Trang

Thứ Tư, 23 tháng 7, 2014

24-07-2014 : THỨ NĂM TUẦN XVI MÙA THƯỜNG NIÊN

24/07/2014
Thứ Năm sau Chúa Nhật 16 Quanh Năm

Bài Ðọc I: (Năm II) Gr 2, 1-3. 7-8. 12-13
"Họ đã bỏ Ta là nguồn nước hằng sống, để đào giếng rạn nứt".
Trích sách Tiên tri Giêrêmia.
Ðây lời Chúa phán cùng tôi rằng: "Ngươi hãy đi và hãy la vào tai Giêrusalem rằng: Ðây Chúa phán: Ta đã nhớ mối tình thanh xuân của ngươi, nhớ đến tình yêu thời đính hôn của ngươi, khi đó ngươi theo Ta trong sa mạc, trong phần đất chưa gieo trồng. Lúc ấy Israel đã được thánh hiến cho Chúa, và là hoa quả đầu mùa của Người; những ai động đến nó, phải đắc tội và phải chuốc lấy tai hoạ". Chúa phán như vậy.
"Ta đã dẫn dắt các ngươi vào đất phì nhiêu, để các ngươi hưởng dùng hoa quả của nó; nhưng vừa ở đó, các ngươi đã làm dơ bẩn đất của Ta và biến cơ nghiệp Ta thành nơi ghê tởm. Các tư tế không nói: 'Chúa ở đâu?'; (các kẻ) nắm giữ lề luật không nhìn biết Ta, còn các chủ chăn thì phản bội Ta, và các tiên tri lại nhân danh Baal mà nói tiên tri và chạy theo các bụt thần giả trá".
Chúa lại phán: "Hỡi tầng trời, hãy kinh ngạc về điều này, và hỡi các cửa trời, hãy ưu sầu thảm não! Vì chưng, dân Ta đã phạm hai tội xấu xa: Họ đã từ bỏ Ta là nguồn nước hằng sống, để đào những giếng rạn nứt không giữ nước được".
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 35, 6-7ab. 8-9. 10-11
Ðáp: Lạy Chúa, nguồn sống là ở như nơi Chúa (c. 10a).
Xướng: 1) Lạy Chúa, đức từ bi Ngài chạm tới trời cao; lòng trung tín của Ngài vươn tới ngàn mây. Ðức công minh của Ngài như núi non Thiên Chúa; sự phán quyết của Ngài như biển thẳm sâu. - Ðáp.
2) Ôi Thiên Chúa, cao quý thay ân sủng của Ngài; con người ta tìm nương tựa trong bóng cánh của Ngài. Họ được ăn no đồ bổ dưỡng nơi nhà Chúa, và Chúa cho họ uống bởi nguồn vui thú của Ngài. - Ðáp.
3) Bởi chưng nguồn sống là ở như nơi Chúa, và trong sự sáng của Ngài, chúng con nhìn xem sự sáng. Xin Chúa dành để tình thương cho những ai thờ Chúa, và đức công minh Ngài cho những kẻ lòng ngay. - Ðáp.
  
Alleluia: Ga 15, 15b
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết". - Alleluia.

Phúc Âm: Mt 13, 10-17
"Về phần các con, đã cho biết những mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không cho biết".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, các môn đệ đến gần thưa Chúa Giêsu rằng: "Tại sao Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ?" Người đáp lại: "Về phần các con, đã cho biết những mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không cho biết. Vì ai đã có, thì ban thêm cho họ được dư dật; còn kẻ không có, thì cái họ có cũng bị lấy đi. Bởi thế, Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ: vì họ nhìn mà không thấy, lắng tai mà không nghe và không hiểu chi hết. Thế mới ứng nghiệm lời tiên tri Isaia nói về họ rằng: "Các ngươi lắng tai nghe mà chẳng hiểu, trố mắt nhìn mà chẳng thấy gì. Vì lòng dân này đã ra chai đá, họ đã bịt tai, và nhắm mắt lại, kẻo mắt thấy được, tai nghe được, và lòng chúng hiểu được mà hối cải, và Ta lại chữa chúng cho lành".
"Phần các con, phúc cho mắt các con vì được thấy; và phúc cho tai các con vì được nghe. Quả thật, Thầy bảo các con: Nhiều vị tiên tri và nhiều đấng công chính đã ao ước trông thấy điều các con thấy, mà không được thấy; mong ước nghe điều các con nghe, mà không được nghe".
Ðó là lời Chúa.


Suy Niệm: Tại Sao Dùng Dụ Ngôn

Kitô giáo là đạo từ trời xuống, vì những giáo lý và niềm tin Kitô do chính Thiên Chúa truyền xuống. Chúa Giêsu Kitô, Ngôi Lời Thiên Chúa chính là mạc khải về Thiên Chúa cho con người.
Trong lời rao giảng của Ngài, Chúa Giêsu thường dùng dụ ngôn để nói về Nước Trời, một thực tại không thể diễn tả được bằng ngôn ngữ loài người, và nếu có diễn tả được, thì con người cũng không thể hiểu nổi vì nó vượt khỏi thế giới khả giác này, hay nói như thánh Phaolô, đó là thực tại mà mắt con người chưa từng thấy, tai chưa từng nghe, lòng người chưa từng cảm nghiệm được. Thực tại ấy không thể thu hẹp trong một vài câu định nghĩa, mà phải diễn tả bằng dụ ngôn, vì cách diễn tả này không giới hạn, nhưng tạo thuận lợi cho việc tìm hiểu sâu xa hơn.
Dụ ngôn là một thứ ngôn ngữ nói với những người trong cuộc, những người sống trong tình thân với nhau. Ðể hiểu được dụ ngôn, cần phải có hai đức tính quan trọng, đó là tâm hồn rộng mở và ước muốn tìm hiểu. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: "Về phần các con đã được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không". Nói khác đi, các môn đệ đã được chấp nhận vào cộng đoàn của những kẻ tin vào Chúa Giêsu, vì thế, các ông có thể hiểu rõ những mầu nhiệm. Còn những kẻ ở bên ngoài, nhất là những kẻ ở bên ngoài vì kiêu hãnh, vì khép kín, vì định kiến, như các Luật sĩ và Biệt phái, thì khi nhìn vào các mầu nhiệm họ chỉ thấy bí ẩn và khó hiểu. Chính cách trả lời của Chúa là tiêu chuẩn để biết được ai là người thuộc về Chúa và ai là người ngoài cuộc: "Nếu Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ, là vì họ nhìn mà không thấy, lắng tai mà không nghe. Còn các con, mắt các con thật có phúc vì được thấy, tai các con có phúc vì được nghe".
Ước gì chúng ta được vào số những người mà Chúa Giêsu cho là có phúc, tức là những người thấy, nghe và hiểu được Lời Chúa cũng như nhận ra ý Chúa trong mọi biến cố cuộc sống.
Veritas Asia


Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Năm Tuần 16 TN2, Năm Chẵn
Bài đọc: Jer 2:1-3, 7-8, 12-13; Mt 13:10-17

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Nếu những nhà lãnh đạo không nói và làm chứng cho Thiên Chúa, nhân loại sẽ quên Ngài.
Có một câu truyện kể khi Chúa Giêsu khải hoàn trở về trời, sứ thần Gabriel ra đón Chúa Giêsu và hỏi: “Loài người có nhận biết những gì Ngài làm cho họ không?” Chúa Giêsu trả lời: “Các môn đệ của tôi sẽ nói cho họ biết.” Sứ thần hỏi tiếp: “Điều gì sẽ xảy ra nếu họ quên không rao giảng?” Chúa Giêsu trả lời: “Tôi tin là các môn đệ của tôi sẽ không làm chuyện đó.”
Bổn phận quan trọng nhất của các người lãnh đạo và các ngôn sứ là nói về Chúa và làm mọi cách cho dân nhận biết Chúa; nhưng trong thực tế, nhiều người lãnh đạo đã lãng quên bổn phận quan trọng này. Thay vào đó, họ chạy theo những bụt thần và dạy cho dân làm theo như vậy. Nhiều nhà lãnh đạo trong xã hội chúng ta đang cố gắng loại trừ Thiên Chúa ra khỏi thế giới: Họ cấm đọc kinh hay thinh lặng nhớ đến Chúa trước giờ học; họ muốn cất đi bảng 10 điều răn trong các tòa án …
Các bài đọc hôm nay muốn nhắc nhở cho mọi người bổn phận làm ngôn sứ của Thiên Chúa. Trong bài đọc I, Thiên Chúa kết tội hàng lãnh đạo của Israel vì họ đã không làm tròn bổn phận dạy dỗ dân. Trong Phúc Âm, khi các môn đệ hỏi Chúa Giêsu lý do Ngài dùng dụ ngôn mà nói chuyện với dân chúng, Chúa Giêsu trả lời: “Bởi vì anh em thì được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không.”

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Những người lãnh đạo của Jerusalem đã không chu toàn bổn phận của mình.
1.1/ Hãy đi mà thét vào tai Jerusalem: Dân chúng rất mau quên; vì thế, họ cần được các nhà lãnh đạo tinh thần nhắc đi nhắc lại tất cả những gì Thiên Chúa đã làm cho họ. Nếu không, chỉ cần qua một thế hệ là những thế hệ đi sau sẽ không còn biết gì đến Thiên Chúa nữa. Các ngôn sứ của Thiên Chúa không ngừng nhắc nhở cho dân chúng về tình thương của Thiên Chúa, được biểu lộ qua biến cố Xuất Hành, 40 năm trong sa mạc, và đưa vào Đất Hứa.
Trong trình thuật hôm nay, chúng ta có thể nghe một sứ điệp tương tự. Đức Chúa phán với Jeremiah: “Hãy đi mà thét vào tai Jerusalem như sau: Đức Chúa phán thế này: Ta nhớ lại lòng trung nghĩa của ngươi lúc ngươi còn trẻ, tình yêu của ngươi khi ngươi mới thành hôn, lúc ngươi theo Ta trong sa mạc, trên vùng đất chẳng ai gieo trồng. Bấy giờ Israel là của thánh thuộc về Đức Chúa, là phần hoa lợi đầu mùa của Người; tất cả những ai ăn lạm vào đó đều phạm lỗi, chúng phải mang tai mắc hoạ” - sấm ngôn của Đức Chúa. Ta đã đưa các ngươi vào miền đất xanh tươi để các ngươi được ăn hoa trái thổ sản của nó.” Mục đích của các ngôn sứ khi nhắc lại những lời này là muốn dân chúng kiểm điểm lại nếp sống hiện tại của họ, và quay trở về với tình thương trung thành của Thiên Chúa. Jeremiah viết: “Nhưng một khi vào rồi (Đất Hứa), các ngươi đã làm nhơ nhớp đất của Ta, và biến gia sản của Ta thành đồ ghê tởm.”
1.2/ Các nhà lãnh đạo không còn biết đến Thiên Chúa: Con cái Israel được lãnh đạo bởi 4 thành phần chính sau khi lập nghiệp trong Đất Hứa. (1) Thoạt đầu họ không có vua, vì Thiên Chúa chính là vua của họ; nhưng dần dần dân chúng đòi các ngôn sứ phải đặt một vị làm vua cai trị họ. Ngôn sứ Samuel, sau khi tham khảo ý Thiên Chúa đã đặt Saul làm vua đầu tiên cai trị Israel. Trong trình thuật hôm nay, Jeremiah có lẽ gọi vua là các mục tử. Họ chống lại Thiên Chúa bằng cách thiết lập các bàn thờ cho thần ngoại, và bắt dân chúng thờ lạy.
(2) Hàng tư tế: Họ chuyên lo việc thờ phượng trong Đền Thờ Jerusalem. Khi vua Jeroboam đúc hai con bê bằng vàng cho dân chúng thờ, ông cũng thiết lập hàng tư tế riêng để lo việc thờ phượng, mà không cần theo dòng tộc Levi. Hàng tư tế, trong trình thuật hôm nay, cũng chẳng thèm hỏi: "Đức Chúa ở đâu?”
(3) Các kinh sư: là những người chuyên học hỏi Lề Luật và dạy dỗ cho dân chúng. Nhưng dần dần, họ cũng chẳng còn biết Luật để dạy cho dân chúng tuân theo.
(4) Các ngôn sứ: là những người nói thay cho Thiên Chúa. Nhưng cũng có các tiên tri giả xuất hiện. Họ không nói những gì Thiên Chúa truyền, nhưng “lại nhờ Baal mà tuyên sấm, chúng đi theo những thần vô tích sự.”
Tất cả các nhà lãnh đạo này đã hoàn toàn gạt Chúa ra ngoài cuộc sống, và đi theo những lợi lộc vật chất. Họ đã bỏ quên Chúa là nguồn nước hằng sống; để thay bằng những giếng không giữ được nước. Vì thế, họ sẽ kinh hoàng khi nhìn thấy hậu quả của những hành động này; tất cả những gì họ chạy theo sẽ hoàn toàn bị hủy hoại.
2/ Phúc Âm: Những câu hỏi khó trả lời
(1) Tại sao dùng dụ ngôn? Trước hết chúng ta cần biết chút ít về dụ ngôn: Dụ ngôn là những câu truyện dùng những hình ảnh bình dân và quen thuộc để diễn tả những thực tại về luân lý. Chúng là những ví dụ đưa ra để giúp làm sáng tỏ những gì đã đề cập tới. Vì thế, dụ ngôn không cần thiết nếu khán giả đã hiểu những gì mà tác giả muốn nói. Dụ ngôn thích hợp với khán giả bình dân để người nói có thể dẫn khán giả từ cái họ đã hiểu đến cái họ chưa hiểu, từ cái cụ thể đến cái trừu tượng, từ cái thấy được trong hiện tại đến cái sẽ tới trong tương lai.
Chúa trả lời cho các môn đệ: phần các con đã được ban cho để thấu hiểu các mầu nhiệm Nước Trời, nhưng họ thì chưa được. Để hiểu các mầu nhiệm Nước Trời, các tông đồ đã được Chúa hướng dẫn từ các kiến thức căn bản trước khi có thể đi xa hơn để hiểu các kiến thức cao sâu hơn.
(2) Tại sao người có lại cho thêm? Người không có sẽ bị tước đi những gì họ đang có? Thoạt nghe qua có vẻ như là Chúa bất công, nhưng điều này rất đúng trong lãnh vực tri thức: những ai đã có kiến thức căn bản, họ sẽ dùng những kiến thức này để càng ngày càng hiểu biết những kiến thức khác nhiều hơn; những ai chưa đạt được những kiến thức căn bản họ không thể tiến xa hơn. Những ai đã có kiến thức căn bản mà không dùng tới thì lâu ngày sẽ mất đi. Điều này rất đúng cho việc học ngoại ngữ. Có những người mặc dù đã học tiếng Spanish ở trung học, nhưng nếu họ không dùng tới, những chữ đã biết rồi cũng mất đi; nhưng nếu có cơ hội dùng tới thì càng ngày sẽ càng biết nhiều hơn.
(3) Tại sao Chúa làm cho mắt chúng mù, tai chúng điếc, và tim chúng ra chai đá? Nếu Thiên Chúa làm như thế, họ còn trách nhiệm cho tội cứng lòng không?
Trước tiên, chúng ta cần biết đây chỉ là một lối nói của người Do Thái vì họ đã quá quen trong việc tin tưởng mọi sự xảy ra trong thế giới là do bởi Thiên Chúa. Tuy nhiên, họ không tin Chúa là tác giả làm cho con người phạm tội, vì con người có đầy đủ ý thức và tự do để làm những gì họ muốn.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
Để tin Chúa cần phải biết về Ngài, nhưng làm sao biết nếu không có người rao giảng về Chúa? Nếu cha mẹ và những người dạy dỗ đức tin không chu toàn bổn phận quan trọng này thì làm sao thế hệ mai sau biết Chúa và tin vào Ngài?
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

HẠT GIỐNG NẨY MẦM
- MÙA QUANH NĂM –
- TUẦN 16 -

"Có những hạt rơi vào đất tốt.
Chúng mọc và lớn lên, sinh hoa kết quả :
hạt thì được ba mươi, hạt thì được sáu mươi,
hạt thì được một trăm" (Mc 4,8)
Mt 13,10-17

A. Hạt giống...
Đoạn Tin Mừng gây không ít thắc mắc cho người đọc vì nó khiến chúng ta nghĩ rằng Chúa Giêsu cố ý dùng dụ ngôn khó hiểu để người ta không hiểu được và không được cứu rỗi.
Thực ra ở đây Chúa Giêsu trích một câu của ngôn sứ Isaia. Mà Isaia nói đến một thực tế (chứ không phải ý muốn của Thiên Chúa) là sự cứng lòng của dân, đến nỗi dù họ có tai có mắt mà cũng như điếc như mù, cho họ nghe và xem cái gì cũng vô ích. Một số người thời Chúa Giêsu cũng thế.
Bởi vậy, Chúa Giêsu khuyến khích chúng ta : “Ai có tai thì nghe”, nghĩa là ai cũng có khả năng hiểu dụ ngôn (ai cũng có tai), nhưng điều quan trọng là dùng khả năng đó để thực hiện những điều mình đã nghe. Càng thực hiện thì càng hiểu Nước Trời hơn, càng sống lời Chúa thì càng hiểu Lời Chúa hơn.

B.... nẩy mầm.
1. “Các ngươi lắng tai nghe mà chẳng hiểu, trố mắt nhìn mà chẳng thấy gì” : rất nhiều lần tôi nghe Lời Chúa nhưng cũng như vịt nghe sấm. Lời Chúa được ban dư tràn cho tôi nhưng chẳng khác gì nước đổ lá môn. Tại vì tôi nghe mà không chú ý, không suy gẫm, không có thiện chí tìm lương thực thiêng liêng cho mình.
2. “Vì lòng dân này đã ra chai đá” : muốn nghe Lời Chúa cho có hiệu quả thì phải nghe bằng tấm lòng, như đứa con nghe tiếng của cha mẹ, như những người yêu nhau lắng nghe tiếng của nhau.
3. Có 3 cách đọc Lời Chúa  :
- Coi Lời Chúa như dầu gió  : Khi bạn nhức đầu nóng lạnh, bạn xức dầu vì biết nó tốt cho sức khoẻ của bạn.
- Coi Lời Chúa như chiếc bánh bông lan : tuy khô khan khó nuốt nhưng cũng ngon và bổ.
- Coi Lời Chúa như quả đào, vừa mát vừa ngọt vừa bổ dưỡng. (Góp nhặt)
Lm.Carolo HỒ BẶC XÁI – Gp. Cần Thơ

24/07/14 THỨ NĂM TUẦN 16 TN
Th. Xa-be-li-ô Ma-lúp, linh mục
Mt 13,10-17

Suy niệm: Đức Giêsu tuyên bố các môn đệ có phúc hơn “nhiều ngôn sứ và nhiều người công chính” chỉ vì họ đã “được thấy và được nghe.” Nhưng thấy và nghe ai hay cái gì? Thưa, chính Chúa, bằng xương bằng thịt! Có điều ta đừng quên, nguyên điều đó vẫn chưa đủ để gọi là “có phúc”. Thực tế là bao người xung quanh Chúa thời ấy chẳng thực sự thấy và nghe hiểu được Chúa. Giữa các môn đệ và những người kia có một điều khác biệt: “Anh em thì được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không.” Ta nhớ lời này của Đức Giêsu: “Con tạ ơn Cha vì đã giấu các mầu nhiệm Nước Trời đối với những kẻ thông thái khôn ngoan, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn!”
Mời Bạn: Ngày nay không ai thấy Đức Giêsu bằng xương bằng thịt nữa, nhưng nhiều tâm hồn bé mọn vẫn “thật có phúc” vì được Ngài chinh phục cách sâu xa. Đó là những tâm hồn thánh thiện, hoàn toàn sống theo Tin Mừng của Chúa. Một số trong đó được nhiều người biết đến (như các vị thánh nhân như Đức Gioan XXIII, Đức Gioan Phaolô II, Mẹ Têrêsa Cancutta…), còn rất nhiều người khác rất âm thầm, nhưng họ rất gần xung quanh ta, và phần “phúc” của họ lớn lao không kém.
Sống Lời Chúa: Để nhận được “ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời” mời bạn tháo gỡ những vật cản không cho mắt được thấy và tai được nghe, tức những đam mê thấp hèn và những bận rộn lo lắng sự đời quá mức nơi mình.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, là sản nghiệp của con…, là phần tuyệt hảo may mắn của con… Tâm hồn con mừng rỡ… Ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi! (Tv 15)

Anh em thật có phúc
Ước gì chúng ta tìm được thứ ngôn ngữ thích hợp để ai cũng có thể nghe được và hiểu được sứ điệp cứu độ của Chúa.


 Suy nim:
Tiền định là một trong những vấn đề gây tranh cãi trong thần học.
Có người nhấn mạnh quá đến tác động của ơn Chúa cần để được cứu độ,
đến nỗi coi nhẹ tự do và trách nhiệm của con người.
Có người còn dám cho rằng Chúa đã định sẵn từ vĩnh cửu
những ai phải vào hỏa ngục hay được lên thiên đàng.
Thật ra Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu độ (1 Tm 2, 4; 4, 10).
Kế hoạch của Ngài là cứu độ toàn thế giới, chẳng trừ một ai.
Muốn được cứu thoát, con người phải dùng tự do mình mà đón lấy ơn Chúa.
Ơn Chúa có tác động trên tự do con người,
nhưng lại không áp đặt hay cưỡng ép nó, vì nếu thế sẽ chẳng còn tự do.
Chính Thiên Chúa ban tự do cho con người, và chính Ngài tôn trọng tự do ấy.
Thiên Chúa không thể tiền định lời đáp của con người trước lời mời của ân sủng.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, có những câu cần được soi sáng.
“Bởi vì anh em thì được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời,
còn họ thì không” (c. 11).
Câu này có thể bị hiểu lầm là Thiên Chúa có sự phân biệt đối xử.
Các môn đệ thì được ơn hiểu biết, còn đám đông thì không.
Thật ra Đức Giêsu chỉ muốn nói lên sự kiện này,
các môn đệ là những người đã đáp lại tiếng gọi của Ngài,
nên họ được ơn hiểu biết, ơn nắm bắt được mầu nhiệm Nước Trời.
Còn đám đông những người từ chối thì khó lòng hiểu được.
Một câu khác cũng cần được hiểu đúng: “Người đã có lại được cho thêm,
còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi” (c. 12).
Ở đây Đức Giêsu chỉ muốn nói rằng những ai đã mở lòng đón nhận
thì càng được Thiên Chúa ban cho sự hiểu biết đức tin sâu xa hơn.
Còn những người đã khép lòng trí lại, thì về mặt thiêng liêng sẽ bị nghèo đi.
Vào buổi ban đầu, các môn đệ tin theo Đức Giêsu chỉ là nhóm nhỏ.
Còn một đám đông lớn người Do thái không tin nhận Ngài.
Đức Giêsu giảng cho họ bằng những dụ ngôn đơn sơ gần gũi.
Ngôn ngữ của dụ ngôn vừa dễ hiểu đối với người mở lòng đón nhận,
vừa khó hiểu đối với những ai từ chối và khép kín (c. 13).
Đức Giêsu không chơi khăm con người khi giảng bằng dụ ngôn,
để khiến họ trố mắt nhìn mà không thấy, lắng tai nghe mà không hiểu.
Nếu họ không hiểu được dụ ngôn, thì không phải lỗi tại Ngài,
mà do quả tim họ đã ra chai đá, do họ nhắm mắt, bịt tai .
Họ không hiểu vì không muốn hoán cải và được chữa lành (c. 15).
Như các môn đệ xưa, các Kitô hữu ngày nay cũng là người có phúc.
Chúng ta được thấy, được nghe nhiều điều mà người khác không được.
Ước gì chúng ta tìm được thứ ngôn ngữ thích hợp
để ai cũng có thể nghe được và hiểu được sứ điệp cứu độ của Chúa.
Cầu nguyn:

Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ,
nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói,
dễ thấy Chúa hiện diện
và hoạt động trong đời con.

Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa,
xin cho con đừng trở nên cứng cỏi,
khép kín và nghi ngờ.

Xin dạy con sự hiền hậu
để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.

Xin dạy con sự khiêm nhu
để con dám buông đời con cho Chúa.

Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm,
vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài,
hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ


Suy niệm

Khi muốn nói điều gì khó nói, người ta hay dùng cách ví von.
Khi muốn thổ lộ tâm tình sâu kín, người ta hay nhờ đến câu chuyện.
Khi muốn diễn tả chân lý tròn đầy, Chúa Giêsu lại dùng đến dụ ngôn.
Dụ ngôn chính là cách diễn đạt chân lý về "mầu nhiệm nước trời" dễ hiểu nhất.
Vì dụ ngôn mang ý tưởng so sánh và diễn đạt khía cạnh khó hiểu nên chỉ những ai cố công tìm hiểu mới có thể nhận ra được giá trị chân lý siêu việt mà Chúa Giêsu muốn nói đến.
Nhưng hình như những lời giảng dạy của Chúa Giêsu bằng dụ ngôn không được dân chúng đón nhận cách tích cực. Đa phần họ nghe cho vui tai thôi chứ không ra công tìm hiểu. Vì thế Chúa Giêsu đã không ngần ngại nói thẳng: "Họ nhìn mà không thấy, nghe mà không nghe, không hiểu". Duy chỉ có các tông đồ là những người tích cực chủ động muốn nghe và tìm hiểu lời giảng dạy của Chúa, nên họ được mạc khải cho biết về mầu nhiệm nước trời.
Do đó, không phải Chúa Giêsu cố tình dùng dụ ngôn để gây khó dễ cho người nghe, nhưng là để xác định xem ai là người thiện chí thì mới xứng đáng hiểu lời vàng ngọc, châu báu của Chúa.
Nhìn thấy Chúa và nghe được Lời Chúa đã là một diễm phúc lớn lao cho những người sống cùng thời với Chúa rồi, bởi lẽ "nhiều ngôn sứ và nhiều người công chính đã mong mỏi được thấy điều anh em thấy mà không được thấy, nghe điều anh em đang nghe mà không được nghe". Tuy nhiên nếu nhìn mà không thấy, nghe mà không hiểu thì quả là một bất hạnh to lớn.
Chúng ta là những người thật hạnh phúc vì được vinh dự được lắng nghe, gặp gỡ  và đón nhận Chúa hằng ngày qua Thánh Lễ.
Xin cho chúng ta biết siêng năng tham dự thánh lễ hàng ngày với lòng khao khát nghe và đón nhận Chúa vào lòng để nhờ đó ta cảm nếm được niềm hạnh phúc sâu xa nơi tâm hồn.

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
24 THÁNG BẢY
Tạo Vật Mang Dấu Ấn Của Đức Kitô
Trong Thư Cô-lô-sê, chúng ta thấy rằng chân lý về sự tiền định trong Đức Kitô có mối gắn kết chặt chẽ với chân lý về việc sáng tạo trong Người. Thánh Phao-lô viết: “Người là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình, là Trưởng Tử sinh ra trước mọi loài thụ tạo. Vì nhờ Người mà muôn vật được tạo thành, trên trời cùng dưới đất” (Cl 1,15-16).
Ở đây chúng ta nắm bắt được một sự thật kỳ diệu. Ngay từ thuở đầu sáng tạo, thế giới mang trong mình nó ơn gọi và thậm chí mối đảm bảo được tiền định trong Đức Kitô, bởi vì thế giới được tạo dựng trong Đức Kitô và được cung hiến cho Thiên Chúa như tặng phẩm đầu tiên của sự quan phòng. Thế giới đã được tạo thành nhờ Ngôi Lời Thiên Chúa là Đức Kitô, Đấng mở ơn cứu độ ra cho mọi con người và, cuối cùng, cho thế giới. “Vì Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người” (Cl 1,19).
Sự viên mãn cuối cùng của trái đất, nhất là sự chuyển hóa của con người, được đạt đến chính là nhờ tác động của sự viên mãn vốn hiện diện nơi Đức Kitô. Đức Kitô đem lại cho chúng ta sự viên mãn của Thiên Chúa. Theo một nghĩa nào đó, chính trong Đức Kitô mà chương cuối cùng của lịch sử thế giới – nhất là lịch sử con người – được hoàn tất.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 24-7
Thánh Sarbêliô Makhluf, linh mục
Gr 2, 1-.7-8.12-13; Mt 13, 10-17.

LỜI SUY NIỆM: “Ai đã có thì được cho thêm, và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy mất.”
Đây là lời Chúa Giêsu đang cảnh cáo mỗi người trong chúng ta. Chúa cho biết: ơn của Chúa ban không thiếu cho tất cả mọi con người trên hành trình đức tin của mình. Khi người biết đón nhận ơn của Chúa hằng ngày, thì ngày càng sẽ được dư đầy. Qua mọi biến cố vui buồn họ nhận ra ngay: là có Chúa sắp đặt. Còn những người thờ ơ với ơn của Chúa, thì trong mọi sự của cuộc sống, họ tự cho là tự nhiên hay là ngẫu nhiên hoặc là do họ mà có được. Điều này sẽ dẫn đến mất ơn nghĩa cùng Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, Xin cho mọi thành viên trong gia đình chúng con luôn biết cầu nguyện và tạ ơn Chúa, để mỗi một ngày chúng con càng trưởng thành trong đức tin, đức cậy, và đức mến.
Mạnh Phương


24 Tháng Bảy
Một Lời Thề Hứa
Từ tháng 5 đến tháng 7 năm 1990 vừa qua, du khách trên khắp thế giới đã đổ xô về làng Oberammergau bên Tây Ðức để thưởng thức tuồng Thương Khó Chúa Giêsu... Việc diễn tuồng Thương Khó này là một lời thề hứa mà dân làng Oberammergau đã trung thành giữ từ trên 400 năm nay.
Năm 1633, một nạn dịch khủng khiếp đã giết hại không biết bao nhiêu sinh mạng trong vùng Bavaria. Ðể đề phòng nạn dịch, dân làng Oberammergau đã đóng kín các cửa làng để không một người lạ mặt nào có thể lọt vào trong làng... Chẳng may, một người đào huyệt trong làng đã bị lây. Anh ta quyết định được chết trong ngôi làng thân yêu của mình. Anh đã qua mắt được những người canh cửa để lọt vào trong và rồi lây bệnh cho nhiều người khác trong làng...
Chỉ trong vòng hai tuần lễ, 88 người dân làng đã bị thiệt mạng, ngay cả hai vị linh mục trong xứ cũng không tránh khỏi ôn dịch. Một vị linh mục khác được sai đến. Dân làng không biết làm gì khác hơn là cùng với vị linh mục đến trước Thánh Thể Chúa để thề hứa. Qua sự cam đoan của linh mục chính xứ cũng như của những người đại diện, toàn dân đã cam kết rằng nếu được Chúa cho tai qua nạn khỏi, họ sẽ trình diễn tuồng Thương Khó của Chúa cứ 10 năm một lần...
Năm 1634, nghĩa là một năm sau khi nạn dịch chấm dứt, dân làng Oberammergau đã giữ lời hứa với Chúa. Già trẻ lớn bé, tất cả mọi người trong làng đã sốt sắng tham dự vào việc trình diễn tuồng Thương Khó. Lần trình diễn đầu tiên ấy chỉ thu hút được khoảng 200 khán giả đến từ các làng lân cận. Và kể từ năm 1680, họ đã quyết định trình diễn 10 năm một lần. Ðến năm 1770 thì khách thập phương đã bắt đầu đổ xô về Oberammergau...
10 năm một lần: khoảng cách của 10 năm là để dân làng được chuẩn bị chu đáo hơn. Diễn viên của vở tuồng phải là người dân làng. Các nhân vật được chọn lựa và huấn luyện kỹ càng. Riêng người được chọn đóng vai Chúa Giêsu và Ðức Mẹ sẽ được dân làng chào hỏi một cách kính cẩn bằng chính danh hiệu của Chúa Giêsu và Ðức Mẹ. Và trong suốt thời gian chuẩn bị cũng như trình diễn, tất cả mọi nhân vật đều được mời gọi để sống chính tâm tình của các nhân vật lịch sử trong vở tuồng... Vì là một lời thề của tổ tiên để lại, cho nên đêm trước buổi trình diễn đầu tiên, toàn dân làng sẽ tham dự Thánh lễ và sốt sắng rước Mình Thánh Chúa. Buổi tình diễn sẽ bắt đầu vào lúc 8 giờ sáng và kết thúc vào lúc 5 giờ chiều... Và vì đây là một buổi trình diễn có tính cách tôn giáo, cho nên toàn dân làng Oberammergau không cho phép bất cứ một cuộc thu hình nào.
Kinh thánh thuật lại rằng trên đường tiến về Ðất Hứa, có lần nhiều người Do Thái bị rắn cắn chết giữa sa mạc.. Chúa đã truyền lệnh cho Môi Sen đúc một con rắn đồng và treo lên cây. Tất cả những ai bị rắn cắn nhìn vào con rắn đồng ấy đều được chữa lành...
Chúa Giêsu đã ví con rắn đồng ấy với chính Ngài bị treo trên thập giá. Ngài mời gọi chúng ta hãy ngắm nhìn Ngài trong cảnh bị treo ấy. Cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá đã gắn liền với tội lỗi của từng người trong chúng ta. Người dân làng Oberammergau đã hiểu được mối tương quan ấy. Họ diễn lại cuộc tử nạn của Chúa Giêsu để tưởng nhớ công lao cứu sống của Ngài.
Một cách nào đó, mỗi người chúng ta cũng là một diễn viên của vở tuồng Thương Khó Chúa Giêsu. Mỗi người chúng ta được mời gọi để sống chính tâm tình của Chúa Giêsu. Tân tình của Chúa Giêsu trong cuộc khổ nạn chính là cảm mến, vâng phục, yêu thương đối với Chúa Cha và quảng đại, tha thứ đối với tha nhân. Ngắm nhìn Ngài trên thập giá, chúng ta cũng được mời gọi sống lại tâm tình ấy. Và đó cũng chính là sức sống của người Kitô chúng ta, bởi vì người Kitô luôn được mời gọi để sống cho Thiên Chúa và tha nhân...
(Lẽ Sống)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét