Trang

Thứ Năm, 31 tháng 7, 2014

01-08-2014 : THỨ SÁU TUẦN XVII MÙA THƯỜNG NIÊN - THÁNH AN-PHONG MARIA LI-GÔ-RI, Giám mục, Tiến sĩ Hội Thánh (lễ nhớ)

01/08/2014
Thứ Sáu sau Chúa Nhật 17 Quanh Năm
                          Th. An-phong Ma-ri-a Li-gô-ri, Giám mục, Tiến sĩ Hội Thánh.
                          
Bài Ðọc I: (Năm II) Gr 26, 1-9
"Toàn thể dân chúng tập họp trước Thiên Chúa".
Trích sách Tiên tri Giêrêmia.
Khi Gioakim, con của Giosia vua nước Giuđa mới lên cai trị, thì Chúa phán rằng: "Ðây Chúa phán: Ngươi hãy đứng giữa tiền đàng đền thờ Chúa, và bảo mọi thành phố nước Giuđa đến thờ lạy trong đền thờ Chúa, hãy nói cho họ biết tất cả những lời Ta truyền cho ngươi nói với họ: ngươi chớ bớt một lời; may ra ai nấy nghe mà trở lại, và bỏ đàng tội lỗi của mình, mong Ta hối tiếc tai hoạ Ta định giáng xuống họ, vì sự gian ác họ ưa thích. Và ngươi hãy bảo họ rằng: Ðây Chúa phán: Nếu các ngươi không nghe Ta để bước đi trong lề luật Ta đã ban cho các ngươi, để nghe lời các tiên tri tôi tớ Ta mà ban đêm Ta chỗi dậy và điều động sai đến các ngươi, và các ngươi không nghe, thì Ta sẽ để đền thờ này như Silô, sẽ khiến thành này bị hết thảy các dân trên địa cầu nguyền rủa".
Các tư tế, các tiên tri, toàn dân đều nghe Giêrêmia nói những lời ấy trong đền thờ Chúa. Khi Giêrêmia nói hết những lời Chúa truyền cho ông nói với toàn dân, thì các tư tế, các tiên tri, và toàn dân bắt ông và nói rằng: "Ngươi phải chết! Tại sao ngươi nhân danh Thiên Chúa mà nói tiên tri rằng: 'Ðền thờ này sẽ như Silô, thành này sẽ hoang vu không ai cư ngụ'?" Và toàn dân tập họp phản đối Giêrêmia trong đền thờ Chúa.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 68, 5. 8-10. 14
Ðáp: Lạy Chúa, xin nhậm lời con theo lượng cả đức từ bi (c. 14c).
Xướng: 1) Những kẻ thù ghét con vô cớ, chúng nhiều hơn số tóc trên đầu con. Chúng thực là mạnh thế hơn con, những con người phản hại con trái lẽ: điều mà con không lấy, con cũng phải đền ư? - Ðáp.
2) Sở dĩ vì Chúa mà con chịu nhục, và thẹn thò làm nhơ nhuốc mặt con. Con bị những người anh em coi như khách lạ, bị những người cùng con một mẹ xem như kẻ ngoại lai. Sự nhiệt tâm lo việc nhà Chúa khiến con mòn mỏi; điều tủi nhục người ta nhục mạ Chúa đổ trên mình con. - Ðáp.
3) Nhưng lạy Chúa, con dâng lời nguyện cầu lên Chúa con. Ôi Thiên Chúa, đây là lúc biểu lộ tình thương. Xin nhậm lời con theo lượng cả đức từ bi, theo ơn phù trợ trung thành của Chúa. - Ðáp.
  
Alleluia: Tv 24, 4c và 5a
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Chúa và xin hướng dẫn con trong chân lý của Ngài. - Alleluia.

Phúc Âm: Mt 13, 54-58
"Nào ông chẳng phải là con bác thợ mộc ư? Vậy bởi đâu ông được những sự ấy?"
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu trở về quê quán Người, và giảng dạy người ta trong hội đường, khiến người ta ngạc nhiên và nói rằng: "Bởi đâu ông này được sự khôn ngoan và quyền làm phép lạ như vậy? Nào ông chẳng phải là con bác thợ mộc sao? Nào mẹ ông chẳng phải là bà Maria, và Giacôbê, Giuse, Simon, Giuđa chẳng phải là anh em ông sao? Và chị em ông, nào chẳng phải những người ở nơi chúng ta sao? Vậy bởi đâu ông được những sự ấy?" Và họ vấp phạm đến Người.
Nhưng Chúa Giêsu phán cùng họ rằng: "Không tiên tri nào mà không được vinh dự, trừ nơi quê quán và nhà mình". Người không làm nhiều phép lạ ở đó, vì họ chẳng có lòng tin.
Ðó là lời Chúa.


Suy Niệm: Tâm Thức Thời Ðại

Dư luận trong giới trí thức Âu Mỹ hiện nay đang nhắc nhiều đến cuốn sách bàn về tương lai nhân loại với tựa đề: "Ngỡ Ngàng Trước Tương Lai", trong đó tác giả nói về những thay đổi nhanh chóng hiện nay trên đời sống con người khiến ông cảm thấy ngỡ ngàng. Theo tác giả thì tâm lý thường tình của con người thích những khuôn sẵn có cho cuộc sống của mình nhờ đó con người dễ ổn định và dự liệu cho những gì xảy ra. Tắt một lời, dù có khuynh hướng sống thay đổi nhưng tận thâm tâm,con người sống và suy tưởng theo những khung sẵn có, và tệ hại hơn theo điều mà chúng ta gọi là thành kiến.
Tâm thức trên đây giúp chúng ta hiểu phần nào biến cố được trình thuật trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu trở về giảng dạy tại quê hương của Ngài là Nazareth, nhưng dân chúng tại đây không tin nhận Chúa, bởi vì họ suy tưởng và hành động theo thói quen, theo thành kiến. Họ đã quen với Chúa Giêsu như là con bác thợ mộc Giuse sống giữa họ từ bao năm nay, do đó giờ đây phải nhìn Chúa và đón nhận giáo huấn của Ngài với một tâm thức mới thì họ bị vấp phạm. Quả thật, như lời cụ già Simêon đã nói trong biến cố dâng Chúa vào Ðền thánh: Chúa Giêsu luôn luôn là dấu gợi lên chống đối; trực diện với Ngài, con người phải chọn lựa hoặc tin nhận, hoặc chối từ.
Chúng ta hãy xét lại xem đức tin của chúng ta hiện nay đối với Chúa Giêsu có còn sống động hay đã trở thành một thói quen khô khan, nguội lạnh, chỉ vì quá quen thuộc như dân làng Nazareth ngày xưa? Phải chăng cuộc sống của chúng ta đã trở thành mù quáng hoặc nô lệ cho những thành kiến đến độ không còn tin nhận Chúa và không còn bén nhạy trước tác động của ơn Chúa?
Xin Chúa tha thứ cho thái độ lạnh nhạt của chúng ta. Xin ban Thánh Thần để chúng ta nhìn thấy những dấu chỉ Chúa thực hiện trong đời sống và trong những biến cố hằng ngày để chúng ta luôn tin nhận Chúa.
Veritas Asia


Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Sáu Tuần 17 TN2
 Bài đọc: Jer 26:1-9; Mt 13:54-58

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sự Thật thường bị bóp méo!

Con người thường không muốn nghe và chấp nhận sự thật vì “sự thật mất lòng!” Chẳng hạn, các dân biểu sẽ không muốn nghe các linh mục nói tới công bằng khi họ đang đối xử bất công để tước đoạt quyền lợi của dân nghèo. Để che đậy tội lỗi của mình, con người thường bóp méo sự thật bằng cách thêm vào hay bớt đi những lời dạy của Thiên Chúa, của các ngôn sứ, hay của các đối thủ của họ.
Các bài đọc hôm nay nêu bật những lý do làm con người không muốn chấp nhận sự thật. Trong bài đọc I, Đức Chúa truyền cho ngôn sứ Jeremiah phải cẩn thận loan báo cho nhà Judah tất cả những gì Ngài truyền và ông đã làm như thế; nhưng họ không những không muốn nghe những lời ông loan báo, mà còn xúm lại bắt ông vì dám tuyên bố những thiệt hại sẽ xảy đến cho Đền Thờ. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu về Nazareth để dạy dỗ dân chúng những sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Dân chúng tuy nhận ra sự khôn ngoan tiềm ẩn nơi Ngài; nhưng vì kiêu ngạo và thành kiến, họ đã chối bỏ những gì Ngài dạy dỗ.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Hãy tìm hiểu Sự Thật

1.1/ Sự thật đến từ Đức Chúa qua tiên tri Jeremiah: Để tìm hiểu đâu là sự thật, chúng ta hãy cẩn thận xem xét những gì Chúa truyền cho tiên tri Jeremiah nói và những gì tiên tri đã loan báo:
- Lời Chúa phán: “Hãy đứng ở tiền đình Nhà Đức Chúa và ngươi sẽ loan báo cho mọi người của Judah và những người đang đến cầu nguyện trong Nhà Đức Chúa.Hãy loan báo cho chúng mọi lời Ta truyền cho ngươi, đừng bớt lời nào. Có lẽ chúng sẽ nghe và quay trở lại, mỗi người từ con đường xấu xa của mình, và Ta sẽ ngưng những tai hoạ mà Ta đang định giáng trên chúng vì những hành vi gian ác của chúng đã làm.” Ngươi hãy bảo chúng: “Đức Chúa phán như sau: Trừ phi các ngươi chịu nghe Ta mà sống theo Lề Luật Ta đã thiết lập trước các ngươi, và vâng nghe những lời dạy bảo của các ngôn sứ, tôi tớ của Ta, những người Ta sai đến với các ngươi mỗi sáng sớm, Ta đã sai nhưng các ngươi đã chẳng chịu nghe Ta; Ta sẽ đối xử với nhà này như với Shiloh, còn thành này Ta sẽ cho trở nên lời nguyền rủa cho mọi Dân Ngoại khắp nơi trên trái đất.”
- Sau đó, bài đọc I tường thuật: “Các tư tế, các ngôn sứ giả và toàn dân đã nghe ông Jeremiah loan báo những lời này trong nhà Đức Chúa.” Điểm đáng chú ý ở đây là Chúa đã cẩn thận dặn Jeremiah: “Hãy loan báo cho chúng mọi lời Ta truyền cho ngươi, đừng bớt lời nào.”

1.2/ Sự thật Shiloh: Trước khi hòm bia của Thiên Chúa được Vua David di chuyển về Jerusalem, hòm bia của Thiên Chúa được giữ lâu năm ở Shiloh. Trong sách I Samuel, từ chương 4 đến chương 6 có thuật lại lịch sử tại sao hòm bia Thiên Chúa bị di chuyển khỏi Shiloh: Khi quân Israel bị quân Philistine đánh bại ở Êben-ha-Ezer, các kỳ mục của Israel cố vấn cho dân chúng: “Hãy đi lấy hòm bia Thiên Chúa ở Shiloh đặt ở giữa ta để cứu ta khỏi tay quân thù,” và họ đã đi lấy hòm bia. Tuy nhiên, họ đã bị bại trận ngày hôm đó và hòm bia của Thiên Chúa đã rơi vào tay quân thù. Quân Philistines mang hòm bia về Ashdod về đặt bên cạnh đền thờ của họ là Dagon. Cứ mỗi sáng họ thấy thần Dagon nằm xấp mặt trước hòm bia Thiên Chúa của Israel, còn đầu và hai tay của Dagon bị quăng nơi thềm cửa. Chúa còn giáng hoạ trên dân chúng Ashdod bị sưng hạch khiến họ sợ phải gọi người Israel để trả lại hòm bia. Từ Ashdod hòm bia được di chuyển tới Bet-Shemesh, và ở lại Kiriat-Yearim một thời gian lâu trước khi được Vua David di chuyển hòm bia về Jerusalem.

1.3/ Sự thật bị bóp méo bởi người nghe: Sau khi ông Jeremiah đã nói mọi điều Đức Chúa đã truyền cho ông phải loan báo cho mọi người, thì các tư tế, các ngôn sứ giả, và toàn dân túm lấy ông mà bảo: ‘Ông sẽ phải chết!’ vì ông đã dám nhân danh Đức Chúa mà tuyên sấm rằng: ‘Nhà này sẽ nên như Shiloh, còn thành này sẽ ra điêu tàn, không ai cư ngụ!’
Nếu chúng ta cẩn thận đối chiếu những gì Chúa đã truyền cho tiên tri Jeremiah phải nói và những gì toàn dân đã tố cáo ông, chúng ta nhận ra những điều sau:
- Họ đã không đá động gì đến vế đầu của sấm ngôn: “Trừ phi các ngươi chịu nghe Ta mà sống theo Lề Luật Ta đã thiết lập trước các ngươi, và vâng nghe những lời dạy bảo của các ngôn sứ, tôi tớ của Ta, những người Ta sai đến với các ngươi mỗi sáng sớm, Ta đã sai nhưng các ngươi đã chẳng chịu nghe Ta;” mà chỉ chú trọng đến hậu quả của sấm ngôn, “Ta sẽ đối xử với nhà này như với Shiloh, còn thành này Ta sẽ cho trở nên lời nguyền rủa cho mọi Dân Ngoại khắp nơi trên trái đất.”
- Ngay cả việc lặp lại các hậu quả họ cũng đã bóp méo sự thật. Chúa nói: “thành này Ta sẽ cho trở nên lời nguyền rủa cho mọi Dân Ngoại khắp nơi trên trái đất,” trong khi họ nói “thành này sẽ ra điêu tàn, không ai cư ngụ!”
- Tại sao họ không chịu đá động gì đến vế đầu của lời sấm ngôn? Có thể vì họ không nhận ra tội lỗi của họ hay không muốn ai tố cáo tội lỗi của họ. Có thể vì họ ghét Jeremiah đến độ chỉ muốn tìm sơ hở của những gì ông nói để có cớ kết tội ông!

2/ Phúc Âm: Sự Thật bị chết ngạt vì thành kiến và kiêu ngạo

2.1/ Tại sao người đồng hương của Chúa Giêsu không nhận ra sự thật?
(1) Sự thật được hiểu bởi người cùng quê hương Chúa: Chính những người cùng quê hương với Chúa đã nhận ra ngay từ đầu sự khôn ngoan và uy quyền của Chúa khi họ sửng sốt và nói: “Bởi đâu ông ta được khôn ngoan và uy quyền như thế?” Điều họ muốn tìm ra là “bởi đâu” Chúa học được khôn ngoan và uy quyền như vậy?
(2) Sự thật bị gạt bỏ vì kiêu ngạo và thành kiến: Thay vì tìm cho ra nguồn gốc “bởi đâu” để tin vào Chúa họ lại bị kiêu ngạo và thành kiến che khuất để không còn nhìn ra sự thật. Họ kiêu ngạo vì họ không muốn ai hơn mình, và thành kiến vì thói quen khinh thường những người họ đã từng biết và chung sống với. Họ nói: “Ông không phải là con bác thợ mộc sao? Mẹ của ông không phải là bà Maria, anh em của ông không phải là các ông James, Joseph, Simon và Judah sao? Và chị em của ông không phải đều là bà con lối xóm với chúng ta sao?”

2.2/ Hậu quả của việc chống lại sự thật:
Thay vì tìm hiểu bằng cách hỏi Chúa để được Ngài cho biết lý do bởi đâu Ngài có được khôn ngoan và uy quyền như thế, họ đã để kiêu ngạo và thành kiến che khuất sự thật; và phải lãnh nhận hậu quả do chính họ gây nên. Thay vì “một người làm quan trăm họ được nhờ,” họ đã vấp ngã vì Người. Chúa Giêsu đã nói với họ: “Không có tiên tri nào được hưởng danh dự ở quê hương và trong gia đình mình.” Và Chúa Giêsu rời họ đi chỗ khác vì họ cứng lòng tin.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

- Chúng ta hãy luôn khiêm nhường đi tìm sự thật trước hết. Chúng ta đừng bóp méo sự thật vì bất cứ lý do gì; nếu không, chúng ta phải lãnh nhận những hậu quả tai hại
- Chúng ta đừng để bất cứ thành kiến nào che lấp sự thật. Hãy can đảm bênh vực và sống cho sự thật, vì sự thật sẽ giải thoát. 
Lm.Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.


HẠT GIỐNG NẨY MẦM
- MÙA QUANH NĂM –
- TUẦN 17 -
"Có những hạt rơi vào đất tốt.
Chúng mọc và lớn lên, sinh hoa kết quả :
hạt thì được ba mươi, hạt thì được sáu mươi,
hạt thì được một trăm" (Mc 4,8)
Mt 13,54-58

* Đặt trong sơ đồ chung của Mt :
Với 7 dụ ngôn trong phần Diễn từ (13,1-52), Mt đã đặt người ta trước một sự chọn dựa dứt khoát có đáp lại lời mời gọi gia nhập Nước Trời hay không. Ai đáp lại thì được kể là môn đệ của Chúa Giêsu. Dần dần những người môn đệ này làm thành một cộng đoàn nhỏ, một "giáo hội phôi thai".
Sang phần tường thuật (13,53--16,12. Từ hôm nay đến Thứ Tư tuần 18)), Mt cho thấy Chúa Giêsu huấn luyện từng bước cho cộng đoàn giáo hội này để đưa họ đến Đức Tin. Radermakers đặt tên cho phần tường thuật này là "hành trình đi đến đức tin của giáo hội".
Thực vậy trong phần này, ta thấy rõ cuộc hành trình đưa đến Đức Tin. Hai thuật ngữ được Mt dùng nhiều trong phần này là TIN và HIỂU.

A. Hạt giống...
Sau một thời gian hoạt động ở những nơi khác, Chúa Giêsu trở về quê hương Nadarét và vào giảng dạy trong hội đường. “Sự khôn ngoan và quyền làm phép lạ” của Ngài đã khiến cho những người đồng hương phải ngạc nhiên. Nhưng sự ngạc nhiên này không dẫn họ đến đức tin, bởi còn một chướng ngại ngăn cản, đó là xuất thân của Ngài : vì người ta biết quá rõ cha mẹ anh em Ngài đều là những người nghèo hèn quê mùa cho nên người ta không tin Ngài là Messia. Do người ta không tin, nên Chúa Giêsu không làm nhiều phép lạ.

B.... nẩy mầm.
1. Những người Nadarét đã ngạc nhiên và thán phục Chúa Giêsu. Họ đã tiến đến gần tới đức tin. Nhưng rất tiếc, hành trình ấy đã bị chận lại vì thành kiến. Họ nghĩ : một con người có cha mẹ và anh em là những kẻ nghèo nàn và tầm thường như thế không thể nào là Đấng Messia được.
Có những thành kiến thật vô lý, thế nhưng người ta vẫn để cho những thành kiến vô lý ấy ảnh hưởng đến mình.
Phải chăng nhiều lần tôi cũng đánh giá người khác theo những thành kiến : Anh ấy, chị ấy không thể nào khá được ! Con người như thế đó mà làm được cái gì !
2. “Nào ông ấy chẳng phải là con bác thợ mộc sao ?” : Trong số các thành kiến của chúng ta, có thứ thành kiến quái dị này là “cha nào con nấy”, cha mẹ dở thì con không thể giỏi, cha mẹ xấu thì con không thể tốt. Đành rằng, di truyền cũng có ảnh hưởng phần náo đó, nhưng không phải là tất cả. Có biết bao tấm gương về những đứa con tài giỏi thánh thiện xuất thân từ cha mẹ tầm thường và tội lỗi.
3. Một du khách mới đi Trung hoa về báo cáo rằng giới trí thức Trung hoa tuyên bố  : “Không, việc truyền giáo của quí vị không bám rễ vào đất nước chúng tôi được đâu, vì các nhà truyền giáo của quí vị mới đến chưa hiểu gì đã tuyên bố là đạo của chúng tôi là sai lạc.” Và một người Á đông khác cũng nói : “Các ông muốn chúng tôi bỏ những gì mà chúng tôi tin và chấp nhận những gì mà các ông tin” Đi truyền giáo mà có định kiến thì thà ở nhà còn hơn. (Góp nhặt)
4. “Ngài không làm nhiều phép lạ ở đó, vì họ chẳng có lòng tin” : Phép lạ chỉ diễn ra vì lòng tin và với lòng tin của con người. “Nếu chúng con có đức tin chỉ bằng hạt cát, chúng con có thể bảo quả núi này dời xuống biển…”.
Xin ban thêm đức tin cho con.
5. “Chúa Giêsu về quê, giảng dạy dân chúng trong hội đường của họ, khiến họ sửng sốt và nói : “Ông ta không phải là con bác thợ hay sao ? Mẹ ông không phải là bà Maria sao ?... Vậy bởi đâu ông ta được khôn ngoan như thế ?” Và họ vấp ngã vì Người.” (Mt 13,54-57)
Lạy Chúa Giêsu, dân làng Na-da-rét đã không tin vào Chúa vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công. Các muôn đệ đã không tin vào Chúa khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự. Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa chỉ vì Chúa sống như một con người. Cũng có lúc con không tin có Chúa hiện diện dưới hình bánh mong manh nơi một linh mục yếu đuối trong một Hôi Thánh có nhiều bất toàn. Dường như Chúa thích ẩn mình nơi những gì thế gian chê bỏ, để chúng con tập nhận ra Ngài bằng con mắt đức tin. Xin thêm đức tin cho chúng con để khiêm tốn nhận ra Ngài tỏ mình thật bình thường trong cuộc sống. (Hosanna)
Lm.Carolo HỒ BẶC XÁI – Gp. Cần Thơ

01/08/14 THỨ SÁU ĐẦU THÁNG TUẦN 17 TN
         Th. An-phong Ma-ri-a Li-gô-ri, Giám Mục, Tiến sĩ Hội Thánh                      Mt 13,53-58
Suy niệm: Người ta bảo rằng đời sống chung, nhất là đời sống hôn nhân, phải không ngừng tranh đấu với một quái vật có thể nuốt chửng mọi sự, đó là sự quen thuộc! Ngạn ngữ tiếng Anh cho rằng: “Sự quen thuộc sinh ra việc coi thường.” Nghe lời Đức Giê-su rao giảng, dân làng Na-da-rét sửng sốt hỏi: Bởi đâu ông Giê-su này được sự khôn ngoan như vậy? Một câu hỏi rất hay, có thể giúp họ nhận ra được chân tướng của Vị Cứu Thế. Thế nhưng, sự quen thuộc với gia đình, họ hàng của Ngài, với nghề nghiệp của cha nuôi Ngài, đã khiến họ coi thường Đức Giê-su, ngăn cản họ nhận ra Ngài là Đấng Mê-si-a của Chúa. Họ thất bại không trả lời được câu hỏi quan trọng bởi đâu do bởi thái độ “quen quá hóa nhàm” của họ.
Mời Bạn: Thái độ “Gần chùa gọi bụt bằng anh,” cũng có thể là tâm trạng của bạn hiện nay. Gần gũi, thường xuyên tiếp xúc với Chúa, các bí tích, nhất là Thánh Thể, khiến bạn mất đi cảm nhận về sự thánh thiêng, cao trọng của Thiên Chúa và các bí tích. Bạn sẽ làm gì để sự gần gũi, thân thiết với Chúa và các bí tích, nghi lễ giúp bạn thêm gắn bó, thay vì coi thường?
Sống Lời Chúa: Xem lại thái độ của tôi mỗi lần tham dự thánh lễ, các nghi thức... và luôn trân trọng, thành kính, sốt sắng mỗi khi tham dự.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, Chúa chấp nhận thân thiết, gần gũi với chúng con, dù biết rằng chúng con có thể vì sự quen thuộc ấy mà chưa có những tâm tình xứng hợp. Xin giúp chúng con ý thức sự cao cả, thánh thiêng của Chúa. Nhờ đó, chúng con có những tâm tình thờ phượng xứng hợp.

Đức Giêsu về quê
Chúng ta cũng cần được giải thoát khỏi những cái biết hẹp hòi, để thấy mình hạnh phúc khi sống với người khác gần bên.

Suy nim:
Sau khi đã chịu phép Rửa, vào hoang địa để cầu nguyện, ăn chay,
có một ngày nào đó, Đức Giêsu chia tay Đức Mẹ để lên đường.
Lên đường là bỏ lại ngôi làng Nadarét dấu yêu với bao kỷ niệm.
Chính tại đây Ngài đã sống hơn ba mươi năm trong bầu khí gia đình.
Chính tại nơi này, Ngài đã lớn lên quân bình về thân xác, trí tuệ, tâm linh.
Nadarét như một ngôi trường lớn, chuẩn bị cho Ngài chững chạc đi sứ vụ.
Tại đây, Đức Giêsu đã là con bác thợ Giuse (c. 55),
và đã trở thành thợ theo truyền thống cha truyền con nối.
Ngài đã được dạy nghề và hành nghề để kiếm sống cho bản thân và gia đình.
Đức Giêsu là một người thợ tại Nadarét, phục vụ cho nhu cầu dân làng.
Ngài biết đến cái vất vả của công việc chân tay nặng nhọc.
Đức Giêsu không thuộc giới trí thức, thượng lưu, quyền quý.
Lao động làm Ngài gần với người nghèo và thấy sự đơn sơ của tâm hồn họ.
Cũng tại Nadarét, đời sống cầu nguyện của Đức Giêsu được nuôi dưỡng.
Ngài học được lối cầu nguyện một mình ở nơi vắng vẻ.
Đức Giêsu có khả năng thấy sự hiện diện yêu thương của Cha nơi mọi sự,
nơi một bông hoa, nơi chim trời, nơi ánh nắng và cơn mưa.
Tình thân của Con đối với Cha ngày càng trở nên sâu đậm.
Ngài tìm ý Cha mỗi lúc và để Cha chi phối trọn vẹn đời mình.
Hôm nay Đức Giêsu trở về làng cũ sau một thời gian đi sứ vụ.
Ngài vào lại hội đường quen thuộc, gặp lại những khuôn mặt đồng hương.
Không rõ trước đây có lần nào bác thợ Giêsu được mời giảng ở đây chưa.
Nhưng lần này, khi trở về với tiếng tăm từ những phép lạ làm ở nơi khác,
Đức Giêsu đã khiến dân làng sửng sốt vì sự khôn ngoan trong lời giảng dạy.
Hai lần họ đặt câu hỏi: Bởi đâu ông ta được như thế? (cc. 54. 56).
Một câu hỏi rất hay, nếu được tìm hiểu một cách nghiêm túc.
Câu hỏi này có thể đưa họ đi rất xa, để gặp được căn tính của Đức Giêsu.
Tiếc thay, dân làng Nadarét lại không quên được nghề nghiệp của cha Ngài.
Họ nhớ rất rõ họ hàng gần xa của Ngài là mẹ và các anh chị.
Họ có thể kể tên từng anh chị em của Ngài, vì đều là bà con lối xóm (c. 55).
Đức Giêsu là người mà họ biết quá rõ từ thuở ấu thơ.
Làm sao con người bình thường, ít học đó lại có thể là một vị ngôn sứ?
Làm sao từ ngôi làng Nadarét vô danh này lại xuất hiện ngôn sứ được?
Và họ vấp ngã vì Đức Giêsu, nghĩa là họ đã không tin vào Ngài.
Cái biết gần gũi của họ về Ngài lại trở nên thành kiến
khiến họ không thể tiến sâu hơn vào mầu nhiệm con người Đức Giêsu.
Người đồng hương của Ngài đã không trả lời được câu hỏi: Bởi đâu…?
Mỗi con người là một mầu nhiệm mà ta phải khám phá mãi.
Có những mầu nhiệm lớn ẩn trong lớp áo tầm thường.
Dân làng Nadarét đã không nhận ra hồng phúc mà họ đang hưởng.
Chúng ta cũng cần được giải thoát khỏi những cái biết hẹp hòi,
để thấy mình hạnh phúc khi sống với người khác gần bên.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,
dân làng Nadarét đã không tin Chúa
vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công.
Các môn đệ đã không tin Chúa
khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự.
Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa
chỉ vì Chúa sống như một con người,
Cũng có lúc chúng con không tin Chúa
hiện diện dưới hình bánh mong manh,
nơi một linh mục yếu đuối,
trong một Hội thánh còn nhiều bất toàn.
Dường như Chúa thích ẩn mình
nơi những gì thế gian chê bỏ,
để chúng con tập nhận ra Ngài
bằng con mắt đức tin.
Xin thêm đức tin cho chúng con
để khiêm tốn thấy Ngài
tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ


Suy niệm
Tin mừng hôm nay kể lại sự kiện Đức Giêsu trở về quê nhà, sau thời gian đi rao giảng và làm nhiều phép lạ. Ngày Sabat, Ngài tiếp tục giảng dạy tại hội đường quê làng mình và khiến cho những người đồng hương sửng sốt. Nhưng họ đã dừng lại nơi nguồn gốc trần thế của Đức Giêsu, nên không thể tiến xa để nhận ra căn tính thật của Ngài. Chính cái biết nhưng không đủ của họ, đã khiến họ không tin, từ chối Đức Giêsu.
Hôm nay, đôi khi tôi quá cậy dựa vào cái biết hẹp hòi, mà đóng kín trước những sự thật khác về Chúa. Nhiều khi, tôi kết luận về một người mà chỉ dựa vào bề ngoài của họ, dựa vào định kiến có sẵn về họ, hay dựa vào những thông tin mà người khác cung cấp cho tôi về họ.

Mong sao, bằng sự thanh thoát trong cái nhìn linh thánh, tôi có thể nhận ra được những sự thật về Chúa.
Mong sao, luôn tỉnh thức vượt qua những định kiến có sẵn, tôi có thể tiến sâu hơn để nhận ra những giá trị thật nơi anh chị em đang sống bên tôi.

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng Tám

1 THÁNG TÁM

Tại Sao Thiên Chúa Cho Phép Sự Dữ Xảy Ra?

Thánh Kinh đảm bảo rằng “sự ác không lướt thắng được sự khôn ngoan” (Kn 7,30). Điều đó khích lệ chúng ta xác tín rằng trong kế hoạch quan phòng của Đấng Tạo Hóa, rốt cục sự dữ cũng ‘chịu thua’ sự thiện. Trong ánh sáng của sự quan phòng thần linh, chúng ta bắt đầu hiểu hai sự thật này: một là, “Thiên Chúa không muốn sự dữ vì chính nó”; hai là, “Thiên Chúa cho phép điều dữ xảy ra”.

Để hiểu tại sao “Thiên Chúa không muốn sự dữ vì chính nó”, chúng ta cần nhớ lại những lời trong Sách Khôn Ngoan: “Thiên Chúa không làm ra cái chết; Ngài cũng chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong. Ngài đã sáng tạo muôn loài cho chúng hiện hữu” (Kn 1,13-14).

Để hiểu tại sao Thiên Chúa cho phép sự dữ xảy ra giữa những sự vật thể lý, rất cần nhớ lại rằng vật chất thể lý – trong đó có thân xác con người – là những thứ dễ hư nát và tiêu vong. Chúng ta cần nhấn mạnh rằng điều này ảnh hưởng đến chính cơ cấu của bản tính vật chất của các tạo vật này. Nhưng điều này hoàn toàn lô-gíc. Thật khó mà hình dung rằng các thụ tạo vật chất có thể tồn tại mà không bị giới hạn trong tình trạng hiện hữu của thế giới vật chất chúng ta. Như vậy, chúng ta có thể hiểu rằng nếu “Thiên Chúa không làm ra cái chết” – như Sách Khôn Ngoan khẳng định – thì đồng thời Ngài vẫn cho phép cái chết xảy ra, trong viễn tượng của sự tốt lành phổ quát của toàn vũ trụ vật chất.

- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình
Thánh Alphongsô Maria Liguori, giám mục, Tiến sĩ Hội Thánh
 Bài đọc: Jer 26:1-9; Mt 13:54-58


LỜI SUY NIỆM: Người về quê, giảng dạy dân chúng trong hội đường của họ, khiến họ sửng sốt và nói: “Bởi đâu ông ta được khôn ngoan và làm được những phép lạ như thế” (Mt 13,54)

Những người đồng hương của Chúa Giêsu, họ tự cho là họ quá biết rõ về Ngài, Do đó họ đã ngạc nhiên về những điều Ngài đã thực hiện nơi xa quê, và hôm nay họ còn ngạc nhiên về sự khôn ngoan của Ngài tại quê nhà. Bởi họ đã tự mãn về sự hiểu biết của mình về Ngài. Họ chỉ thắc mắc mà không muốn tìm hiểu thêm. Nên họ đã không nhận ra “và họ đã vấp ngã vì Người” (c57). Điều này, chúng ta cũng đang mắc phải khi tự mãn cho là chúng ta đã hiểu biết về Chúa về Giáo Hội; rồi không chịu tiếp tục học hỏi Kinh Thánh, không soi mình vào trong Lời Chúa. Để nhận ra những gì mình đã thực hiện và những gì là thiếu sót và chưa sống.


Mạnh Phương

Gương Thánh nhân

Ngày 01-08
Thánh ALPHONSÔ LIGUORI
Gíam mục, Tiến Sĩ Hội Thánh (1696 - 1787)

Thánh Alphongsô Maria Liguori sinh ngày 27 tháng 9 năm 1696 tại Marinella gần Naples và là con trưởng trong 7 anh em. Ngay từ trong nôi, Ngài là giao điểm tập hợp ân huệ đáng mơ ước như trí thông minh, danh giá, tài sản, thiên khiếu nghệ thuật và một tấm lòng đại độ.
Trong khi đó người mẹ rất đạo hạnh nghĩ rằng: - Các ân huệ tốt đẹp nhất sẽ chẳng có giá trị gì nếu không hướng về Chúa. Người lãnh nhiều phải trả nhiều.
Như vậy ân phúc kỳ diệu nhất mà Alphongsô nhận được chính là giáo huấn của người mẹ. Alphongsô học tiếng Hy lạp, tiếng Latinh, tiếng Pháp và toán. Ngài say mê âm nhạc và hội họa. Là một con người có chí. Alphongsô gây ảnh hưởng tốt đối với chúng bạn. Bằng sự trong trắng tế nhị và lòng đạo đức của mình. Một người bạn kể lại rằng: có lần thua cuộc chơi và giận dữ đến độ trở nên sỗ sàng. Alphongsô buồn phiền nghỉ chơi và nói: - "Chúa không muốn tôi được chút tiền đã khiến cho bạn làm phiền lòng Ngài"
Thế rồi Alphongsô biến mất vào vườn. Các bạn đổ xô đi tìm Ngài và gặp Ngài đang quỳ cầu nguyện trước tượng Đức Mẹ đặt trên cành cây. Người bạn xấu xúc động nói : - "Tôi đã làm phiền một vị thánh".
Alphongsô thành công rất sớm trên cùng đời. 17 tuổi Ngài đậu bằng tiến sĩ luật khoa cả về giáo luật lẫn dân luật và đã bắt đầu hành nghề luật sư. Khả năng hùng biện của Ngài hứa hẹn một tương lai sáng lạn. Nhưng tuổi trẻ cũng có cớ dẫn Ngài tới lỗi lầm với trong hậu quả bi thảm, năm 1723 trong một vụ kiện, Ngài biện hộ với một giọng nói hùng hồn. Lý lẽ vững chắc, làm cho cả tòa án phải ngỡ ngàng tán thưởng. Nhưng khi vừa dứt lời, đối thủ ôn hoà vạch ra một lỗi nhỏ mà Ngài không nhận thấy. Chính lỗi nhỏ đó đã tiêu hủy luận chứng lẫn danh tiếng của Ngài.
Thất bại Alphongsô rất đau buồn và đã đóng cửa phòng hai ngày liền. Ngài suy nghĩ và tự hỏi rằng: "Đây không phải là lời mời gọi của Chúa hay sao ...? Bỏ nghề, Ngài nói : - "Ôi thế gian, ta đã biết ngươi. Hỡi pháp đình, ngươi sẽ không còn gặp ta nữa".
Ngài tìm đường sống và dấn thân cho công cuộc bác ái. Một ngày kia, đang khi thăm viếng các bệnh nhân trong một nhà thương, Ngài nghe hỏi: - "Ngươi làm gì ở thế gian này ?"
Nhìn chung quanh Ngài không thấy ai, nhưng Ngài vẫn nghe hỏi một lần nữa. Vào một nguyện đường dâng kính Đức Mẹ từ bi gần đó, Ngài hứa sẽ gia nhập dòng giảng thuyết và làm linh mục. Đặt thanh gươm trên bàn thờ Ngài nói:- "Lạy Chúa này con đây, xin hãy làm nơi con điều đẹp lòng Chúa. Con là gì và con có chi, con xin hiến dâng để phụng sự Chúa".
Nghe tin này cha Ngài giận dữ, Ngài quyết bỏ nghề, bỏ cả vị hôn thê của Ngài sao ? Ngài đã trả lời rằng: đối với Chúa chẳng có hy sinh nào gọi là quá lớn lao cả. Ngài cương quyết giữ ý định và cha Ngài không thèm nhìn đến Ngài nữa. Năm 1726, Ngài thụ phong linh mục.
Thánh nhân rao giảng khắp vương quốc Naples. Cha Ngài giận dữ quyết không chịu nghe. Ngày kia ông vào một thánh đường, đúng lúc con ông đang thuyết giảng. Thoạt đầu ông giận dữ, nhưng rồi dần dần ông mềm lòng. Ơn Chúa đã đến nhờ lời giảng dạy của con ông. Kết thúc giờ phụng vụ ra về ông nói: "Con tôi đã làm cho tôi được biết Chúa".
Suốt đời, thánh Alphongsô không những chỉ nỗ lực trong công việc tri thức mà còn lo tiếp xúc với dân chúng. Ngài chỉ thích việc ngồi tòa hơn là việc nghiên cứu. Ngài mang đặc điểm của một linh mục truyền giáo. Thành quả của Ngài thực hiện được chính là dòng Chúa Cứu Thế, thành lập tại Scala tháng 11 năm 1732. Dầu cho từ đầu, hội dòng đã bị phân rẽ thành hai phe và thánh Alphongsô phải khởi đầu lại, với hai người bạn, nhưng hội dòng cũng khởi sự lớn dần. Dòng được chuẩn nhận ngày 21 tháng 2 năm 1749.
Năm 1548 thánh nhân xuất bản bộ thần học luân lý, được đức giáo hoàng Bênêdictô XIV phê chuẩn và gặt trong nhiều thành quả tức thời.
Năm 1762 Đức Clementô XIV đặt Ngài làm giám mục cai quản địa phận Agata. Ngài nỗ lực thăng tiến lòng đạo đức trong điạ phận, khởi sự từ viêc canh tân hàng giáo sĩ. Năm 1775 Ngài được đức giáo hoàng Piô VI cho phép từ nhiệm để về sống trong dòng tại Nocera.
Những năm cuối đời, thánh Alphongsô đã trải qua rất nhiều đau khổ cả thể xác lẫn tinh thần. Dầu trong "đêm tối của linh hồn" Ngài vẫn không nao núng và luôn kiên trì cầu nguyện. Ngài nói: "Ai cầu nguyện sẽ được cứu thoát, ai không cầu nguyện sẽ tự luận phạt". Cuối cùng Ngài tìm được bình an và qua đời năm 1787.


(daminhvn.net)
01 Tháng Tám

Bài Giảng Của Vị Giáo Trưởng

Trong một thị trấn nhỏ bên Liên Xô. Một số người Do Thái đang chờ đón vị giáo trưởng của họ. Đã lâu lắm cộng đoàn của họ không có người lãnh đạo. Vị giáo trưởng lại cư ngụ trong một thành phố khác. Ông chỉ đến thăm cộng đoàn nhỏ bé này mỗi năm một lần. Ai ai cũng náo nức được gặp con người thánh thiện nổi tiếng này. Mọi người chuẩn bị những câu hỏi mà họ sẽ lần lượt nêu lên để xin vị giáo trưởng giải đáp.
Khi ông đến nơi, sự căng thẳng càng hiện lên trên nét mặt của nhiều người. Ai cũng đang trong tư thế giơ tay để đặt câu hỏi. Nhưng khi mọi người đã an tọa trong phòng họp, vị giáo trưởng không nói lời nào. Ông đưa mắt nhìn mọi người. Một hồi lâu, ông bỗng ngân nga một điệu nhạc. Mọi người đều bắt chước làm theo. Vị giáo trưởng lại cất tiếng hát lên một bài ca quen thuộc. Mọi người cũng hát theo ông... Mọi người tưởng nghi thức mở đầu ấy sẽ chấm dứt và vị giáo trưởng sẽ nói lên những lời vàng ngọc.
Nhưng không, trái với sự chờ đợi của mọi người, hết bài ca này đến bài ca khác, ông không ngừng bắt lên những bài ca mới. Khi các bài ca vừa dứt, ông bước xuống khỏi bục giảng và bắt đầu nhảy múa. Ông vừa nhảy vừa vỗ tay, không mấy chốc cả cử tọa cũng bước ra khỏi ghế và nhảy theo ông. Tiếng vỗ tay, tiếng hát, tiếng nhịp chân lôi kéo mọi người vào điệu múa khiến họ không còn nhớ đến những câu hỏi mà họ đã chuẩn bị từ mấy hôm trước. Cả cộng đoàn hòa nhịp với nhau trong đôi chân, cùng nắm tay nhau, cùng khăng khít với nhau trong phấn khởi, vui tươi, cảm thông, hiệp nhất...
Khi các điệu vũ đã chấm dứt, mọi người trở về chỗ ngồi của mình. Lúc bấy giờ, vị giáo trưởng mới lên tiếng nói và ông chỉ nói có vỏn vẹn một câu ngắn ngủi như sau: "Tôi tin chắc rằng tôi đã trả lời cho mọi thắc mắc của anh chị em".

Cô đơn là nguyên nhân gây ra mọi thứ xáo trộn, bệnh tật trong chúng ta. Cô đơn đưa chúng ta đến sầu muộn. Sầu muộn đưa chúng ta đến nổi loạn. Nổi loạn đưa chúng ta đến tội ác...
Có những người bị người khác đày đọa cô đơn, nhưng cũng không thiếu những người tự giam hãm vào cô đơn. Nhưng đày đọa kẻ khác vào cô đơn cũng có nghĩa là cắt bớt đi một sợi dây liên kết, là tiến dần đến chỗ cô đơn.
Để ra khỏi cô đơn, liều thuốc duy nhất chính là làm cho người khác bớt cô đơn. Một tiếng hát vui tươi cất lên để mời gọi mọi người cùng hát với mình, một tiếng vỗ tay tung ra để mời gọi mọi người cùng phấn khởi với mình, một nhịp bước đưa ra để mời gọi mọi người cùng nhảy múa với mình: khi hòa nhịp với nhau trong một niềm vui chung, người ta sẽ xóa đi được bao nhiêu vấn đề vướng mắc trong tâm tư.
Có ra khỏi chính mình để chia vui sẻ buồn với người, có ra khỏi chính mình để chỉ nghĩ đến những ưu tư phiền muộn của người, có ra khỏi chính mình để lo lắng cho người, để giúp đỡ người, chúng ta mới làm vơi đi được nỗi cô đơn của mình và cũng giúp người bớt cô đơn.
Cho thì có phúc hơn nhận lãnh: càng trao ban, càng ra khỏi chính mình, chúng ta mới cảm thấy vơi nhẹ đi những ưu tư, lo lắng của mình...

(Lẽ Sống)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét