19/01/2020
Chúa Nhật 2 Thường Niên năm A.
(phần II)
Phụng Vụ Lời
Chúa: Chúa Nhật II Thường Niên A
(Is 49,3.5-6; 1
Cr 1,1-3; Ga 1,29-34)
Chủ đề: ĐỨC GIÊSU KITÔ, ĐẤNG CỨU ĐỘ TRẦN GIAN
“Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian” (Ga 1,29)
Đức Giêsu là Đấng mà
Thiên Chúa đã hứa ban cho dân Ngài. Người đến để giải thoát con người khỏi tội
lỗi và giải chiếu trên họ ánh sáng vĩnh cửu của ơn cứu độ. Gioan Tẩy Giả đã nhận
ra căn tính đích thực của Đức Giêsu. Ông tin và giới thiệu Đức Giêsu cho những người
khác.
I. CÁC BÀI ĐỌC
1. Bài đọc I (Is 49,3.5-6)
Dân Do Thái đang sống
lưu đày tại Babylon vào khoảng thế kỷ thứ VI trước CN. Giữa hoàn cảnh u buồn và
thất vọng đó, Thiên Chúa đã cho xuất hiện vị ngôn sứ để loan báo những lời đầy
hy vọng. Người tôi trung trong đoạn sách Isaia hôm nay là một hình ảnh bí nhiệm,
có thể là biểu tượng của một số người Do Thái trung thành với Lề Luật hay một
nhân vật nào đó. Truyền thống Kitô giáo nhìn thấy người tôi trung này là chính
Đức Kitô. Qua người tôi trung này, Thiên Chúa sẽ biểu lộ vinh quang của
mình: “Hỡi Israel, ngươi là tôi trung của Ta. Ta sẽ dùng ngươi để biểu
lộ vinh quang”. Vinh quang của Thiên Chúa không chỉ chiếu tỏa trên dân
Israel, mà còn trên mọi dân tộc. Quả thật, ơn cứu độ của Thiên Chúa được dành
cho hết thảy mọi dân tộc, chứ không dành riêng cho Israel: “Nếu ngươi
chỉ là tôi trung của Ta để tái lập các chi tộc Giacóp, để dẫn đưa các người
Israel sống sót trở về, thì vẫn còn quá ít. Vì vậy, này Ta đặt ngươi làm ánh
sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất”. Để thực
hiện sứ mệnh cao cả này, chính Thiên Chúa trở nên nguồn nâng đỡ và sức mạnh của
người tôi trung: “Thiên Chúa tôi thờ là sức mạnh của tôi”. Tất cả
những lời tiên báo này đã được hoàn tất nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng đến đem ơn cứu
độ cho mọi người.
2. Bài đọc II (1 Cr 1,1-3)
Trong lá thư thứ nhất
gởi cho các tín hữu ở Côrintô, Phaolô xác định về ơn gọi Tông đồ của mình. Ơn gọi
làm Tông đồ của Đức Giêsu Kitô là do ý định của Thiên Chúa, chứ không do ý muốn
của con người. Phaolô được kêu gọi để loan báo Tin Mừng Đức Giêsu cho mọi dân để
họ trở nên “những người được thánh hiến trong Đức Giêsu, được kêu gọi
làm dân thánh” cùng với tất cả mọi người khắp nơi kêu cầu danh Đức
Giêsu. Các tín hữu là những người tin vào Đức Giêsu Kitô. Họ được kêu gọi hiệp
nhất trong Hội Thánh của Thiên Chúa cùng với những người tin vào Đức Giêsu và
trở nên thánh thiện. Người Kitô hữu là người thuộc về Thiên Chúa và là chứng
nhân của Thiên Chúa giữa thế gian như “muối cho đời, ánh sáng cho thế
gian, men trong bột”. Họ có trách nhiệm làm cho người khác nhận biết Đức
Giêsu Kitô và Tin Mừng của Người bằng chính đời sống của mình.
3. Tin Mừng (Ga 1,29-34)
Gioan Tẩy Giả rao giảng
và kêu gọi mọi người chuẩn bị tâm hồn để dọn đường cho Thiên Chúa ngự đến. Trong
khi Gioan đang ở sông Giođan để làm phép rửa thống hối cho dân chúng, Đức Giêsu
tiến về phía của Gioan. Vừa thấy Đức Giêsu, Gioan liền nói về Đức Giêsu với những
lời thật ý nghĩa: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần
gian. Chính Người là Đấng tôi đã nói tới khi bảo rằng: Có người đến sau tôi,
nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi”. Đức Giêsu là Đấng đến để xóa bỏ tội lỗi
của con người qua hiến tế trên thập giá. Trong Cựu Ước, con chiên là vật dùng để
dâng tiến lên Thiên Chúa để đền bù tội lỗi của con người. Nhưng máu của các con
vật không thể nào tẩy xóa hết tội lỗi con người được, như thư gởi tín hữu Do
Thái đã khẳng định: “Thật thế, máu các con bò, con dê không thể nào xóa
được tội lỗi” (Hr 10,4). Vâng, chỉ có hiến tế của Đức Giêsu, là Chiên
Thiên Chúa, mới tẩy sạch tội lỗi của con người mà thôi. Gioan đã nhận ra căn
tính đích thực của Đức Giêsu là nhờ quyền năng của Thiên Chúa mặc khải cho
ông: “Tôi không biết Người. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa
trong nước đã bảo tôi: Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó
chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần”. Gioan đã nhận ra dấu chỉ mà
Thiên Chúa đã nói về Đức Giêsu trong biến cố Đức Giêsu đến lãnh nhận phép rửa tại
sông Giođan: “Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên
Chúa tuyển chọn”. Thánh Thần Chúa, tựa hình chim bồ câu, ngự xuống trên Đức
Giêsu ngay lúc Người lên khỏi nước (x. Mt 3,16; Mc 1,10; Lc 3,22).
II. GỢI Ý MỤC VỤ
1. “Vì vậy, này Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân,
để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất”. Thiên Chúa đã chọn, đặt
người tôi trung làm ánh sáng và trở nên dụng cụ truyền ban ơn cứu độ cho muôn
dân. Tôi cũng được Thiên Chúa mời gọi trở nên những chứng nhân của tình yêu và
ơn cứu độ cho người khác. Tôi có ý thức và sống trọn bổn phận này trong đời sống
? Cuộc sống tôi có trở nên ánh sáng và dụng cụ truyền giảng ơn cứu độ của Thiên
Chúa ?
2. “Những người được thánh hiến trong Đức Giêsu, được
kêu gọi làm dân thánh”. Tôi được mời gọi
trở nên thánh khi lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy để trở nên những thụ tạo mới
trong Đức Giêsu Kitô. Mỗi ngày sống tôi có nỗ lực để sống lời mời gọi này ? Tôi
có sống thuộc về Thiên Chúa và bước theo lời chỉ dạy của Ngài ?
3. “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần
gian”. Đức Giêsu đã đổ máu mình ra như của
lễ đền thay tội lỗi của con người khỏi sự chết đời đời do tội lỗi gây nên. Tôi
có sống và ý thức được tình yêu thương cao cả này của Đức Giêsu trong cuộc sống
của mình ? Tôi có can đảm chia sẻ cảm nghiệm của ơn tha thứ của Đức Giêsu và giới
thiệu Người cho những ai mà tôi gặp gỡ ?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị
em thân mến! Thiên Chúa đã sai Con Một của Người là Đức Giêsu Kitô đến trần
gian để cứu độ nhân loại. Chính Thánh Gioan Tiền hô đã làm chứng và chỉ cho mọi
người nhận biết khi Chúa đến. Chúng ta hãy cảm tạ Thiên Chúa và tha thiết cầu
xin:
1. Thánh Gioan nói:
“Ðây Chiên Thiên Chúa, đây Ðấng xoá bỏ tội trần gian”. Chúng ta cùng cầu nguyện
cho mọi thành phần trong Hội Thánh luôn nỗ lực trong sứ mạng truyền giáo, biết
dùng mọi khả năng và phương tiện để giới thiệu Chúa Cứu Thế cho mọi người.
2. Công cuộc loan báo
Tin Mừng còn gặp khó khăn cấm cách tại nhiều nơi trên thế giới. Chúng ta cùng cầu
nguyện cho các nhà lãnh đạo ở những nơi đó biết mở lòng trước tình thương cứu độ
của Thiên Chúa, cho người dân có cơ hội được nghe và đón nhận Tin Mừng.
4. Thánh Phaolô nói:
“Nguyện chúc cho anh em được ân sủng và bình an của Thiên Chúa Cha”. Chúng ta
cùng cầu nguyện cho mọi người dân Việt Nam được đón nhận thật nhiều phúc lành
và bình an của Thiên Chúa qua những ngày vui Tết dân tộc sắp tới.
3. “Tôi đã thấy và tôi
làm chứng: chính Ngài là Con Thiên Chúa”. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các gia
đình và mọi người trong cộng đoàn chúng ta biết dùng lời nói, việc làm và cách
sống của mình để làm chứng cho Đức Giêsu Kitô, là hiện thân của lòng thương
xót.
Chủ tế: Lạy
Chúa là Cha và là Đấng cứu độ chúng con. Xin nhận lời chúng con thành tâm cầu
nguyện và ban ơn trợ giúp, để chúng con hăng say loan báo tình thương cứu độ của
Chúa cho mọi người. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
Sợi Chỉ Đỏ Chúa Nhật 2 TN Năm A
CHÚA GIÊSU LÀ AI ?
“Đây là Chiên
Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian” (Ga 1,29)
Sợi chỉ đỏ :
– Bài đọc I : Đấng
Messia là Người Tôi Tớ của Thiên Chúa.
– Đáp ca : Đấng
Messia đến để thực thi ý Thiên Chúa.
– Tin Mừng : Bắt
đầu sứ vụ công khai của Chúa Giêsu. Gioan Tẩy giả giới thiệu : “Chính Ngài
là Con Thiên Chúa.”
Từ hôm nay bắt đầu mùa
thường niên : Phụng vụ muốn dẫn chúng ta từng bước đồng hành với Chúa
Giêsu. Việc đầu tiên là phải biết Đấng mà mình đồng hành là ai.
Xin Chúa cho chúng ta
biết Ngài, yêu mến Ngài và gắn bó đi theo Ngài trọn cuộc hành trình dương thế của
chúng ta.
– Tuy là môn đệ của
Chúa Giêsu, nhưng chúng ta chưa cố gắng tìm hiểu để biết rõ Ngài.
– Chúng ta chưa “yêu mến
Chúa trên hết mọi sự.”
– Chúng ta thường đi
theo đường lối của riêng mình chứ không đồng hành với Chúa trên con đường của
Chúa.
Ngôn sứ Isaia hình
dung Đấng Messia là Người Tôi Tớ của Thiên Chúa. Đoạn trích này thuộc bài thứ
hai trong 4 bài ca về Người Tôi Tớ :
– Người Tôi Tớ của
Thiên Chúa được giao sứ mạng “quy tụ dân Israel trước mắt Thiên Chúa”.
– Người Tôi Tớ của
Thiên Chúa còn là “ánh sáng của các dân tộc”, làm cho “ơn cứu độ của Thiên Chúa
tràn lan khắp địa cầu”.
Tất cả những nét Isaia
mô tả Người Tôi Tớ đều được thực hiện nơi Chúa Giêsu.
Tv này bày tỏ tâm tình
của người tín hữu đối với Thiên Chúa : cậy trông nơi Thiên Chúa, hân hoan
hát mừng ca tụng Ngài, và nhất là luôn thực thi thánh ý của Ngài.
Không ai ngoài Chúa
Giêsu có những tâm tình hoàn hảo ấy.
Theo bố cục của Tin Mừng
thứ tư, đây là lần đầu tiên Đức Giêsu xuất hiện trước dân chúng. Vì dân chúng
chưa biết Đức Giêsu, nên Gioan Tẩy giả giới thiệu Ngài, bằng hai kiểu
nói :
– Đức Giêsu là “Con
Chiên Thiên Chúa” : Trong lễ nghi Đền tội của Do thái giáo, tội nhân đem một
con chiên lên Đền thờ, úp tay mình xuống con chiên tỏ ý trút hết tội mình lên
nó ; tiếp theo, tư tế sẽ giết con chiên. Nó chịu chết để đền tội thay cho
tội nhân. Bao nhiêu tội lỗi của tội nhân đều được tẩy xóa. Ngay từ buổi đầu gặp
Chúa Giêsu, Gioan Tẩy giả đã biết Ngài sẽ chịu chết để chuộc tội cho nhân loại,
nên ông giới thiệu “Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian”.
– Đức Giêsu là “Con
Thiên Chúa” : Nhờ ơn soi sáng đặc biệt của Chúa Thánh Thần trong biến cố
làm phép rửa cho Đức Giêsu, Gioan Tẩy giả còn được biết Đức Giêsu là Con Thiên
Chúa. Thực ra, trong lịch sử, các vua Israel cũng xưng mình là con của Thiên
Chúa. Nhưng đó chỉ là một cách nói, ngụ ý họ được Thiên Chúa nhận làm con
nuôi, nghĩa tử. Riêng đối với Đức Giêsu, Gioan Tẩy giả giới thiệu Ngài
là con ruột của Thiên Chúa và cũng chính vì thế cho nên Đức
Giêsu sẽ làm phép rửa trong Chúa Thánh Thần.
* Từ Chúa nhựt II đến
Chúa nhựt VIII, bài đọc II đều trích từ thư 1 Côrintô. (Xin hãy đọc bài giới
thiệu tổng quát về Thư 1 Côrintô ngay sau bài này)
Côrintô là một thành
phố cảng với những nét đặc trưng là : dân cư hỗn tạp (nhiều sắc dân khắp
nơi đến làm ăn), đời sống kinh tế và trí thức tương đối khá, nhưng không đoàn kết,
xã hội có nhiều tệ đoan. Chính dân Côrintô đã đuổi Phaolô ra khỏi thành phố
này.
Khi ở Êphêxô, Phaolô
nghe nhiều tin tức không tốt về giáo đoàn này, nên ông viết bức thư này cho họ
nhằm củng cố một số điểm giáo lý và sửa sai một số tệ nạn.
Đoạn này chỉ là những
lời chào đầu thư Thánh Phaolô gởi đến các tín hữu Côrintô. Tuy vậy nó cũng xác
định rõ tư cách của người viết thư và những người nhận thư :
– Người viết thư
(Phaolô) là kẻ được Thiên Chúa kêu gọi làm tông đồ của Đức Giêsu Kitô.
– Những người nhận thư
(tín hữu Côrintô) là những kẻ được kêu gọi nên thánh và được thánh hóa trong
Chúa Giêsu Kitô.
Khi phải làm một chuyến
hành trình dài, người ta cần có bạn đồng hành, để có bạn đường mà chia vui xẻ
buồn, nói chuyện với nhau, và giúp đỡ nhau. Hai môn đệ hành trình Emmau nhờ đi
chung với nhau nên đã san sẻ cho nhau nỗi buồn nặng trĩu sau những biến cố đau
thương xảy ra tại Giêrusalem. Họ lại có được một bạn đồng hành nữa là Đức Giêsu
phục sinh. Chính Người Bạn đồng hành này đã xóa tan mọi sầu lo của họ và làm
cho niềm tin của họ sống lại.
Đời người trên dương
thế là một cuộc hành trình dài thăm thẳm, không biết bao giờ mới xong, cũng
không chắc sẽ đi đến đích hay không. Vậy mà có nhiều người cứ mãi độc
hành : một mình tìm đường, một mình đi, một mình xoay trở trước những khó
khăn… Thật là phiêu lưu !
Mùa thường niên của
năm Phụng vụ cũng là một cuộc hành trình, nhưng không phải độc hành, mà là đồng
hành với Chúa Giêsu : chúng ta cùng với Ngài đi qua những chặng đường từ
Nadarét đến Galilê để tới Giêrusalem ; từ gian khổ đến vinh quang ; từ
chết đến sống lại. Có Ngài cùng đi với chúng ta, chúng ta không sợ lạc đường.
Cùng đi với Ngài, cho dù nhiều lúc gặp khó khăn, chắc chắn chúng ta sẽ tới
đích. Chúa Giêsu đồng hành với chúng ta nghĩa là Ngài sẽ vui khi chúng ta vui,
Ngài sẽ buồn khi chúng ta buồn ; chúng ta đồng hành với Chúa Giêsu cũng có
nghĩa là ta sẽ được vui niềm vui của Ngài và buồn với nỗi buồn của Ngài. Đời ta
không cô độc, buồn tẻ…
Tuy chỉ là “mùa thường
niên” không có những lễ trọng, nhưng nếu chúng ta sống mùa này như một người đồng
hành với Chúa, cuộc đời chúng ta chắc chắn sẽ rất có ý nghĩa.
Lời Chúa hôm nay cho
chúng ta thấy Chúa Giêsu với hai nét tương phản nhau : Ngài là Người Con
yêu quý của Thiên Chúa cao sang, và Ngài là Người Tôi Tớ khiêm tốn thấp hèn.
Thực ra hai nét trên
không đối chọi nhau mà làm nổi bật nhau và soi sáng cho nhau : Chúa Giêsu
là Con Thiên Chúa cao sang do cách Ngài sống như một Người Tôi Tớ ; và
Ngài là Người Tôi Tớ tuyệt hảo bởi vì Ngài là Con Thiên Chúa cao sang.
Nhìn Chúa Giêsu, chúng
ta rút ra được một triết lý sống : sống cao thượng trong hoàn cảnh tầm thường ;
và sống hoàn cảnh tầm thường với tâm hồn cao thượng.
Cùng sống với Chúa
Giêsu qua những biến cố mỗi tuần trong Mùa thường niên này, chúng ta có thể thực
hiện được triết lý sống tuyệt vời ấy.
Thời Cựu Ước, trong
ngày lễ Đền tội, người do thái bắt một con chiên đem đến cho Tư tế. Vị Tư Tế đọc
một danh sách các thứ tội của dân và kêu gọi mọi người sám hối. Sau đó Tư Tế đặt
tay trên đầu con dê, ngụ ý trút hết danh sách tội ấy lên đầu nó, rồi đuổi nó
vào sa mạc. Con chiên ấy được gọi là con chiên gánh tội.
Khi Thánh Gioan Tẩy giả
giới thiệu Đức Giêsu là “Con Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian”, phải
chăng Thánh Gioan cũng có ý rằng Đức Giêsu đã gánh lấy tất cả tội lỗi chúng ta
nên từ nay loài người không còn tội gì nữa ? Đơn giản và dễ dàng thế
sao ?
Quả thực Đức Giêsu đã
gánh lấy tội trần gian. Việc này có nghĩa là nhờ Ngài mà tội lỗi chúng ta được
tha thứ. Nhưng điều này không có nghĩa là chúng ta không phải làm gì cả.
Cần phân biệt rõ giữa
tội lỗi và thân phận tội lỗi. Đức Giêsu gánh lấy và tha thứ tội lỗi chúng ta,
như con chiên đã mang tội lỗi dân do thái vào sa mạc. Nhưng thân phận tội lỗi của
chúng ta vẫn còn. Và Đức Giêsu muốn giúp chúng ta cải thiện thân phận ấy, dĩ
nhiên là với sự hợp tác của chúng ta.
– Ngài giúp chúng ta
thế nào ? Bằng cách đến với chúng ta, sống gần chúng ta, gieo vào mảnh đất
tâm hồn chúng ta hạt giống sự tốt lành và thánh thiện của Ngài.
– Chúng ta hợp tác thế
nào ? Bằng cách tiếp nhận Ngài, sống với Ngài và để cho những hạt giống ấy
lớn lên trong lòng mình.
Sự tha thứ của Chúa và
bí tích Giải tội không phải là một thứ phù phép, mà là một trợ lực, một hạt giống.
Ngày xưa một vì vua bảo
một ông quan : “Khanh hãy đi khắp đất nước tìm về cho trẫm một người tốt”.
Ông quan này tính tình hung dữ, gian dối và không có bạn. Sau một thời gian đi
tìm, ông trở về triều, tâu : “Thần đã đi khắp nơi, gặp hết mọi người.
Nhưng chẳng tìm được người nào tốt cả. Ai cũng hung dữ, gian dối và không có bạn”.
Nhà vua sai một quan
khác : “Khanh hãy đi khắp đất nước tìm về cho trẫm một người xấu”. Ông này
có lòng nhân từ, quảng đại và được mọi người thương mến. Sau một thời gian đi
tìm, ông cũng trở về triều và tâu : “Hạ thần không thể chu toàn sứ mạng mà
Bệ Hạ giao phó. Hạ thần đã gặp nhiều người gian lận, trộm cắp, tham lam… Nhưng
chẳng có người nào thực sự xấu cả. Dù họ đã làm những điều ấy, nhưng trong thâm
tâm ai cũng tốt”
Câu chuyện trên muốn nói
rằng ta có khuynh hướng nhìn người khác không theo lòng họ mà theo lòng ta.
Thánh Gioan Tẩy giả
thì không thế. Nếu như mọi người thì Gioan sẽ coi thường Đức Giêsu, bởi Ngài đến
sau ông ; chẳng những thế ông còn coi Ngài là đối thủ của ông, bởi Ngài
đang lấn dần ảnh hưởng của ông. Nhưng Gioan đã nghe theo sự soi sáng của Chúa
Thánh Thần nên đã hiểu đúng về Đức Giêsu và đã nhiệt tình giới thiệu Ngài cho mọi
người : “Ngài đến sau tôi nhưng có trước tôi vì Ngài cao trọng hơn tôi”.
Trong thư gởi tín hữu
Côrintô, Thánh Phaolô định nghĩa tín hữu là “những người được kêu gọi nên
thánh”.
Nhưng “thánh” là
gì ? Theo thần học, chỉ có một mình Thiên Chúa là “thánh” (Kinh Sáng
Danh : “Chỉ có Chúa là Đấng Thánh”). Theo Thánh Kinh, những ai và những gì
thuộc về Thiên Chúa cũng được gọi là “thánh”, chẳng hạn Đền thánh, Luật thánh,
thánh nhân… ; việc dâng hiến một người hoặc một vật cho Chúa được gọi là
thánh hiến.
Vậy tín hữu là những
người được kêu gọi nên thánh có nghĩa là tín hữu được mời gọi ngày càng thuộc về
Chúa hơn, ngày càng giống Chúa hơn.
Nhưng làm thế nào để
được như vậy ? Cách tốt nhất là thường xuyên ở bên Chúa, nhìn vào Chúa và
noi gương Chúa. Đó là điều mà phụng vụ các ngày chúa nhựt quanh năm muốn giúp
chúng ta.
CT : Anh chị em thân mến
Thiên Chúa đã yêu
thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người là Đức Giêsu Kitô nhập thế làm người,
chịu chết trên Thập giá để xóa tội lỗi trần gian. Chúng ta cùng cảm tạ Chúa và
dâng lời cầu xin.
1- Chúa đã đặt Hội
Thánh làm dấu chỉ ơn cứu độ cho muôn dân / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho Hội
Thánh luôn trung thành với sứ mạng của mình.
2- Cánh đồng truyền
giáo này nay thật bát ngát bao la / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành phấn
dân Chúa / ý thức được trách nhiệm rao giảng Tin Mừng của mình / và dùng chính
đời sống theo Tám mối phúc thật / để giới thiệu Chúa cho những ai chưa nhận biết
Người.
3- Sống an bình và hạnh
phúc / là ước mơ tha thiết của mỗi người đang hiện diện trên trái đất này /
Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban cho thế giới hôm nay được hòa bình và thịnh
vượng / để điều mà môi người chân thành ước mơ / có thể sớm trở thành hiện thực.
4- Như Thánh Gioan tẩy
giả / mỗi kitô hữu đều có bổn phận phải giới thiệu Chúa cho người khác / Chúng
ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta hiểu rằng / giới thiệu Chúa
bằng đời sống bác ái yêu thương và phục vụ hết lòng / là cách tốt nhất để giúp
người khác nhận biết Chúa.
CT : Lạy Chúa là Cha nhân hậu, chúng con cảm tạ Chúa
vì biết bao ơn lành Chúa đã thương ban cho chúng con trong cuộc sống. Xin cho
chúng con chỉ tin tưởng cậy trông và phó thác cuộc đời chúng con trong bàn tay
quan phòng kỳ diệu của Chúa mà thôi. Chúng con cầu xin…
– Trước kinh Lạy
Cha : Chúa Giêsu là Con duy nhất của Thiên Chúa. Nhưng Ngài đã thương
chia sẻ quyền làm con ấy cho chúng ta nữa. Giờ đây, chúng ta hãy cùng với Chúa
Giêsu dâng lên Thiên Chúa là Cha những tâm tình con thảo của chúng ta.
– Trước Rước lễ :
Đức Giêsu hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là một. Ngày xưa Thánh Gioan Tẩy giả
giới thiệu Đức Giêsu thế nào, thì hôm nay Giáo Hội cũng giới thiệu Đức Giêsu
cho chúng ta như thế : “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian…”
Trong Thánh Lễ này,
anh chị em đã biết Chúa Giêsu là ai, đã được cảm nghiệm tình yêu thương của
Ngài. Lễ đã xong, giờ đây anh chị em hãy đồng hành với Ngài trên những bước đường
của cuộc sống.
—————————————————
Bài đọc thêm 1
1.
Thành phố Côrintô đã
bị một viên tướng Rôma tên là L. Mumium phá hủy vào năm 146 trước công nguyên.
Một thế kỷ sau nó được xây dựng lại bởi lệnh hoàng đế Jules César và trở thành
một thuộc địa của đế quốc Rôma. Chẳng bao lâu sau nó thành thủ phủ của tỉnh
Achaie của đế quốc.
2.
Côrintô cũng là một
hải cảng lớn với một nền thương mại phồn thịnh. Vì nằm trên tuyến đường nối hai
miền Đông Tây, nên việc giao thông cũng tấp nập. Dân số thời ấy khoảng 600
ngàn, trong số đó 2/3 là nô lệ. Về tín ngưỡng, dân Côrintô thờ nhiều thần. Luân
lý rất suy đồi, nạn dâm ô tràn lan (x. Rm 1,26-32).
3.
Phaolô đến Côrintô lần
đầu tiên trong chuyến du hành truyền giáo thứ hai. Ông đã lưu lại đây 18 tháng
từ mùa đông năm 50 đến mùa hè năm 52. Ban đầu ông cũng hành nghề dệt lều và rao
giảng trong hội đường do thái vào những ngày hưu lễ. Khi có Sila và Timôtêô đến
tiếp thì ông hoàn toàn lo rao giảng. Nhiều người đã tin theo và Phaolô lập được
một giáo đoàn mà đa số là người lương trở lại, phần đông thuộc giới hạ lưu
nghèo khổ. Những tín hữu này rất hăng say sống đạo nhưng đầu óc còn thấm nhiễm
tâm thức lương dân. Sau đó dân Côrintô đã đuổi Phaolô đi. Sau khi ông ra đi ít
lâu, có một nhà trí thức do thái ở Alexandria tên là Apollo đến nối tiếp sứ mạng
rao giảng Tin Mừng cho dân Côrintô và thu được rất nhiều kết quả (x 1Cr 1,26-28
11,21-22). Sau đó lại có thêm Thánh Phêrô đến nữa.
B. THƯ 1 CÔRINTÔ
Năm 56, Phaolô đang ở
Êphêxô thì được nhiều tin tức không tốt đẹp về giáo đoàn Côrintô : nạn bè
phái, thói kiện cáo nhau trước tòa án lương dân, tội dâm ô v.v. Ngoài ra, nhiều
tín hữu cũng có những thắc mắc về lương tâm và phụng vụ. Phaolô đã gởi Timôtêô
đến đấy để dò la tình hình. Sau khi Timôtêô trở về báo cáo thì Phaolô viết bức
thư này để sửa dạy những thói xấu và giải đáp những thắc mắc của tín hữu
Côrintô.
– Lời
chào
01,01-03
– Lời tạ
ơn
01,04-09
– Sửa dạy
những thói xấu :
. Nạn
bè
phái
01,10–04,21
. 1
trường hợp loạn luân 05,01-13
.
Kiện cáo
nhau
06,01-11
. Tội
dâm
ô
06,12-20
– Giải
đáp những thắc mắc :
. Về
hôn nhân và đồng trinh 07,01-40
. Vấn
đề ăn đồ
cúng
08,01–11,01
– Bàn về
cộng đoàn phụng tự
và
các đoàn sủng
11,02–14,40
– Bàn về
việc kẻ chết sống lại ch 15
– Kết
16,01-18
– Lời
chào
16,19-24
– Thư này rất thực tế,
cho ta thấy rõ bề mặt và bề trái của giáo đoàn : không phải cái gì cũng tốt
đẹp êm xuôi, nhưng nhiều vấn đề nội bộ rất phức tạp, nhiều khi rất đau lòng. Nó
cũng cho thấy những uẩn khúc trong tâm hồn của người chịu trách nhiệm về giáo
đoàn : ưu tư, dằn vật, khổ đau nhưng trong hoàn cảnh nào cũng chan chứa
tình thương.
– Nhờ thực tế như thế,
thư này tương đối dễ hiểu. Mặc dù đề cập đến những vấn đề riêng tư của một giáo
đoàn, nhưng qua đó chúng ta cũng rút ra được nhiều tư tưởng có giá trị chung
cho mọi nơi và mọi thời.
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI
Lectio
Divina: Chúa Nhật II Thường Niên (A)
Chúa Nhật, 19 Tháng 1, 2020
Ông
Gioan Tẩy Giả loan báo Đức Giêsu là Chiên Thiên Chúa
Ga
1:29-34
1. Lời
nguyện mở đầu
Trong
bài đọc cầu nguyện này của Tin Mừng theo thánh Gioan, chúng ta nhớ đến những lời
của thánh John Henry Newman cùng đồng hành và tác động chúng ta, những lời mà
ông muốn dùng trong lời cầu nguyện với Chúa:
Xin Chúa hãy ở lại với con, và con sẽ bắt đầu tỏa sáng như Chúa đã tỏa
sáng; tỏa sáng để là ánh sáng cho những người khác. Lạy Chúa Giêsu, tất cả ánh sáng sẽ đến từ
Chúa: con không có công trạng gì. Chính Chúa sẽ tỏa sáng vào những người khác
thông qua con. Xin Chúa ban cho con có
thể ngợi khen Chúa được như vậy, theo cách mà Chúa hài lòng nhất, tỏa sáng trên
tất cả những người xung quanh con. Xin
hãy ban cho họ và cho con ánh sáng của Chúa; xin hãy sáng soi họ cùng chung với
con, qua con. Xin hãy dạy cho con biết
trải rộng lời chúc tụng Chúa, chân lý của Chúa, thánh ý của Chúa. Xin ban cho con có thể làm cho Chúa được biết
đến không phải qua những lời nói suông mà bằng gương mẫu, có ảnh hưởng đến sự
đoàn kết từ những việc con làm, hiển nhiên như các thánh của Chúa, và một cách
rõ ràng đầy đủ của tình yêu Chúa triển nở trong trái tim con” (trích Suy gẫm và Sùng Kính)
2.
Tin Mừng
29 Khi ấy,
ông Gioan thấy Chúa Giêsu tiến về phía mình liền nói: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần
gian. 30 Này tôi đã nói về Ngài: “Một
người đến sau tôi, nhưng đã có trước tôi, vì Ngài cao trọng hơn tôi.” 31 Và tôi, tôi đã không biết Ngài, nhưng để
Ngài được tỏ mình ra với Israel, nên tôi đã đến làm phép rửa trong nước”. 32 Và Gioan làm chứng rằng: “Tôi đã thấy Thánh Thần như chim bồ câu từ trời
đáp xuống và ngự trên Ngài. 33 Về phần
tôi, tôi đã không biết Ngài. Nhưng Đấng
sai tôi làm phép rửa trong nước phán bảo tôi:
“Ngươi thấy Thánh Thần ngự xuống trên ai, thì đó chính là Đấng làm phép
rửa trong Chúa Thánh Thần”. 34 Tôi đã thấy và tôi làm chứng: chính Ngài là Con Thiên Chúa”.
3.
Giây phút thinh lặng cầu nguyện
Lời Chúa
đòi hỏi chúng ta phải ao ước và đón nhận lấy qua việc im lặng suy gẫm. Các bạn hãy lắng đọng, hãy để cho chính mình
chào đón sự hiện diện của Thiên Chúa trong Lời của Người, một sự im lặng dọn chỗ
trong tâm hồn bạn để Thiên Chúa có thể đến và nói chuyện với bạn.
4.
Bài đọc tượng trưng
Đoạn Tin
Mừng này nói về hai con vật có giá trị tinh thần tuyệt vời trong Kinh
Thánh: con chiên và chim bồ câu. Con vật đầu tiên đề cập đến các văn bản quan
trọng trong Kinh Thánh: bữa ăn lễ vượt
qua của thời gian lưu đày (các câu 12-13); sự vinh quang của Chúa Kitô – Con
Chiên trong sách Khải Huyền.
a) Biểu tượng con chiên:
Chúng ta
hãy hướng sự chú ý của chúng ta đến sự tượng trưng của “Chiên Thiên Chúa”
(amnos) và ý nghĩa của nó.
- Ám chỉ Kinh Thánh đầu tiên cho việc hiểu biết
ý nghĩa của những chữ này được xử dụng bởi ông Gioan Tẩy Giả để chỉ về con người
của Chúa Giêsu, là nhân vật của Con Chiên chiến thắng trong sách Khải Huyền,
trong chương 7:17 Con Chiên là mục tử của các quốc gia; trong chương 17:14 Con
Chiên chiến thắng quyền lực sự dữ trên trái đất. Trong thời Chúa Giêsu, người ta đã tưởng tượng
rằng vào lúc tận thế một con chiên chiến thắng hay một con nào đó sẽ xuất hiện
để phá hủy các quyền lực tội lỗi, bất công và sự dữ. Ý tưởng này phù hợp với lời rao giảng về ngày
cánh chung của Gioan Tẩy Giả, người đã cảnh báo rằng cơn thịnh nộ của Thiên
Chúa đã sắp xảy ra (Lc 3:7), rằng cái rìu đã để sẵn dưới gốc cây, và Thiên Chúa
đã sẵn sàng để chặt đi và bỏ vào lửa tất cả những cây nào không sinh trái tốt (Lc
3:9, Mt 3:12 và Lc 3:17).
Một câu
nói mạnh mẽ khác mà Gioan Tẩy Giả giới thiệu về Chúa Giêsu trong Tin Mừng
Mátthêu chương 3:12: “Ngài cầm nia trong
tay mà sẩy sân lúa của Ngài; rồi thu lúa vào kho, còn rơm thì đốt đi trong lửa
không hề tắt”. Không có gì sai lầm khi
nghĩ rằng Gioan Tẩy Giả có thể mô tả Chúa Giêsu là Chiên Thiên Chúa là Đấng phá
bỏ tội lỗi của thế gian. Thực thế, trong
thư thứ nhất của thánh Gioan, chương 3:5 đã viết: “Bây giờ anh em biết Đức Giêsu đã xuất hiện để
xóa bỏ tội lỗi”; và trong chương 3:8: “Sở
dĩ Con Thiên Chúa xuất hiện là để phá hủy công việc của ma quỷ đã làm”. Có thể là Gioan Tẩy Giả đã chào đón Chúa
Giêsu như Con Chiên chiến thắng, Đấng do lệnh của Thiên Chúa, đến để phá bỏ sự
dữ trên thế gian.
- Ám chỉ Kinh Thánh thứ hai là Con Chiên như là
người tôi trung. Hình ảnh của người tôi
trung này hay của Đấng Giavê là chủ đề của bốn bài thánh ca trong sách của tiên
tri Isaia: 42:1-4, 7, 9; 49:1-6, 9, 13; 50:4-9, 11; 52:13; 53:12. Chúng ta cần tự hỏi có phải là việc dùng chữ
“Chiên Thiên Chúa” trong Tin Mừng Gioan 1:29 không được tô đậm bằng chữ “con
chiên” để ám chỉ người Tôi Trung của Thiên Chúa trong sách Isaia chương
53. Thánh sử Gioan có đã thực sự xem Con
Chiên Giêsu như là Người Tôi Trung không?
Không có
bằng chứng rõ ràng rằng ông Gioan Tẩy Giả đã thực hiện một sự nối kết như thế,
cũng không có bằng chứng nào loại trừ khả năng như thế. Thật vậy, trong sách Isaia chương 53:7 viết
là Người Tôi Trung “chẳng bao giờ mở miệng kêu ca; như cừu câm nín khi bị xén
lông, Người chẳng hề mở miệng”. Lời mô tả
này được áp dụng cho Chúa Giêsu như trong sách Tông Đồ Công Vụ chương 8:32, và
vì thế sự tương tự giữa người Tôi Trung và Đức Giêsu đã được thực hiện bởi các
Kitô hữu tiên khởi (xem Mt 8:17 và Is 53:4; Dt 9:28 và Is 53:12).
Ngoài
ra, trong lời mô tả của ông Gioan Tẩy Giả về Chúa Giêsu trong Tin Mừng Gioan
chương 1:32-34, có hai khía cạnh gợi nhớ lại hình ảnh của người Tôi Trung: trong câu 32, Gioan Tẩy Giả nói rằng ông đã
thấy Chúa Thánh Thần như chim bồ câu từ trời đáp xuống và ngự trên Ngài; trong
câu 34 ông xác định chính Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Cũng như thế, trong sách Isaia 42:1 (một đoạn
tóm tắt cũng liên kết với việc Chúa Giêsu chịu phép rửa), chúng ta đọc thấy: “Đây là người tôi trung Ta nâng đỡ, là người
Ta tuyển chọn và quý mến hết lòng. Ta cho Thần
Khí Ta ngự trên nó” (xem Mc 1:11). Lần nữa,
trong sách Isaia chương 61:1: “Thần Khí
của Đức Chúa ngự trên tôi”. Những ám chỉ
này trong Kinh Thánh tăng cường khả năng tác giả Phúc Âm đã nối kết giữa người
Tôi Trung của sách Isaia chương 42, 53 và Chiên Thiên Chúa.
Trong các
phần khác của Tin Mừng Gioan, chúng ta cũng tìm thấy Chúa Giêsu được mô tả với
những đặc điểm của người Tôi Trung (Ga 12:38 và Is 53:1).
Một khía cạnh
thú vị được nhận thấy là Chiên Thiên Chúa được cho là Đấng xóa tội của trần
gian. Sách Isaia chương 53:4-12, nói rằng
người Tôi Trung đã gánh hoặc chuộc những tội lỗi của nhiều người. Bằng cái chết của Người, Chúa Giêsu đã xóa tội
hoặc đã gánh tội cho thế gian.
Như vậy
theo cách giải thích thứ hai, Chiên Thiên Chúa như người Tôi Trung, là Đức Kitô
đã tự nộp mình để xóa bỏ tội lỗi thế gian và khôi phục các anh chị em của Ngài
lại bằng xương bằng thịt trở về với Thiên Chúa.
Chúng ta
tìm thấy một sự xác nhận hiện đại của câu giải thích này về Chúa Giêsu là
“Chiên Thiên Chúa” trong một tài liệu của các Giám Mục tại Ý: “Sách Khải Huyền của Gioan thậm chí sẽ đi đến
tận cùng chiều sâu của mầu nhiệm về Đấng được sai đi bởi Chúa Cha, công nhận
Người là Con Chiên, là Đấng chịu hy sinh ‘từ thuở tạo dựng thế gian’ (Kh 13:8),
Đấng mà những vết thương của Người đã chữa lành chúng ta (1Pr 2:25; Is
53:5)” (Truyền thông Tin Mừng trong một
thế giới thay đổi, số 15).
- Ám chỉ Kinh Thánh thứ ba là Con Chiên như con
chiên của lễ vượt qua. Tin Mừng của Gioan
thì đầy các biểu tượng về sự Phục Sinh đặc biệt là liên quan đến cái chết của
Chúa Giêsu. Đối với cộng đoàn Kitô hữu
mà thánh Gioan đã viết Tin Mừng cho họ, Con Chiên đã xóa tội trần gian bởi cái
chết của Người. Thật thế, trong Tin Mừng
Gioan chương 19:14 được viết rằng Chúa Giêsu bị kết án tử hình vào trưa ngày
trước hôm lễ Vượt Qua, đó là lúc các thày thượng tế bắt đầu làm thịt con chiên
trong Đền Thờ để mừng lễ Vượt Qua. Một sự
kết nối khác của biểu tượng lễ vượt qua với cái chết của Chúa Giêsu là trong
khi Chúa Giêsu bị treo trên thập giá, một miếng bọt biển thấm đầy giấm được buộc
vào một cây que rồi đưa lên miệng Người (Ga 19:29), và cây que hoặc nhành hương
thảo đã được nhúng trong máu của con chiên sát tế cho lễ Vượt Qua đã được bôi
lên khung cửa của dân Do-Thái (Xh 12:22).
Sau đó, trong Tin Mừng Gioan chương 19:36 việc ứng nghiệm của Kinh Thánh
rằng không một chiếc xương nào của Chúa Giêsu bị đánh dập, rõ ràng là một ám chỉ
đến bản văn trong sách Xuất Hành chương 12:46 trong đó viết rằng không được làm
gãy một chiếc xương nào của con chiên bị sát tế trong lễ Vượt Qua. Lời mô tả Chúa Giêsu như Con Chiên được tìm
thấy trong một tác phẩm khác của Gioan, được gọi là sách Khải Huyền: chương 5:6 đề cập đến con chiên hy sinh; các
chương 7:17 và 22:1, từ Con Chiên chảy ra một dòng nước trường sinh và khía cạnh
này cũng là một ám chỉ tới việc ông Môisen làm cho nước chảy ra từ đá; cuối
cùng, chương 5:9 nhắc đến máu cứu chuộc của Con Chiên, một chủ đề Vượt Qua khác
gợi nhớ lại việc cứu thoát dân tộc Do Thái khỏi sự nguy hiểm của cái chết.
Có một sự
tương đồng giữa máu của con chiên bôi lên khung cửa như một dấu hiệu của việc
giải thoát và máu của con chiên được dâng lên trong hy lễ cho sự giải
thoát. Chẳng bao lâu các Kitô hữu đã bắt
đầu so sánh Đức Giêsu với con chiên của lễ Vượt Qua, khi làm như thế, họ đã
không ngần ngại xử dụng ngôn từ hiến tế:
“Đức Kitô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta” (1Cr 5:7),
bao gồm cả nhiệm vụ của Chúa Giêsu xóa đi tội lỗi của trần gian.
b) Biểu tượng chim bồ câu:
Sự tượng
trưng thứ hai này cũng có một vài khía cạnh của nó. Trước hết, những chữ “như chim bồ câu” đã thường
được dùng để diễn tả sự nối kết tình cảm với cái tổ. Trong bối cảnh của chúng ta, có thể nói rằng
Chúa Thánh Thần đã tìm thấy tổ của mình, môi trường sống tự nhiên của tình yêu
Chúa Thánh Linh ở trong Chúa Giêsu. Hơn
thế nữa, chim bồ câu tượng trưng cho tình yêu của Chúa Cha đặt trên Chúa Giêsu
như một nơi ở vĩnh viễn (xem Mt 3:16; Mc 1:10; Lc 3:22).
Sau đó,
những chữ “như chim bồ câu” được xử dụng trong việc liên kết với động từ đáp xuống
để nói rằng đó không phải là một thắc mắc về mặt vật chất của chim bồ câu nhưng
là cách Chúa Thánh Thần ngự xuống (như sự đáp xuống của chim bồ câu), trong ý
nghĩa rằng đó không phải là một sự tấn công mà là sự truyền đạt của lòng tin tưởng. Trong Thánh Kinh, biểu tượng về chim bồ câu
như thế không có một biểu tượng tương ứng nào khác; tuy nhiên, một chú giải
Thánh Kinh cũ của các trường phái đạo Do-Thái so sánh sự bay lượn lơ lửng của
Chúa Thánh Thần trên các vùng biển thời nguyên thủy với việc chim bồ câu vỗ
cánh bay lượn trên tổ của mình. Không phải
là không thể xử dụng biểu tượng này, Gioan đã muốn nói rằng việc ngự xuống của
Chúa Thánh Thần trong hình dạng của một chim bồ câu là một nhắc nhở rõ ràng cho
sự khởi đầu của việc tạo dựng vũ trụ: kế
hoạch của Thiên Chúa nhập thể làm người trong Đức Giêsu là điểm tột đỉnh và là
mục đích của công việc sáng tạo của Thiên Chúa.
Tình yêu
của Thiên Chúa dành cho Đức Giêsu (tương ứng với việc chim bồ câu bay trở về tổ)
thúc đẩy Người phải chuyển tải sự sung mãn thiên tính của Người (Chúa Thánh Thần
là tình yêu và lòng trung thành).
5. Sứ
Điệp
a) Đức Kitô là Đấng Cứu Độ của chúng ta: Ông Gioan Tẩy Giả đã có nhiệm vụ chỉ ra rằng
Chúa Giêsu là “Chiên Thiên Chúa Đấng xóa tội trần gian”. Việc công bố Tin Mừng, Lời của Chúa Giêsu
Kitô, thật là cần thiết và không thể thiếu được cho hôm nay cũng như trong quá
khứ. Chúng ta không bao giờ ngừng có nhu
cầu về sự giải thoát và ơn cứu rỗi. Công
bố Tin Mừng không có nghĩa là chỉ truyền đạt sự thật trên lý thuyết, cũng không
phải là một bộ sưu tập các bài dạy về đạo đức.
Thay vào đó, nó có nghĩa là cho phép mọi người được trải nghiệm với Chúa
Giêsu Kitô, Đấng đã xuống thế gian – theo sự làm chứng của Gioan – để cứu nhân
loại khỏi tội lỗi, sự dữ và cái chết. Vì
vậy, chúng ta không thể nào loan truyền Tin Mừng và cùng lúc không chú ý đến
các nhu cầu hằng ngày và sự mong đợi của người dân. Để nói về niềm tin vào Đức Giêsu, Chiên Thiên
Chúa, Đấng xóa tội trần gian, có nghĩa là nói với những người dân trong thời đại
của chúng ta, việc đầu tiên chúng ta nên tự hỏi họ đang kiếm tìm những gì trong
sâu thẳm của trái tim họ.
“Nếu
chúng ta muốn giữ lấy một tiêu chuẩn thích hợp…, chúng sẽ cần phải nuôi dưỡng
hai điểm trọng yếu bổ sung nhau… Chúa Giêsu Kitô là chứng tá cho cả hai. Điều đầu tiên bao gồm nỗ lực của chúng ta lắng
nghe nền văn hóa của thế giới chúng ta để phân biệt các hạt giống Lời Chúa đã
hiện diện ở đó, thậm chí vượt khỏi các biên giới hữu hình của Giáo Hội. Để lắng nghe những sự mong đợi thân mật nhất
của những người đương thời với chúng ta, hãy cân nhắc một cách nghiêm túc những
mong ước và khát vọng của họ, hãy tìm cách hiểu những điều gì đang nung nấu tâm
can họ và những điều gì khiến họ sợ hãi và kém tự tin”. Bên cạnh đó, hãy chú ý đến các nhu cầu và sự
mong đợi của dân chúng “không có nghĩa là từ bỏ những gì khác biệt trong Kitô
giáo, hoặc sự siêu việt của Tin Mừng… sứ điệp Kitô hữu nhắm vào một cách sống
hoàn toàn nhân bản nhưng không tự giới hạn chỉ trình bày chủ nghĩa nhân bản đơn
thuần. Đức Giêsu Kitô đã đến để chúng
ta có thể được dự phần vào đời sống thiêng liêng, đời sống đã được gọi là “nhân
loại của Thiên Chúa”. (Truyền thông Tin
Mừng trong một thế giới thay đổi, số 34).
b) Chúa Thánh Thần không chỉ đến ngự xuống trên
Chúa Giêsu, nhưng cũng để chiếm hữu Người một cách vĩnh viễn để Người có thể tự
chia xẻ với những người khác trong phép rửa.
Sau cùng, Con Chiên tha thứ tội lỗi và “chim bồ câu của Giáo Hội, gặp gỡ
trong Đức Kitô”. Đây là một lời trích từ
thánh Bernard nơi ông tập hợp hai biểu tượng với nhau: “Con chiên là một trong những động vật mà
chim bồ câu là con vật thuộc giống chim muông:
ngây thơ, dịu dàng và mộc mạc”.
c) Một vài gợi ý thiết thực:
- Đổi mới lòng sẵn sàng của chúng ta để cộng
tác với sứ vụ của Chúa Kitô trong sự hiệp thông với Giáo Hội bằng cách giúp đỡ
cho người ta được thoát khỏi sự dữ và tội lỗi.
- Hỗ trợ những người trên cuộc hành trình của họ
để họ có thể sống trong hy vọng vào Chúa Giêsu là Đấng Giải Thoát và Cứu Chuộc.
- Làm chứng cho sự vui mừng của người ta trong
kinh nghiệm nhận được hiệu quả của Lời Chúa Giêsu trong đời sống của người ấy.
- Sống truyền thông đức tin bằng cách làm chứng
tá cho Đức Giêsu, Đấng Cứu D9ộ của mọi người.
6. Thánh
Vịnh 40
Bài
Thánh Vịnh này nói về tình cảnh của một người được giải thoát khỏi sự áp bức,
thấy không có thái độ nào chân thật hơn trong việc đáp lời Thiên Chúa là sự tồn
tại và hoàn toàn sẵn sàng cho Lời Người.
Tôi đã hết
lòng trông đợi CHÚA,
Người
nghiêng mình xuống và nghe tiếng tôi kêu.
Chúa cho
miệng tôi hát bài ca mới,
bài ca tụng
Thiên Chúa chúng ta.
Chúa chẳng
thích gì tế phẩm và lễ vật,
nhưng đã mở
tai con;
lễ toàn
thiêu và lễ xá tội, Chúa không đòi,
con liền
thưa: "Này con xin đến!
Trong sách
có lời chép về con
rằng:
con thích làm theo thánh ý,
và ấp ủ
luật Chúa trong lòng, lạy Thiên Chúa của con."
Đức công
chính của Ngài,
con loan
truyền giữa lòng đại hội;
lạy
CHÚA, Ngài từng biết: con đâu có ngậm miệng làm thinh.
7.
Lời nguyện kết
Lạy Cha,
Đấng vào trong ngày của Chúa
đã tụ tập
dân Cha để cử hành
Đấng Trước
Hết và Sau Hết,
Đấng Hằng
Sống đã chiến thắng sự chết,
xin Cha
hãy ban cho chúng con sức mạnh của Chúa Thánh Thần để
phá vỡ
xiềng xích của sự dữ,
nguyện
xin cho chúng con có thể quy phục Cha hoàn toàn
trong sự
vâng lời và tình yêu của chúng con,
để chúng
con có thể ngự trị với Chúa Kitô trong vinh quang.
Bởi vì
Người là Thiên Chúa, Đấng hằng sống và ngự trị với Chúa Cha,
trong sự
hiệp nhất của Chúa Thánh Thần, đến muôn thuở muôn đời.
(Trích
kinh Phụng Vụ)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét