Trang

Thứ Bảy, 18 tháng 4, 2015

18-04-2015 : THỨ BẢY TUẦN II MÙA PHỤC SINH

18/04/2015
Thứ Bảy sau Chúa Nhật II Phục Sinh


Bài Ðọc I: Cv 6, 1-7
"Họ chọn bảy người đầy Thánh Thần".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, số môn đồ gia tăng, nên xảy ra việc các người Hy-lạp kêu trách các người Do-thái, vì trong việc phục vụ hằng ngày, người ta khinh miệt các bà goá trong nhóm họ. Nên Mười Hai Vị triệu tập toàn thể môn đồ đến và bảo: "Chúng tôi bỏ việc rao giảng lời Chúa mà lo đi giúp bàn, thì không phải lẽ. Vậy thưa anh em, anh em hãy chọn lấy bảy người trong anh em có tiếng tốt, đầy Thánh Thần và khôn ngoan, để chúng tôi đặt họ làm việc đó. Còn chúng tôi, thì sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ lời Chúa". Cả đoàn thể đều tán thành lời các ngài và chọn Têphanô, một người đầy đức tin và Thánh Thần, và chọn Philipphê, Prôcô, Nicanô, Timon, Parmêna và Nicôla quê ở Antiôkia. Họ đưa mấy vị đó đến trước mặt các Tông đồ. Các ngài cầu nguyện và đặt tay trên các vị đó. Lời Chúa lan tràn, và số môn đồ ở Giêrusalem gia tăng rất nhiều. Cũng có đám đông tư tế vâng phục đức tin.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 32, 1-2. 4-5. 18-19
Ðáp: Lạy Chúa, xin tỏ lòng từ bi Chúa cho chúng con, như chúng con đã trông cậy Chúa (c. 22).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Người hiền đức, hãy hân hoan trong Chúa, ca ngợi là việc của những kẻ lòng ngay. Hãy ngợi khen Chúa với cây đàn cầm, với đàn mười dây, hãy xướng ca mừng Chúa. - Ðáp.
2) Vì lời Chúa là lời chân chính, bao việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu chuộng điều công minh chính trực, địa cầu đầy ân sủng Chúa. - Ðáp.
3) Kìa Chúa để mắt coi những kẻ kính sợ Người, nhìn xem những ai cậy trông ân sủng của Người, để cứu gỡ họ khỏi tay thần chết, và nuôi dưỡng họ trong cảnh cơ hàn. - Ðáp.

Alleluia: Ga 19, 28
Alleluia, alleluia! - Thầy bởi Cha mà ra, và đã đến trong thế gian; bây giờ Thầy lại bỏ thế gian mà về cùng Cha. - Alleluia.

Phúc Âm: Ga 6, 16-21
"Họ thấy Chúa Giêsu đi trên mặt biển".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Chiều đến, các môn đệ Chúa Giêsu xuống bờ biển. Rồi lên thuyền, sang bên kia, trẩy về hướng Capharnaum. Trời đã tối, mà Chúa Giêsu vẫn chưa đến với họ. Bỗng cuồng phong thổi lên, biển động mạnh. Khi chèo đi được chừng hai mươi lăm hay ba mươi dặm, thì họ thấy Chúa Giêsu đi trên mặt biển, tiến lại gần thuyền, họ hoảng sợ. Nhưng Người nói với họ: "Chính Thầy đây, đừng sợ". Họ định rước Người lên thuyền, nhưng ngay lúc ấy, thuyền đã đến nơi họ định tới.
Ðó là lời Chúa.


Suy Niệm: Chúa Ði Trên Biển
Biến cố Chúa đi trên biển cũng được mô tả trong Phúc Âm Nhất Lãm (Mt 14 và Mc 6), nhưng tường thuật của Gioan xem ra nhấn mạnh những chi tiết khác, ngài muốn làm nổi bật một ý nghĩa khác. Thánh sử Gioan không nói đến việc Chúa đến để trợ giúp cho các Tông Ðồ đang lúc gặp khó khăn, cũng không nói gì về việc làm cho sóng gió im lặng. Thay vì nhắc chi tiết làm sóng gió im lặng, ngài nhắc đến việc chiếc thuyền đến bờ bình an. Nhưng khi nhắc đến chi tiết này, tác giả xem ra cũng không chú ý nhiều đến nó, mà chỉ chú ý đến chi tiết qui về Chúa Giêsu nhiều hơn.
Tác giả muốn cho chúng ta nhìn thấy một Chúa Giêsu Kitô đầy quyền năng, không tùy thuộc vào những giới hạn thiên nhiên áp đặt. Chúa Giêsu đi trên mặt nước không bị chìm, không bị nguy hiểm bởi sóng to gió lớn trên mặt biển. Lúc đó, quyền năng Chúa Giêsu được diễn tả bằng lời xác nhận của Ngài: "Thầy đây đừng sợ". Trong Phúc Âm Gioan thì nói: "Ta đây". Ðó là cách nói diễn tả thực thể Thiên Chúa, nhắc đến Giavê Thiên Chúa mạc khải chính mình cho Môisê như là Ðấng "Ta là: Ego sum qui sum". Chúa Giêsu đi trên mặt biển đến với các Tông Ðồ để mạc khải cho các ông nhận ra Ngài là thực thể Thiên Chúa, là Ðấng "Ta là". Như thế, sau phép lạ Chúa làm cho năm chiếc bánh và hai con cá hoá nhiều để nuôi sống 5,000 người, thì biến cố đi trên mặt biển giữa sóng gió được mạc khải rõ hơn về thực thể Thiên Chúa quyền năng "Ta là".
Ðáp lại, thái độ của dân chúng nhìn thấy Chúa chỉ như một tiên tri, một con người phi thường và muốn tôn Chúa lên làm vua. Họ hiểu sai thực thể Chúa là ai. Trong biến cố Chúa đi trên mặt nước chứng tỏ cho các môn đệ nhìn thấy thực thể đúng thật của Ngài, Ngài là Thiên Chúa, là Ðấng "Ta là".
Như thế, qua lời nói trấn an các tông đồ "Thầy đây đừng sợ", mạc khải này chuẩn bị thêm cho việc Chúa Giêsu giảng dạy về Bánh Hằng Sống nơi hội đường Caphanaum, Bánh ấy chính là Ngài. Hơn nữa, trong hội đường khi rao giảng về Bánh Hằng Sống, Chúa Giêsu được tường thuật năm lần khi dùng đến lời quả quyết "Ta là" để diễn tả thực thể Ngài là Thiên Chúa: "Ta là Bánh Hằng Sống". Như thế phần nào chúng ta thấy lý do tại sao Phúc Âm Gioan nhắc đến dấu lạ này sau phép lạ bánh và cá hoá nhiều và liền trước bài giảng về Bánh Hằng Sống.
Chúa Giêsu là Thiên Chúa, Ðấng cứu rỗi hiện diện giữa loài người, Như thế, có thể kết luận rằng nhận Chúa Giêsu là Thiên Chúa để có thể tin nhận mạc khải của Chúa về Bí Tích Thánh Thể, về Bánh Hằng Sống. Hai việc này luôn đi đôi với nhau: tin Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa thì sẽ tin nhận bí tích Thánh Thể. Ngược lại, nếu không tin Chúa Gêsu Kitô là Thiên Chúa thì cũng không thể tin vào Thánh Thể, và nếu không tin vào Thánh Thể thì cũng không tin vững mạnh vào Chúa Giêsu là Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin cho chúng con được nhìn thấy những dấu lạ Chúa vẫn thực hiện hôm nay và tin nhận Chúa là Thiên Chúa, từ đó tin nhận những gì Chúa mạc khải cho chúng con để cứu rỗi chúng con. Xin cho chúng con được luôn tín thác vào Chúa, nhất là khi gặp những nghịch cảnh thử thách. Chúa hiện diện trong Thánh Thể để đến với chúng con và trấn an chúng con "Thầy đây đừng sợ", xin cho chúng con biết đến với Chúa trong Thánh Thể để nghe Chúa nói "Thầy đây đừng sợ". Amen.
Veritas Asia


Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Bảy Tuần II PS
Bài đọc: Acts 6:1-7; Jn 6:16-21.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Làm sao để giải quyết các khó khăn trong cuộc đời?
Khó khăn và xung đột ý kiến xảy ra ở mọi nơi và mọi thời; nói cách khác, hễ có sống chung, là có đụng nhau. Làm thế nào để giải quyết khi phải đương đầu với những khó khăn hay xung đột? Người khó khăn nóng tính sẽ la hét, chửi rủa, làm cho ra lẽ; rồi sau đó muốn ra sao thì ra. Người thâm trầm ít nói sẽ lặng lẽ rút lui, và chép miệng thở dài: thôi thì đường ai nấy đi cho đẹp cả đôi bên. Nhưng cả hai cách giải quyết đều không đẹp ý Chúa và giúp ích cho tha nhân;vả lại, có đi đâu chăng nữa, con người vẫn phải đương đầu với vấn đề “chung đụng.”
Các Bài Đọc hôm nay giúp chúng ta giải quyết vấn đề cách đẹp lòng Chúa và giúp ích cho tha nhân. Trong Bài Đọc I, Sách CVTĐ tường thuật các khó khăn của cộng đồng các tín hữu sơ khai, họ cũng phải đương đầu với thiên vị và ghen tị giữa các tín hữu Do-thái theo văn hóa Hy-lạp và các tín hữu Do-thái bản xứ. Thay vì trốn tránh vấn đề, hay tìm cách ly khai, các Tông-đồ chọn thêm bảy Phó-tế để giúp các ngài lo cho các bà góa Do-thái theo văn hóa Hy-lạp. Mọi người đều vui vẻ với giải quyết khôn ngoan này. Trong Phúc Âm, khi phải đương đầu với phong ba bão tố, các Tông-đồ hỏang sợ, và càng sợ hãi hơn khi thấy một bóng người lướt trên nước tới thuyền của họ, vì các ông tưởng là ma; nhưng Chúa Giêsu lên tiếng trấn an các ông: “Chính Thầy đây! Đừng sợ!”

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Biết khôn ngoan giải quyết vấn đề.
1.1/ Vấn đề thiên vị và ghen tị xảy ra trong cộng đòan: “Thời đó, khi số môn đệ thêm đông, thì các tín hữu Do-thái theo văn hoá Hy-lạp kêu trách những tín hữu Do-thái bản xứ, vì trong việc phân phát lương thực hằng ngày, các bà goá trong nhóm họ bị bỏ quên.”
(1) Nhận định vấn đề: Thói quen của con người là bảo vệ những người thân quen mình trước, rồi mới đến những người xa hơn. Vấn nạn trên xảy ra giữa những người Do-thái, nhưng theo những văn hóa khác nhau: các bà góa người bản xứ được cung cấp lương thực đầy đủ hơn những bà góa theo văn hóa Hy-lạp. Nếu không biết cách giải quyết vấn đề, tình trạng thiên vị và ghen tị sẽ ngày càng trầm trọng hơn, sẽ đưa đến việc tách rời giữa hai nhóm, sẽ gây thiệt hại cho sự đòan kết, và sẽ làm gương mù cho các tín hữu khác.
(2) Cách giải quyết: “Bởi thế, Nhóm Mười Hai triệu tập toàn thể các môn đệ và nói: "Chúng tôi mà bỏ việc rao giảng Lời Thiên Chúa để lo việc ăn uống, là điều không phải. Hãy tìm trong cộng đoàn bảy người được tiếng tốt, đầy Thần Khí và khôn ngoan, rồi chúng tôi sẽ cắt đặt họ làm công việc đó.”
Một người không thể làm hết, và cũng không tốt để làm hết, vì sẽ không mang lại kết quả tốt đẹp bằng nhiều người cộng tác. Hơn nữa, việc mở mang Nước Chúa là bổn phận của tất cả mọi người, chứ không phải chỉ là bổn phận của giới lãnh đạo mà thôi. Các Tông-đồ biết sắp xếp các thứ tự ưu tiên: việc rao giảng Tin Mừng là bổn phận hàng đầu không thể xao lãng. Để có người lo cho các nhu cầu của cộng đoàn, cần tuyển thêm các Phó-tế có những đức độ cần thiết. Các Tông-đồ để cho các tín hữu tham gia vào việc tìm kiếm các ứng viên; sau đó các ngài sẽ chuẩn y bằng việc đặt tay, và hướng dẫn họ trong việc phục vụ cộng đoàn.
1.2/ Phẩm trật Hội Thánh dần dần được hình thành: “Đề nghị trên được mọi người tán thành. Họ chọn ông Stephanô, một người đầy lòng tin và đầy Thánh Thần, cùng với các ông Philíp, Prochorus, Nicanor, Timon, Parmenas và ông Nicolaus, một người ngoại quê Antioch đã theo đạo Do-thái. Họ đưa các ông ra trước mặt các Tông Đồ. Sau khi cầu nguyện, các Tông Đồ đặt tay trên các ông.” Đây là 7 Phó-tế đầu tiên của Hội Thánh. Phó-tế Stephanô là thánh tử đạo đầu tiên làm chứng cho Chúa Giêsu trong trình thuật mà chúng ta sẽ được nghe ít ngày nữa.
Số các tín hữu càng đông, phẩm trật của Hội Thánh càng phải được nới rộng để đáp ứng nhu cầu của cộng đoàn và của các tín hữu. Dưới sự hướng dẫn của các Tông-đồ và hoạt động của Chúa Thánh Thần, “Lời Thiên Chúa vẫn lan tràn, và tại Jerusalem, số các môn đệ tăng thêm rất nhiều, lại cũng có một đám rất đông các tư tế đón nhận đức tin.”
2/ Phúc Âm: Đừng sợ hãi khi phải đương đầu với các khó khăn trong cuộc sống.
Khó khăn trong cuộc sống không thể thiếu trong tiến trình thăng tiến và làm cho con người trưởng thành. Những khó khăn có thể do Thiên Chúa gởi đến để thử thách đức tin hay do tha nhân gây ra qua cuộc sống chung đụng. Trình thuật trong Tin Mừng hôm nay nhấn mạnh đến trường hợp thứ nhất.
2.1/ Biển động làm các ông hỏang sợ: Trình thuật này xảy ra sau khi phép lạ Bánh hóa nhiều và dân chúng muốn tôn Chúa Giêsu làm vua của họ. Chúa Giêsu truyền cho các Tông-đồ qua bờ bên kia trước, còn Ngài lên núi cầu nguyện. Đứng trên núi của vùng Tiberias, Chúa Giêsu có thể quan sát rõ ràng thuyền của các ông trong Biển Hồ. Nhiều tác giả của các bài thánh ca đã so sánh Giáo Hội và cuộc đời con người như chiếc thuyền lênh đênh trên biển cả trong hành trình tiến về quê trời; ví dụ: Lạy Mẹ là ngôi sao sáng. Chúa Giêsu có thể đã nhìn thấy trước những khó khăn mà các Tông-đồ phải đương đầu với khi các ông phải hướng dẫn con thuyền Giáo Hội sau này; nên Ngài chuẩn bị cho các ông bằng biến cố biển động hôm nay.
Từ Tiberias, nơi các Tông đồ khởi hành khởi hành, đến Capernaum, nơi các ông muốn tới không xa lắm; nhưng đêm ấy biển động vì gió thổi mạnh. Khi đã chèo được chừng năm hoặc sáu cây số, các ông thấy Chúa Giêsu đi trên mặt Biển Hồ và đang tới gần thuyền. Điều này làm các ông hoảng sợ, vì từ trước tới giờ, các ông chưa từng được chứng kiến một con người đi trên nước. Chỉ có ma quỉ với làm được việc ấy. Vì thế, nỗi lo sợ các ông tăng gấp đôi.
2.2/ Chúa Giêsu trấn an các ông: "Thầy đây! Đừng sợ!" Các ông muốn rước Người lên thuyền, nhưng ngay lúc đó thuyền đã tới bờ, nơi các ông định đến. Nhiều lần trong cuộc đời công khai rao giảng, Chúa Giêsu đã nói những lời tương tự với các môn đệ: Khi hiện ra với các Tông-đồ sau khi sống lại, Chúa nói với các ông: “Đừng sợ!” (Mt 28:10). Những lời từ giã cuối cùng của Ngài với các ông: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi.” (Jn 14:27).
Hay khi chọn Phêrô để xây dựng Giáo Hội, Ngài đã nói với ông “Phêrô! Con là đá, và trên đá này Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy. Thầy sẽ trao cho con chìa khóa Nước Trời và quyền lực của hỏa ngục cũng không thắng được” (Mt 16:18). Một khi sống trong sự bảo vệ của Ngài, con người không có gì phải sợ hãi nữa.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Khi phải đương đầu với khó khăn và xung đột, cả hai thái độ tức giận chửi rủa và từ chối rút lui đều phải tránh. Chúng ta cần phối hợp cả hai: sự trợ giúp tinh thần của Chúa và sự tế nhị trong cách đối xử, để giải quyết vấn đề cách khôn ngoan và bác ái.
- Tất cả các tín hữu đều có bổn phận góp phần trong việc mở mang Nước Chúa. Những nhà lãnh đạo cần biết khôn ngoan hướng dẫn để mọi thành phần của Dân Chúa đều có cơ hội đóng góp tùy khả năng và hoàn cảnh của họ.
- Khi những khó khăn xảy đến, đừng sợ! Hãy bình tĩnh, cầu nguyện, và tìm cách đối phó.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

18/04/15 THỨ BẢY TUẦN 2 PS
Ga 6,16-21

Suy niệm: Có hai cụm từ luôn sóng đôi trong Thánh Kinh, đó là các cụm từ “đừng sợ” và “Thiên Chúa ở với ngươi”. Sở dĩ chúng gắn liền với nhau như thế, vì lời “đừng sợ” không chỉ mang nghĩa xoa dịu nỗi lo, mà còn xác quyết một thực tại vững vàng: Thiên Chúa ở với. Ông Gio-su-ê được Chúa sai dẫn dắt dân Chúa vào Đất Hứa, ông sợ hãi, bấy giờ Thiên Chúa nói với ông: “Chính Đức Chúa đi phía trước anh… đừng sợ”. Giê-rê-mi-a được Thiên Chúa chọn làm ngôn sứ, ông sợ, Thiên Chúa nói với ông: “Đừng sợ! Ta sẽ ở với ngươi.” Phaolô bị bắt, không lối thoát, bấy giờ Chúa Phục Sinh nói với ông: “Đừng sợ, cứ nói đi, đừng làm thinh, vì Thầy ở với con.” Các Tông Đồ trên con thuyền sóng gió hôm nay cũng thế, được Chúa bảo đảm: “Thầy đây mà, đừng sợ”. Tất cả họ là những người được Thiên Chúa sai đi thi hành sứ mạng và tất cả đều sợ hãi. Vì thế, đối với họ, không có một sự giúp đỡ nào mạnh mẽ và yên tâm hơn sự hiện diện của Chúa bên cạnh.
Mời Bạn: Lời “đừng sợ” không biến các môn đệ Chúa thành những kẻ máu lạnh không biết sợ, nhưng lôi kéo họ chạm vào một thực tại lớn lao, đó là Chúa Phục Sinh đang ở với các ngài. Bạn cũng được bảo đảm như thế trong mọi hoàn cảnh.
Sống Lời Chúa: Mỗi khi gặp khó khăn, tai ương, thử thách, bạn nhắc lại lời Chúa: “Thầy đây mà, đừng sợ!”
Cầu nguyện: Lạy Chúa, con tin Chúa đã sống lại và đang sống với chúng con, cả trong nghịch cảnh.

Chính Thầy đây
Thật ra Chúa chẳng bỏ chúng ta, dù có lúc Ngài để chúng ta một mình. Phải tập quen dần với những cách xuất hiện mới mẻ của Chúa để nhận ra Ngài vẫn có mặt trong thế giới hôm nay.


Suy nim:
Vào thời Đức Giêsu, người ta chờ Thiên Chúa sai đến một vị vua.
Vị Vua này chính là một Đấng Mêsia hùng mạnh, toàn thắng,
Đấng sẽ giải phóng dân khỏi ách nô lệ của người Rôma.
Sau khi Đức Giêsu cho dân chúng được ăn no nê một cách kỳ diệu,
họ nghĩ ngay Ngài chính là người họ mong đợi từ lâu.
Họ toan bắt Ngài để tôn làm vua,
làm người đứng lên lãnh đạo phong trào cách mạng (Ga 6, 15).
Nhưng Đức Giêsu đã chối từ sự mong mỏi của dân chúng.
Ngài trốn lên núi một mình.
Đức Giêsu biết mình không phải là một Mêsia đầy quyền lực,
để giải phóng dân Israel khỏi ách của người Rôma.
Nhưng Ngài sẽ là một Mêsia như người Tôi Trung đau khổ,
chịu chết ô nhục và sống lại để giải phóng nhân loại khỏi ách tội lỗi.
Dân chúng hẳn đã bị hụt hẫng khi thấy Đức Giêsu trốn đi.
Các môn đệ chắc đã tiếc ngẩn tiếc ngơ,
vì Thầy bỏ qua cơ hội ngàn năm một thuở để tỏ mình cho dân Israel,
và chính họ cũng mất đi một cơ hội để tiến thân.
Tin Mừng của thánh Gioan không nói cho ta biết tại sao sau đó
các môn đệ lại chèo thuyền qua Caphácnaum, ở bờ bên kia (c. 16).
Nhưng theo Tin Mừng Marcô, Đức Giêsu đã bắt buộc họ (Mc 6, 45).
Ngài rõ ràng không muốn họ dính dáng vào chuyện chính trị này.
Bị Thầy bắt qua lại bờ bên kia khi chiều đã sụp tối,
trong khi dân chúng và Thầy còn ở bờ bên này,
điều ấy chẳng dễ chịu chút nào cho các môn đệ.
Họ muốn ở lại hưởng chút dư vị của thành công vang dội vừa rồi.
Dù sao các môn đệ đã biết vâng phục.
Chuyến đi qua biển hồ cũng không suôn sẻ gì.
Họ phải chiến đấu với trận cuồng phong bất ngờ gây biển động.
Con thuyền bé nhỏ lênh đênh giữa sóng gió gào thét.
Cả nhóm gặp nguy hiểm mà không có Thầy trong thuyền.
Họ đã cố chèo được chừng năm, sáu cây số.
Có thể họ tự hỏi: tại sao Thầy lại vội sai mình ra khơi giữa đêm đen?
Cuối cùng Thầy Giêsu cũng đến với họ như họ mong ước.
Nhưng Thầy không đến trên một chiếc thuyền như họ nghĩ.
Thầy đi trên mặt biển mà đến gần thuyền các ông (c. 19).
Cách đến của Thầy thật khác thường khiến họ hoảng sợ.
Có thể họ chưa nhận ra khuôn mặt của Thầy vì trời tối.
“Thầy đây mà, đừng sợ!”, Đức Giêsu vội vã trấn an.
Giáo Hội hôm nay cũng có kinh nghiệm như nhóm môn đệ ngày xưa,
vất vả một mình chống chọi với sóng gió, khi không có Thầy ở bên.
Nhưng khi Chúa đến, chúng ta lại hoảng sợ, không nhận ra Ngài.
Thật ra Chúa chẳng bỏ chúng ta, dù có lúc Ngài để chúng ta một mình.
Phải tập quen dần với những cách xuất hiện mới mẻ của Chúa
để nhận ra Ngài vẫn có mặt trong thế giới hôm nay.
Cầu nguyn:

Lạy Chúa,
xin ban cho chúng con ánh sáng đức tin
để nhận ra Chúa hôm nay và hằng ngày,
nơi khuôn mặt khốn khổ
của tất cả những người bị thử thách:
những kẻ đói, không chỉ vì thiếu của ăn,
nhưng vì thiếu Lời Chúa;
những kẻ khát, không chỉ vì thiếu nước,
nhưng còn vì thiếu bình an, sự thật, công bằng và tình thương;
những kẻ vô gia cư,
không chỉ tìm kiếm một mái nhà,
nhưng còn tìm một con tim hiểu biết, yêu thương;
những kẻ bệnh hoạn và hấp hối,
không chỉ trong thân xác,
nhưng còn trong tinh thần nữa,
bằng cách thực thi lời hy vọng này:
“Điều mà ngươi làm
cho người bé mọn nhất trong anh em
là làm cho chính Ta”
(Chân phước Têrêxa Calcutta)

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
18 THÁNG TƯ
Đức Giêsu Có Thể Xóa Tan Các Mối Nghi Ngờ Của Chúng Ta
Chúa Giê-su phán: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”. Và khi nói những lời ấy, Người thổi hơi trên các môn đệ và phán: “Hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì tội người ấy được tha; anh em cầm buộc ai thì người ấy bị cầm buộc”. (Ga 20,21-23)
Từ ngày đầu tiên ấy, Giáo Hội sống trong hiệu lực của giao ước mới – giao ước vĩnh cửu. Giáo Hội sống trong hiệu lực của cái chết và cuộc Phục Sinh cứu độ của Con Thiên Chúa. Vì thế, Giáo Hội được Đức Kitô – là chính sự sống của Giáo Hội – trực tiếp trao cho quyền năng trên sự dữ.
Một lần nữa, chúng ta được dẫn lên căn gác thượng. Đây là ngày thứ tám sau Phục Sinh. Đức Giêsu hiện ra cho Tô-ma, một trong Nhóm Mười Hai. Tô-ma được mời gọi – cùng với các đồng môn của mình – trở thành chứng nhân của Đấng Phục Sinh. Ông không có mặt cùng với các bạn tám ngày trước đó, khi Chúa hiện ra với nhóm. Ông phải đích thân trông thấy. Rồi, Chúa Giê-su hiện đến lần thứ hai. Người đến để thuyết phục sự cứng cỏi của Tô-ma – và Người đã cho ông thấy chứng cứ hùng hồn của cuộc Phục Sinh của Người.
Tô-ma bị thuyết phục về sự Phục Sinh khi ông tận mắt nhìn thấy Chúa Giê-su và các vết thương của Người. Ông không nghi ngờ nữa – và đã thốt lên lời tuyên xưng đức tin hết sức triệt để: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi!” (Ga 20,28).
Vâng, Giáo Hội sống sự sống Phục Sinh của Đức Kitô ngay từ chính những ngày đầu tiên của lịch sử mình. Giáo Hội sống trong mầu nhiệm Vượt Qua của Thầy và phu quân của mình. Từ mầu nhiệm này, Giáo Hội nhận lãnh sức mạnh hai mặt: sức mạnh của lời chứng và sức mạnh của ân sủng có năng lực cứu độ con người. Thời đại của Giáo Hội chỉ bắt đầu sau Lễ Hiện Xuống. Tuy nhiên, Lễ Hiện Xuống lại khởi đầu từ chính cuộc Phục Sinh. Thực vậy, ngay trong lần đầu tiên hiện ra với các Tông Đồ “sau ngày sa-bát”, Chúa Phục Sinh đã nói với các ông: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20,22).
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 18-4
Cv 6, 1-7; Ga 6, 16-21.

LỜI SUY NIỆM: “Các ông thấy Đức Giêsu đi trên mặt Biển Hồ và đang tới gần thuyền. Các ông hoảng sợ. Nhưng Người bảo các ông: Thầy đây mà, đừng sợ”
Con thuyền đưa các môn đệ qua bên kia biển hồ, khi gặp biển động và gió thổi mạnh, chắc chắn các ông phải cố gắng nhiều, để giữ vững con thuyền, khỏi bị đánh chìm. Chính lúc đó Chúa đã nhìn thấy; Người liền đến với các ông, bằng cách đi trên mặt nước mà đến với các ông. Bởi vì đêm tối lại biển động gió thổi mạnh, tâm trí các ông đang lo sợ; nên các ông đã không nhận ra Chúa. gây cho các ông thêm hoảng sợ. Chúa đã trấn an các ông: “Thầy đây Đừng Sợ”
Lạy Chúa Giêsu, trong cuộc đời đức tin của mỗi chúng con nhiều khi cũng đang chịu những đêm tối, những đợt sóng lớn, những trận cuồng phong. Xin cho mọi thành viên trong gia đình chúng con tin và nhận ra có Chúa hiện diện với chúng con, để chúng con không còn phải sợ.
Mạnh Phương


18 Tháng Tư
Ðôi Tay Cầu Nguyện
Albrecht Durer là một họa sĩ và điêu khắc gia nổi tiếng của nước Ðức vào thế kỷ thứ 16. Một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của ông đó là bức tranh "Ðôi tay cầu nguyện".
Sự tích của họa phẩm này như sau: Thuở hàn vi, Durer kết nghĩa với một người bạn chí thân. Cả hai đã thề thốt là sẽ giúp nhau trở thành họa sĩ. Ðể thực hiện ước nguyện đó, người bạn của Durer đã chấp nhận làm thuê làm mướn đủ cách để kiếm tiền cho Durer ăn học thành tài. Theo thỏa thuận, sau khi đã thành công, Durer cũng sẽ dùng tiền bạc của mình để giúp cho người bạn ăn học cho đến khi thành đạt.
Thế nhưng khi Durer đã thành tài, danh tiếng của anh bắt đầu lên, thì đôi tay của người bạn cũng đã ra chai cứng vì lam lũ vất vả, khiến anh không thể nào cầm cọ để học vẽ nữa.
Một ngày nọ, tình cờ bắt gặp đôi tay của người bạn đang chắp lại trong tư thế cầu nguyện, Durer nghĩ thầm: "Ta sẽ không bao giờ hồi phục lại được năng khiếu cho đôi bàn tay này nữa, nhưng ít ra ta có thể chứng minh tình yêu và lòng biết ơn của ta bằng cách họa lại đôi bàn tay đang cầu nguyện này. Ta muốn ca tụng đôi bàn tay thanh cao và tấm lòng quảng đại vị tha của một người bạn".
Thế là kể từ hôm đó, Durer đã để hết tâm trí vào việc thực hiện bức tranh đó. Ðó không phải chỉ là một tác phẩm nghệ thuật, nhưng là tất cả tình yêu và lòng biết ơn mà ông muốn nói lên với một người bạn. Bức tranh đã trở thành bất hủ, nhưng càng bất hủ hơn nữa đó là tấm lòng vàng của người bạn và tâm tình tri ân của nhà họa sĩ.
Phúc Âm kể lại cuộc gặp gỡ cảm động giữa Chúa Giêsu và một người đàn bà mà mọi người đang nhìn bằng một con mắt khinh bỉ, bởi vì bà ta bị xếp vào loại người tội lỗi... Bất chấp mọi dòm ngó và xì xào, người đàn bà đã tiến đến bên Chúa Giêsu, đập vỡ một bình dầu thơm, đổ trên chân Chúa Giêsu và dùng tóc lau chân Ngài.
Nhiều người xì xào, tỏ vẻ khó chịu. Chúa Giêsu đã lên tiếng biện minh cho người đàn bà và Ngài đã tiên đoán: nơi nào tin Mừng được loan báo thì nơi đó cử chỉ của người đàn bà được nhắc tới.
Qua lời tuyên bố trên đây, Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng: tất cả mọi nghĩa cử, dù là một hành vi nhỏ bé đến đâu và làm cho mọi người nhỏ mọn đến đâu, cũng được ghi nhớ muôn đời.
Tiền của có thể qua đi, danh vọng có thể mai một, nhưng những việc làm bác ái luôn có giá trị vĩnh cửu. Thánh Phaolô đã nói: trong ba nhân đức Tin, Cậy, Mến, chỉ có Ðức Mến là tồn tại đến muôn đời.
Cuộc đời của mỗi người Kitô chúng ta cũng giống như một bức tranh cần được hoàn thành. Mỗi một nghĩa cử chúng ta làm cho người khác là một đường nét chúng ta thêm vào cho bức tranh. Khuôn mặt của chúng ta có thể khô cằn, hoặc rướm máu vì những cày xéo của những thử thách, khó khăn, đôi tay của chúng ta có thể khô cứng vì những quảng đại, quên mình. Tuy nhiên, những đường nét bác ái sẽ làm cho khuôn mặt ấy trở thành bất tử...
(Lẽ Sống)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét