19/01/2020
Chúa Nhật 2 Thường Niên năm A.
(phần I)
Giới Thiệu Ngày Chúa Nhật
Thật
sự không có mùa Thường niên, mà chỉ có những ngày Chúa nhật với những tuần lễ
"thường", tức là không quy về một lễ lớn nào. Ngày xưa, người ta gọi
đó là những Chúa nhật và tuần lễ sau Hiển linh hay sau Hiện xuống. Ngày nay
chúng ta muốn gọi vắn tắt là Mùa Thường Niên; nhưng không ổn lắm vì có cả một
Mùa Chay và một Mùa Phục sinh khá dài nằm trong thời gian đó và chia nó thành
hai khúc không cân đối. Do đó, tốt hơn nên đơn sơ dùng từ ngữ: các Chúa nhật và
các tuần lễ "thường". Và để mở đầu, nên tìm hiểu ý nghĩa phụng vụ của
các ngày Chúa nhật này.
Các
sách Tin Mừng thuật lại: vào ngày thứ Nhất trong tuần, Chúa Yêsu đã sống lại.
Người hiện ra với một số phụ nữ, rồi với Phêrô. Người cũng đến đi đường với hai
môn đệ tới Emmau, khiến hai ông đã nhận ra Người khi Người bẻ bánh. Và cũng
chính hôm đó, Người hiện ra với các Tông đồ, ăn với họ và tuyên bố: Như Cha đã
sai Ta, Ta cũng sai các con. Rồi Người thổi hơi vào họ và nói: Các con hãy nhận
lấy Chúa Thánh Thần. Các con tha tội cho ai, người ấy sẽ được tha.
Bằng
ấy sự kiện đã xảy đến trong ngày thứ Nhất trong tuần và toàn là những sự kiện đầy
ý nghĩa trong Lịch sử cứu độ: Chúa sống lại; Người hiện ra; Người dùng bữa với
các Tông đồ, ban Thánh Thần tha tội và sai họ đi truyền giáo. Thành ra, chẳng
ai lạ gì khi thấy tám ngày sau các môn đệ lại họp nhau. Và Chúa lại đến. Người
cho Thôma xem các vết thương tử nạn của Người và biến ông thành con người được
đức tin.
Từ
đó cứ tám ngày sau, tức là vào ngày thứ Nhất trong tuần, các môn đệ lại hội họp.
Chúa không hiện đến nữa, vì không cần thiết nữa. Người đã ở giữa họ rồi, vì
chính Người đã phán: Khi nào hai, ba anh em họp nhau cầu nguyện, thì Người sẽ ở
giữa; và Người ở với các môn đệ hàng ngày cho đến tận thế. Nhất là lễ nghi bẻ
Bánh khi cộng đoàn hội họp nhau cho phép họ có Mình và Máu Người ở trong tay và
trong lòng mọi người. Họ trở thành những con người tin tưởng mãnh liệt hơn và
muốn sống xứng đáng hơn với đức tin của mình.
Thói
quen hội họp như vậy đã trở thành thông lệ. Nhiều chỉ dẫn trong Tân Ước cho thấy
các cộng đoàn tín hữu vẫn cử hành ngày thứ Nhất trong tuần: 1C 16,2; Cv
20,6-12. Nhiều tài liệu giáo phụ cũng làm chứng như thế: xem thư thánh Ignaxiô
thành Antiokia (+107) gửi tín hữu Magnêsia; xem sách Minh giáo của thánh
Yustinô (+165). Thư của Pline le Jeune gửi hoàng đế Trajan cũng khẳng định: người
Kitô hữu có thói quen hội họp ca hát vào "ngày nhất định", mà ai cũng
hiểu là ngày Chúa nhật. Nhưng cảm động hơn cả là lời chứng của các Tử đạo ở
Tunisie. Ngày 12.2.304, có 31 đàn ông và 18 phụ nữ đã bị bắt vì tụ họp bất hợp
pháp. Họ đều khẳng định: "Chúng tôi có luật phải cử hành Ngày của Chúa...
Chúng tôi không thể sống mà không cử hành Ngày của Chúa...".
Như
vậy cùng với thói quen hội họp, danh từ "Ngày của Chúa" dần dần đã được
thông dụng để gọi ngày thứ Nhất trong tuần, hay là ngày thứ tám sau ngày thứ Nhất.
Ngày nay chúng ta gọi: "Ngày Chúa nhật" là vì lẽ đó. Tuy nhiên cần phải
nhớ, chữ "Chúa" ở đây không nói về "Thiên Chúa" nhưng về
Chúa Yêsu, Ðấng đã sống lại, tập họp chúng ta, ban cho chúng ta Thánh Thần tha
tội và sai ta đi đem Tin Mừng khắp thế gian, trong ngày đó. Nhưng trong nhiều
thứ tiếng (Anh, Ðức) danh từ gọi tên Ngày Chúa nhật không gợi lên ý tưởng về
Chúa (Sunday, Sonntag), mà về mặt trời; vì lẽ hoàng đế Constantinô tán thành và
cổ võ cả hai thứ tôn thờ: Chúa Kitô và Mặt Trời. Và ông ra lệnh nghỉ "việc"
trong ngày ấy.
Từ
đó, ngày Chúa nhật không những trở thành lẽ sống của người tín hữu, mà còn ảnh
hưởng tới sinh hoạt của người ngoài Giáo hội. Các Công đồng trong những thế kỷ
tiếp đã ấn định luật dự lễ và nghỉ việc trong ngày Chúa nhật, nhưng chẳng thêm
yếu tố thần học nào hơn những điều chúng ta đã nói ở trên.
Việc
cử hành ngày Chúa nhật rõ ràng đã đưa Giáo hội Chúa Kitô ra khỏi phụng vụ
Dothái giáo; và việc giáo dân hội họp ngày Chúa nhật đã khiến họ biệt lập với cộng
đồng cử hành ngày Sabat. Nhất là đang khi đạo cũ nhấn mạnh đến sự nghỉ việc
trong ngày Sabat, thì Ðạo Mới trong ngày Chúa nhật lại tập trung cố gắng vào việc
cử hành mầu nhiệm Tử nạn - Phục sinh.
Thế
nên ngày đó thật là Ngày Chúa nhật, tức là ngày của Chúa Kitô, ngày Người sống
lại hiện diện ở giữa các môn đệ để chuyển biến họ thành tín hữu hoàn toàn hơn
khi cho họ xem các vết thương vinh hiển của Người và ban cho họ được Thánh Thần
để tha tội và truyền giáo.
Ngày
Chúa nhật vừa là ngày thứ Nhất vừa là ngày thứ tám trong tuần. Cả hai lối gọi đều
đúng; nhưng ý nghĩa hơi khác nhau. Ngày thứ Nhất gợi lên ý tưởng khởi nguyên của
nếp sống mới; còn ngày thứ Tám nói lên ý nghĩa trở lại của sự sống đời đời:
chúng ta cử hành ngày đó cho đến khi Chúa trở lại. Nhưng dù được gọi bằng danh
từ nào, Ngày Chúa Nhật vẫn là ngày kính nhớ mầu nhiệm Phục sinh, trong niềm
trông đợi việc Chúa trở lại, nhờ việc cử hành mầu nhiệm hiện diện Bí Tích của
Người trong Thánh Thể. Ba chủ đề đó phải được nổi bật trong phụng vụ Thánh Lễ
Chúa Nhật của ta. Và ta hãy cử hành các nghi thức đặc biệt của Phụng vụ Chúa nhật
cho ý nghĩa:
*
Trước hết việc rảy nước Thánh nhắc nhở và làm sống lại ơn thánh tẩy mà mọi tín
hữu đã lãnh nhận trong niềm tin mầu nhiệm Tử nạn - Phục sinh của Chúa. Ðó là cửa
mở đưa chúng ta vào Nhà Chúa. Hơn thế nữa, đó là ơn tái sinh chúng ta thành tạo
vật mới, trở nên con cái Chúa và được sát nhập vào cơ thể Ðức Kitô là Ðền thờ của
Ðạo Mới để chúng ta có thể dâng lễ.
*
Bài giảng lễ có tính cách bó buộc để cả chủ tế lẫn cộng đồng tín hữu suy nghĩ về
Lời Chúa vừa nghe đọc, để Lời ở miệng Chúa phán ra nuôi sống con người và đưa mọi
người đến việc đón nhận Ngôi Lời trở thành Thịt Máu.
*
Lời nguyện giáo dân phải diễn tả được cảm nghĩ và ước vọng của Dân Chúa, để qua
lời phát biểu, người ta có thể thấy cộng đoàn đang thao thức những gì; và như vậy
sẽ lôi kéo mọi người vào một sự hiệp thông cụ thể.
*
Việc quyên tiền trong thánh lễ khó đạt được mục đích chia sẻ bác ái hữu hiệu của
nó, vì sự đóng góp thường không đáng kể so với yêu cầu của sinh hoạt cộng đoàn.
Tuy nhiên nó vẫn phải giữ nguyên vẹn ý nghĩa thiêng liêng cao cả mà Chúa đã nói
lên khi đáng giá việc người góa phụ bỏ đồng tiền nhỏ vào hòm tiền cúng: người ấy
muốn dâng mạng sống mình cho Chúa. Và chỉ có thái độ ấy mới khiến ta xứng đáng
cử hành mầu nhiệm Chúa ban Thịt Máu Người cho ta.
Tất
nhiên, những việc trên không quan trọng nhất trong phụng vụ ngày Chúa nhật,
nhưng là những việc mà chúng ta thường chỉ làm trong ngày đó và chúng ta hãy
thánh hóa tối đa mọi việc chúng ta làm.
Ước
gì việc nhắc lại lịch sử và nội dung thần học của ngày Chúa nhật cũng như ý
nghĩa những việc trên đây giúp chúng ta quan tâm sống phụng vụ các ngày Chúa nhật
nhiều hơn, để những ngày đó trở thành những ngày của Chúa thật sự, tức là thật
sự ban Ðức Kitô phục sinh cho chúng ta. Chúng ta sẽ được như các Tông đồ: tiếp
xúc với Chúa sống lại đức tin của họ cũng đã sống lại; họ được lãnh nhận Thánh
Thần và ra đi làm chứng cho Tin Mừng cứu độ, tạo nên những nếp sống mới và những
xã hội mới.
(theo
Cố GM.Bart.Nguyễn Sơn Lâm)
BÀI ĐỌC I: Is 49, 3.
5-6
“Ta đặt ngươi như ánh sáng các
dân tộc, để ngươi nên ơn cứu độ của Ta”.
Trích sách Tiên tri
Isaia.
Chúa đã phán cùng tôi:
“Hỡi Israel, ngươi là tôi tớ Ta, vì Ta được vinh danh nơi ngươi”.
Và bây giờ, Chúa phán,
Người đã huấn luyện tôi khi tôi còn trong lòng mẹ, để tôi trở nên tôi tớ Người,
để đem Giacóp về cho Người, và quy tụ Israel quanh Người. Tôi được ca tụng trước
mắt Chúa và Thiên Chúa là sức mạnh của tôi. Người đã phán: “Làm tôi tớ Ta chẳng
có là bao, để tái lập các chi họ Giacóp, để dẫn đưa các người Israel sống sót
trở về; này đây Ta đặt ngươi như ánh sáng các dân tộc để ơn cứu độ của Ta tràn
lan khắp địa cầu”. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 39, 2 và
4ab. 7-8a. 8b-9. 10
Đáp: Lạy Chúa, này
con xin đến để thực thi ý Chúa (c. 8a và 9a).
Xướng: 1) Con đã cậy
trông, con đã cậy trông ở Chúa, Ngài đã nghiêng mình về bên con, và Ngài đã
nghe tiếng con kêu cầu. Ngài đã đặt trong miệng con một bài ca mới, bài ca mừng
Thiên Chúa chúng ta. – Đáp.
2) Hy sinh và lễ vật
thì Chúa chẳng ưng, nhưng Ngài đã mở rộng tai con. Chúa không đòi hỏi lễ toàn
thiêu và lễ đền tội, bấy giờ con đã thưa: “Này con xin đến”. – Đáp.
3) Như trong quyển
vàng đã chép về con: lạy Chúa, con sung sướng thực thi ý Chúa, và pháp luật
Chúa ghi tận đáy lòng con. – Đáp.
4) Con đã loan truyền
đức công minh Chúa trong Đại Hội, thực con đã chẳng ngậm môi, lạy Chúa, Chúa biết
rồi. – Đáp.
BÀI ĐỌC II: 1 Cr 1, 1-3
“Nguyện cho anh em được ân sủng
và bình an của Thiên Chúa, Cha chúng ta”.
Khởi đầu thư thứ I
của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Cô-rintô.
Phaolô, do thánh ý
Chúa, được kêu gọi làm Tông đồ của Chúa Giêsu Kitô, và Sôtênê, anh em chúng
tôi, kính chào Hội Thánh Chúa ở Côrintô, những người được thánh hoá trong Chúa
Giêsu Kitô, được kêu gọi nên thánh, làm một với tất cả mọi người khắp nơi đang
kêu cầu thánh danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta: Nguyện chúc cho anh em được
ân sủng và bình an của Thiên Chúa Cha chúng ta, và của Chúa Giêsu Kitô. Đó là lời
Chúa.
ALLELUIA: 1 Sm 3, 9
Alleluia, alleluia!
– Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe, Chúa có lời ban sự
sống đời đời. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Ga 1, 29-34
“Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng
xoá tội trần gian”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, ông Gioan thấy
Chúa Giêsu tiến về phía mình liền nói: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội
trần gian. Này tôi đã nói về Ngài: Một người đến sau tôi, nhưng đã có trước
tôi, vì Ngài cao trọng hơn tôi. Và tôi, tôi đã không biết Ngài, nhưng để Ngài
được tỏ mình ra với Israel, nên tôi đã đến làm phép rửa trong nước”. Và Gioan
đã làm chứng rằng: “Tôi đã thấy Thánh Thần như chim bồ câu từ trời đáp xuống và
ngự trên Ngài. Về phần tôi, tôi đã không biết Ngài. Nhưng Đấng sai tôi làm phép
rửa trong nước phán bảo tôi: ‘Ngươi thấy Thánh Thần ngự xuống trên ai, thì đó
chính là Đấng làm phép rửa trong Chúa Thánh Thần’. Tôi đã thấy và tôi làm chứng:
chính Ngài là Con Thiên Chúa”. Đó là lời Chúa.
Suy Niệm: Người Tôi Tớ của Yavê
Ba bài Kinh Thánh hôm nay cho phép ta gọi tên Chúa Nhật này là
"Chúa Nhật Người Tôi Tớ". Không những bài sách Isaia rõ ràng nói đến
Người Tôi Tớ của Chúa; mà cả bài Tin Mừng Yoan cũng chỉ rõ nghĩa khi hiểu Ðức
Kitô theo các bản văn Cựu Ước nói về Người Tôi Tớ. Và cuối cùng, mấy câu mở đầu
thư I gửi người Côrinthô sẽ phong phú nếu chúng ta hiểu mình cũng là những người
được ơn gọi trở nên tôi tớ trung thành của Chúa.
Vậy chúng ta hãy suy nghĩ về chủ đề Người Tôi Tớ nơi Cựu Ước, nơi Ðức Kitô
và nơi mỗi người chúng ta.
A. Nơi Cựu Ước
Isaia không phải là tác giả duy nhất nói đến Người Tôi Tớ của Ðức Yavê.
Nhiều sách khác trong Cựu Ước, đã gọi Môsê, Ðavít, các tiên tri và nhiều người
khác là Tôi tớ của Thiên Chúa. Nhưng trong sách Isaia phần II (gồm các chương
40-55) có bốn đoạn đặc biệt nói về Người Tôi Tớ (42,1-7; 49,1-9; 50,4-9;
52,13-53,12). Ðó là bốn Bài ca về Người Tôi tớ, mà chúng ta chỉ có thể hiểu được
khi đọc trong bối cảnh của cả phần II của sách ấy.
Trước hết chúng ta nên biết, ngày nay không còn mấy ai nghĩ rằng Isaia
là tác giả của những chương sách này. Các nhà chú giải nhất trí bảo đó là tác
phẩm của một tác giả khác. Ông cũng là tiên tri, sống vào khoảng cuối thời lưu
vong, tức là vào hạ bán thế kỷ VI trước Công nguyên. Ông tuyên cáo Lời Chúa về
vận mạng của Dân. Ngài sẽ ra tay cứu độ. Dân sẽ được giải phóng như hồi ở Aicập.
Và còn hơn cả thời bấy giờ nữa. Ngài sẽ dùng sứ mạng của một Người Tôi Tớ. Ai
là con người này?
Chính tác giả cũng không rõ ràng. Câu đầu tiên trong bài hôm nay nói,
Người Tôi Tớ sẽ là cả dân Israel; nhưng trong những câu sau, người ấy lại là một
cá nhân đặc biệt nào đó. Ý thực của tác giả muốn gì? Ðối với ông, Israel vẫn là
Người Tôi Tớ của Thiên Chúa. Người đã chọn dân làm sở hữu, gọi họ là Dân của
Người, không những để chia sẻ tình thân mật với Dân, mà còn mạc khải kế hoạch cứu
độ của Người cho Dân, để họ trở thành Người Tôi Tớ tín cẩn thực hiện kế hoạch
đó cho Người.
Nhưng sứ mạng giao cho toàn dân, Người lại muốn thể hiện nơi và qua một
số ít, gọi là "số sót của Israel", và cuối cùng, nơi và qua Một Con
Người tiêu biểu. Chỉ người này đáng gọi tên là "Người Tôi Tớ của Ðức
Yavê".
Tất nhiên chẳng ai trong Cựu Ước đã thực hiện được sứ mạng như
"Isaia" mô tả, vì chẳng ai "đã đem được Yacob về cho Chúa và quy
tụ được Israel lại quanh Người". Còn nói gì đến việc "trở thành ánh
sáng các dân tộc và trở nên cứu độ của Thiên Chúa đến tận cùng trái đất".
B. Nơi Ðức Yêsu Kitô
Thế nên thật là ý nghĩa, việc phụng vụ dùng bài tiên tri Isaia này để đọc
trong thánh lễ hôm nay. Lập tức chúng ta đã hiểu: Người Tôi tớ làm vinh danh
Thiên Chúa, được Người hình thành ngay từ trong lòng mẹ, để trở nên ánh sáng cứu
độ muôn dân, chính là Ðức Yêsu Kitô, Chúa chúng ta, Ðấng mà chúng ta đã thấy
sinh ra trong mùa phụng vụ trước đây và sẽ thấy Người cứu thế trong mùa Chay và
Phục sinh. Mùa này, Người đang ở giữa chúng ta, nhưng chưa được nhiều người biết.
Phụng vụ qua bài sách Tiên tri Isaia muốn giới thiệu Người là Người Tôi Tớ đích
thực của Ðức Yavê để chúng ta vui mừng vì ơn cứu độ đã gần. Nhưng chính bài Tin
Mừng mới thật sự làm chứng điều đó.
Thật ra thì Yoan Tẩy giả đã không trực tiếp giới thiệu Ðức Yêsu là Người
Tôi Tớ. Ông nói Người là "Chiên của Thiên Chúa, Ðấng xóa tội trần
gian". Mặc dầu hình ảnh con chiên có thể gợi ngay đến ý tưởng về chiên vượt
qua, chiên tế vật, nhưng liền sau đó, Yoan đã nói đến Ðấng xóa tội trần gian, Ðấng
đến sau ông nhưng lại có trước ông và cao trọng hơn ông, nhất là Ðấng ấy lại được
xức dầu bằng Thánh Thần... khiến chúng ta phải hiểu Yoan đã mượn lại mọi tư tưởng
trong sách Isaia về Người Tôi Tớ.
Isaia, trong đoạn 53, tức là ở Bài ca IV về Người Tôi Tớ đã vẽ ra hình ảnh
con người bị khinh khi, phế bỏ, vì đã mang lấy các bệnh tật của chúng ta; người
bị tra tấn, nhưng không hề mở miệng như cừu bị dẫn đến lò sát sinh, như chiên mẹ
ngậm câm, để nhờ các vết hằn người chịu, chúng ta được chữa lành; người đã mang
lấy tội lỗi nhiều người và đứng ra bầu chữa cho những kẻ ngỗ nghịch.
Trước đó, trong Bài ca I, Isaia đã viết: "Này đây Tôi Tớ của Ta,
Người Ta đã chọn và hồn Ta sủng mộ, Ta đã ban Thần Trí trên Người". Và đó
là điều Yoan muốn gợi đến khi ông tuyên chứng đã nhìn thấy Thánh Thần lấy hình
bồ câu đậu xuống trên đầu Ðức Yêsu.
Yoan đã nhìn thấy nơi Ðức Kitô hình ảnh Người Tôi Tớ trong sách Isaia. Bề
ngoài, Người có vẻ thua kém ông, khi đến xin ông làm phép rửa cho mình. Nhưng
khi Yoan thấy Thánh Thần xuống trên Người, ông biết ngay, đây là Ðấng mà mình
có sứ mạng đi trước dọn đường như một người đầy tớ. Chính Người là Ðấng cao trọng,
Ðấng mà Thánh Thần xuống ngự ở trên, nhưng bề ngoài rất khiêm nhu, đúng là Người
Tôi Tớ mà sách Isaia đã tiên báo. Và phép rửa mà Người mới chịu là hình ảnh về
cuộc khổ nạn mà Người Tôi Tớ phải chịu để đưa nhà Israel về với Chúa và đem ơn
cứu độ của Chúa đến tận cùng trái đất. Yoan đã thấy như vậy và ông tuyên chứng
để chúng ta hết thảy tin Ðức Yêsu Kitô thật là Người Tôi Tớ và là Người Tôi Tớ
đau khổ của Thiên Chúa. Người đã đến thế gian, đóng vai trò Người Tôi Tớ để,
như lời sách Isaia viết, Người giải án tuyên công cho nhiều người, hầu ý định của
Thiên Chúa được nên trọn. Thế nên, sau khi đã tin Người là Người Tôi Tớ của
Thiên Chúa, chúng ta còn phải xem Người chấp nhận sứ mạng ấy để làm gì? Và câu
trả lời, chúng ta đã gặp thấy trong bài thư Phaolô hôm nay nói về chúng ta.
C. Nơi Chúng Ta
Thánh Phaolô ý thức: ngài được gọi là Tông đồ của Ðức Yêsu Kitô, do
thánh ý của Thiên Chúa. Ðồng thời ngài khẳng định: chúng ta và mọi người kêu cầu
Danh Chúa Yêsu Kitô cũng được gọi để nên thánh, hầu mọi người đều được ân sủng
và bình an của Thiên Chúa Cha và của Ðức Yêsu Kitô.
Chúng ta không thể không cảm thấy lòng hân hoan của thánh Phaolô khi viết
những dòng thư này. Ngài thấy rõ Thiên Chúa thật tốt lành. Người có cả một ý định
thánh thiện, đầy yêu thương đối với mọi người. Ý định đó, Người đã nhờ Ðức Yêsu
Kitô thực hiện, như trên ta đã nói và như bài thư Phaolô đây khẳng định. Chính
nhờ Ðức Yêsu Kitô và trong Ðức Yêsu Kitô mà chúng ta hết thảy được gọi nên
thánh thiện và làm tông đồ, để mọi người được ân sủng và bình an của Thiên
Chúa. Tức là mọi người chúng ta cũng được gọi đi vào trong sứ mạng của Ðức Yêsu
Kitô, để tham dự, chia sẻ và tiếp nối sứ mạng ấy.
Khi đáp lại tiếng Người kêu gọi mà chạy đến kêu cầu Danh Người, mọi tội
lỗi của ta sẽ được chính đôi vai Người gánh lấy. Người là Người Tôi Tớ đau khổ,
là Chiên của Thiên Chúa xóa tội trần gian: Người làm cho chúng ta nên thánh thiện,
để chúng ta được giao hòa với Thiên Chúa, và như vậy Người đưa nhà Yacob trở về
và quy tụ nhà Israel về với Chúa.
Khi ấy chúng ta sẽ được thừa tự sản nghiệp Lời Hứa, được trao ban sứ mạng
của Dân được chọn. Và như trên đã nói, đó là sứ mạng trở thành người tôi tớ
thân tín để thực hiện chương trình tốt đẹp của Thiên Chúa, tức là trở nên ánh
sáng muôn dân, đem ơn cứu độ đến tận cùng trái đất, trở thành tông đồ của Ðức
Yêsu Kitô cũng là trở thành Người Tôi Tớ của Thiên Chúa vậy.
Chúng ta hãy tạ ơn Thiên Chúa vì kế hoạch đầy tình thương của Người. Người
đã ban Ðức Yêsu Kitô cho ta để làm Người Tôi Tớ thực hiện kế hoạch ấy. Và Ðức
Yêsu Kitô giờ đây trong thánh lễ này lại tha thiết kêu gọi mọi người chúng ta
quy tụ vào Thân Thể mầu nhiệm Người, để Người sai ta đem ân sủng và bình an đi,
tiếp nối sứ mạng của Người Tôi Tớ. Dĩ nhiên muốn thực hiện sứ mạng này, chúng
ta phải giơ vai ra gánh lấy hết mọi khổ đau nhọc nhằn của đồng bào. Thế mà nhiều
người còn từ chối chung vai gánh vác những nghĩa vụ hiện này với đồng bào. Họ sợ
nặng ư? Nhưng chính Chúa đã nói: gánh của Chúa vừa nhẹ vừa êm, bởi vì Thánh Thể
Chúa luôn sẵn sàng bổ sức cho những ai yếu nhọc. Thế thì chúng ta hãy sốt sắng
cử hành mầu nhiệm Thánh Thể này để có sức mạnh thực hiện sứ mạng của Người Tôi
Tớ.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật 2 Thường Niên, Năm A
Bài đọc: Isa
49:3, 5-6; 1 Cor 1:1-3; Jn 1:29-34.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Các chứng nhân của Đức Kitô
Chúng ta đang ở trong giai đoạn đầu của cuộc hành trình
rao giảng của Đức Kitô, bắt đầu từ biến cố Gioan làm phép rửa cho Ngài tại sông
Jordan. Để giúp cho dân chúng nhận ra và tin vào Đức Kitô là Con Thiên Chúa, là
Đấng Thiên Sai, Ngài cần nhiều nhân chứng. Nhân chứng quan trọng nhất là Thiên
Chúa, và dân chúng đã được nghe tiếng Thiên Chúa làm chứng cho Đức Kitô vọng xuống
từ trời: “Đây là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng. Các ngươi hãy nghe lời
Người.”
Các bài đọc hôm nay tiếp tục đưa ra các chứng nhân của Đức
Kitô. Trong bài đọc I, lời ngôn sứ Isaiah thuật lại chính Thiên Chúa làm chứng
cho Con của Người là người Tôi Trung. Sứ vụ của Ngài không chỉ là đưa những người
Do-thái trở về, mà còn trở nên ánh sáng của muôn dân để đưa ơn cứu độ của Thiên
Chúa đến tận cùng trái đất. Trong bài đọc II, thánh Phaolô, mặc dù sống sau thời
đại của Đức Kitô, cũng làm chứng cho Đức Kitô bằng những lời giảng dạy của ngài
dành cho các tín hữu thành Corintô. Trong Phúc Âm, Gioan Tẩy Giả làm chứng cho
Đức Kitô bằng cách chỉ thẳng vào Ngài và giới thiệu với mọi người: “Đây là
Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian.” Lý do tại sao Gioan có thể
xác tín như thế là nhờ Thánh Thần soi sáng và thúc đẩy ông nhận ra sự thật về Đức
Kitô và sứ vụ của Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Bài ca thứ hai về người Tôi Trung của Thiên Chúa
1.1/ Người Tôi Trung của
Thiên Chúa: Trong Sách Isaiah Thứ, có tất cả
4 bài ca nói về người Tôi Trung (42:1-4; 49:1-6; 50:4-9; 52:13-53:12). Nhưng ai
là người Tôi Trung mà ngôn sứ Isaiah nhắm tới trong các bài ca này? Có 3 ý kiến
khác nhau:
(1) Có người cho dân tộc Israel như một tập thể là người Tôi Trung: Ý kiến này
dựa vào lời Thiên Chúa phán trong câu 3 của trình thuật hôm nay: “Hỡi Israel,
ngươi là tôi trung của Ta.
Ta sẽ dùng ngươi để biểu lộ vinh quang.” Ý kiến này không xác đáng cho lắm, vì những câu sau của trình thuật hôm nay và của 3 bài ca khác về người Tôi Trung đều ám chỉ người Tôi Trung là một cá nhân, chứ không phải là một tập thể như dân tộc Israel.
Ta sẽ dùng ngươi để biểu lộ vinh quang.” Ý kiến này không xác đáng cho lắm, vì những câu sau của trình thuật hôm nay và của 3 bài ca khác về người Tôi Trung đều ám chỉ người Tôi Trung là một cá nhân, chứ không phải là một tập thể như dân tộc Israel.
(2) Có người cho là vua Cyrô của Ba-tư: Lý do vì Vua này đã làm theo thánh ý
Thiên Chúa, bằng cách đồng ý phóng thích cho dân tộc Israel được về dựng lại quê
hương từ đất nô lệ. Ý kiến này cũng không đúng, vì sứ vụ của người Tôi Trung
không phải chỉ dẫn đưa những người Israel sống sót trở về; nhưng còn được đặt
làm ánh sáng muôn dân, để đem ơn cứu độ của Thiên Chúa đến tận cùng trái đất.
(3) Có người cho Đấng Thiên Sai là người Tôi Trung: Ý kiến này được chấp nhận
nhiều hơn cả, vì người Tôi Trung phải là một cá nhân đến từ Thiên Chúa, có thân
xác để chịu đau khổ và gánh tội cho nhân loại. Chính vì những đau khổ này mà
người Tôi Trung có thể gánh tội và mang ơn cứu độ của Thiên Chúa cho mọi người,
Do-thái cũng như Dân Ngoại.
1.2/ Nguồn gốc và sứ vụ của
người Tôi Trung.
(1) Nguồn gốc: Chính người Tôi Trung chứng thực mình đến từ Thiên Chúa bằng những
lời như sau: “Giờ đây Đức Chúa lại lên tiếng. Người là Đấng nhào nặn ra tôi từ
khi tôi còn trong lòng mẹ để tôi trở thành người Tôi Trung.”
(2) Sứ vụ: của người Tôi Trung không chỉ “đem nhà Giacóp về cho Người và quy tụ
dân Israel chung quanh Người;” nhưng còn được Thiên Chúa đặt “làm ánh sáng muôn
dân, để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất.”
2/ Bài đọc II: Phaolô chứng thực: ông được trở thành tông đồ của Đức Kitô
là do ý định của Thiên Chúa.
2.1/ Phaolô được tuyển chọn
để làm tông đồ của Đức Kitô: Để hiểu rõ những
lời chứng của Phaolô, chúng ta cần trở lại biến cố quan trọng nhất trong cuộc đời
của ông là biến cố ông bị ngã ngựa và bị mù trên đường đi Damascus để truy nã
những người tin vào Đức Kitô. Trước biến cố này, Phaolô đã không biết Đức Kitô.
Nhưng Đức Kitô đã thân hành hiện ra với Phaolô để tỏ vinh quang phục sinh của
Ngài cho ông, và xác nhận ông chính là Người mà ông đang truy nã. Sau đó, Đức
Kitô đã dùng tay thầy Thượng Tế Hannaniah để chữa ông khỏi mù phần xác. Ngài đã
dạy dỗ ông suốt 3 năm trong sa mạc hoang dã vùng Arabia để cho ông thấu hiểu
các Mầu Nhiệm Nước Trời trước khi chọn ông làm tông đồ và trao sứ vụ đặc biệt
cho ông là ra đi rao giảng Tin Mừng đặc biệt cho Dân Ngoại. Ông xác tín với các
tín hữu thành Corintô về ơn gọi và sứ vụ của mình: “Tôi là Phaolô, bởi ý Thiên
Chúa được gọi làm Tông Đồ của Đức Giêsu Kitô.”
2.2/ Mục đích của ơn gọi
làm Tông Đồ và sứ vụ làm chứng là để mọi người nhận ra và tin vào Đức Kitô. Ngài không chọn Phaolô làm tông đồ như ban một chức tước,
để Phaolô được kính trọng và được nở mặt nở mày với các tín hữu. Ngài cũng
không dạy dỗ cho Phaolô biết về Ngài để chỉ giúp cho bản thân của Phaolô được
hưởng ơn cứu độ. Trái lại, Đức Kitô đã trao cho ông một sứ vụ và sai ông ra đi
để rao giảng và làm chứng làm cho các dân được biết và tin tưởng vào Ngài, để tất
cả đều được hưởng ơn cứu độ.
Phaolô đã hăng say ra đi để rao giảng và làm chứng cho Đức Kitô. Ông đã thành lập
nhiều cộng đoàn, trong đó có các tín hữu tại Corintô sau khi đã giúp họ tin nhận
vào Đức Kitô. Ông đã viết nhiều Thư đến an ủi và giải thích những khó khăn về
niềm tin mà họ gặp phải. Ông tôn trọng các tín hữu như các thánh, và dạy họ phải
tôn trọng nhau và tôn trọng mọi thành phần của Dân Chúa: “Kính gửi Hội Thánh của
Thiên Chúa ở Côrintô, những người đã được hiến thánh trong Đức Giêsu Kitô, được
kêu gọi làm dân thánh, cùng với tất cả những ai ở bất cứ nơi nào kêu cầu danh
Chúa của chúng ta, Đức Giêsu Kitô, là Chúa của họ và của chúng ta.”
3/ Phúc Âm: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian.”
Đây là lời tuyên xưng mà chúng ta chỉ gặp thấy trong Tin Mừng Thứ Tư, và danh
xưng Con Chiên chúng ta chỉ được nghe ở đây và trong Sách Khải Huyền. Giáo Hội
dùng lời tuyên xưng này trong Phụng Vụ Thánh Lễ để chuẩn bị tâm hồn cho các tín
hữu trước khi lãnh nhận Mình Thánh Chúa.
3.1/ Ý nghĩa của lời
tuyên xưng: Gioan mặc khải cho dân chúng hai
điều quan trọng trong lời tuyên xưng này về Đức Kitô.
(1) Ngài là Con Chiên của Thiên Chúa dùng để cứu chuộc con người: Tại sao Gioan
gọi Chúa Giêsu là Con Chiên? Danh từ “Con Chiên” có căn bản lịch sử là con
chiên Vượt Qua mà người Do-thái dùng để sát tế và lấy máu bôi trên cửa nhà của
họ. Mục đích là để sứ thần của Thiên Chúa khi đi tiêu diệt các con và thú vật đầu
lòng của người Ai-cập, nếu họ thấy máu, họ sẽ không vào nhà và sát hại các con
đầu lòng của người Do-thái trong biến cố Vượt Qua.
Gioan giới thiệu Chúa Giêsu là Chiên Thiên Chúa, vì Ngài cũng sẽ đổ máu ra để
chuộc tội cho tất cả mọi người. Trong Tin Mừng Gioan, con chiên Vượt Qua có một
ý nghĩa quan trọng, vì ngày và giờ Chúa Giêsu bị sát tế cũng là ngày và giờ mà
người Do-thái sát tế các con chiên Vượt Qua của họ.
(2) Ngài chính là Thiên Chúa: Gioan Tẩy Giả tuyên nhận Đức Kitô là Con Thiên
Chúa, vì chỉ có Chúa Giêsu mới có thể là người duy nhất xứng với những lời diễn
tả: “người đến sau tôi, nhưng trổi vượt hơn tôi, vì có trước tôi.” Nếu xét Đức
Kitô theo bản tính Thiên Chúa, Ngài có trước Gioan vì Ngài có từ muôn thuở và
cao trọng hơn Gioan gấp bội; nhưng nếu xét theo bản tính nhân loại, Ngài nhập
thể và sinh ra sau Gioan.
3.2/ Sự khác biệt giữa
hai Phép Rửa: Gioan phân biệt rõ ràng sự
khác biệt giữa hai phép rửa của ông và của Chúa Giêsu.
– Phép rửa được làm bởi Gioan là phép rửa bằng nước. Mục đích của phép rửa này
là để tỏ lòng ăn năn thống hối và để dọn đường cho mọi người đón nhận Đức Kitô.
– Phép rửa của Chúa Giêsu không những là phép rửa bằng nước để tha thứ các tội
đã phạm, mà còn có năng lực thánh hóa con người bằng việc ban các quà tặng của
Thánh Thần cho người lãnh nhận.
Trong 7 quà tặng này, có quà tặng khôn ngoan để giúp con người biết phân biệt
những gì thuộc về Thiên Chúa từ những gì thuộc về thế gian. Gioan tuyên nhận
ông không biết Đức Kitô trước khi Ngài tỏ mình ra. Ông chỉ biết Ngài khi Thánh
Thần soi sáng và thúc đẩy trong ông. Chính sự khôn ngoan của Thánh Thần đã giúp
cho Gioan Tẩy Giả nhận ra Chúa Giêsu khi cả hai còn đang ở trong bụng mẹ trong
Tin Mừng Luca; và trong trình thuật của Gioan hôm nay, ông nhận ra Chúa Giêsu
chính là Con Chiên được tuyển chọn để gánh tội trần gian.
Gioan làm chứng cho Đức Kitô bằng những lời như sau: “Tôi đã thấy Thần Khí tựa
chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người. Tôi đã không biết Người. Nhưng
chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: “Ngươi thấy Thần Khí
xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần.”
Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta tin Đức Kitô, không phải vì chúng ta đã thấy Ngài tận mắt, nhưng vì
lời của các nhân chứng quan trọng như: tiếng Chúa Cha vọng xuống từ trời mà
Gioan và các Tông-đồ đã thuật lại, hình ảnh và hiệu quả của Chúa Thánh Thần
trong Gioan, lời các ngôn sứ đã báo trước về người Tôi Trung được thể hiện
trong Đức Kitô, các phép lạ Đức Kitô đã làm và những lời Ngài rao giảng, lời chứng
của các thánh Tông-đồ, máu của các thánh Tử-đạo, và còn bao nhiêu nhân chứng
qua các thời đại, và ngay cả thời đại chúng ta đang sống, họ vẫn tiếp tục làm
chứng cho Đức Kitô.
– Sau khi đã có niềm tin vào Đức Kitô, chúng ta đều được kêu gọi để làm chứng
nhân cho Đức Kitô qua bí-tích Rửa Tội mà chúng ta đã lãnh nhận.
– Để làm chứng nhân, chúng ta cần hiểu biết về Đức Kitô, vì không ai có thể làm
chứng cho người mà mình không biết. Học hỏi về Đức Kitô và với Đức Kitô không
thể thiếu trước khi chúng ta có thể làm chứng cho Ngài.
– Thánh Thần, Đấng đã hoạt động trong Đức Kitô, cũng phải hoạt động trong chúng
ta để giúp chúng ta thấu hiểu những Mầu Nhiệm Nước Trời, trước khi chúng ta trở
thành những chứng nhân cho Đức Kitô.
– Trong khi rao giảng và làm chứng về Đức Kitô cho tha nhân, niềm tin của chúng
ta cũng được vững mạnh và kiện toàn.
– Nếu chúng ta không thi hành nghĩa vụ làm chứng nhân, ai sẽ là người mang Đức
Kitô đến cho các thế hệ mai sau, và cho đến tận cùng trái đất?
– Nếu không chu toàn bổn phận chứng nhân, chúng ta cũng không xứng đáng để được
hưởng các quyền lợi mà Đức Kitô đã phải đổ máu đào để mang lại.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
19/01/2020 – CHÚA NHẬT TUẦN 2 TN – A
Ga 1,29-34
GIỚI THIỆU ĐẤNG CỨU THẾ
“Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian.” (Ga
1,29)
Suy niệm: Người ta thường cảm phục những con người biết liều chết cứu người, xả
thân vì quốc gia, dân tộc. Thế nhưng có một Đấng đã xả thân gánh hết tội lỗi
cho nhân loại mà vẫn còn có quá nhiều người không hề biết đến. Đấng đó, Gio-an
Tẩy giả giới thiệu, chính là Đức Giê-su, Đấng đến để xóa bỏ tội trần gian, Đấng
đến để cứu vớt nhân loại đang chìm trong tội lỗi. Ngài muốn nhân loại nhận ra
và tin vào Ngài để được cứu thoát.
Mời Bạn: Bạn đã tin nhận Chúa Giê-su là Đấng đã cứu sống bạn khỏi cái chết đời
đời do tội lỗi, thì giờ đây, bạn cũng hãy giới thiệu Ngài cho con người thời đại
hôm nay bằng lời rao giảng cùng với chính đời sống của bạn. Tất cả đời sống của
bạn đều phải qui hướng về mục đích này. Bạn đừng lấy làm đủ chỉ vì bạn không bỏ
Thánh Lễ Chúa Nhật ngày nào. Bạn phải sống sao cho gương mặt của “Đấng xóa tội
trần gian” được người ta nhận ra qua chính đời sống của bạn, Bao lâu bạn không
quan tâm đến việc đem Chúa đến cho người khác, bấy lâu bạn không con là môn đệ
đích thực của Đức Giê-su.
Chia sẻ: Bao nhiêu lần trong cuộc đời bạn đã giới thiệu Đức Giê-su
cho những người chưa nhận biết Chúa và bạn đã giới thiệu như thế nào?
Sống Lời Chúa: Thực hành lời dạy của Thánh Phao-lô: “Dù ăn, dù uống, hay
làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa” (1Cr 10,31).
Cầu nguyện: Lạy Chúa, gương mặt Đức Giêsu, “Đấng xóa bỏ tội trần
gian” lắm khi bị lu mờ vì đời sống tội lỗi của chúng con. Xin cho chúng con biết
canh tân đời sống để giới thiệu Đức Giê-su cho mọi người.
(5 Phút Lời Chúa)
Đây là Chiên
Thiên Chúa (19.01.2020 – Chúa Nhật 2 TN, Năm A)
SUY NIỆM
Chúa nhật tuần trước, chúng ta mới mừng lễ Đức Giêsu chịu phép rửa.
Chúng ta đã suy niệm bài Tin Mừng theo thánh Mátthêu.
Hôm nay, chúng ta lại suy niệm biến cố ấy dưới ngòi bút của thánh sử Gioan.
Thánh sử không kể lại chi tiết rõ ràng như các Tin Mừng Nhất Lãm,
Nhưng Ngài giúp chúng ta đi sâu vào mầu nhiệm Chúa Con tỏ mình.
Khi thấy Đức Giêsu tiến về phía mình, Gioan Tẩy giả đã giới thiệu:
“Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian.”
Một lời giới thiệu không dễ hiểu chút nào,
dù chiên là con vật không lạ gì với người Do-thái.
Người ta nuôi chiên trên các đồng cỏ, để ăn thịt, lấy lông.
Chiên để dâng lễ toàn thiêu, mỗi ngày hai con trong Đền thờ (Ds 28,3).
Chiên đóng vai trò quan trọng trong bữa tiệc Vượt Qua.
Người ta giết chiên tại Đền thờ từ buổi trưa trước lễ .
Một con chiên vô tỳ tích được nướng lên để cả nhà cùng ăn (Xh
12,5).
Đức Giêsu là Con Chiên của Thiên Chúa,
Nhưng Ngài là Con Chiên có khả năng xóa bỏ tội trần gian.
Đây là lời linh mục vẫn đọc trong trước khi hiệp lễ.
Xóa bỏ tội của cả trần gian là điều người phàm không ai làm được,
nhưng đây lại là sứ mạng của Con Chiên,
sứ mạng lớn lao bao trùm cả nhân loại.
Chiên Thiên Chúa không đến như một vị vua Mêsia,
để giải phóng hay khôi phục nước Ítraen.
Ngài đến để đem ơn giải phóng cho vũ trụ loài người,
cứu họ khỏi ách tội khiên và giải hòa họ với Thiên Chúa.
Thiên Chúa Cha đóng vai trò quan trọng trong bài Tin Mừng này.
Ngài đã sai Con Một xuống thế làm người ở đất Ítraen (Ga 3,17).
Nay Ngài cần một người giới thiệu Người Con ấy.
Ngài đã sai Gioan Tẩy giả đi làm phép rửa trong nước (Ga 1,6.33),
để Người Con “được tỏ ra cho dân Ítraen” (Ga 1,31).
Gioan thú nhận mình không biết Người Con này là ai (Ga 1,31.33),
nên chính Thiên Chúa lại phải lên tiếng và cho ông một dấu hiệu:
“Khi nào ông thấy Thần Khí ngự xuống và ở lại trên ai,
thì chính là Đấng ấy” (Ga 1,33).
Thiên Chúa đã sai Thần Khí xuống trên Đức Giêsu
khi Người chịu phép rửa trong nước bởi Gioan.
Ông đã thấy, nhờ đó ông có thể làm chứng cho toàn dân (Ga 1,34).
Để giúp chúng ta nhận ra Đức Giêsu là Con thật của Ngài.
Thiên Chúa Cha đã làm việc theo một chương trình bài bản.
Ngài cần sự cộng tác của con người.
Gioan Tẩy giả đã thấy và đã làm chứng về Đức Giêsu (Ga 1,32.34).
Maria Mácđala đã làm chứng sau khi thấy Chúa phục sinh (Ga 20,18).
Các môn đệ đã làm chứng cho Tôma: Chúng tôi đã thấy Chúa (Ga
20,25).
Muốn làm chứng một cách xác tín và mạnh mẽ,
chúng ta cần có kinh nghiệm “thấy.”
Không phải thấy bằng mắt như các tông đồ xưa,
nhưng thấy bằng cảm nhận trong tâm trí, bằng kinh nghiệm đức tin.
Hôm nay Chúa Cha vẫn cần các kitô hữu làm chứng cho Con của Ngài.
Ngài vẫn trò chuyện riêng tư với chúng ta như với Gioan,
và cho chúng ta dấu hiệu để nhận ra Chúa Giêsu,
Đấng vẫn đang đứng chung với tội nhân và những người nghèo khổ.
CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
Xin dạy trái tim con biết cách tìm Chúa
Và biết tìm Chúa ở đâu,
Biết cách gặp Chúa
Và biết gặp Chúa ở đâu.
Lạy Chúa,
Chúa là Chúa và là Thiên Chúa của con,
Tuy con chưa bao giờ thấy Chúa.
Chúa đã tạo ra con và đã tái tạo con,
Chúa đã ban cho con mọi điều tốt đẹp con đang có.
Vậy mà con vẫn không nhận biết Ngài.
Con vẫn chưa làm tròn điều Chúa muốn khi dựng nên con.
Xin dạy con tìm Chúa
Vì con không thể tìm Chúa, nếu Chúa không dạy con,
Con không thể gặp Chúa, nếu Chúa không tỏ mình cho con.
Xin cho con tìm Chúa trong ao ước của con,
Và cho con ao ước Chúa trong khi con tìm kiếm.
Xin cho con gặp được Chúa nhờ yêu Chúa,
Và xin cho con yêu Chúa khi con gặp Chúa. (Thánh Alselmô ở Canterbury)
Lm. Antôn Nguyễn
Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
19 THÁNG GIÊNG
Ngắm Nhìn Mẫu Gương
Người Thợ Mộc Khiêm Nhường
Lao động đem lại niềm
vui và niềm thỏa mãn; nhưng lao động cũng đòi nỗ lực và khiến người ta mệt mỏi,
như ai cũng có thể cảm nghiệm được sau một ngày dài nhọc nhằn. Vui và thỏa mãn,
vì lao động cho phép người ta thể hiện vai trò thống trị mặt đất mà Thiên Chúa
đã ủy trao cho mình (St 1, 26 – 28). Thật vậy, Thiên Chúa đã nói với người đàn
ông và người phụ nữ đầu tiên: “Hãy sinh sôi nảy nở đầy mặt đất và chinh phục
nó. Hãy làm chủ cá biển, chim trời và muôn loài sống động trên mặt đất” (St 1,
28).
Thế nhưng, không phải
bao giờ chúng ta cũng thích loại công việc mà mình đang làm. Đôi khi ta phải
làm những công việc nguy hiểm. Chẳng hạn, rất nhiều người làm việc trong các hầm
mỏ sâu hun hút dưới mặt đất. Nhiều công việc rất nặng nhọc, đơn điệu và gây buồn
chán. Đó là thân phận con người chúng ta. Thánh Kinh viết rằng vì con người bất
tuân phục nên phải đổ mồ hôi mới có cái ăn. Rồi trong quá trình canh tác trồng
trọt, cũng vì sự bất tuân phục của con người mà mặt đất không dễ dàng sản sinh
hoa trái cho họ (St 3, 17 – 19). Dù sao, đối với những con người lao động tín
thác vào Thiên Chúa, những nỗi cố gắng nhọc nhằn của họ bao giờ cũng gắn liền với
niềm vui sướng – vì họ biết rằng mình đang tham dự vào chính công trình của
Thiên Chúa, Đấng Sáng Tạo.
Đối với chúng ta là những
Kitôhữu, Đức Giêsu là mẫu gương hoàn hảo và là nguồn cảm hứng cho công việc của
chúng ta. Trong lao động, Đức Giêsu sống mối hiệp thông mật thiết với Cha trên
trời. Vì thế, chúng ta cần phải nhìn ngắm cung cách làm việc hằng ngày của Đức
Giêsu trong suốt những năm dài ở Na-da-rét. Đó là tấm gương tuyệt hảo cho tất cả
chúng ta. Ngắm nhìn chàng thợ mộc ấy, chúng ta sẽ nhận được niềm phấn khởi và sự
khích lệ lớn lao để kiên trung trong việc phục vụ nhỏ nhoi của mình – dù đó là
ngành nghề gì đi nữa.
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 19/1
Chúa Nhật II Thường
Niên
Is 49,3.5-6; 1Cr
1,1-3; Ga 1, 29-34.
Lời Suy Niệm: Đấng đã sai tôi
đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: “Người thấy Thần Khí xuống và ngự trên
ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần.” Tôi đã thấy, nên
xin chứng thật rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn.”
Con người của Gioan Tẩy Giả và sứ vụ của ông thật là hạnh phúc. Ông đã được
chính Thiên Chúa mách bảo cho biết Đấng Kitô và sứ vụ của Người.
Lạy Chúa Giêsu. Khi Chúa đến với Gioan với bề ngoài chỉ là một con người đến
xin chịu phép rửa không có gì đặc biệt, nhưng Gioan đã trải qua một cuộc hành
trình: “Từ không biết đến thấy, rồi từ thấy đến làm chứng. Xin cho mỗi người
trong chúng con cũng được diễm phúc như Gioan, để học biết, từ học biết để tin
và từ tin để sống và trở nên nhân chứng tình yêu của Chúa.
Mạnh Phương
19 Tháng Giêng
Bàn Chân Năm Ngón
Một người thanh
niên tên là Tony Melendez bỗng trở nên quen thuộc với nhiều người kể từ khi Ðức
Gioan Phaolô II đến viếng thăm tiểu bang California, Hoa Kỳ dạo mùa hè năm
1987. Nhiều người đã chứng kiến buổi lễ tiếp đón Ðức Thánh Cha hôm đó và khó
quên hình ảnh vô cùng cảm động khi vị Giáo Hoàng bước xuống từ một lễ đài cao để
ôm hôn một người thanh niên đang hát với tiếng đàn Guitar của mình. Ðiều gì đã
làm cho khung cảnh ấy trở nên khác lạ và giây phút ấy đã trở nên luyến nhớ cho
nhiều người?
Tony là hiện thân của
niềm Hy Vọng. Tony đã chào đời không có hai cánh tay. Nhưng Tony đã vận dụng những
ngón chân của mình để học đàn guitar. Không những thế, anh còn dùng chân trong
nhiều công việc khác như xếp quần áo, vắt một ly nước chanh.
Anh đã biết
biến sự tàn tật kém may mắn của mình thành một khả năng thuần thục. Ngạc nhiên
trước khả năng lạ lùng ấy của anh, nhiều người đã hỏi anh: “Bí quyết nào đã
giúp anh chẳng những chấp nhận chính mình để sống bình thường mà còn sử dụng
guitar một cách tuyệt diệu như thế?”. Anh đã trả lời như sau: “Tôi đã cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin nhận lấy con và dùng con theo thánh ý Chúa. Tôi đã tự hiến cho
Chúa như một của lễ sống động và Chúa đã nhậm lời tôi”.
Không ai trong chúng
ta chọn lựa được sinh ra hay không sinh ra. Không ai trong chúng ta chọn lựa
làm đàn ông hay đàn bà. Không ai trong chúng ta chọn lựa được làm người xinh đẹp
hay xấu xí, thông minh hay ngu đần, khỏe mạnh hay bệnh tật, giàu sang hay nghèo
hèn. Dưới mắt người đời, mỗi người chúng ta đến trong trần gian này với cả một
định mệnh. Người ta vẫn nói: có người sinh ra dưới một ngôi sao xấu, có người
sinh ra dưới một ngôi sao tốt, có người kém may mắn.
Nhưng trong ánh
mắt Tình Yêu của Thiên Chúa, thì số phận nào cũng là một hồng ân cao cả. Trong
chương trình Quan Phòng của Ngài, mỗi người, dù nhỏ bé hèn mọn, dù tàn tật bất
hạnh đến đâu, cũng đều có một chỗ đứng. Do những bất trắc của thiên nhiên, hay
do hậu quả của tội lỗi, nhiều người phải sinh ra với tất cả một gánh nặng của bất
hạnh. Nhưng Thiên Chúa không bao giờ bỏ cuộc vì những hư hỏng ấy, Ngài luôn có
một chương trình cho mỗi người. Lắm khi chúng ta thấy được những kỳ diệu của
Thiên Chúa được thể hiện qua những bất hạnh, mất mát của con người.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét