Trang

Thứ Bảy, 20 tháng 9, 2014

21-09-2014 : (phần II) CHÚA NHẬT XXV MÙA THƯỜNG NIÊN năm A

21/09/2014
Chúa Nhật 25 Quanh Năm Năm A
(phần II)


Giáo lý Phúc Âm CN 25 TN.A
CHÚA NHẬT XXV QUANH NĂM A
Sách Tiên Tri Isaia 55, 6-9; Thư Thánh Phaolô gửi tín hữu Philipphê 1,20c-24.27a
và Phúc Âm Thánh Matthêô 20, 1-16

I.                   Giáo Huấn P.Â.:   
            Vừa tảng sáng đã ra mướn thợ…..Ơn cứa rỗi của mọi người là mối quan tâm hàng đầu của Chúa. Chúa xuống trần để cứu độ nhân loại.
Khoảng giờ thứ ba, ông lại trở ra… khoảng giờ thứ sáu, rồi giờ thứ chín.. Không những Chúa quan tâm đến phần rỗi nhân loại, nhưng còn kiên nhẫn mời gọi nhiều lần để mọi người có dịp mời gọi vào Nước Chúa.
Khoảng giờ mười một, ông trở ra… Như vậy là suốt cả ngày, hay suốt cả đời người… Chúa đều tạo cơ hội và mời gọi người ta làm vườn nho cho Chúa.
Thế nhưng cũng chỉ lãnh được mỗi người một quan tiền. Tất cả đều được cứu rỗi. Ơn cứu rỗi là nước thiên đàng là hạnh phúc bất diệt không hơn không kém cho mọi người.


II.        Vấn nạn P.Â.    

            Giáo lý căn bản về Bí Tích Rửa Tội
            Bí Tích Rửa Tội là bí tích Chúa Giêsu đã lập để sinh ta lại làm con Ðức Chúa Trời và con Hội Thánh. Thừa tác viên bình thường của Bí Tích Rửa tội là Giám Mục, Cha sở, linh mục hay Thầy Phó Tế. Thừa tác viên ngoại thường trong trường hợp nguy tử là bất cứ ai kể cả người chưa rửa tội miễn là làm đúng cách thức là lấy nước lã xối trên đầu và đọc “Tôi rửa…. Nhân danh Cha và con và Thánh Thần. Amen!”

            Có ba cách rửa tội: bằng nước, bằng máu và bằng lòng muốn. Ai cũng có thể lãnh nhận bí tích rửa tội miễn là chưa bao giờ được rửa tội trong bất cứ một giáo phái nào mà có cùng nghi thức rửa tội kêu tên Chúa Ba Ngôi như bên Công Giáo. Ngoài ra, ứng viên của bí tích rửa tội còn phải có lòng ước muốn, có đức tin và quyết tâm cải thiện đời sống cũng như phải học giáo lý.

            Khi được rửa tội, chúng ta được nhận ơn thánh hoá làm con Chúa. Chúng ta được Chúa ban cho đức tin, đức cậy và đức mến cũng như được tha tội tổ tông và tội mình làm, được gia nhập vào Giáo Hội, tức thân thể mầu nhiệm của Chúa Kitô và được phần thưởng nước thiên đàng mai sau. Bí tích Rửa Tội rất cần thiết để được cứu độ. Tuy nhiên không phải ai đã không rửa tội thì bị sa hoả ngục. Nếu thế thì Ông Bà tổ tiên chúng ta đều không có mặt trên thiên đàng chăng?  Khi nói Bí Tích rửa tội cần để được ơn cứu độ. Điều đó không có ý nói ai không được rửa tội thì không được lên thiên đàng. Nhưng chỉ có ý nói rằng: Nếu có điều kiện để được rửa tội thì phải nhận lãnh bí tích rửa tội. Từ chối trong điều kiện nầy là từ chối nước thiên đàng.

            Nghi thức rửa tội bên Việt Nam vẫn còn câu hỏi: Ông bà muốn đặt tên thánh cho em bé là gì? Đây chỉ là truyền thống Công Giáo của người Việt Nam dưới thời các nhà truyền giáo âu châu. Nếu giữ được, rất tốt vì ít là có một vị thánh cho mình bắt chước và cầu bàu cho mình. Nhưng nếu bỏ đi, dùng tên thật của mình cũng vẫn tốt và thực tế hơn. Ngày nay người ta cũng không cần có tên thánh thêm sức. Một tên là đủ hơn là có tên thánh mà không biết vị thánh đó như thế nào. Nếu không biết vị thánh bổn mạng như thế nào thì làm sao để bắt chước? Không hợp lý chút nào khi Giám Mục xức dầu thánh trên trán ứng viên Thêm sức và nói “Phêrô hãy nhận ấn tín Chúa Thánh Thần!” Như vậy là Phêrô nhận chứ đâu phải em A hay em B nhận.
            Khi nói thừa tác viên bình thường của Bí tích rửa tội là Giám Mục, Cha sở, linh mục và thầy phó tế. Xin phân biệt giữa Cha sở và linh mục. Cha sở là người được Đức Giám Mục địa phận bổ nhiệm chăm sóc giáo dân ở một giáo xứ nhất định dưới quyền của Đức Giám Mục. Mỗi giáo xứ có một Cha sở mà thôi. Giáo dân cần lãnh nhận bí tích, phải đến với Cha sở trước. Giáo Hội không chấp nhận chuyện quen biết hay bà con với một linh mục nào đó rồi vị nầy ngang nhiên rửa tội theo yêu cầu của thân nhân mà không có phép của Cha Sở. Những bí tích được ban không qua Cha Sở hay không được ủy quyền của Cha sở, trừ trường hợp nguy tử, đều bất hợp pháp.

Chúa như Ông chủ tốt lành, đi ra kêu thợ làm vườn từ sáng tới chiều. Cuối ngày tất cả đều lãnh đồng đều: Một quan tiền hay nói khác đi là nước thiên đàng. Vậy thì hãy thong thả….có được không?

            Không được vì:
            Bao giờ sớm sủa cũng an tâm và chắc ăn hơn. Thường chúng ta nghĩ là sớm muộn gì thì cũng một đồng lương hay cũng là nước thiên đàng như nhau. Nhưng thực sự người có việc làm từ sáng sớm, dù vất vả đổ mồ hôi cả ngày, nhưn g họ nắm chắc phần thưởng vào cuối ngày. Phần thưởng nước thiên đàng đang đợi họ. Còn những người được thuê mướn trễ hơn hay được gia nhập Giáo Hội muộn màng hơn hơn. Họ thật sự sống trong bấp bênh, trong lo lắng. Không biết mình có gì ở cuối ngày. Không biết cuối đời sẽ đi về đâu? Chúng ta dễ nhìn thấy hình ảnh nầy nơi những người không có công ăn việc làm vững chắc. Họ ngồi chờ người đến mướn. Có ngày may mắn, có người đến mướn và họ có tiền nuôi thân. Nhưng có ngày, cứ sốt ruột, cứ trông đứng trông ngồi. Sau cùng có thể là bụng đói và túi không vì không ai mướn. Cuộc đời thật qua bấp bênh và thất vọng.

            Phúc âm nói rằng: Những người làm từ sáng sớm phàn nàn là chúng tôi vất vả cả ngày mà cũng chỉ được bằng số người đến muộn làm chỉ có một giờ. Họ không nên phàn nàn, vì họ đã được cái may mắn của bình an, của khỏi lo lắng ngày từ sáng sớm hay ngay từ đầu đời. Người công giáo được rửa tội ngay từ còn bé là một may mắn lớn vì đã định hướng cuộc đời ngày từ lúc mình chưa biết hướng: Biết Chúa là ai? Lãnh nhận các bí tích như thức ăn nuôi dưỡng đời Kitô hữu. Mỗi ngày Chúa Nhật được đến nhà thờ d6ang lễ với những Kitô hữu khác. Sẽ kết thúc đời sống trần gian bằng cuộc sống vĩnh hằng trên quê trời.
           
            Không nên thong thả hay từ từ hay để “xem coi thế nào…” Lý do đơn giản là chúng ta không nắm chắc vận mạng mình? Tai nạn hay bệnh hoạn có thể đến bất cứ lúc nào. Người ta có thể chết bất kỳ ở tuổi nào. Nên việc đáp trả lời mời gọi của Ông chủ vườn nho cách mau mắn là đều tốt và rất có ích cho chúng ta.

Thương yêu Ông chủ và tận tình giúp đỡ Ông chủ trong việc mở mang vườn nho hay làm phát triển Nước Chúa.
            Thật sự bài Phúc Âm không nói đến vườn nho như thế nào, nhưng chỉ nói đến việc làm đầy tình thương của Ông chủ là đi ra ngoài nhiều lần trong ngày để tìm thợ làm vườn nho. Điều đó cho thấy trọng tâm của bài Phúc Âm không là miếng vườn hay thửa đất mà là đồng lương hay sự ích lợi cho thợ làm vườn. Nếu dùng vườn nho làm hình ảnh là Nước Chúa hay Giáo Hội Chúa thì chúng ta cũng biết là: Nếu Nước Chúa là nước thiên đàng trên trời thôi thì không cần đến chuyện phát triển hay mở rộng hay chuyện đóng góp của chúng ta. Nhưng Nước Thiên chúa ở đây được nhiều người hiểu là Giáo Hội trần gian mà chúng ta được kêu gọi để đi làm vườn, để phát triển.

            Mảnh vườn nầy hay Giáo Hội trần gian nầy được gọi là thánh thiện, hay là hội thánh. Hội thánh vì Chúa là Đấng thánh sáng lập. Hội Thánh vì mọi người được hưởng dùng những bí tích thánh. Hội thánh vì mọi người đang về thiên đàng là nơi thánh. Tuy nhiên không phải mọi phần tử của Giáo Hội là thánh. Đây là vai trò của chúng ta. Đây là nhiệm vụ của những người thợ được vào làm vườn nho Chúa: Chu toàn nhiệm vụ của mình. Việc chu toàn bổn phận của một kitô hữu hằng ngày là lời kêu gọi người khác vào làm việc ở vườn nho Chúa. Chúng ta được hưởng hoa trái của chính mảnh vườn Giáo Hội mà chúng ta đang sống. Người Việt Nam hay nói: Ăn cây nào rào cây nấy. Xin đừng gièm pha chỉ trích hay bôi xấu mảnh vườn Giáo Hội nơi mình đang sống và hưởng lợi.

III.      Thực hành P.Â.:
            Gương Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp: Mở mang nước Chúa cho đếngiây phút cuối cùng của cuộc đời. Suốt 15 năm làm Cha Sở Tắc Sậy, Cha đã rửa tội cho 1643 người còn ghi tên trong sổ. Đồng thời thêm năm người Cha rửa tội trong lẫm lúa nhà Ông Giáo Sự, chỉ trước khi Ngài bị giết chết. Nếu tính luôn hai quyển số thất lạc, số người được rửa tội không dưới hai ngàn người. Trung bình, mỗi năm cha rửa tội cho 133 người. Cha đã là một thợ làm vườn nho thật tận tuỵ với Nước Chúa. Xin đọc bài phỏng vấn nhân chứng sống: Bà Trần thị Hường và Bà Trần thị Cảnh. Bà Cảnh lúc đó được 4 tuổi và được Cha Diệp rửa tội một giờ trước khi Cha chết. Bà lấy tên thánh Anna.
Phỏng vấn bà Bà Trần thị Hường tức Bà Tư Phẩm
và em ruột là Trần thị Cảnh ngày 16.8.2011 tại Cái Răng, Cần Thơ

            Bà Hường sinh năm 1933 tại Tắc Sậy – Cha Fx. Trương bửu Diệp rửa tội cho bà năm 1943. Gia đình ngoại giáo, nhưng Cha Mẹ gửi con cái đến học với Bà Phước ở Tắc Sậy và được rửa tội. Bà có người Anh ba tên Trần văn Nghĩa và em Thứ Bảy Trần thị Phụng cũng được rửa tội trước Cha Mẹ mình.

Năm 1946 giặc giả và ly loạn. Một buổi sáng sớm khoảng sau Tết, lính mặc áo trắng như lính Cao Đài đến lùa giáo dân từ Đất Thánh cách nhà thờ chừng hơn một cây số vô nhà thờ. Từ nhà thờ họ lùa Cha, các bà phước và giáo dân vô cây Gừa cách đó chừng ba hay bốn cây số. Hai em trai của bà là Trần văn Nhân và Trần văn Ân đi coi bò trong đồng, nên không bị lùa chung. Không nhớ tháng nào nhưng nhớ là sau Tết vì đất nứt nẻ khô ráo đi đau chân lắm. Không biết bao nhiêu người nhưng khá đông chừng bảy hay tám chục người. Đến nơi, bà bị ở chung một chỗ với các bà phước. Cha Mẹ bà ở chung với Cha Fx. Trương bửu Diệp. Cha Mẹ Bà kêu la kiếm bà. Bà được cho đi sang với Cha Mẹ. Đang khi chạy sang với Cha Mẹ bà bị một người lính Nhật chận lại, đưa dao dài và bén vào cổ, bà té bẹp xuống đất. Lính người Việt Nam nói gì với anh lính Nhật bà không biết và bà được vào chung chỗ với Cha Mẹ bà.

Chừng 8 giờ sáng, Cha bị mời ra ngoài chừng 15 hay 20 phút. Cha trở vô không có gì là buồn phiền hay lo lắng gì cả. Người ta chất rơm rạ chung quanh lẫm lúa nhà Ông Giáo Sự và biết chắc là họ sẽ đốt cháy tất cả. Cha bị mời ra lần thứ hai khoảng 10giờ sáng. Khi trở vào, mặt Cha đỏ ngầu như bị đánh hay bị tát. Cha bảo ăn năn tội và cha giải tội lòng lành. Anh Ba Nghĩa của bà nói với Cha Mẹ bà là: Thôi Cha Má hãy rửa tội để rồi tất cả chết chung với Cha và được lên thiên đàng chung. Anh ba Nghĩa xin nước nơi người canh nói là uống, nhưng đưa cho Cha Fx. Diệp rửa tội cho bà nội bà, không nhớ tên, Cha bà tên Trần văn Năng, Mẹ bà tên Dư thị Lượm, em trai bà tên Trần văn Nuôi lúc đó bảy tuổi, lấy tên thánh Phanxicô Xaviê, chết năm 2007 và em gái bà tên Trần thị Cảnh lúc đó bốn tuổi, lấy tên thánh Anna. Sau nầy, Cha Huỳnh minh Ký ở Bạc Liêu đã làm phép bù cho Cha Mẹ và hai em của bà.

Lần thứ ba Cha bị mời ra khoảng hai ba giờ chiều. Cha không trở lại. Đoán là Cha đã bị thủ tiêu. Khá lâu sau đó, chừng bảy giờ tối họ bỏ cửa trống cho ra về nhưng căn dặn là phải bỏ Tắc Sậy, nếu không sẽ giết hết không còn con đỏ. Ngươi ta quay về thu gom đồ đạc và tản cư. Hôm sau, người được biết là cha chết. Người ta đi lấy xác Cha ở ao nhà chỗ Ông Giáo Sự. Có nhiều người đàn ông thương mến và nóng lòng đi tìm lấy xác Cha, trong đó có Ông Năng, cha của bà. Họ mô tả: Cha bị chém từ phía sau ót, chết trần truồng và úp mặt. Người ta bỏ cha lên xuồng chở về nhà Ông Biện Thơ ở Khúc Tréo và chôn cha trong phòng thánh.

Lm Phêrô Trần Thế Tuyên


Lectio Divina: Chúa Nhật XXV Thường Niên (A)
Chúa Nhật, 21 Tháng 9, 2014
Dụ ngôn những người làm công được sai đi đến vườn nho
Tình yêu nhưng không tuyệt đối của Thiên Chúa
Mt 20:1-16


1.  Lời nguyện mở đầu
Thân lạy Cha, Con Một của Cha là Đức Giêsu, Đấng mà Cha đã ban cho chúng con, là vương quốc chúng con, là sự phong phú, là Thiên Đàng của chúng con; Người là Chủ nhà và chủ trái đất nơi chúng con sống và Người liên tục đi tìm kiếm chúng con, bởi vì Người muốn gọi chúng con, kêu tên chúng con, để ban cho chúng con tình yêu vô biên của Người.  Chúng con sẽ không bao giờ có thể đền đáp lại cho Người, không bao giờ đền trả được lòng lân ái và thương xót dư thừa của Người ban cho chúng con; chúng con chỉ có thể nói với Người lời Xin Vâng của chúng con:  “Này con đây, con xin đến”, hay lặp lại lời của ngôn sứ Isaia:  “Lạy Chúa, này con đây, xin hãy sai con!”  Lạy Chúa, xin hãy để cho những lời này thấm vào tâm hồn con, vào mắt, vào tai con và lời ấy thay đổi con, biến đổi con, theo tình yêu đáng ngạc nhiên không thể hiểu được mà Chúa Giêsu cũng đang ban cho con ngày hôm nay, ngay cả trong giây phút này.  Xin hãy dẫn con đến nơi cuối cùng, nơi của con, mà Người đã dọn sẵn cho con, ở đó là nơi con có thể thực sự và hoàn toàn là chính mình.  Amen.

 2.  Bài Đọc

a)  Phụ chú về bối cảnh đoạn Tin Mừng:
Đoạn Tin Mừng này đặt chúng ta trong phần của sách Tin Mừng Mátthêu, dẫn trước đoạn Cuộc Thương Khó, sự tử nạn và Phục Sinh của Chúa Giêsu.  Đoạn này bắt đầu từ câu 19:1, nơi được viết là Chúa Giêsu quyết định rời vùng Galilê để đi về xứ Giuđêa, bắt đầu lối này để tiến gần về thành Giêrusalem và được kết ở câu 25:46 với lời về ngày tái quang lâm và phán xét của Con Thiên Chúa. Đặc biệt, chương 20 cũng đưa chúng ta đi dọc theo con đường của Chúa Giêsu hướng về thành thánh và đền thờ, trong một bối cảnh giảng dạy và tranh luận với các nhà thông thái và có quyền thế thời bấy giờ, mà Người dàn trải thực hiện qua các dụ ngôn và các cuộc gặp gỡ.  
b)  Phân đoạn bài Tin Mừng để trợ giúp cho bài đọc:
Mt 20:1a:  Với những lời đầu tiên của bài dụ ngôn, một phương thức dẫn nhập, Chúa Giêsu muốn đồng hành với chúng ta vào trong chủ đề sâu sắc nhất về những gì Người định nói, Người muốn mở ra trước chúng ta cánh cửa của Nước Trời, đó là chính bản thân Người và Người tự giới thiệu là Chủ của vườn nho đang cần người canh tác.
Mt 20:1b-7:  Những câu này tạo thành phần đầu của bài dụ ngôn; trong đó Chúa Giêsu nói về dự tính của người Chủ vườn nho đi thuê người làm công, kể lại bốn lần ông đi ra ngoài để tìm người làm, trong đó ông thiết lập một hợp đồng và lần cuối ông đi ra tìm người là vào lúc cuối ngày.
Mt 20:8-15:  Phần thứ hai này thay vì bao gồm lời kể việc thanh toán tiền công với người làm, đã kể lại việc phản đối của những người đến trước và câu trả lời của ông Chủ vườn nho.
Mt 20:16:  Cuối cùng là câu kết luận, bao gồm cả câu 19:30 và mặc khải chìa khóa của đoạn Tin Mừng và ứng dụng của nó:  Những ai trong cộng đoàn được coi là những kẻ đến sau cùng, theo quan điểm của Nước Trời và sự phán xét của Thiên Chúa, sẽ là những người trước hết.

c)  Phúc Âm:  
20:1a:  1 Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này rằng:  “Nước Trời giống như chủ nhà kia…
20:1b-7:  …sáng sớm ra thuê người làm vườn nho mình.  2 Khi đã thỏa thuận với những người làm thuê về tiền công nhật là một đồng, ông sai họ đến vườn của ông.  3 Khoảng giờ thứ ba, ông trở ra, thấy có những người khác đứng không ngoài chợ, 4 ông bảo họ rằng:  “Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho cho Ta, Ta sẽ trả công cho các ngươi xứng đáng.”  5 Họ liền đi.  Khoảng giờ thứ sáu và thứ chín, ông cũng trở ra và làm như vậy.  6 Đến khoảng giờ thứ mười một, ông lại trở ra, và thấy có kẻ đứng đó, thì bảo họ rằng:  “Sao các ngươi đứng nhưng không ở đây suốt ngày như thế?  7 Họ thưa rằng:  “Vì không có ai thuê chúng tôi.”  Ông bảo họ rằng:  “Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho cho ta.”
20:8-15:  8 Đến chiều, chủ vườn nho bảo người quản lý rằng:  “Hãy gọi những kẻ làm thuê mà trả tiền công cho họ từ người đến sau hết tới người đến trước hết.”  9 Vậy những người làm từ giờ thứ mười một đến, lãnh mỗi người một đồng.  10 Tới phiên những người đến làm trước, họ tưởng sẽ lãnh được nhiều hơn; nhưng họ cũng chỉ lãnh mỗi người một đồng.  11 Đang khi lãnh tiền, họ lẩm bẩm trách chủ nhà rằng:  12 “Những người đến sau hết chỉ làm có một giờ, chúng tôi chịu nắng nôi khó nhọc suốt ngày mà ông kể họ bằng chúng tôi sao?”  13 Chủ nhà trả lời với một kẻ trong bọn họ rằng:  “Này bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, chớ thì bạn đã không thỏa thuận với tôi một đồng sao? 14 Bạn hãy lấy phần bạn mà đi về, tôi muốn trả cho người đến sau hết bằng bạn. 15 Nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao?  Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng?”
20:16:  16 Như thế kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết.”

3.  Giây phút thinh lặng cầu nguyện:

Để Lời Chúa được thấm nhập và soi sáng đời sống chúng ta.

4.  Một vài câu hỏi gợi ý:

Để giúp chúng ta trong việc suy gẫm cá nhân.

a)  Đoạn Tin Mừng được mở đầu với một liên từ, “trên thực tế”, rất là quan trọng, bởi vì nó gửi đến chúng ta câu trước đó (Mt 19:30), nơi Chúa Giêsu khẳng định “kẻ trước hết sẽ nên sau hết và kẻ sau hết sẽ nên trước hết”, với cùng những lời mà Người sẽ lặp lại ở cuối bài dụ ngôn này.  Vì thế, những lời vô cùng quan trọng, căn bản, chỉ cho tôi đường hướng mà tôi nên chọn.  Đức Giêsu là Vương Quốc của Thiên Chúa, là Nước Trời; Người là thế giới mới, mà tôi được mời vào.  Nhưng thế giới của Người là một thế giới đảo ngược, nơi mà các lý luận của chúng ta về quyền lực, lợi danh, khen tặng, khả năng, nỗ lực bị đánh bật và được thay thế bằng một lý luận khác, đó là sự cho không tuyệt đối, lòng thương xót và tình yêu vô biên.  Nếu tôi nghĩ rằng tôi là kẻ đến trước tiên, tôi là người dũng mãnh và đầy khả năng; nếu tôi đã chọn cho mình một chỗ ngồi tốt nhất nơi bàn tiệc Chúa, thì có lẽ tôi nên đứng lên và ngồi vào chỗ kém nhất.  Ở đó Chúa sẽ đến tìm tôi và gọi tôi, Người sẽ dắt tôi lên và đưa tôi về phía Người.  
  
b)  Ở đây, Chúa Giêsu ví Người như là người chủ vườn, Chủ Nhà, dùng hình ảnh cụ thể, Người lặp lại nhiều lần trong Kinh Thánh.  Tôi cố gắng theo dõi hình ảnh ấy, chú ý đến những đặc tính biểu thị và cố gắng minh xác mối quan hệ của tôi với Người.  Ông Chủ nhà là chủ nhân của vườn nho, là người chăm sóc nó, rào giậu chung quanh vườn, trong vườn đào một bồn đạp nho, vun xới nó bằng tình yêu và nỗi nhọc nhằn (Mt 21:33), để nó có thể sinh hoa kết trái nhiều hơn.  Đó là người Chủ nhà đã dọn ra bữa tiệc tối thịnh soạn, và mời nhiều người, mời đến bàn tiệc của Người những người nghèo khó, bỏ rơi, tàn tật và què quặt, đui mù (Lc 14:21).  Và đó là người chủ trở về nhà sau khi đi dự tiệc cưới và chúng ta phải canh thức vì không biết giờ nào (Lc 12:36); là người Chủ nhà trẩy phương xa, ra lệnh cho chúng ta phải canh thức, sẵn sàng để mở cửa cho Người, ngay khi Người trở về và gõ cửa, vào buổi chiều tối, vào nửa đêm, hay vào lúc gà gáy, hay vào lúc bình minh (Mc 13:35).  Lúc ấy tôi hiểu rằng Chúa đang mong đợi nơi tôi kết quả tốt lành; rằng Người đã chọn tôi như người khách tại bàn tiệc của Người; rằng Người sẽ trở lại và tìm tôi và sẽ gõ cửa nhà tôi…  Tôi đã sẵn sàng để đáp lời Người chưa?  Sẵn sàng để mở cửa cho Người không?  Sẵn sàng để dâng tặng Người hoa trái tình yêu mà Người mong đợi từ nơi tôi chưa?  Hay là tôi đang ngủ mê, bị đè nặng bởi hàng ngàn thứ tư lợi khác, làm nô lệ cho các chủ nhà khác, phức tạp và rời x a Người?

   
c)  Chúa Giêsu, người Chủ nhà và là chủ vườn nho, nhiều lần đi ra ngoài để thuê người làm: vào lúc sáng sớm, vào lúc chín giờ sáng, vào lúc giữa trưa, vào lúc ba giờ chiều, vào lúc năm giờ, khi ngày sắp tàn.  Người không hề biết mệt mỏi:  Người đến tìm tôi, để ban cho tôi tình yêu của Người, sự hiện diện của Người, để ký kết một thỏa hiệp với tôi.  Người mong mỏi ban cho tôi vườn nho của Người, vẻ đẹp của nó.  Khi nào chúng ta sẽ gặp, khi Người, đưa mắt nhìn tôi cách chăm chú, sẽ yêu tôi (Mc 10:21), tôi sẽ trả lời ra sao?  Tôi có sẽ buồn rầu bởi vì tôi còn có rất nhiều của cải (Lc 18:23)? Liệu tôi có sẽ trốn chạy, trần truồng, trút lại cả mảnh vải nhỏ của hạnh phúc còn lại để che cho thân tôi (Mc 14:52)?  Hay là, tôi sẽ nói “Xin vâng”, và rồi thì tôi sẽ không đi (Mt 21:29)?  Tôi cảm thấy rằng lời này đã khiến cho tôi lâm vào cơn khủng hoảng, nó nhòm ngó vào chiều sâu thẳm của chính tôi, nó tiết lộ cho tôi biết tôi là ai … tôi vẫn thất vọng, lo sợ cho sự tự do của tôi, nhưng tôi quyết định, trước Chúa là Đấng đang nói với tôi, hành động như Đức Maria đã làm và cũng nói:  “Lạy Chúa, xin hãy làm theo như lời Chúa”, với một sự khiêm nhường và quy phục.      

d)  Bây giờ Tin Mừng đang đặt để trước tôi mối quan hệ của tôi với những người khác, anh chị em cùng chia sẻ với tôi cuộc hành trình đi theo Đức Giêsu.  Tất cả chúng ta được gọi đến với Người, vào buổi tối, sau một ngày làm việc:  Người mở kho báu tình yêu của Người và bắt đầu phân phát, ban cho ân sủng, lòng thương xót, lòng từ bi, tình bằng hữu, tất cả những gì của Người.  Người không dừng lại, Chúa chỉ tiếp tục đổ tràn, trút ra, ban chính thân Người cho chúng ta, mỗi một người. Mátthêu đã chỉ ra, vào lúc này, rằng có người lẩm bẩm trách Chủ vườn nho, trách Chúa, sự phẫn nộ nảy sinh vì Người đối xử với mọi người cách công bằng, với cùng cường độ của tình yêu, với cùng sự dư thừa.  Có lẽ những gì được viết trong những dòng này cũng áp dụng đối với tôi:  Tin Mừng biết cách mang đến và làm sáng tỏ trái tim tôi, phần ẩn dấu nhất của con người tôi.  Một cách chính xác, có lẽ Chúa đang nói những lời này với đầy sự buồn rầu:  “Chẳng lẽ con đang ganh tị chăng?” Tôi nên để cho chính bản thân mình bị thẩm vấn, tôi phải để cho Người nhập vào trong tôi và nhìn tôi với đôi mắt soi thấu tâm can, bởi vì chỉ có cái nhìn của Người, tôi sẽ có thể được chữa lành.  Bây giờ tôi cầu nguyện như sau:  “Lạy Chúa, con cầu xin Chúa, hãy đến với con, gieo lời Chúa trong tâm hồn con và để cho cuộc sống mới nảy mầm, để tình yêu nảy mầm.”

5.  Chìa khóa của bài đọc

Vườn nho

Trong hình ảnh của vườn nho, có vẻ như rất đơn giản và bình thường, Thánh Kinh cô đọng lại một thực tế rất phong phú và sâu sắc, luôn luôn khó hiểu trong ý nghĩa, dần dần khi các văn bản nhận được sự mặc khải hoàn toàn của Chúa Giêsu.  Trong sách các Vua quyển thứ nhất, chương 21, thuật lại cuộc tấn công bạo lực chống lại ông Nabốt, chỉ vì sự lạm quyền của vua A-kháp, là người sở hữu một vườn nho, được trồng cấy, không may lại ở cạnh bên cung điện nhà vua.  Điều này làm cho chúng ta hiểu được tầm quan trọng của vườn nho là một tài sản bất khả xâm phạm:  không có vật gì trên thế gian mà ông Nabốt có thể chịu đánh đổi như lời ông nói:  “Đức Chúa cấm chỉ tôi nhượng gia sản của tổ tiên tôi cho ngài!” (1V 21:3).  Vì tình yêu dành cho vườn nho, ông đã mất mạng.  Vì vậy, vườn nho tượng trưng cho của cải quý giá nhất, di sản của gia đình, trong một phần nhất định, bản sắc riêng của một người; người ấy không thể bán nó, sang nhượng nó cho người khác, đổi chác nó cho một thứ hàng hóa khác, mà sẽ không bao giờ thay thế được vật có giá trị tương đương nó.  Nó ẩn chứa một sức mạnh tinh thần quan trọng.    

Sách tiên tri Isaia chương 5 cho chúng ta biết rõ rằng dân Do Thái được biểu hiện qua hình ảnh vườn nho, như đã được viết:  “Vườn nho của Đức Chúa các đạo binh, chính là nhà Israel đó; cây nho Chúa yêu mến quý chuộng, ấy chính là người xứ Giuđa” (Is 5:7).  Chúa đã yêu thương dân này với một tình yêu vô hạn và muôn đời, ký kết bởi một giao ước bất khả xâm phạm; Người chăm sóc họ giống như chủ vườn nho chăm sóc vườn nho của mình, làm tất cả mọi việc có thể để nó có thể sinh nhiều hoa trái hơn.  Mỗi người chúng ta là dân Israel, toàn thể Giáo Hội:  Chúa Cha đã thấy chúng ta như mảnh đất khô cằn, hoang tàn, đầy sỏi đá, và Người đã vun xới, gieo trồng, luôn chăm bón và tưới nước; Người đã trồng chúng ta như một vườn nho hảo hạng, tất cả với cây nho thuần chủng (Gr 2:21).  Còn điều gì Người có thể làm hơn cho chúng ta mà Người đã chẳng làm không? (Is 5:4).  Trong việc hạ mình một cách vô cùng, chính Chúa đã trở thành vườn nho; Người đã trở thành cây nho thật (Ga 15:1), mà chúng ta là ngành; Người đã hợp nhất chính thân mình với chúng ta, giống như cây nho được gắn liền với các ngành nho của nó.  Chúa Cha, người trồng nho, tiếp tục công việc tình yêu của Người trong chúng ta, để chúng ta có thể kết trái và Người chờ đợi một cách kiên nhẫn.  Người cắt tỉa, vun xới, rồi sau đó Người sai chúng ta đi để làm việc, thu hoạch những hoa trái để đem về cho Người.  Chúng ta được sai đi đến dân của Người, đến các con cái Người, những con cái như chúng ta, như các môn đệ của Người; chúng ta không thể tháo lui, từ chối, bởi vì chúng ta đã được tạo dựng ra vì lý do này:  Chúng ta được cắt cử ra đi và sinh hoa trái và hoa trái của chúng ta được tồn tại (Ga 15:16).  Lạy Chúa, xin nhìn lại chúng con, từ Cõi Trời, xin ngó xuống, xin Ngài hãy thăm nom vườn nho Ngài (Tv 79:15).

Lời hứa:  một đồng tiền

Người chủ vườn nho thiết lập tiền công làm việc một ngày là một đồng bạc; một số tiền khá, để người ta có thể sống với phẩm giá.  Số tiền này có thể xấp xỉ với một quan tiền mà ông Tôbít đã thỏa thuận trả cho người cùng đi với con trai ông là Tôbia đến xứ Mêđia (Tb 5:15).
     
Nhưng trong ý nghĩa của Tin Mừng, đồng bạc này lập tức được gọi bằng tên khác; bởi người Chủ; trong thực tế, ông ta nói:  “Ta sẽ trả công cho các ngươi xứng đáng (câu 4).  Gia nghiệp của chúng ta, tiền công của chúng ta là những gì xứng đáng, là những gì tốt lành: Chúa Giêsu.  Trong thực tế, Người không ban cho, Người không hứa hẹn điều gì khác hơn là chính bản thân Người.  Phần thưởng dành cho chúng ta ở trên Thiên Đàng (Mt 5:12), với Chúa Cha (Mt 6:1).  Nó không phải là tiền bạc, đồng bạc được dùng để nộp thuế bình quân mỗi đầu người cho người La-mã, mà trên đó có hình và danh hiệu của vua Xê-da (Mt 22:20), nhưng là khuôn mặt của Chúa Giêsu, tên của Người, sự hiện diện của Người.  Người nói với chúng ta:  “Thầy ở với các con không chỉ hôm nay, nhưng tất cả mọi ngày, cho đến ngày tận thế.  Chính Thầy sẽ là phần thưởng của các con”.     

Sai đi

Lời Tin Mừng ban cho cuộc sống của chúng ta một năng lượng rất mạnh mẽ, bắt nguồn từ các động từ “sai”, “cắt đặt”, “ra đi”, được lặp lại hai lần; cả hai đều liên quan đến chúng ta, chúng động chạm đến chúng ta một cách sâu xa, chúng gọi chúng ta và đưa chúng ta vào sự hoạt động.  Chính Chúa Giêsu đã sai chúng ta, khiến chúng ta thành các môn đệ của Người:  “Này, Thầy sai các con đi” (Mt 10:16).  Người gọi chúng ta mỗi ngày cho sứ vụ của Người và lặp lại với chúng ta:  “Hãy đi!  Và niềm hạnh phúc của chúng ta được ẩn dấu chính nơi này, trong việc thực hiện Lời này của Người.  Nơi Người sai chúng ta đến, theo cách mà Người chỉ, hướng tới thực tế và những kẻ mà Người đặt để trước chúng ta.    

Lời lẩm bẩm, sự càu nhàu

Lời của sự quan trọng tột cùng, của sự thật và hiện diện rất thực trong kinh nghiệm cuộc sống hằng ngày của chúng ta; chúng ta không thể chối cãi được điều này:  chúng nằm trong tâm khảm chúng ta, trong ý nghĩ của chúng ta, thỉnh thoảng chúng hành hạ chúng ta, biến dạng chúng ta, làm cho chúng ta vô cùng mệt mỏi, đẩy chúng ta ra xa khỏi chính mình, khỏi những người khác, xa khỏi Chúa.  Vâng, chúng ta cũng ở trong số những người làm công phàn nàn và càu nhàu, lẩm bẩm trách cứ Chủ Nhà.  Tiếng rầm rì của lời lầm bầm phát xuất từ rất xa, nhưng nó cũng đã thành công để hợp với chúng ta và len lỏi vào tâm khảm chúng ta.  Dân Israel ở sa mạc đã lẩm bẩm rất nhiều đối với Chúa của họ và chúng ta đã nhận lãnh thừa kế những ý nghĩ ấy, những lời ấy:  “Chính vì Đức Chúa ghét bỏ chúng ta mà Người đã đưa chúng ta ra khỏi đất Ai Cập, để trao chúng ta vào tay người Amôri và tiêu diệt chúng ta” (Đnl 1:27) và chúng ta nghi ngờ về năng lực của Người có thể nuôi dưỡng chúng ta, dẫn đường chúng ta, bảo vệ chúng ta:  “Trong sa mạc này, liệu Chúa Trời có thể dọn gì cho ta ăn?” (Tv 78:19).  Lẩm bẩm có nghĩa là không lắng nghe tiếng nói của Chúa, không còn tin tưởng vào tình yêu của Người dành cho chúng ta:  Vì vậy, chúng ta trở nên phẫn nộ, bất an, mạnh mẽ chống lại lòng thương xót của Chúa và chúng ta tức giận với cách hành xử của Người và chúng ta muốn thay đổi để làm cho nó hợp hơn với chương trình hành động riêng của chúng ta: “Người lại ăn uống với những bọn thu thuế và quân tội lỗi!” (Lc 5:30; 15:2; 19:7).  Nếu chúng ta chú ý lắng nghe kỹ thì có lời thầm thì bí mật của con tim chúng ta.  Làm thế nào để chữa lành nó?  Thánh Phêrô đề nghị cách này:  “Hãy tiếp đón nhau mà không lẩm bẩm kêu ca” (1Pr 4:9); chỉ có sự tiếp đón, đó là sự tiếp nhận có thể, từng chút một, sẽ thay đổi trái tim chúng ta và mở nó ra để được tiếp nhận, có khả năng mang trong nó trong mọi người, mọi tình huống, thực tế mà chúng ta gặp trong đời sống.  “Chấp nhận lẫn nhau” như lời Kinh Thánh nói.  Và điều đó chính là như vậy:  chúng ta phải học chấp nhận, hơn hết cả, như chính Chúa Giêsu, với đường lối yêu thương của Người và của sự không thay đổi, về việc nói với chúng ta và thay đổi chúng ta, của chờ đợi và thu hút chúng ta.  Chấp nhận Người là chấp nhận những người ở bên cạnh chúng ta, những ai đến gặp gỡ chúng ta; chỉ có hành động này mới có thể vượt qua được lời lầm bầm khó chịu.

Lời lầm bầm phát sinh từ sự nhỏ nhen, ganh tị, từ con mắt tội lỗi của chúng ta, như người Chủ vườn nho đã nói, chính Chúa Giêsu.  Người biết cách để giữ chúng ta bên trong, Người biết cách thâm nhập cái nhìn của chúng ta và chạm đến trái tim của chúng ta, trong tinh thần.  Người biết chúng ta nghĩ gì, Người biết chúng ta và yêu chúng ta; và vì tình yêu, Người đem chúng ta ra khỏi sự dữ, cất cái màn che khỏi con mắt ganh tị của chúng ta, Người giúp chúng ta trở nên ý thức về việc chúng ta nghĩ như thế nào, về điều suy nghĩ trong lòng chúng ta.  Vào lúc Người nói:  “Có lẽ mắt các bạn ganh tị?” như Người nói trong bài Tin Mừng hôm nay, Người chữa lành chúng ta, Người lấy dầu thơm và bôi, lấy bùn trộn với nước bọt của mình mà bôi lên mắt chúng ta, vào rất sâu tâm hồn.  

6.  Giây Phút Cầu Nguyện:  Thánh Vịnh 135                                                                         
Đáp ca:  Tình yêu Chúa dành cho chúng con thật là vô tận!
Allêluia!  Hãy tạ ơn Gia-vê vì Chúa nhân từ,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.
Hãy tạ ơn Thần các thần,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.
Hãy tạ ơn Chúa các chúa,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.
Chỉ có Người làm nên những kỳ công vĩ đại,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương,

Người sát hại các con đầu lòng Ai-cập,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương,
dang cánh tay uy quyền mạnh mẽ,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương,
dẫn Israel ra khỏi xứ này,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.
Nước Biển Đỏ, Chúa phân làm hai khối,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương,
đưa Israel lối giữa băng qua,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương,
xô xuống biển Pha-ra-ô cùng binh tướng,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.
Chúa dẫn đưa dân Người qua sa mạc,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương,

Chúa đã nhớ đến ta giữa cảnh nhục nhằn,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương,
gỡ ta thoát khỏi tay thù địch,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương,
Người ban lương thực cho tất cả chúng sinh,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.
Hãy tạ ơn Thiên Chúa cửu trùng,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.
7.  Lời Nguyện Kết

Thân lạy Cha, con cảm ơn Cha đã mặc khải cho con về Con Một Cha và đã cho con gia nhập vào gia sản của Người, trong vườn nho của Người.  Chúa đã khiến con thành một ngành nho, khiến con thành trái nho: giờ đây con chỉ cần ở lại trong Người, trong Chúa và để cho bản thân con được trở nên trổ sinh hoa trái tươi tốt, chín cây, được bỏ vào trong máy ép.  Vâng, lạy Chúa, con biết rằng: Đây là phương cách, con không sợ hãi, bởi vì Chúa đang ở với con.  Con biết rằng cách duy nhất đưa đến sự hạnh phúc là món quà tự hiến cho Chúa, món quà cho các anh em.  Nguyện xin cho con là một ngành nho, xin cho con là những trái nho tốt tươi, để được vắt ép theo ý Chúa!  Amen.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét