Trang

Thứ Ba, 2 tháng 12, 2014

03-12-2014 : THỨ TƯ TUẦN I MÙA VỌNG - THÁNH PHAN-XI-CÔ XA-VI-E, Linh Mục. Bổn mạng các xứ truyền giáo - Lễ Kính

03/12/2014
Thứ Tư Tuần I Mùa Vọng

THÁNH PHANXICÔ XAVIÊ, LINH MỤC. Bổn mạng các xứ truyền giáo. Lễ kính.
* Phanxicô sinh năm 1506 tại Xaviê thuộc giáo phận Pampelune nước Tây Ban Nha trong một gia đình quyền quý. Năm 19 tuổi, ngài sang Ba Lê để tiếp tục việc học. Tám năm sau, ngài tốt nghiệp và trở thành giáo sư đại học đó. Ðược nổi tiếng nhờ trí thông minh, Phanxicô ngày đêm miệt mài theo đuổi danh vọng thế tục. Nhưng một ngày kia, Chúa đã dùng miệng lưỡi thánh Ignatiô, cũng là thầy dạy, để nói cùng ngài: “Ðược lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào được ích chi?”. Và Chúa đã hoàn toàn chiếm đoạt trái tim thánh nhân, biến ngài trở thành một khí cụ tuyệt vời cho cánh đồng truyền giáo. Năm 1539, Phanxicô hăng hái lãnh sứ mệnh nơi Ðức Giáo Hoàng Phaolô III là đem ánh sáng Phúc Âm đến cho dân tộc Ấn Ðộ.
Mười một năm trường nhiệt thành với nhiệm vụ loan báo Tin Mừng, đời sống thánh nhân là một cuộc hành trình không ngừng. Bước chân ngài len lỏi qua khắp các thành thị cũng như thôn quê để rao giảng Phúc Âm Chúa Giêsu. Tiếng ngài vang vọng từ Ấn Ðộ, Tích Lan đến Nhật Bản. Riêng tại Ấn Ðộ, ngài đã đem về cho Chúa hàng trăm ngàn linh hồn và Rửa Tội cho nhiều bậc quân vương. Dù vậy, ngài luôn ấp ủ một tâm hồn khiêm nhượng hiếm có: Ngài thường quỳ gối để viết thư cho thánh Inhaxiô là Bề Trên của mình. Chúa đã hỗ trợ lòng nhiệt thành của thánh nhân bằng nhiều phép lạ phi thường.
Ngày 02/12/1552, khi đang trên đường tới gần Trung Hoa thì ngài ngã bệnh và từ trần tại đảo Tân Châu (Sancian). Xác ngài được đem về mai táng tại thành Goa bên Ấn Ðộ.
Ðúng 70 năm sau, Ðức Grêgôriô XV đã phong ngài lên bậc Hiển Thánh (1622). Và đến năm 1904, Ðức Thánh Cha Piô X đặt ngài làm quan thầy các xứ truyền giáo.
 (Bản văn THỨ TƯ TUẦN I MÙA VỌNG)
Bài Ðọc I: Is 25, 6-10a
"Chúa mời đến dự tiệc của Người và lau sạch nước mắt trên mọi khuôn mặt".
Trích sách Tiên tri Isaia.
Ngày ấy, Chúa các đạo binh sẽ thết tất cả các dân trên núi này một bữa tiệc đầy thịt rượu, thịt thì béo, rượu thì ngon. Trên núi này, Người sẽ cất khăn tang bao trùm muôn dân, và tấm khăn liệm trải trên mọi nước. Người tiêu diệt sự chết đến muôn đời. Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt trên mọi khuôn mặt, và cất bỏ khỏi toàn mặt đất sự tủi hổ của dân Người, vì Người đã phán. Ngày đó, người ta sẽ nói: Này đây Chúa chúng ta, chúng ta đã chờ đợi Người, và Người sẽ cứu chúng ta. Ðây là Chúa, nơi Người, chúng ta đã tin tưởng, chúng ta hãy hân hoan và vui mừng vì ơn Người cứu độ, vì Chúa sẽ đặt tay của Người trên núi này.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 22, 1-3a. 3b-4. 5. 6
Ðáp: Trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài. (c. 6cd).
Xướng: 1) Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng. - Ðáp.
2) Người dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. (Lạy Chúa), dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi lòng con. - Ðáp.
3) Chúa dọn ra cho con mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương; đầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa. - Ðáp.
4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài. - Ðáp.

Alleluia: Is 33, 32
Alleluia, alleluia! - Chúa là Ðấng xét xử, là Ðấng ban luật và là Vua chúng ta: Chính Người sẽ cứu độ chúng ta. - Alleluia.

Phúc Âm: Mt 15, 29-37
"Chúa Giêsu chữa nhiều người và hoá bánh ra nhiều".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu đến gần biển Galilêa, và Người lên ngồi trên núi; dân chúng lũ lượt đến cùng Người, đem theo kẻ câm, mù, què, liệt và nhiều người khác, và đặt họ dưới chân Người. Người đã chữa lành họ. Dân chúng kinh ngạc nhìn thấy kẻ câm nói được, người què bước đi, người đui lại thấy, và họ tôn vinh Thiên Chúa Israel.
Còn Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ mà phán: "Ta thương xót đoàn lũ này, vì đã ba ngày, họ ở lại với Ta, nhưng không có gì ăn. Ta không muốn cho họ về bụng đói, sợ họ té xỉu dọc đàng". Các môn đệ thưa Người: "Chúng con lấy đâu đủ bánh trong hoang địa này mà cho ngần ấy dân chúng ăn no?" Chúa Giêsu nói với họ: "Các con có bao nhiêu chiếc bánh?" Họ thưa: "Có bảy chiếc, và ít con cá nhỏ". Người truyền dân chúng ngồi xuống đất. Người cầm lấy bảy chiếc bánh và mấy con cá, tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ, các môn đệ đem cho dân chúng. Tất cả đều ăn no, và mảnh vụn còn lại người ta thu lượm được bảy thúng đầy. Số người đã ăn lên tới bốn ngàn, không kẻ đàn bà con nít. Sau khi giải tán dân chúng, Người bước lên thuyền và đến địa phận Magađan.
Ðó là lời Chúa.


Suy Niệm: Hóa Bánh Ra Nhiều

Khi bàn về đoạn Tin Mừng hôm nay, một học giả Kinh Thánh đã viết: "Mỗi một giai đoạn trong cuộc đời rao giảng của Chúa Giêsu được đánh dấu bằng một bữa ăn khoản đãi dân Ngài". Trước hết là phép lạ bánh hóa ra nhiều cho 5,000 người ăn, được coi như biến cố chấm dứt sứ vụ của Ngài tại Galilêa. Vì từ đây Ngài không còn giảng dạy tại các Hội Ðường cũng như làm những phép lạ, chữa bệnh tật tại đó nữa. Thứ đến là phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi sống 4,000 người, đánh dấu trong một giai đoạn ngắn giảng dạy tại các vùng dân ngoại biên giới Palestina, miền Tirô và Sidon và miền thập tỉnh. Sau cùng là bữa tiệc ly tại Jérusalem, nơi đây đã kết thúc cuộc đời rao giảng của Ngài ở trần gian.
Với cái nhìn phân tích, chúng ta sẽ thấy rằng mỗi bữa ăn đều nằm trong một bối cảnh khác nhau, thành phần tham dự cũng khác nhau. Tuy nhiên, tất cả cùng phát xuất từ một động lực chính, đó là Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.
Hai lần hóa bánh ra nhiều đều do sự lo lắng của Chúa Giêsu: "Nếu để họ ra về e rằng có những người sẽ bị đói lả dọc đường". Và riêng bữa tiệc cuối cùng, đó là bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã phải thực hiện một phép lạ vĩ đại để cho mọi người được đủ sức mạnh mà tiến bước trên con đường lữ hành trần gian. Nếu là một trong 5,000 người của đám dân chúng được Tin Mừng nói đến hôm nay, chắc chắn tâm trạng của chúng ta cũng chẳng khác gì tâm trạng của đám dân chúng lúc bấy giờ, là bụng đói lả sau ba ngày theo ngài nhưng lại không dám lên tiếng cứ giữ thái độ yên lặng.
Có thể họ im lặng vì chưa đủ lòng tin vào quyền năng của Chúa Giêsu. Thắc mắc của họ phần nào tương tự như thắc mắc của các tông đồ: "Lấy đâu ra bánh trong hoang địa này cho ngần ấy người ăn". Mặc dù các môn đệ đã thấy Ngài chữa lành các bệnh tật như làm cho kẻ điếc được nghe, què được đi, cùi được sạch... Tuy nhiên, có thể họ nghĩ rằng mình không thuộc về những hạng người cần đến Chúa Giêsu, vì thân thể đang khỏe mạnh đâu cần gì đến thầy thuốc. Sự đói mệt chỉ là một nhu cầu thể lý chứ không phải là một căn bệnh làm gì phải bắt Ngài bận tâm. Thế nhưng họ đâu có thể ngờ rằng, tuy không phải là căn bệnh thì chúng có thể làm hại con người hoặc có thể vì chút tự ái cá nhân mà họ đành im lặng mặc cho cơn đói hành hạ. Tại sao không chịu lo xa chuẩn bị chút ít lương thực phòng thân để giờ này lại mở miệng lên tiếng kêu ca.
Nhìn chung thái độ im lặng này xuất phát từ hai nguyên nhân: Thiếu tin tưởng vào Thiên Chúa và quá quy trách vào bản thân.
Thiếu tin tưởng vào Thiên Chúa khiến con người không thấy Ngài đầy quyền năng và đầy lòng thương xót. Ngài thấu hiểu hết mọi người và hằng quan tâm đến tất cả mọi nhu cầu của con người, ngay cả những nhu cầu nhỏ nhặt nhất cũng đều được Ngài đáp ứng. Mặt khác, quá thiên về bản thân cũng khiến cho con người xa cách Thiên Chúa. Con người luôn phải cần đến sự trợ giúp của Thiên Chúa.
Về phần Chúa Giêsu, dù cho đám dân chúng im lặng, Ngài không chấp lẽ thái độ của họ, Ngài luôn quan tâm đến họ, Ngài sợ họ đói lả té xỉu dọc đàng, và Ngài đã cho họ ăn một cách dư giả đến nổi ăn xong còn dư được bảy thúng đầy. Con số này tượng trưng cho cái vô biên không đo lường nổi.
Cuộc lữ hành nào mà chẳng mệt nhoc, không lương thực thì chắc chắn sẽ có kẻ rơi rụng dọc đường. Chúa Giêsu đã thấy trước điều này ngay trong cuộc lữ hành trần gian, vì thế Ngài đã ban Mình Ngài để làm lương thực nuôi dân Ngài. Tuy nhiên, căn bệnh im lặng của đám dân chúng ngày xưa còn là căn bệnh của thế giới hôm nay. Căn bệnh đó xem ra còn trầm trọng hơn, vì bàn tiệc đã bày sẵn nhưng chẳng mấy ai đến hưởng dùng.
Mùa vọng là mùa đợi trông, dân Do Thái ngày xưa trông đợi ngày Chúa đến, ngày mà Chủ các cơ binh sẽ thiết đãi một bữa tiệc đầy thịt rượu, thịt thì béo, rượu thì ngon. Sống trong tâm tình của Mùa Vọng, ước mong rằng mỗi người trong chúng ta sẽ hiểu được giá trị trổi vượt của bàn tiệc Thánh Thể mà Thiên Chúa đã thiết đãi dân Ngài để rồi trong cuộc đời lữ hành trần gian chúng ta sẽ được no đủ và vững bước tiến về quê trời, không lo sợ phải mệt lả dọc đường.
Veritas Asia


Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Tư Tuần I MV
Bài đọc: Isa 25:6-10; Mt 15:29-37.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Chính Chúa sẽ chăm sóc dân Người.
Sống trong cuộc đời, con người thường xuyên bị đe dọa bởi đói khát, bệnh tật, chiến tranh, hận thù, chết chóc. Con người ước mơ một “thiên đàng trần gian,” khi tất cả những đe dọa này không còn nữa. Nỗi ước mơ này có thể thực hiện hay không? Các Bài đọc hôm nay cho thấy ước mơ này có thể hiện thực trong tương lai. Trong Bài đọc I, Tiên Tri Isaiah nhìn thấy trước Ngày đó, Ngày mà chính Thiên Chúa sẽ thân hành chăm sóc dân chúng, lau khô mọi giòng lệ, và nhất là vĩnh viễn tiêu diệt tử thần. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu chính là Đấng Thiên Sai, được sai tới để làm những việc này. Ngài chữa lành mọi tật nguyền và làm phép lạ để có của ăn nuôi dân chúng theo Ngài.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Chính Người là Đức Chúa chúng ta từng đợi trông.
Tiên tri Isaiah là tiên tri đã thấy trước 2 cuộc lưu đày của dân Do-Thái: vương quốc miền Bắc bị thất thủ và lưu đày tại Assyria vào năm 721 BC, và vương quốc miền Nam bị thất thủ và lưu đày tại Babylon vào năm 587 BC. Nước mất, nhà tan, Đền Thờ bị phá hủy, nhưng tiên tri được Thiên Chúa cho thấy trước Ngày Thiên Chúa sẽ giải phóng Israel, cho nhóm người còn sót lại được hồi hương, tái thiết quốc gia, và xây dựng lại Đền Thờ. Hơn nữa, Tiên Tri còn được Thiên Chúa cho thấy trước Ngày Đấng Thiên Sai sẽ tới cai trị dân. Thị kiến hôm nay tường thuật những gì Đấng Thiên Sai sẽ thực hiện:
(1) Ngài sẽ cho dân ăn uống: không phải là những thức ăn tầm thường, nhưng là những cao lương mỹ vị và rượu ngon tinh chế: “Ngày ấy, trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc: tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon, thịt béo ngậy, rượu ngon tinh chế.”
(2) Ngài sẽ vĩnh viễn tiêu diệt thần chết: Kẻ thù lớn nhất của con người là sự chết vì nó lấy đi tất cả những gì con người có. Đối diện với cái chết, con người không thể làm gì khác là đành chấp nhận. Nhưng khi Đấng Thiên Sai tới, Ngài sẽ đánh bại thần chết, và đem lại sự sống muôn đời cho con người như Tiên Tri tuyên bố: “Trên núi này, Người sẽ xé bỏ chiếc khăn che phủ mọi dân, và tấm màn trùm lên muôn nước. Người sẽ vĩnh viễn tiêu diệt tử thần.” Bằng việc chấp nhận cái chết trên Thập Giá, Chúa Giêsu đã sống lại khải hòan, và cho mọi người chết sống lại.
(3) Ngài sẽ tiêu diệt mọi khổ đau: “Đức Chúa là Chúa Thượng sẽ lau khô giòng lệ trên khuôn mặt mọi người, và trên toàn cõi đất, Người sẽ xoá sạch nỗi ô nhục của dân Người. Đức Chúa phán như vậy.” Đau khổ của con người có nhiều nguyên nhân: bệnh tật, tội lỗi, phân ly. Người sẽ tiêu diệt mọi nguyên nhân gây đau khổ cho con người.
(4) Ngài sẽ tiêu diệt mọi kẻ thù: Tiên tri chỉ đề cập đến Moab ở đây: “Còn Moab sẽ bị giày đạp ngay tại chỗ, như rơm bị nghiền nát trong hố phân.” Có lẽ Moab chỉ là một biểu tượng được dùng để chỉ tất cả các địch thù của con người.
Khi chứng kiến tất cả các điều trên xảy ra, người ta sẽ nói: "Đây là Thiên Chúa chúng ta, chúng ta từng trông đợi Người, và đã được Người thương cứu độ. Chính Người là Đức Chúa chúng ta từng đợi trông. Nào ta cùng hoan hỷ vui mừng bởi được Người cứu độ." Và chỉ khi nào hòan tất mọi sự, “Bàn tay Đức Chúa sẽ đặt trên núi này mà nghỉ.”
2/ Phúc Âm: Triều đại của Thiên Chúa đã đến: Đấng Thiên Sai chính là Chúa Giêsu.
Tất cả những gì Tiên Tri Isaiah loan báo hơn 700 năm trước được ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu. Hai điều Chúa Giêsu làm được tường thuật trong Tin Mừng hôm nay:
2.1/ Chúa Giêsu chữa mọi bệnh họan tật nguyền cho dân: Thánh sử Matthêu tường thuật: “Đức Giêsu xuống khỏi miền ấy, đến ven Biển Hồ Galilee. Người lên núi và ngồi ở đó. Có những đám người đông đảo kéo đến cùng Người, đem theo những kẻ què quặt, đui mù, tàn tật, câm điếc và nhiều bệnh nhân khác nữa. Họ đặt những kẻ ấy dưới chân Người và Người chữa lành, khiến đám đông phải kinh ngạc vì thấy kẻ câm nói được, người tàn tật được lành, người què đi được, người mù xem thấy. Và họ tôn vinh Thiên Chúa của Israel.” Không có bệnh gì Chúa Giêsu không chữa lành được; cũng không có một quyền lực nào ngăn cản Ngài không được chữa bệnh.
2.2/ Chúa Giêsu cho dân ăn: Sau khi đã dạy dỗ dân chúng 3 ngày trong nơi hoang vắng, Đức Giêsu gọi các môn đệ lại mà nói: "Thầy chạnh lòng thương đám đông, vì họ ở luôn với Thầy đã ba ngày rồi và họ không có gì ăn. Thầy không muốn giải tán họ, để họ nhịn đói mà về, sợ rằng họ bị xỉu dọc đường." Các môn đệ thưa: "Trong nơi hoang vắng này, chúng con lấy đâu ra đủ bánh cho đám đông như vậy ăn no?" Đức Giêsu hỏi: "Anh em có mấy chiếc bánh?" Các ông đáp: "Thưa có bảy chiếc bánh và một ít cá nhỏ." Bấy giờ, Người truyền cho đám đông ngồi xuống đất. Rồi Người cầm lấy bảy chiếc bánh và mấy con cá, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho môn đệ, và môn đệ trao cho đám đông. Ai nấy đều ăn và được no nê. Những mẩu bánh còn thừa, người ta thu lại được bảy thúng đầy.
2.3/ Bàn tiệc Thánh Thể: Phép lạ “Hóa Bánh ra nhiều” là phép lạ duy nhất được tường thuật bởi cả 4 Thánh Sử (x/c Mt 14:13-21, Mk 6:30-44, Lk 9:10-17, Jn 6:1-15); và được Thánh Sử Gioan dùng để làm chất liệu cho Bài Giảng về Thánh Thể trong chương 6. Theo Gioan, Chúa Giêsu chính là Bánh Hằng Sống từ trời xuống để trở thành của ăn uống nuôi sống muôn dân; ai ăn thịt và uống máu Ngài sẽ không phải chết, nhưng được sống đời đời (Jn 6:53-58).
Một điều cần đề cập tới nữa là việc Chúa Giêsu thành lập Bí-tích Thánh Thể trong Bữa Tiệc Ly: Cả ba Thánh Sử tường thuật biến cố này đều tường thuật lời Chúa Giêsu nói sau cùng: “Thầy bảo cho anh em biết: từ nay, Thầy không còn uống thứ sản phẩm này của cây nho, cho đến ngày Thầy cùng anh em uống thứ rượu mới trong Nước của Cha Thầy” (x/c Mt 26:29, Mk 14:25, Lk 22:18). Lời tường thuật này nhắc nhở Bữa Tiệc trong Vương Quốc Thiên Chúa mà Tiên Tri Isaiah đã có thị kiến trong Bài đọc I.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Đối diện với những đau khổ và bất tòan trong cuộc sống, chúng ta trông mong sẽ có một ngày con người sẽ không còn phải đói khát, đau khổ, chiến tranh, hận thù, chết chóc.
- Chỉ nơi Đấng Thiên Sai là Chúa Giêsu, chúng ta mới tìm được tất cả những gì Tiên Tri Isaiah đã loan báo trong Bài đọc I.
- Chúa Giêsu sẽ chữa lành chúng ta khỏi mọi tật bệnh hồn xác, và chính Ngài sẽ nuôi dưỡng chúng ta bằng chính thân thể của Người. Nhờ Ngài, chúng ta được tham dự vào cuộc sống thần linh của Thiên Chúa ngay từ đời này, và sẽ được hưởng trọn vẹn tất cả trong cuộc sống mai sau.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP


LỜI CHÚA : HẠT GIỐNG NẢY MẦM : TUẦN I MÙA VỌNG

 Mt 15,29-37
 A. Hạt giống...
Đoạn Tin Mừng hôm nay cho ta biết thêm hai loại hoạt động cứu thế của Chúa Giêsu : a/ cc 29-31 : cứu những người bệnh ; b/ cc 32-39 : lo cho dân đang đói có của ăn.
Hai hoạt động trên vừa là dầu chỉ cho biết Ngài là Đấng Messia mà Isaia tiên báo Is 61,1-2), vừa là dấu chỉ tiên báo Bí tích Thánh Thể sau này.

B.... nẩy mầm.
1. Chủ đề của bài đọc Cựu Ước, và sẽ được ứng nghiệm trong bài Tin Mừng : “Chúa mời đến dự tiệc của người, và lau sạch nước mắt trên mọi khuôn mặt”.
2. Chúa Giêsu như một khối nam châm, một chiếc phao giữa biển đời đau khổ. Ngài “ngồi đó” (câu 29), đông đảo các bệnh nhân kéo đến cùng Ngài (câu 30).
3. Tấm lòng của Chúa Giêsu : “Thầy chạnh lòng thương đám đông... sợ họ bị xỉu dọc đường” (câu 32). Động từ “chạnh lòng” trong nguyên bản có nghĩa rất mạnh và cụ thể : cảm giác như ruột mình đứt ra từng khúc.
4. Chuyện song song ở Lc 9,10-17 còn cho chúng ta biết thêm hai cách phản ứng trước cùng một hoàn cảnh :
a/ phản ứng của các môn đệ là “Xin Thầy cho đám đông về, để họ... kiếm thức ăn” : phản ứng theo lý (các môn đệ không có trách nhiệm lo cho dân chúng ăn), và mặc kệ (họ đã tự ý đi theo Chúa Giêsu thì họ cũng phải tự lo thức ăn).
b/ phản ứng của Chúa Giêsu là “Chính anh em hãy lo cho họ ăn”, sau đó Chúa Giêsu làm cho bánh ra nhiều : phản ứng phát xuất từ tình thương, từ sự quan tâm tới người khác, từ tấm lòng quảng đại gánh lấy việc chẳng phải là trách nhiệm của mình.
5. Tại văn phòng của một Cố vấn Tâm lý, một thiếu phụ vừa trẻ vừa giàu giải bày tâm sự : “Bất cứ thứ gì tôi muốn thì chồng tôi đều cho cả. Tôi có đủ mọi “sụ” nhưng trong lòng trống vắng vô cùng. Xin bà hãy cho tôi một lời khuyên”. Nhà Cố vấn tâm lý không trả lời, nhưng bảo cô thư ký của bà kể chuyện đời cô. Cô này kể : chồng tôi đã chết, cách nay 3 tháng con tôi cũng chết vì xe đụng. Tôi cảm thấy mất tất cả, tôi không ngủ được, tôi không muốn ăn uống, tôi không bao giờ cười. Một hôm tôi đi làm về hơi khuya. Có một chú mèo con cứ đi theo sau tôi. Trời lạnh. Tôi cũng tội nghiệp nó, nên tôi mở cửa cho nó vào nhà. Tôi pha cho nó một ly sữa. Nó kêu meo meo và cọ mình vào chân tôi. Lần đầu tiên tôi cười. Rồi tôi nghĩ : nếu việc giúp cho một chú mèo con có thể làm tôi cười, thì việc giúp cho người nào đó chắc có thể làm tôi hạnh phúc. Thế là hôm sau tôi nướng vài ổ bánh đem cho bà cụ hàng xóm đang bệnh. Mỗi ngày tôi cố làm vài việc gì đó cho những người tôi gặp được vui vẻ. Và quả thực tôi đã thấy hạnh phúc. Tôi nghiệm ra được điều này là ta sẽ không hạnh phúc khi ta chỉ chờ người khác đem lại hạnh phúc cho mình ; ngược lại ta sẽ hạnh phúc thật khi ta làm cho người khác hạnh phúc”. Nghe đến đó, người thiếu phụ trẻ bật khóc. Cô đã có bất cứ thứ gì đồng tiền có thể mua được nhưng cô đã đánh mất những thứ mà đồng tiền không mua nổi. Và cô quyết định noi gương cô thư ký nọ. (Charlene Johnson).
6. “Đức Giêsu hỏi “Anh em có mấy chiếc bánh ?” Các ông nói : “Thưa có 7 chiếc bánh và một ít cá nhỏ” (Mt 15,34)
Hằng ngày tôi vẫn thấy nào là trẻ em bụi đời, những kẻ bán máu, nào là những kẻ bệnh hoạn, tật nguyền… Tất cả những điều ấy làm tôi nhức nhối, và càng nhức nhối hơn khi nghĩ đến khả năng nhỏ bé của mình. Tôi như thế hoàn toàn bất lực trước những nhu cầu lớn lao ấy. Với 7 chiếc bánh và một ít cá nhỏ của ai đó dâng tặng, Chúa Giêsu đã làm cho hàng ngàn người được no nê. Chúa chỉ cần một đóng góp nhỏ của tôi để làm nên những việc lớn lao. Chẳng lẽ tôi nghèo đến nỗi không có gì để chia xẻ. Chẳng lẽ tôi không có được một lời chào, một nụ cười, một lời hỏi thăm, một lời khuyên… Nếu tôi sẵn sàng trao tặng thì tất cả những khả năng bé nhỏ này, nhờ ơn Chúa, chắc chắn sẽ đem lại niềm vui, tình thương, và thậm chí cả niềm tin cho những người bất hạnh nghèo khổ.
Lạy Chúa, xin cho con nhận ra những tiềm năng Chúa ban, và biết sử dụng để đem lại niềm vui, tình thương và niềm tin cho mọi người (Epphata).
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI

(Bản văn LỄ KÍNH THÁNH PHANXICÔ XAVIÊ)


BÀI ĐỌC I: 1Cr 9, 16-19. 22-23
"Vô phúc cho tôi, nếu tôi không rao giảng Phúc Âm".
Bài trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông Đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, nếu tôi rao giảng Phúc Âm, thì không phải để làm cho tôi vinh quang, mà vì đó là một nhu cầu đối với tôi. Vô phúc cho tôi, nếu tôi không rao giảng Phúc Âm. Giá nếu tôi tự ý đảm nhận việc ấy, thì tôi có công; nhưng nếu tôi bị ép buộc, thì tôi phải làm tròn nghĩa vụ đã giao cho tôi. Vậy thì phần thưởng của tôi ở đâu? Khi rao giảng Phúc Âm, tôi đem Phúc Âm biếu không, tôi không dùng quyền mà Phúc Âm dành cho tôi. Mặc dầu tôi được tự do đối với tất cả mọi người, tôi đã đành làm nô lệ cho mọi người, hầu thu hút được nhiều người hơn. Tôi đã ăn ở như người yếu đau đối với những kẻ yếu đau để thu hút người yếu đau. Tôi đãnên mọi sự đối với tất cả mọi người, để làm cho mọi người được cứu rỗi. Tất cảnhững việc đó, tôi làm vì Phúc Âm, để được thông phần vào lợi ích của Phúc Âm.
Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 95, 1.2a, 2b-3. 7-8a. 10
Đáp: Hãy tường thuật phép lạ Chúa giữa muôn dân.
Xướng:
1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, hãy ca mừng Chúa đi, toàn thể địa cầu! Hãy ca mừng Chúa, hãy chúc tụng danh Người.
2) Ngày ngày hãy loan truyền ơn Người cứu độ. Hãy tường thuật vinh quang Chúa giữa muôn dân và phép lạ Người ở nơi vạn quốc.
3) Hãy kính tặng Chúa, hỡi người chư dân bá tánh, hãy kính tặng Chúa quyền thếvới vinh quang, hãy kính tặng Chúa vinh quang xứng với danh Người. Hãy mang lễ vật, tiến vào hành lang nhà Chúa.
4) Người giữ vững địa cầu cho khỏi lung lay. Người cai quản chư dân theo đườngđoan chính.
ALLELUIA: Is 45, 8
All. All. – Chúa phán: “Hãy đi dạy dỗ các dân tộc: Ta ở với các con mọi ngày chođến tận thế”. - All.
PHÚC ÂM: Mc 16, 15-20
"Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng".
Bài kết thúc Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Máccô.
Khi ấy, Chúa Giêsu hiện ra với mười một môn đệ và phán: “Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật. Ai tin và chịu phép Rửa, thì sẽ được cứu độ; ai không Tin, sẽ bị luận phạt. Và đây là những phép lạ đi theo những người đã tin: nhân danh Thày, họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng mới lạ, cầm rắn trong tay, và nếu uống phải chất độc, thì không bị hại; họ đặt tay trên những người bệnh, và bệnh nhân sẽ được lành mạnh”. Vậy sau khi nói với các môn đệ, Chúa Giêsu lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Phần các ông, các ông đi rao giảng khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông và củng cố lời giảng dạy bằng những phép lạ kèm theo.
Đó là lời Chúa.


SUY NIỆM : Loan báo Tin Mừng
Loan báo Tin Mừng hôm nay thuận lợi hơn xưa rất nhiều. Chúng ta không phải đi thuyền buồm để mà sợ đứng gió... Điều chúng ta thiếu lại là chút nhiệt thành nóng bỏng của Phanxicô Xaviê

Chúa Giêsu phục sinh hiện ra để củng cố đức tin của các môn đệ,
để ban bình an cho họ sau những biến cố buồn đau,
nhưng cũng là để sai các môn đệ lên đường đi sứ vụ.
“Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (Ga 20, 21).
“Hãy đi và làm cho mọi dân tộc trở thành môn đệ…” (Mt 28, 19-20).
“Phải nhân danh Đức Kitô mà rao giảng cho mọi dân tộc” (Lc 24, 47).
“Hãy đi khắp thế giới, loan báo Tin Mừng cho mọi thọ tạo” (Mc 16, 15).
Thế hệ các Kitô hữu đầu tiên rất trân trọng mệnh lệnh này.
Bao vị tông đồ đã chịu tử đạo chỉ vì tuân giữ mệnh lệnh ấy.
Ước mơ của Chúa Giêsu phục sinh thật lớn lao.
Ước mơ ấy muốn ôm cả trái đất với muôn dân tộc.
Ngài đã sống, đã chết và đã sống lại, chính là để cứu độ cả loài người.
Ngài đã đem lửa đến trên mặt đất,
và Ngài muốn chúng ta tiếp tục làm cho ngọn lửa ấy bùng lên (Lc 12, 49).
Phanxicô Xaviê đã muốn sống mệnh lệnh này cách đặc biệt.
“Các tông đồ ra đi rao giảng khắp nơi” (c. 20).
Phanxicô cũng muốn đi khắp nơi để nói về Chúa Giêsu cho ai chưa tin.
Một năm trời lênh đênh trên biển để đi từ Bồ Đào Nha đến Ấn Độ.
Ba mươi sáu tuổi bắt đầu công việc của một nhà truyền giáo ở Goa,
Phanxicô chịu mọi lao nhọc để giảng dạy và rửa tội cho người bản xứ.
Rồi Phanxicô lại lên đường đi Malaixia, Inđônêsia.
và là một trong những nhà truyền giáo đầu tiên tại Nhật Bản.
Nhưng trái tim Phanxicô vẫn chưa dừng ở đó.
Ngài còn muốn đặt chân đến Bắc Kinh để gặp Hoàng đế Trung Quốc.
Phanxicô chết vì kiệt sức khi đang chờ trên hòn đảo Thượng Xuyên,
mắt vẫn hướng về Quảng Đông chỉ cách đó 14 cây số.
Hôm ấy là ngày 3-12-1552, khi Phanxicô mới bốn mươi sáu tuổi.
Mừng lễ thánh Phanxicô, Bổn mạng các xứ truyền giáo,
chúng ta nhớ Việt Nam vẫn là nơi cần được loan báo Tin Mừng,
và Trung Quốc vẫn là nơi gần như Kitô giáo chưa được biết đến.
Hơn 90% người dân Việt chưa nhận biết Đức Kitô.
Hơn một tỷ người Trung Quốc cần được nghe lời rao giảng.
Có ai còn nhớ đến những mệnh lệnh của Chúa phục sinh không?
Có người nghĩ rằng chẳng cần phải loan báo Tin Mừng nữa,
vì đạo nào cũng dạy ăn ngay ở lành, dạy sống theo lương tâm,
vì các tôn giáo đều có nét hay riêng, đều là những con đường cứu độ,
vì Đức Kitô Giêsu chẳng phải là Đấng Trung Gian duy nhất!
Anh em hãy đi khắp thế giới, hãy làm cho muôn dân thành môn đệ!
Lời ấy của Đức Giêsu phải là lời nhắc nhở Hội Thánh.
Loan báo Tin Mừng hôm nay thuận lợi hơn xưa rất nhiều.
Chúng ta không phải đi thuyền buồm để mà sợ đứng gió.
Chỉ gửi một email, làm một trang web, là nhiều người nghe được Tin Mừng.
Điều chúng ta thiếu lại là chút nhiệt thành nóng bỏng của Phanxicô.
Xin cho tôi hiểu và yêu Ngài hơn, để dám giới thiệu Ngài cho thế giới.

Cầu nguyn:

Lạy Chúa Giêsu,
xin cho chúng con ngọn lửa trong Trái tim Chúa,
ngọn lửa của tình yêu Cha và nhân loại.
Xin làm tim con ấm lại mỗi ngày,
nhờ được nghe Chúa nói như hai môn đệ về Emmau,
và được Chúa nuôi bằng bánh ban sự sống.
Xin soi sáng chúng con bằng ngọn lửa rực rỡ
mỗi khi chúng con cầu nguyện hay quyết định.
Xin thanh luyện chúng con bằng ngọn lửa hồng
của những thất bại đắng cay trên đường đời.
Ước gì chúng con luôn có lửa nhiệt thành
để hết lòng phụng sự Nước Chúa,
lửa tình yêu để vượt qua những hận thù đố kỵ.
Lạy Chúa Giêsu,
thế giới hôm nay vẫn bị tối tăm, lạnh lẽo đe dọa.
Xin ban cho chúng con những lưỡi lửa
để chúng con đi khắp địa cầu
loan báo về Tình yêu và gieo rắc Tình yêu khắp nơi. Amen.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ 


03/12/14 THỨ TƯ ĐẦU THÁNG TUẦN 1 MV
Th. Phan-xi-cô Xa-vi-ê, linh mục
Mc 16,15-20

Suy niệm: Ki-tô hữu là người thuộc về Chúa Ki-tô, người được sai đi loan báo Tin Mừng cứu độ. Câu nói này tuy vắn vỏi nhưng đã hàm chứa đầy đủ sự cao trọng của ơn gọi và sứ mạng người Ki-tô hữu. Sứ mạng loan báo Tin Mừng ấy không phải là điều phụ thuộc, hay được đưa thêm vào trong bổn phận của người Ki-tô, nhưng là bản chất, là cốt lõi của đời sống họ, là sứ vụ chính đi kèm bí tích thánh tẩy họ đã lãnh nhận. Người Ki-tô hữu và sứ vụ truyền giáo ấy không thể tách biệt, ‘li dị’ nhau; trái lại, tay trong tay" đến nỗi không truyền giáo thì không còn là người Ki-tô hữu đích thực. Do đó, người Ki-tô hữu phải luôn nỗ lực làm chứng về Chúa qua lời nói, việc làm tốt đẹp của mình, cũng như không ngại ngùng giới thiệu Chúa cách trực tiếp cho người chung quanh.
Mời Bạn: Cụ thể, bạn sẽ làm gì để loan báo Tin Mừng trong môi trường sống của mình? - Trước hết, chính bạn phải ý thức rằng loan báo Tin Mừng là bổn phận số một của mình trong cuộc đời; thứ đến, phải nỗ lực sống đời sống yêu thương, công bằng, quảng đại, liên đới, để người chung quanh nhìn thấy có Chúa trong cuộc đời bạn.
Sống Lời Chúa: Nhìn thấy bao anh chị em lân cận chưa biết Chúa, tôi xác tín như thánh Phao-lô: “Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng.”
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, xin cho chúng con tỉnh giấc sau cơn mê dài bỏ quên sứ mạng loan báo Tin Mừng. Xin cho trong năm này, mỗi gia đình chúng con ra sức giúp cho một gia đình không Công giáo được phần nào biết Chúa qua gương sáng và lời cầu nguyện. Xin Chúa chúc lành và nâng đỡ cho quyết tâm này của chúng con. Amen.

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

3 THÁNG MƯỜI HAI
Mùa Vọng, Thời Gian Của Đức Ma-ri-a
Một cách đặc biệt, Mùa Vọng là thời gian của Đức Ma-ri-a. Mẹ cưu mang Đấng Mêsia đã được mong đợi từ bao đời, Đấng là niềm hy vọng của mọi thời đại. Có thể nói, chính nơi Mẹ, chúng ta tìm thấy ý nghĩa tối thượng và đầy đủ của Mùa Vọng. Lễ Đức Trinh Nữ Ma-ri-a Vô Nhiễm được Giáo Hội cử hành trọng thể trong Mùa Vọng, điều đó có ý nghĩa hùng hồn biết bao!
Ngày Sinh Nhật Đức Mẹ được Giáo Hội mừng trọng thể hằng năm vào ngày 8 tháng 9; dù vậy, Mùa Vọng vẫn đưa chúng ta vào sâu trong mầu nhiệm thánh thiêng của ngày sinh nhật này. Trước khi xuất hiện trong trần gian, Đức Ma-ri-a được thụ thai trong cung lòng thân mẫu ngài. Đàng khác, cũng chính khoảnh khắc đó, Mẹ được sinh ra bởi chính Thiên Chúa, Đấng hoàn thành mầu nhiệm Vô Nhiễm Trinh Thai: Mẹ được sinh ra “đầy ơn phúc”!
Vì thế, cùng với vị Tông Đồ Dân Ngoại, chúng ta lặp lại: “Chúc tụng Thiên Chúa là Cha Đức Giê-su Kitô, trong Đức Kitô, Ngài đã ban cho chúng ta muôn vàn ơn phúc bởi Thánh Thần” (Ep 1,3). Và Đức Ma-ri-a được chúc phúc một cách đặc biệt, một cách độc đáo vô song. Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã chọn Mẹ trước khi tạo thành thế giới để Mẹ trở nên thánh thiện tinh tuyền trước mặt Ngài (cf. Ep 1,4). Vâng, Chúa Cha vĩnh cửu đã chọn Đức Ma-ri-a trong Đức Kitô. Ngài đã chọn Mẹ cho Đức Kitô. Ngài đã làm cho Mẹ nên thánh thiện, thậm chí nên rất mực thánh thiện. Và hoa quả đầu tiên của sự tuyển chọn và của tiếng gọi này là: mầu nhiệm Mẹ Vô Nhiễm!
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY  03-12.
Thánh Phanxicô Xavie linh mục
Bổn mạng các xứ truyền giáo
1Cr 9,16-19.22-23; Mc 16,15-20.

LỜI SUY NIỆM: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.”
Đã là Kitô hữu, ai cũng đã nhận được lệnh truyền này và phải tích cực thực hiện lệnh truyền này bằng chính cuộc sống của mình có sự đồng hành của Chúa Giêsu và Thánh Thần của Người qua việc cầu nguyện, hy sinh, hảm mình, đóng góp vật chất cũng như tinh thần theo khả năng mà mình đã nhận lãnh từ Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu. Xin cho mọi thành viên trong gia đình của chúng con luôn ý thức mình là một thừa sai của Chúa để sống với Tin Mừng và loan báo Tin Mừng.
Mạnh Phương


Gương Thánh Nhân
Ngày 03-12: Thánh PHANXICÔ XAVIÊ
Tông Đồ Ấn Độ và Nhật Bản
(1506 - 1552)

Phanxicô ra đời tại lâu đài Xaviê thuộc vương quốc Navarre ngày 7 tháng 4 năm 1506. Cha Ngài là cố vấn của nhà vua miền Navarre và là thẩm phán. Anh em Ngài theo binh nghiệp. Riêng Phanxicô ham thích học hành. Năm 19 tuổi, Ngài theo học tại đại học Paris, trường lớn nhất thế giới. Khi còn ở học viện thánh Barbe, Ngài được phúc trọ cùng phòng với Phêrô Faure, người sau này sẽ nhập dòng Tên và được phong chân phước. Bốn năm sau, Ngài lại có được người bạn học giả là Inhatio thành Loyoa.

Người học trò mẫn cán đã trở thành giáo sư. Ngài dạy triết học. Thành công làm cho Ngài thành con người tham vọng. Inhaxiô nói với Ngài về một hội dòng mà thánh nhân muốn thành lập. Nhưng Phanxicô mơ tới danh vọng, Ngài chế nhạo cũng như khinh bỉ nếu sống nghèo tự nguyện của bạn mình. Inhaxiô vui vẻ đón nhận những lời châm biếm, nhưng lặp lại rằng: - "Lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào ích lợi gì"
Cuối cùng, Phanxicô đã bị ảnh hưởng. Inhaxiô còn đưa ra những lời cao đẹp hơn: - "Một tâm hồn cao cả như anh, không hề chỉ gò bó với cái vinh dự thế trần được. Vinh quang trên trời mới đúng với cao vọng của anh. Thật vô lý, khi ưa chuộng một thứ mây khói chóng tàn hơn là những của cải tồn tại đời đời".
Phanxicô bắt đầu thấy được cái hư không của những sự cao trọng của thế nhân và hướng vọng tới của cải vĩnh cửu. Chiến thắng rồi, Ngài chống lại tính kiêu căng bằng mọi loại sám hối. Ngài quyết định theo sát Phúc âm, vâng theo cách cư xử của người bạn thánh thiện và xin được khiêm tốn hãm nình. Ngài chỉ còn chú tâm cứu rỗi các linh hồn.

Ngày lễ Mông triệu năm 1533, trong một nhà nguuyện tại Monmartre, trên mộ bia thánh Dénis, Phanxicô, Inhaxiô và 5 bạn khác đã hiến mình cho Chúa. Họ khấn từ bỏ mọi của cải, hành hương thánh địa, làm việc để cải hóa lương dân và hoàn toàn đặt mình dưới sự điều động của Đức Thánh Cha để phục vụ Hội Thánh. Phanxicô còn học thần học hai năm nữa, rồi cùng sáu bạn đi Italia. Đi đường, họ chỉ mang theo cuốn kinh thánh và sách nguyện trong bị, cổ đeo tràng hạt. Tuyết lạnh hay khắc khổ cũng không làm họ sợ hãi. Trái lại, Phanxicô lại còn cảm thấy quá êm ái nhẹ nhàng, nên một ngày kia đã cột giây thừng vào chân, khiến dây đó ăn vào thịt và ngay việc được khỏi bệnh đó cũng đã là một phép lạ.
Đoàn quân bé nhỏ đó tới Venatia chống lại quân Thổ. Thế là họ phải bỏ cuôc hành hương đi thánh địa. Đức thánh cha đã chúc lành cho nhóm bạn cũng như dự định của họ. Phanxicô và Inhatiô thụ phong linh mục ngày 16 tháng 6 năm 1537. Phanxicô đã chuẩn bị thánh lễ mở tay bằng cuộc sám hối kéo dài 40 ngày trong một túp lều tranh bỏ hoang và sống bằng của ăn xin.
Trong khi chờ đợi bắt đầu thực hiện công việc vĩ đại của mình, Ngài rao giảng và săn sóc cho người nghèo trong các nhà thương. Ngài còn phải chiến thắng chính mình nữa, chẳng hạn khi băng bó các vết thương lở loét. Ngài luôn đi ăn xin thực phẩm.

Khi Phanxicô được 35 tuổi, vua nước Bồ Bào Nha xin Đức Thánh cha gửi các thừa sai sang An độ. Phanxicô rất vui mừng khi được chỉ định.
Ngài bộc lộ cho một người bạn: "Anh có nhớ rằng, khi ở nhà thương tại Roma, một đêm kia, anh đã nghe tôi la: "Còn nữa, lạy Chúa, còn nữa" không ? Tôi đã thấy rằng: phải chịu khổ nạn cho vinh danh Chúa Giêsu Kitô. Trước mặt tôi là những hoang đảo, những miền đất báo cho tôi biết trước cơn đói, cơn khát và cả đến cái chết dưới hàng ngàn hình thức. Tôi ao ước được chịu khổ hình hơn nữa".
Chỉ còn 24 giờ để chuẩn bị lên đường. Nhưng thế đã quá đủ để xếp đặt hành trang. Với vài bộ đồ cũ. Một thánh giá, một cuốn sách nguyện và một cuốn sách thiêng liêng. Ngài đáp tàu. Cuộc hành trình cực khổ vì say sóng. Đau bệnh, Ngài vẫn săn sóc các bệnh nhân. những thủy thủ hư hỏng dường như là đoàn chiên đầu tiên Ngài phải đưa về cho Chúa. Ngài rao giảng cho họ bằng chính việc chia sẻ cuộc sống với họ.
Sau bảy tháng hành trình, người ta dừng lại bến Mozambique. Khí trời ngột ngạt. Một cơn bệnh dịch đang hoành hành nơi đây. Phanxicô lại săn sóc các bệnh nhân và muốn sống đời cực khổ nhất. Ngài lặp lại: "Tôi khấn sống nghèo khó, tôi muốn sống và chết giữa người nghèo".
Sau một năm hành trình, Phanxicô cặp bến Goa, thủ đô miền Ấn Độ thuộc Bồ Đào Nha vào tháng 5 năm 1542. Ngài phát khóc vì vui mừng. Nhưng việc cấp thiết, nhất là phải làm cho những người chinh phục Bồ Đào Nha giữ đạo đã. Những tật xấu và tính hung hăng của họ làm ô danh Kitô giáo. Còn dân An thì thờ ngẫu tượng. Họ vặn đó có con để tế lễ. Vị tông đồ làm thầy thuốc, thẩm phán, giáo viên. Ngài học tiếng một cách khó khăn, thời gian của Ngài dành cho các nhà thương, nhà tù, người nghèo và việc dạy giáo lý. Rảo qua đường phố, Ngài rung chuông tập họp trẻ em và dân nô lệ lại, với sự nhẫn nại vô bờ, Ngài ghi khắc tình yêu Chúa vào lòng họ. Các trẻ em tham dự lại trở thành các nhà truyền giáo cho cha mẹ và thày dạy của chúng. Chúng mang thánh giá của "ông cha" cho các bệnh nhân. Chúng trở nên hung hăng với các ngẫu tượng. Bây giờ, các cánh đồng lúa vang lên được bài thánh ca. Dần dần, đời sống Kitô giáo đã vững vàng trong lòng các gia đình.
Phanxicô nghe nói tới một bộ lạc thờ lạy ngẫu thần ở mũi Comorin, sống bằng nghề mò ngọc trai. Muốn loan báo Tin Mừng cho họ, thánh nhân học ngôn ngữ mới, vượt mọi khó khăn để phổ biến đức ái và chân lý. Rồi Ngài lại qua các làng khác. Cứ như thế Ngài đi khắp An độ. Trong 15 tháng trời, Ngài đã rửa tội cho một số đông đảo người Kitô hữu, khiến "xuôi tay vì mệt mỏi". Người nói: "Mọi ngày tôi đều thấy tái diễn những phép lạ thời Giáo hội sơ khai".
Ngài ngủ ít, đêm thức khuya để cầu nguyện. Sống khắc khổ để đền tội cho các tội nhân. Ngài chăm chú đào tạo các tâm hồn thanh thiếu niên địa phương để sai đi làm tông đồ truyền giáo cho các người đồng hương của họ.
Ở tỉnh Travancore, trong vòng một tháng, thánh nhân đã rửa tội cho 10.000 người. Người Brames muốn hạ sát Ngài, nhưng Ngài đã giữ được mạng sống một cách lạ lùng dưới cơn mưa tên. Ở vương quốc Travance, khi nhóm người man-di muốn tràn ngập, Phanxicô cầm thánh giá trong tay với một số ít tín hữu đã làm cho họ phải tháo lui. Ngài mang Tin Mừng tới Ceylanca, Malacca. Các đảo Molluques vang danh vì sự hung tợn của họ, nhất là đảo của dân More ở phía Bắc...
Ngài nhắm tới đảo này, Ngài muốn bị dân cư giết chết như một vị thừa sai 13 năm trứơc đây sao ?
Người ta ngăn không cho tàu bè chở Ngài đi. Phanxicô đáp lại: - "Thì tôi bơi tới vậy".
- Nhưng Ngài sẽ bị đầu độc thì sao ?
Ngài nói: - "Niềm tin tưởng ở Thiên Chúa là thuốc kháng độc.
Rồi Ngài thêm: "Oi, nếu như hy vọng tìm được gỗ quí hay vàng bạc, các Kitô hữu đổ xô tới ngay. Nhưng lại chỉ có các linh hồn cần được cứu rỗi. Tôi sẽ chịu khổ gấp ngàn lần để cứu lấy một linh hồn thôi".
Phanxicô đã viết thư xin vua Bồ Đào Nha và thánh Inhatiô gởi các linh mục tới săn sóc cho các cộng đoàn Kitô hữu Ngài để lại. Sự khó khăn và chậm chạp về thư tín làm cho đời Ngài thêm nhiều phiền phức. Ngài phải mất gần 4 năm để gửi thư từ Moluques về Roma. Dầu giữa các khó khăn mệt nhọc, thánh nhân không để mất tính hiền hậu và khiêm tốn.
Năm 1549, một người Nhật được Ngài rửa tội ở Malacca đã thu hút Ngài tới hòn đảo vô danh, chưa có người Kitô hữu nào. Lời cầu nguyện và đời sống hãm mình củng cố lòng can đảm của Ngài. Không để mình bị chán nản do ngôn ngữ khó học hay bởi nội chiến. Ngài đã có thể tạo lập được một cộng đoàn Kitô hữu nhỏ như Ngài mơ ước. Các phép lạ củng cố lời giảng dạy của Ngài, nhưng dân chúng bị đánh động nhiều hơn bởi đức tin và lòng can đảm của người ngoại quốc này đã từ xa đến để loan báo cho họ chân lý duy nhất.
Được hai năm, nhà truyền giáo lại ra đi, để lại tại miền đất xa này những cộng đồng Kitô hữu đứng khá vững trong nhiều thế kỷ, dù không có linh mục cai quản .
Phanxicô trở lại An độ. Ngài đã rảo qua gần 100.000 cây số trong 10 năm. Bấy giờ, việc chinh phục Trung hoa ám ảnh tâm hồn Ngài. Ngài đáp tàu, nhưng không bao giờ tới được quốc gia rộng lớn này. Vào cuối tháng 11 năm 1552, trên đảo Hoàng Châu, Ngài bị lên cơn sốt rét. Giữa cơn đau, Ngài đã lập lại: - Lạy Chúa Giêsu, con vua David, xin thương xót con, xin thương đến các tội con.
Ngài dứt tiếng và không nhận ra được các bạn hữu nữa. Khi hồi tỉnh, Ngài lại kêu cầu Chúa Ba Ngôi, Chúa Giêsu và nài xin Đức Mẹ: " Lạy Đức Trinh Nữ, Mẹ Thiên Chúa, xin hãy nhớ đến con".
Một người Trung Hoa thấy Ngài hấp hối thì đặt vào tay Ngài một cây nến. Phanxicô qua đời ngày 03 tháng 12 năm 1552. Ít tuần sau, người ta tìm thấy xác Ngài vẫn nguyên vẹn và chở về Goa. Dân chúng tại đây nhiệt tình tôn kính Ngài, vì đã coi Ngài như một vị thánh.
Năm 1619, Đức Paulô V đã suy tôn chân phước cho Ngài cùng với thánh Inhaxiô. Nay Ngài được đặt làm bổn mạng các xứ truyền giáo.
(daminhvn.net)


03 Tháng Mười Hai
Giác Ngộ

"Lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào được ích gì?"... Lời thách thức này của Tin Mừng đã khiến cho một vị giáo sư  trẻ tuổi bỏ tương lai đầy hứa hẹn, bỏ tất cả để chỉ còn đeo đuổi một mục đích duy nhất trong cuộc đời: sự sống đời đời của chính mình và của người đồng loại.
Vị giáo sư trẻ tuổi đó chính là Thánh Phanxicô Xaviê, bổn mạng của các xứ truyền giáo, mà hôm nay Giáo Hội kính nhớ... Chưa tròn 25 tuổi, Phanxicô đã nổi tiếng như một giáo sư triết học tài ba tại đại học Paris. Giữa lúc danh vọng đang đến, Phanxicô Xaviê đã nhận được những lời thách thức trên đây từ người bạn thân Inhaxiô Loyola.
Không còn chống cưỡng lại với lời Chúa, Phanxicô Xaviê đã đến Montmartre để cùng với Inhaxiô sống đời khó nghèo, khuyết tịnh và phục vụ tông đồ, theo những chỉ dẫn của Ðức Thánh Cha.
Năm 1537, nghĩa là 3 năm sau khi đã tuyên khấn, Phanxicô lãnh chức linh mục. Từ Italia, ngài sang Lisboa của Bồ Ðào Nha để lên đường đi truyền giáo tại Ấn Ðộ. Trong 10 năm ngắn ngủi, Phanxicô Xaviê đả rảo bước đi khắp nơi để đem Tin Mừng đến cho dân tộc Nhật Bản, Mã Lai và Ấn Ðộ. Cuộc sống của ngài là một chia sẻ cảm thông sâu xa với những người nghèo khổ nhất... Chưa đạt được giấc mơ đặt chân đến Trung Hoa và Việt Nam, thánh nhân đã qua đời trong kiệt sức, tại một hải đảo cách Hồng Kông 100 cây số. Bị những người lái buôn Bồ Ðào Nha bỏ rơi trên bãi cát, thánh nhân đã qua đời trong sự trơ trụi nghèo nàn.
Danh vọng, tiền tài, ngay cả sức khỏe... tất cả đều được đốt cháy để tìm được niềm vui đích thực cho tâm hồn và mang niềm vui đó đến với mọi người: đó là sứ điệp mà thánh Phanxicô Xaviê đã để lại cho tất cả chúng ta...
"Nhà giàu đứt tay bằng ăn mày đổ ruột"... Có lẽ người ta thường dùng câu nói trên đây không những để nói lên tính cách tương đới của đau khổ, mà còn để nói lên ngay cả sự tương đới của hạnh phúc.
Sau những tháng năm ăn độn, ăn rau, những người nghèo có thể hớn hở reo vui khi được bữa cơm trắng với chút thịt cá. Sau những tháng năm tù đày, một người vừa mới được phóng thích sẽ reo hò sung sướng khi được đi lại tự do, khi được thở không khí trong lành...
Những người giàu có, ngày nào cũng yến tiệc linh đình sẽ thèm khát đôi chút cá kho, mắm cà của người nghèo khổ... Những đứa trẻ giàu có ở đô thị có lẽ sẽ thèm khát những giây phút được cưỡi trâu hay tắm ao của những chú bé nghèo ở nhà quê...
Tựu trung, vấn đề cơ bản nhất của con người vẫn là đi tìm hạnh phúc. Và cuối cùng, sau những miệt mài tìm kiếm, ai cũng nhận thấy rằng mình sẽ không bao giờ đạt được hạnh phúc đích thực và trường cửu trên trần gian này. Kẻ đứng ở núi này sẽ luôn nhìn sang núi nọ...
Chúa Giêsu đã đề ra cho chúng ta một bí quyết của hạnh Phúc: Ai muốn cứu mạng sống mình, sẽ mất và ai mất  mạng sống mình vì Ta sẽ gặp lại... Chỉ có một niềm vui đích thực đó là sống trọn vẹn cho Chúa. Chỉ có một điều quan trọng nhất trong cuộc sống: đó là lắng nghe lời Chúa.
(Lẽ Sống)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét