lỗi hay công đức
đều có thể làm ta khép lại hay mở ra.
Ðiều quan trọng là thấy mình luôn luôn cần Chúa.
Tiếc là ông pharisêu chưa nhận ra khuyết điểm của mình.
Ông về nhà mà không biết mình chẳng được Chúaưu ái.
Ông về nhà mà vẫn khép kín tự mãn như lúc lên đền.
Làm sao tôi có được sự trung tín của người pharisêu
và sự khiêm hạ của người thu thuế?
Làm sao tôi tận dụng mọi năng lực Chúa ban
mà vẫn hoàn toàn phó thác cho Chúa định liệu?
Ước gì đời tôi có nhiều kẽ hở để Chúa vào.


Cầu nguyện:


Lạy Cha, những tội chúng con phạm
vừa mang dáng dấp của tội Ađam
vừa mang dáng dấp của tội Cain.
Tội nào cũng là khép lại trên chính mình,
khước từ Thiên Chúa và quay lưng trước anh em.
Tội nào cũng là lấy mình làm trung tâm
và qui tất cả về mình.


Xin cho chúng con đừng nhìn ngắm công trạng của mình,
nhưng nhìn vào những nén bạc Cha giao
mà chúng con chưa đầu tư sinh lợi cho đủ.
Xin cho chúng con đừng tự mãn nhìn về quá khứ,
nhưng hướng đến tương lai với bao điều cần thực hiện.


Lạy Cha, xin cho chúng con đừng lấy đức hạnh của mình
làm thước đo người khác,
đừng cứng cỏi lạnh lùng khi đánh giá tha nhân.
Ước gì chúng con có quả tim như Con Cha,
hiền lành và khiêm nhượng,
để chúng con có thể mở ra đến vô cùng
trước những đòi hỏi của Cha và nhu cầu của anh em. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
27 THÁNG MƯỜI
Vinh Quang Của Việc Khiêm Tốn Phục Vụ Tha Nhân
Mối hiệp nhất do đức tin và Phép Rửa phản chiếu đặc biệt vinh quang của Thiên Chúa, vinh quang mà Thiên Chúa Cha từ đời đời đã ban cho Chúa Con, vinh quang mà Ngài đã ban cho Chúa Con trên mặt đất này, nhất là khi Ngài bị treo trên cây thập giá. Vì thế, tiếng gọi chia sẻ vinh quang này sẽ làm lan tỏa khát vọng hiệp nhất. Chúa Giêsu đã cầu nguyện cùng Chúa Cha: “Con đã ban cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho Con, để họ được nên một, như chúng ta là một” (Ga 17,22).
Vậy đâu là vinh quang mà Chúa Cha đã ban cho Chúa Con? Đó là vinh quang của việc phục vụ người khác cách khiêm tốn, vinh quang của việc thi hành thánh ý Cha trong mọi sự, vinh quang tột đỉnh nơi thái độ tự do chấp nhận cái chết trên thập giá, nơi hy tế cứu chuộc hết thảy trần gian. Vinh quang của Đức Kitô là như thế.
Đó cũng là con đường vinh quang được tiếp bước bởi các môn đệ Đức Kitô. Phương thế tuyệt hảo nhất để tôn vinh Thiên chúa là theo gương mẫu của Đức Giêsu, Đấng đã nói: “Nếu ai muốn theo Tôi, hãy bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Tôi” (Lc 9,23). Bất cứ ai tôn vinh Thiên Chúa bằng cách này đều thông dự vào sự hiệp nhất của Thiên Chúa và nên một với Ngài, như Chúa Cha và Chúa Con là một.
Hiệp nhất là một ân huệ của Thiên Chúa, Đấng duy nhất trong Ba Ngôi thần linh. Ở đâu ân sủng này được đón nhận trong đức tin, ở đó sẽ có các hoa quả của Thánh Thần: “Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà và tiết độ” (Gl 5,22). Vâng, Thiên Chúa giúp chúng ta vượt qua những chia rẽ và tái khám phá sự hiệp nhất trong Ngài. Ngài ban cho chúng ta ánh sáng chân lý và ân sủng cần thiết để chúng ta đổi mới tâm hồn. Ngài giải thoát ta khỏi sự ngu muội, khỏi lầm lạc, và khỏi tội lỗi – khỏi tất cả những nguyên do gây chia rẽ trong chính bản thân mình và trong các mối quan hệ với người khác. Chúa Thánh Thần luôn ở gần những kẻ kêu cầu Ngài. Ngài ban tặng chúng ta mối hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa và giúp chúng ta hoà giải với anh chị em mình.
– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 27/ 10
Chúa Nhật XXX thường niên
Hc 35, 15b-17.20-22a; 2Tm 4, 6-8.16-18; Lc 18, 9-14.
LỜI SUY NIỆM: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.”

          Trong tất cả mọi người chúng ta đều là người có tội, mỗi khi chúng ta đến với Chúa trong tâm tình cầu nguyện cùng Chúa với lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”, thì lời cầu nguyện này sẽ được Chúa thanh tẩy chúng ta ngay lập tức. Như lời Chúa Giêsu đã nói với người thu thuế trong đoạn Phúc Âm này: “Tôi nói cho các ông biết: người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính.” Bởi lòng thương xót của Thiên Chúa đối với chúng ta thì rất lớn.
          Lạy Chúa Giêsu, trong mọi Thánh Lễ là cơ hội để chúng con nhận được sự tha thứ của Chúa để nhận được sự bình an. Xin cho mọi thành viên trong gia đình chúng con luôn biết thu xếp mọi công việc trong ngày, để đến tham dự thánh lễ hằng ngày, để nhận được ơn tha thứ của Chúa đem lại sự bình an cho bản thân và gia đình.
Mạnh Phương


27 Tháng Mười
Bất Ngờ
Như một chuyện khó tin mà có thật: đó là chuyện của một chàng thanh niên Tây Ðức một mình lái chiếc Cessna cánh quạt nhỏ, vượt qua hành lang 400 dặm trên lãnh thổ Liên Xô, rồi an toàn đáp xuống Quảng Trường Ðỏ, gần điện Cẩm Linh… Trước khi đáp xuống vào lúc 7 giờ tối, phi cơ còn lượn 3 vòng chung quanh mộ của chủ tịch Lênin.
Người thanh niên Tây Ðức tên là Matthias Rust này đã điềm tĩnh bước ra khỏi phi cơ, ký sổ lưu niệm cho một số khách hiếu kỳ và khâm phục. Sau đó, công an Liên Xô đã đến tóm cổ anh đưa đi mất.
Trong suốt một cuộc hành trình dài, anh chỉ bị phi cơ tuần thám của Liên Xô theo dõi mà không làm cản trở. Có thể họ cho phi cơ của anh định làm chuyện kỳ lạ khác người cho nên không bắt anh đáp xuống nửa đường. Phi cơ lại bay rất thấp cho nên đã tránh được sự kiểm soát của các dàn Radar. Dù sao đây cũng là một chuyện khó tin chưa từng xảy ra trên một lãnh thổ có một hệ thống phòng thủ chặt chẽ như Liên Xô.
Sự thành công của chiếc phi cơ nhỏ này đã khiến cho nhà cầm quyền Liên Xô e ngại và giật mình về sự phòng thủ sơ sót của mình. Sau một cuộc họp khẩn cấp của Bộ Chính Trị, Tổng Trưởng Quốc Phòng và Bộ Trưởng Không Quân đã bị cách chức. Trong khi đó thì chủ tịch Gorbachov lại nói một câu khôi hài như sau: “Chúng ta phải cám ơn anh chàng Tây Ðức này vì nhờ có anh ta mà chúng ta mới cải tổ hệ thống phòng thủ của chúng ta chặt chẽ và cẩn thận hơn”.
Nhiều người đã xem lời phát biểu trên đây phản ánh tinh thần phục thiện và cởi mở của chủ tịch Gorbachov.
Sự thành công của chàng thanh niên Matthias Rust khi đáp xuống Quảng trường Ðỏ có thể được xem như một tai nạn trong hệ thống phòng thủ của Liên Xô.
Tai nạn là một bất ngờ mà con người không bao giờ lường trước được… Không ai học được chữ ngờ trong cuộc sống. Có một cái gì đó luôn ở ngoài tầm tay, ở ngoài khả năng của con người. Bài học thông thường nhất mà ai cũng có thể học được từ một tai nạn: đó là không ai làm chủ được chính sự sống của mình.
Người Kitô luôn được mời gọi để tìm ra ý nghĩa của các biến cố. Biến cố nào xảy đến trong cuộc sống cũng là một lời ngỏ của Thiên Chúa đối với con người. Ngài nhắc nhở cho con người biết rằng Chủ Tế của sự sống chính là Ngài. Ngài kêu mời con người luôn sẵn sàng để đến với Ngài trong cuộc gặp gỡ tối hậu. Ngài cho con người thấy những giới hạn của mình để biết hướng về Ngài với tất cả tin tưởng phó thác.
(Lẽ Sống)



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét