Trang

Thứ Bảy, 18 tháng 4, 2015

19-04-2015 :(phần II) CHÚA NHẬT III PHỤC SINH năm B

19/04/2015
Chúa Nhật III Phục Sinh Năm B
(phần II)


Phụng vụ Lời Chúa: Chúa Nhật III Phục Sinh - năm B
CHÚA NHẬT PHỤC SINH III NĂM B
(Cv 3,13-15.17-19; 1Ga 2,1-5a; Lc 24,35-48)
CHỦ ĐỀ:
LÀM CHỨNG VỀ ĐỨC KITÔ
ĐÃ CHẾT VÀ PHỤC SINH
ĐỂ CỨU ĐỘ CHÚNG TA
Đấng Kitô phải chịu khổ hình,
rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại

(Lc 23,46)
Các bài đọc hôm Lời Chúa hôm nay nhấn mạnh đến việc làm chứng (truyền giáo) về Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chịu khổ nạn, chết nhưng nay đã phục sinh để cứu độ chúng ta. Người môn đệ cần phải vượt qua khỏi nỗi sợ hãi, củng cố niềm tin để dám ra đi làm chứng rằng Đức Giêsu Kitô cứu độ mọi người.
I. CÁC BÀI ĐỌC
1. Bài đọc I (Cv 3,13-15.17-19):
Dù đã có lúc chối Thầy Giêsu hoặc sợ hãi trước cuộc khổ nạn và cái chết trên thập giá của Thầy mình, nhưng nay một khi đã được ánh sáng Đức Giêsu Kitô Phục sinh chiếu soi, tông đồ Phêrô đã dám vượt ra khỏi nỗi sợ hãi để ra đi làm chứng về Đức Giêsu đã chết nay đã phục sinh để cứu rỗi mọi người. Bài đọc I cho thấy người tông đồ là người dám ra đi làm chứng, trước hết, bằng lời nói.
Trong diễn từ thứ nhất, tông đồ Phêrô đã làm chứng về Đức Giêsu chính là Đấng Kitô (Cv 2,14-36). Trong diễn từ thứ hai mà bài đọc I hôm nay trích dẫn, ông đã mạnh dạn loan báo về Đức Giêsu đã bị kết án chính là Đấng Thánh và là Công Chính; Đấng đã bị giết chết lại là Đấng Khơi Nguồn Sự Sống, vì đã được Thiên Chúa cho trỗi dậy từ cõi chết, đúng như lời các ngôn sứ báo trước. Những lời chứng này không phải để lên án những ai đã kết án và giết Đức Giêsu, nhưng để kêu gọi họ sám hối mà trở lại cùng Thiên Chúa để được xóa bỏ tội lỗi và đón nhận ơn cứu độ.
2. Bài đọc II (1Ga 2,1-5a):
Nếu Bài đọc I cho thấy các môn đệ đã làm chứng về Đức Giêsu Kitô chết và phục sinh để cứu độ chúng ta, thì trong bài đọc II, Thánh tông đồ Gioan đã làm chứng về sứ vụ cứu thế của Đức Giêsu Kitô theo một cách thế khác, đó là bằng chữ viết. Thánh nhân đã viết lời chứng rằng Đức Giêsu Kitô không chỉ đem ơn cứu độ cho loài người khi đang sống ở dương thế, mà vẫn còn tiếp tục công trình đó khi Người đã được tôn vinh trên Trời. Thánh Gioan làm chứng rằng Đức Giêsu Kitô là Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha, là Đấng Công Chính và là của lễ đền bù tội lỗi chúng ta và tội lỗi cả thế gian nữa; nhờ đó, chúng ta được ơn cứu rỗi. Mục đích của việc làm chứng về Đức Giêsu Kitô là để người ta tin, nên thánh Gioan kêu gọi: ai tin và đón nhận Đức Giêsu Kitô như thế, thì hệ luận kéo theo là đừng phạm tội, đồng thời tuân giữ các điều răn của Người, nhất là giới răn yêu thương.
3. Bài Tin Mừng (Lc 24,35-48):
Luca tường thuật việc Chúa Phục Sinh hiện ra với các môn đệ, giúp các ông thấu hiểu “Biến cố Đức Kitô: chịu khổ nạn, chết và Phục sinh” và ý thức sứ vụ ra đi làm chứng mà các ông đã được ủy thác.
Dù đã được nghe tin vui Đức Giêsu phục sinh nhưng các môn đệ vẫn chưa vượt qua được nỗi sợ hãi: vẫn kinh hồn bạt vía, hoảng hốt, ngờ vực về chính Thầy của mình. Chính lúc đó, Đức Giêsu Kitô Phục Sinh đã đến trao ban bình an, xóa tan mọi ngờ vực, giúp các ông nhận ra Ngài, hiểu rõ con đường cứu độ của Ngài và sai các ông ra đi làm chứng.
Trước hết, để giúp các môn đệ nhận ra Người, Đức Giêsu đã ăn khúc cá nướng mà họ đưa cho để chứng tỏ Người không phải là ma. Đức Giêsu Kitô cũng đã cho các môn đệ xem cạnh sườn và dấu tích của cuộc khổ nạn để chứng tỏ cho các ông thấy Người là Thầy Giêsu của họ chứ không phải là ai khác. Qua những dấu chỉ thể lý khả giác này, Luca muốn làm chứng cho những người Hylạp và Rôma, vốn chưa biết đến Kinh Thánh, biết rằng chính Đức Giêsu lịch sử đã chịu đóng đinh và chết nhưng nay đã sống lại thật rồi. Các sự kiện này đã được kiểm chứng.
Kế đến, Đức Giêsu Kitô đã soi trí mở lòng cho các môn đệ hiểu Kinh Thánh để các ông biết rõ con đường cứu độ mà Đấng Kitô đã đi qua, đó là “Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại”. Những điều này xảy ra là để ứng nghiệm “những gì sách Luật Môsê, các Sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy”, nghĩa là Đức Giêsu chính là Đấng Kitô mà Cựu Ước đã loan báo. Qua những lời chứng dựa vào Kinh Thánh này, Luca nhắm tới đối tượng là người gốc Dothái.
Cuối cùng, điều quan trọng Đức Kitô Phục sinh đã sai các môn đệ đi làm chứng (truyền giáo) về Đức Giêsu Kitô đã chịu khổ nạn, chết và phục sinh để cứu độ mọi người, khi nói “chính anh em là chứng nhân về những điều này”. Các ông nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân. Bắt đầu từ Giêrusalem, là chính trong môi trường các ông đang sống, cũng là nơi Đức Giêsu Kitô hoàn tất sứ vụ cứu thế của Người và cũng là nơi mà Giáo Hội khởi sự thi hành sứ vụ truyền giáo của mình. Sau đó, các ông mới đi loan báo Tin Mừng đến tận cùng trái đất.
II. GỢI Ý MỤC VỤ
1. Làm chứng/ truyền giáo là căn tính sống còn của Giáo Hội và của mỗi Kitô hữu. Một hình thức đặc thù để cụ thể hóa việc truyền giáo là hình thức tông đồ giáo dân, cần được áp dung rộng rãi trong bối cảnh ngày nay. Sắc lệnh Tông Đồ Giáo Dân số 16 viết: “Hình thức đặc biệt của hoạt động tông đồ cá nhân là giúp giáo dân làm chứng bằng cả đời sống phát xuất từ đức tin, đức cậy, đức mến... Cùng với việc tông đồ bằng lời nói mà trong một số hoàn cảnh lại rất cần thiết người giáo dân rao giảng Chúa Kitô cắt nghĩa và phổ biến giáo lý của Người tùy theo hoàn cảnh và tài năng của mỗi người, đồng thời họ cũng trung thành tuyên xưng giáo lý của Người nữa”. Chúng ta có ý thức rằng truyền giáo là làm chứng cho Đức Giêsu bằng chính cuộc sống của mình qua đức tin, cậy, mến để chứng tỏ rằng quyền năng của Đức Giêsu sống lại đã tác động và biến đổi chúng ta một cách lạ lùng nhất: có thể từ người luôn sợ hãi trở thành người can đảm; từ người luôn ngờ vực trở thành người vững tin; từ một người khô khan trở thành người sốt sắng; từ một người yếu đuối tội lỗi trở thành người mạnh mẽ thánh thiện; từ một người khép kín thành một chứng nhân cho Đấng đã biến đổi cuộc sống của mình?
2. Để có thể ra đi làm chứng/ truyền giáo, trước hết chúng ta phải có sự bình an của Đấng phục sinh ban tặng. Sự bình an này không chỉ đơn thuần là một tình trạng thể lý hay tâm lý, mà là sự bình an toàn bộ đời sống con người: đó chính là ơn cứu độ. Sự bình an này không phải là một sự bảo đảm rằng chúng ta sẽ có cuộc sống yên ổn, không thiếu thốn, lo lắng hay đau khổ gì ở trần gian, vì chính Đấng ban sự bình an này vẫn chịu khổ nạn, chịu chết trên thập giá, nhưng sau đó đã khơi nguồn sự sống. Do đó, sự bình an đích thực chẳng phải là một cuộc sống không bị xáo trộn, mà là một tình trạng thanh thản đón nhận tất cả, kể cả đau khổ và sự chết vì biết rằng mình sẽ được thông phần vào sự sống lại với Đấng đã ban tặng bình an. Chúng ta có xác tín như vậy không?
3. Để có thể ra đi làm chứng/ truyền giáo, chúng ta cần vượt qua nỗi sợ hãi, không còn hoảng hốt hay ngờ vực về “biến cố Đức Giêsu Kitô: khổ nạn, chết và phục sinh”. Nỗi sợ hãi này có thể do:
- chủ quan vì chúng ta sợ liên lụy đến bản thân sau tấn bi kịch khổ nạn của Thầy mình;
- hoặc khách quan từ mối nguy hiểm mà những người khác đang làm hại chúng ta vì có liên hệ với Đức Giêsu, với Kitô giáo.
Nhìn chung, sự sợ hãi và hốt hoảng là do yếu đuối, nhưng sự ngờ vực là do thiếu lòng tin. Vì thế, trước khi có thể ra đi truyền giáo, chúng ta cần được củng cố niềm tin và sống niềm vui Tin mừng trước đã. Liệu chúng ta có thể đem cho người khác niềm tin và niềm vui nếu mình không có các điều đó?
4. Người Sống niềm vui Phục Sinh cần phải “ra đi” làm chứng (truyền giáo) niềm vui đó cho người khác. Nhìn vào lịch sử dân Thiên Chúa, một ai đó khi đã gặp gỡ Thiên Chúa thì được thúc đẩy “ra đi”. Tông Huấn Niềm Vui Tin Mừng cũng nhấn mạnh đến các mẫu gương này, chẳng hạn như: Ábraham, cha của những kẻ tin đã “ra đi”. Dân Israel cũng “ra đi” khỏi Aicập cùng với Môsê để thực hiện cuộc xuất hành. Các môn đệ cũng “ra đi”, và Hội Thánh tự bản chất là “ra đi”, nên tất cả chúng ta đều được kêu gọi tham gia vào cuộc “ra đi” truyền giáo mới này (Niềm Vui Tin Mừng, số 20).
Muốn có sự tươi mới và động lực để “ra đi”, xin nghe lời ĐGH Phanxicô nhắn nhủ: “Mỗi khi chúng ta cố gắng trở về nguồn (là Đức Giêsu) và khôi phục lại sự tươi trẻ của Tin Mừng, những đại lộ mới sẽ xuất hiện, những con đường sáng tạo mới sẽ mở ra…” (x. Niềm Vui Tin Mừng, số 11). Nhờ đó, chúng ta mới có can đảm để ra đi từ vùng đất tiện nghi của mình để đến với mọi người ở vùng “ngoại ô” đang cần ánh sáng Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô Phục Sinh (x. Niềm Vui Tin Mừng, số 20).
Có phải sứ vụ cứu độ của Đức Giêsu đã kết thúc ở Giêrusalem, nhưng được lan tỏa đến tận cùng trái đất là nhờ lời loan báo của các môn đệ, tức là mọi Kitô hữu chúng ta? Sau mỗi thánh lễ, chúng ta được mời gọi “lễ xong chúc anh chị em đi bình an”, phải chăng đó là “ra đi” để nối dài bước chân loan báo Tin Mừng cứu độ cho người khác?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Thiên Chúa Cha đã làm vinh danh Đức Giêsu Kitô khi phục sinh Người từ cõi chết. Thiên Chúa cũng mời gọi chúng ta tiếp tục làm vinh danh Con Một Người giữa thế giới hôm nay. Trong tâm tình ngợi khen và cảm tạ, chúng ta cùng tha thiết dâng lời nguyện xin:
1. “Còn các con, các con sẽ làm chứng nhân về những điều ấy.” Chúng ta cùng cầu xin cho các vị chủ chăn trong Hội Thánh cùng toàn thể Dân Chúa, được tràn đầy sức mạnh và ơn khôn ngoan, để chu toàn sứ mạng loan báo Tin Mừng Phục Sinh giữa bao khó khăn hiện tại.
2. Nhiều nơi trên thế giới đang đối diện với những bất ổn về chính trị và kinh tế. Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho nhà cầm quyền các quốc gia biết đặt lợi ích của dân nước trên mọi tham vọng cá nhân, hầu nỗ lực xây dựng hòa bình và mưu tìm hạnh phúc cho mọi người.
3. “Người mở trí cho các ông am hiểu Thánh Kinh.” Xin cho mọi kitô hữu, đặc biệt mỗi thành viên trong gia đình giáo phận chúng ta được thêm lòng yêu mến, luôn tích cực học hỏi Thánh Kinh và sống Lời Chúa cách hiệu quả trong môi trường sống và làm việc của mình.
4. “Ai giữ lời Người, thì tình yêu của Thiên Chúa đã tuyệt hảo nơi người ấy.” Xin cho tất cả mọi người trong cộng đoàn chúng ta thực sự trở nên dấu chỉ cho sức sống, tình yêu và niềm vui của Chúa Phục Sinh qua đời sống yêu thương chân thành và quên mình phục vụ.
Chủ tế: Lạy Chúa là Cha rất nhân từ! Chúa đã thương qui tụ và nuôi dưỡng chúng con bằng Lời Hằng Sống và Mình Máu Con Chúa. Xin nhận lời chúng con cầu nguyện, và giúp chúng con luôn trung thành với sứ mạng làm chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống hôm nay. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.

CHỦ ĐỀ
BÀI GIÁO LÝ II VỀ CUÔC SỐNG KITÔ HỮU :

NHẬN BIẾT ĐỨC GIÊSU

 
Minh họa



Đức Giêsu hiện ra cho hai môn  đệ trên đường Emmau
(Lc 24,35-38)


Sợi chỉ đỏ
- Bài đọc I (Cv 3,13-15.17-19) : Bài giảng của Phêrô cho người do thái sau khi chữa lành một người què à "Anh em đã hành động (giết Đức Giêsu) mà không biết".
- Bài Tin Mừng (Lc 24,35-38) : Đức Giêsu hiện ra với hai môn đệ Emmau à Hai ông đã nhận ra Đức Giêsu khi Ngài giải thích Sách Thánh và khi Ngài bẻ bánh.
- Bài đọc II (1 Ga 2,1-6a) : Dấu chỉ mình thực sự "biết" Chúa là tuân giữ giới răn Ngài.
Như thế bài giáo lý II này nhấn mạnh đến việc "nhận biết" Đức Giêsu.

I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Trên cuộc lữ hành dương thế, chúng ta không phải là người độc hành cô đơn phải tự mình giải quyết mọi vấn đề. Nhưng có Chúa cùng đi với chúng ta. Tuy vô hình nhưng Ngài luôn hiện diện bên cạnh chúng ta. Lời Ngài soi sáng tâm trí và sưởi ấm cõi lòng chúng ta. Chúng ta hãy lắng nghe câu nói mà phụng vụ thường nhắc đi nhắc lại : "Chúa ở cùng anh chị em".

II. GỢI Ý SÁM HỐI
- Đức Giêsu đã nói "Bình an cho chúng con". Nhưng bình an có đang thực sự ngự trị trong tâm hồn chúng ta và trong môi trường chúng ta sống không ?
- Đức Giêsu đã nói "Hãy ở trong Thầy". Nhưng chúng ta có thực sự ở trong Chúa khi cầu nguyện, khi lãnh nhận các bí tích và khi sống trong cộng đoàn Giáo Hội không ?
- Đức Giêsu đã nói "Chúng con là nhân chứng của Thầy". Nhưng chúng ta có thực sự làm chứng cho Chúa qua lời nói, việc làm và cách sống không ?
III.  LỜI CHÚA

1. Bài đọc I : Cv 3,13-15.17-19
Sau khi Phêrô chữa lành một người què tại cửa Đền thờ, nhiều người ngạc nhiên và bàn tán. Nhân cơ hội này, Phêrô giảng một bài :
- Trong phần đầu bài giảng, Phêrô xác nhận người què này được chữa lành không phải nhờ quyền năng hay đạo đức riêng của ông, mà chính là nhờ Danh Giêsu.
- Qua phần hai, Phêrô nhắc lại vụ án Đức Giêsu. Ông nói người do thái đã giết Đức Giêsu vì họ không "biết". Nay Thiên Chúa đã cho Ngài sống lại. Việc này chứng tỏ Đức Giêsu chính là Đấng Messia. Vậy họ hãy sám hối và tin vào Ngài để được ơn cứu độ.

2. Đáp ca : Tv 4
Đây là lời cầu nguyện bày tỏ lòng trông cậy phó thác : mặc dù đang ở trong cơn khốn khó, tín hữu vẫn tin rằng Thiên Chúa sẽ giải thoát mình cho nên người tín hữu cảm thấy "thư thái bình an, vừa nằm tôi đã ngủ".
Đức Giêsu chính là người sống tâm tình này tuyệt hảo nhất : Ngài đã "nằm ngủ" bình an trong tay Thiên Chúa rồi được Thiên Chúa cho "thức dậy" qua cuộc phục sinh.

3. Tin Mừng : Lc 24,35-38
Hai môn đệ Emmau đã theo Đức Giêsu bấy lâu nay, họ nghĩ rằng họ "biết" Ngài. Theo cái "biết" ấy thì Ngài chỉ là "một tiên tri có quyền lực trong hành động và ngôn ngữ" và họ "hy vọng Ngài sẽ cứu Israel".
Nhưng khi Đức Giêsu bị giết, họ mới ý thức rằng cái "biết" đó chỉ là cái họ "tưởng" chứ không phải là "biết" thật.
Đức Giêsu giúp họ "biết" thực sự, nhờ việc Ngài giảng giải Lời Sách Thánh và nhờ việc Bẻ bánh.
Khi đã "biết" Đức Giêsu, hai ông vội vã trở lại Giêrusalem để loan báo cho các môn đệ khác "biết" nữa.

4. Bài đọc II : 1 Ga 2,1-6a
Chịu ảnh hưởng của thuyết Ngộ đạo, các tín hữu cũng coi trọng sự "biết" và họ tự hào rằng mình đã biết Đức Giêsu.
Thánh Gioan tông đồ giải thích thế nào là "biết" thật : "Chính nơi điều này mà chúng ta biết rằng mình "biết" Đức Giêsu, đó là chúng ta giữ các giới răn của Ngài. Ai nói rằng mình "biết" Ngài mà không giữ giới răn Ngài thì ấy là kẻ nói dối".

IV. GỢI Ý GIẢNG

* 1. "Biết" và được cứu độ
Vào khoảng cuối thế kỷ I, có một lạc thuyết nổi lên trong Giáo Hội, đó là thuyết Ngộ đạo. Thuyết này đề cao sự hiểu biết ("ngộ") : ai đã đạt đến trình độ hiểu biết cao sâu về Chúa thì sẽ bảo đảm được cứu độ. Ngày nay, có nhiều người cũng lầm tưởng rằng nếu "biết" giáo lý, "biết" lề luật, "biết" Thánh Kinh thì cũng bảo đảm được phần rỗi.
Bài Tin Mừng hôm nay xóa tan ngộ nhận ấy, cái "biết" có thể mang đến ơn cứu độ là cái "biết" do suy gẫm sách Thánh và kết hợp với Đức Giêsu Thánh thể. Bài trích thư thứ nhất Thánh Gioan cho thấy thêm một điều kiện nữa : không chỉ biết Chúa mà còn phải tuân giữ các giới răn của Ngài nữa thì mới được cứu độ.

* 2. Những cảm nghiệm Emmau
Vào chính ngày Đức Giêsu sống lại, có hai môn đệ chán nản rời Giêrusalem để về làng Emmau. Thánh Luca cho biết tên một người, đó là Clêôpát. Còn người kia thì Luca không nói tên. Chắc chắn không phải vì ông không biết, nhưng có lẽ vì người thứ hai ấy chính là Luca, hoặc cũng có thể vì một lý do gì khác. Ch. Perrot đã đoán lý do khác ấy là : "Người bạn của Clêôpát không được nêu rõ tên nhưng lại mang tên của mọi tín hữu". Nghĩa là, theo suy đoán của Ch. Perrot, Thánh Luca cố ý không nêu tên người môn đệ kia vì muốn coi người ấy là đại biểu của mọi tín hữu. Nói cách khác, bất cứ ai trong chúng ta cũng đều có thể trải qua những cảm nghiệm của người môn đệ ấy.
Vậy chúng ta hãy đi vào tâm trạng của người môn đệ ấy, và chia xẻ những cảm nghiệm của ông.

1. "Đang lúc họ trò chuyện và bàn tán thì chính Đức Giêsu tiến đến gần và cùng đi với họ. Nhưng mắt họ còn bị ngăn cản nên không nhận ra Ngài" : Đây là cảm nghiệm thứ nhất, cảm nghiệm về tình trạng của Đức Giêsu phục sinh. Ngài luôn hiện diện bên cạnh chúng ta và luôn cùng đi với chúng ta. Chỉ có điều là cặp mắt xác thịt của chúng ta không thấy được Ngài, giống như có một bức màn ngăn cách giữa chúng ta với Ngài. Đến một lúc nào đó, nếu Ngài muốn, thì Ngài bỏ bức màn ấy xuống, khi đó không còn gì ngăn cản nữa thì chúng ta sẽ thấy được Ngài. Đối với hai môn đệ Emmau, đó là lúc ở trong lữ quán, "mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Ngài".

2. Vậy nhờ cái gì mà tấm màn ngăn cách chúng ta với Đức Giêsu phục sinh được cất đi để chúng ta nhận ra Ngài ? Cảm nghiệm của hai môn đệ Emmau cho thấy nhờ hai điều :
a/ Điều thứ nhất là nhờ suy gẫm Sách Thánh : "Ngài giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Ngài trong tất cả Sách Thánh". Sau này hai ông nhớ lại cảm giác lúc đó : "Dọc đường khi Ngài nói chuyện và giải thích Sách Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên đó sao ?".
b/ Điều thứ hai là Bí tích Thánh Thể : "Ngài cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Ngài".
Sách Thánh đã làm cho những cõi lòng lạnh giá chán chường bừng cháy lên, Bí tích Thánh Thể khiến cho bức màn ngăn cản cặp mắt xác thịt hạ xuống.
*
Thực ra chúng ta đã nhiều lần đọc Sách Thánh và tham dự Bí tích Thánh Thể. Nhưng tại sao khi đọc Sách Thánh lòng chúng ta không "cháy bừng lên", và khi tham dự Thánh Lễ mắt chúng ta không "mở ra" ? Thưa vì chúng ta đọc Sách Thánh như đọc về Đức Giêsu chứ không phải đọc vớiĐức Giêsu như hai môn đệ Emmau ; và chúng ta dâng Thánh Lễ như dâng lên cho Ngài chứ không phải cùng dâng với Ngài.
Chúng ta có thể làm mọi việc với Ngài, bởi vì Đức Giêsu phục sinh luôn hiện diện bên cạnh chúng ta và luôn cùng đi với chúng ta trên mọi nẻo đường đời. Ngày xưa đối với hai môn đệ Emmau cũng thế và ngày nay cũng vẫn thế.

3. Cuộc sống mới của các môn đệ
Có thể nói sau khi Đức Giêsu chết thì các môn đệ cũng chết luôn, chết về mặt tinh thần và về luân lý : nhóm 12 đã rã rời, vì Giuđa đã tự vẫn, Tôma đã bỏ đi do khủng hoảng đức tin, những người còn lại thì co cụm với nhau trong căn phòng đóng kín cửa, lòng họ đầy sợ hãi, nghi ngờ, mặc cảm tội lỗi, buồn phiền và thất vọng.
Nhưng ngay sau khi sống lại, Đức Giêsu phục sinh cũng làm cho họ sống lại : Ngài chủ động đến với họ chứ không chờ họ đi tìm Ngài, Ngài không nói một lời trách móc nhưng lại chúc bình an, Ngài ăn uống với họ để họ tin chắc Ngài vẫn sống, Ngài mở trí cho các ông hiểu ý nghĩa Thánh Kinh, Ngài lại còn sai họ ra đi rao giảng cho muôn dân. Tất cả những việc làm tế nhị và yêu thương ấy đã giúp cho các môn đệ
- không còn sợ hãi
- không còn nghi ngờ
- không còn mặc cảm tội lỗi
- không còn buồn phiền
- không còn thất vọng
Con người cũ của các ông không còn, các ông như được sống lại trong con người mới, sẵn sàng ra đi khắp nơi loan báo Tin Mừng phục sinh cho mọi người.

4. "Hãy nhìn chân tay Thầy"
Một người con kia rất yêu thương cha mình. Người cha là một nông dân, suốt đời cần cù lao động để nuôi sống gia đình. Khi người cha chết đi, lòng người con rất buồn rầu. Anh cứ đứng gần thi thể của cha mà nhìn, nhất là nhìn đôi bàn tay của cha. Anh nói : "Nhìn đôi bàn tay sần sùi chai sạm ấy, tôi nhớ lại tất cả những cực nhọc khổ sở mà cha tôi đã chịu vì yêu thương tôi"
Khi hiện đến với các môn đệ, Đức Giêsu cũng bảo họ hãy nhìn chân tay Ngài, những chân tay không phải chai sạm mà đầy những thương tích. Nhìn không phải chỉ để xác nhận Đức Giêsu hôm nay cũng chính là Đức Giêsu hôm qua bị đóng đinh, mà còn để nhận ra tình thương bao la vô bờ bến của Ngài : "Không có tình thương nào lớn hơn tình của người thí mạng sống cho người mình thương".
Khi hiện ra với Tôma, Đức Giêsu cũng bảo ông hãy chạm đến các vết thương của Ngài, rồi Ngài nói : "Đừng hồ nghi nữa, nhưng hãy tin" (Ga 20,28). Tin gì ? Không chỉ tin là Ngài đã sống lại, mà còn tin vào tình thương của Ngài.
Tình Chúa thương ta là một điều chắc chắn, đã được đóng dấu bằng những vết thương trên thân xác Ngài. Chúng ta hãy tin chắc như thế, không có gì lay chuyển được.

5. Biến cố làm đảo lộn lịch sử thế giới
Trong những ngày ấy, có hai người bước trên đường về Emau, một làng cách Giêrusalem vài cây số. Về Emau, có nghĩa là trở về hư vô, về cõi của những niềm hy vọng đã tan vỡ. Họ kiệt lực rồi, họ hết còn mơ mộng, họ cũng đã hết nhiệt tình. Trước đây, họ đã đi theo phong trào Giêsu với tất cả nhiệt huyết, họ cứ chắc mẩm rằng họ sẽ giải phóng thế giới khỏi cái ác, giải phóng dân tộc họ khỏi giới quí tộc Đền thờ và khỏi ách đô hộ La Mã.. Nhưng nay thì hết rồi Thầy đã chết, chết quá dễ dàng không một biểu hiện tự vệ. Các thủ lãnh phong trào Giêsu, những bạn đồng hành thân cận nhất của Thầy, những người mà Thầy tín cẩn, cũng đã lánh mặt vì khiếp nhược, vì thất vọng. Có người thậm chí còn bảo, anh Phêrô nhiệt tình là thế, bao giờ cũng tranh ăn trên nói trước, thế mà người ta bảo anh đã thề độc, đã chứng minh anh không hề quen biết Giêsu.
Thế là hết. Hai anh tưởng đã được tham dự vào một cuộc phiêu lưu độc đáo, khiến cho đời các anh có một ý nghĩa rực sáng, mở ra cho hai anh, mở ra cho mọi người một tương lai chan chứa niềm vui và niềm hy vọng. Vậy mà giờ đây họ chỉ còn những nuối tiếc, hận đời và dằn vật.
Một người khách lạ nhập bọn với hai anh, bảo hai anh kể cho ông ta nghe về những nỗi buồn và niềm bất hạnh của họ. Cái ông khách này là một người hiếm hoi, biết nghe người khác nói. Rồi ông ta giải thích cho hai anh nghe về lịch sử thế giới, bắt đầu bằng kể về ông Môisê và các ngôn sứ. Hai anh thấy lòng ấm dần lên, cởi mở dần ra. Đầu óc của hai anh, chậm hiểu hơn trái tim, chỉ nhận ra Ngài sau khi cùng Ngài chia sẻ bữa tối và sau khi Ngài khuất dạng.
Thế là hai anh quay lại, bước ra khỏi tăm tối và hư vô, trở về Giêrusalem. Những người các anh gặp lại ở Giêrusalem cũng đã từng trải qua những thất vọng não nề... Vậy mà những con người thảm hại ấy bỗng đứng lên, mạnh dạn tuyên bố rằng Đức Kitô đang sống, và bằng chúng thuyết phục nhất là chính họ đã thấy Ngài, thậm chí đã cùng ăn uống với Ngài.
Những điều họ nói, thật ra không phải một bằng chứng bằng chứng thuyết phục nhất là chính họ, những người thấp hèn, nhát gan, ít chữ nghĩa, nay dám đương đầu với mọi hiểm nguy và làm phục sinh lại phong trào Giêsu. Đến đâu họ cũng nhắc lại những lời yêu thương và giải phóng, những lời không hẳn được tất cả mọi người nghe theo, nhưng là những lời đã thay đổi lịch sử thế giới.
Vậy thì, trong những ngày ấy, đã có một biến cố xảy ra, như một vụ bùng nổ, làm xuất hiện niềm tin và thay đổi cuộc đời những người này. Đối với họ, biến cố đã xảy ra đó là, Đức Giêsu đang sống. Đức Giêsu đã phục sinh, và họ đã loan truyền cái tin ấy đến nỗi dám hy sinh cả mạng sống. Chẳng ai có thể đưa ra những bằng chứng để chứng tỏ điều đó. Ai cũng có quyền nghi ngờ. Thiên Chúa mà Đức Giêsu đã rao giảng thì tôn trọng tự do của con người đến độ đẻ họ nghi ngờ và phủ nhận Ngài... Tuy nhiên, trong những ngày ấy, một biến bố đã xảy ra làm đảo lộn những người đàn ông, những người phụ nữ ấy, và đã làm đảo lộn thế giới. Jacques Duquesne (Nhà văn Pháp)

Albert Schweitzer là một cậu bé rất thông minh, lại say mê âm nhạc. Khi trưởng thành cậu chơi đàn Organ, và cuối cùng đã trở thành Tiến sĩ âm nhạc. Sau đó, Albert nghiên cứu các chủ đề về tôn giáo, và đã đậu Tiến Sĩ Triết Học. Ông làm Hiệu Trưởng trường Đại Học.
Như thể học chưa đủ, ông từ chức Hiệu trưởng để theo ngành y khoa, 7 năm sau, trở thành bác sĩ với bằng Tiến sĩ Y Khoa. Với 3 bằng cấp Tiến sĩ, Albert Schweitzer dễ dàng trở thành một người giàu có, và nổi tiếng.
Thế nhưng, tiến sĩ Albert Schweitzer lại cùng với người vợ bán tất cả gia tài, sang tận Châu Phi thiết lập một bệnh viện ở Lambarene. Ông cứu giúp hàng ngàn người phong cùi và những người mắc bệnh buồn ngủ.
Ông huấn luyện y tá và điều dưỡng để phụ giúp ông. Khi hết tiền mua thuốc, ông trở về Âu Châu, trình diễn âm nhạc trong thành phố lớn, lấy tiền vé vào cửa để trả tiền mua thuốc cho bệnh viện của ông ở Lambarene. Ông tin rằng những người nghèo ở Châu Phi đều là những thành viên trong gia đình Thiên Chúa. Ông được giải thưởng Nobel Hòa Bình năm 1953.
Sau khi dâng hiến cả cuộc đời cho người Châu Phi nghèo khổ, nhà truyền giáo đã đi về nhà Cha năm 1965 lúc 90 tuổi.
*
Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu Phục sinh kêu gọi các môn đệ hãy làm chứng nhân cho Người.
Chúng ta hãy là chứng nhân của sự sống mới. Thế giới ngày nay quay cuồng trong nỗi chết. Cái chết của chiến tranh, khủng bố khiến người ta chết không toàn thây. Cái chết của sida, ma tuý làm người ta chết không ra con người. Cái chết của phá thai, tự vẫn như cướp quyền Đấng Tạo Hóa. Người tín hữu Kitô phải làm chứng cho sự sống mới.
Sự sống của Đấng Phục sinh : Lôi cuốn, hấp dẫn gấp ngàn lần nỗi chết quay quắt điên loạn của con người. Sự sống của Đấng Phục sinh tràn đầy niềm hy vọng. Nếu Đức Kitô bị đóng đinh đã sống lại ra khỏi mồ, thì chúng ta có quyền tin tưởng vào chiến thắng của Người trên bạo lực, hận thù và nỗi chết.
Chúng ta hãy là chứng nhân của niềm vui. Nếu các môn đệ buồn phiền vì Thầy đã chịu khổ hình, thì các ông lại vui mừng biết bao khi nghe tin Thầy sống lại. Nếu các môn đệ lo âu vì sợ người ta đã giết Thầy sẽ bắt luôn cả trò, thì các ông lại trọn niềm hân hoan khi thấy Thầy sống lại ra khỏi mồ. Nếu chúng ta thực sự ra khỏi nỗi âu lo về mình, chúng ta sẽ tràn đầy niềm vui. Nếu chúng ta mang lại nụ cười cho những người bất hạnh, chúng ta đang công bố tin vui Phục sinh.
Đức Hồng Y Danielou có nói : "Chúng ta hãy tự khai mở niềm hy vọng của người bất hạnh, cho dù điều đó đe dọa đến của cải chúng ta".
Cha Charles de Foucauld quả quyết : "Chỉ có một số người có khả năng làm chứng bằng lời nói, nhưng mọi người đều có thể làm chứng bằng đời sống lương thiện, gương mẫu, và bằng đời sống Kitô hữu sinh động".
Trong nghi thức rửa tội của Giáo hội Ấn Độ, người chịu phép Rửa tội đặt tay lên đầu và nói :"Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng" (1Cr.9,16).
Vậy lời rao giảng Tin mừng sinh động nhất, hữu hiệu nhất và cao đẹp nhất chính là một cuộc đời quên mình phục vụ như nhà truyền giáo Albert Shweitzer đã làm cho những người phong cùi Châu Phi.
*
Lạy Chúa,
Khi chúng con u sầu, xin đem đến một ai đó để chúng con an ủi. Khi gánh nặng đè bẹp, xin chất thêm cho chúng con gánh nặng của người khác nữa.
Khi chúng con cần sự âu yếm vỗ về, xin cho người khác kêu gọi chúng con đến để vỗ về âu yếm họ.
Xin dạy chúng con trở nên chứng nhân của một Thiên Chúa phục vụ và yêu thương. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")

V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế : Anh chị em thân mến, Đức Giêsu đã truyền cho các môn đệ phải kêu gọi mọi người ăn năn sám hối và phải làm chứng về Chúa Phục sinh cho muôn dân. Ý thức trách nhiệm đó, chúng ta hãy sốt sắng cầu nguyện :

1. Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho mọi người trong Hội thánh / luôn nêu gương khiêm tốn ăn năn sám hối về các thiếu sót lỗi lầm / và luôn kêu gọi mọi người ăn năn sám hối / để loại trừ bớt tội lỗi trong thế giới.
2. Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho các nhà cầm quyền trên thế giới / biết cộng tác với nhau để ngăn chặn chiến tranh / diệt trừ tội ác, khủng bố, giết người / và xây dựng một thế giới hòa bình hạnh phúc hơn.
3. Chúng ta cùng cầu xin cho những nạn nhân của bất công khủng bố / những người vô tội bị bách hại / những người nghèo đói bị khinh chê / những người yếu đuối bị áp bức / được Đức Giêsu Phục sinh nâng đỡ và ủi an.
4. Chúng ta cùng cầu xin cho anh chị em trong họ đạo chúng ta / luôn nhớ đến trách nhiệm làm chứng về Đức Giêsu Phục sinh cho mọi người chung quanh chúng ta.

Chủ tế  : Lạy Chúa, xin giúp chúng con luôn nhớ lệnh truyền của Đức Giêsu Kitô là ăn năn sám hối và dùng tất cả đời sống làm chứng về Người, để chúng con thực sự là môn đệ của Người. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.

VI. TRONG THÁNH LỄ
- Trước kinh Lạy Cha : Đức Giêsu là Đấng công chính nhưng đã hiến thân làm lễ vật đền tội cho loài người chúng ta. Chính vì công nghiệp của Ngài mà chúng ta dám thưa với Thiên Chúa là Cha chúng ta rằng : "Lạy Cha chúng con ở trên trời…"
- Chúc bình an : Ngày xưa Đức Giêsu phục sinh đã "ở giữa các môn đệ và nói ‘Bình an cho anh em". Hôm nay nguyện chúc bình an của Chúa cũng hằng ở cùng anh chị em.
- Trước rước lễ : Đức Giêsu phục sinh đã mời các môn đệ đụng chạm vào thân thể Ngài và hãy tin. Bây giờ Ngài cũng mời chúng ta kết hợp với Mình Máu Thánh Ngài. "Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng…"

VII. GIẢI TÁN
Anh chị em đã biết rằng Đức Giêsu đã chịu nạn, chịu chết và sống lại để sinh on cứu rỗi cho loài người. Anh chị em phải làm chứng điều đó trước mặt mọi người. Chúc anh chị em về bình an.

Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI

Lectio Divina: Chúa Nhật III Phục Sinh (B)
Chúa Nhật, 19 Tháng 4, 2015
Chúa Giêsu hiện ra với các tông đồ
Lc 24:35-48


1.  Lời nguyện mở đầu

Lạy CHÚA là Thiên Chúa toàn năng,
Chúa là Đấng đã biến đời sống mong manh của chúng con
thành đá tảng đền thờ Chúa ngự.
Xin hãy hướng dẫn tâm trí chúng con
biết đập vào những phiến đá trong sa mạc,
để cho nước có thể chảy ra hầu làm dịu cơn khát của chúng con. 
Nguyện xin cho sự nghèo nàn về cảm xúc của chúng con
che phủ chúng con như tấm áo choàng trong bóng tối của đêm đen.
Và xin Chúa hãy mở lòng trí chúng con để chúng con có thể nghe được tiếng vang vọng của sự im lặng cho đến lúc bình minh,
Xin hãy ấp ủ chúng con trong ánh sáng của buổi rạng đông mới,
Xin hãy mang đến cho chúng con,
Với than hồng từ lửa của những mục tử của Đấng Tuyệt Đối
Là những người canh thức cho chúng con được gần với Thầy Chí Thánh,
hương vị của kỷ niệm thánh.

2.  Bài Đọc

i)  Tin Mừng:
35 Khi ấy, hai môn đệ thuật lại các việc đã xảy ra dọc đường và hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh như thế nào. 36 Mọi người còn đang bàn chuyện thì Chúa Giêsu hiện ra đứng giữa họ và phán: "Bình an cho các con! Thầy đây, đừng sợ". 37 Nhưng mọi người bối rối tưởng mình thấy ma. 38 Chúa lại phán: "Sao các con bối rối và lòng các con lo nghĩ như vậy? 39 Hãy xem tay chân Thầy: chính Thầy đây! Hãy sờ mà xem: ma đâu có xương thịt như các con thấy Thầy có đây". 40 Nói xong, Người đưa tay chân cho họ xem. 41 Thấy họ còn chưa tin, và vì vui mừng mà bỡ ngỡ, Chúa hỏi: "Ở đây các con có gì ăn không?" 42 Họ dâng cho Người một mẩu cá nướng và một tảng mật ong. 43 Người ăn trước mặt các ông và đưa phần còn lại cho họ. 44 Đoạn Người phán: "Đúng như lời Thầy đã nói với các con, khi Thầy còn ở với các con, là cần phải ứng nghiệm hết mọi lời đã ghi chép về Thầy trong luật Môisen, trong sách tiên tri và thánh vịnh". 45 Rồi Người mở trí cho các ông am hiểu Kinh Thánh. 46 Người lại nói: "Có lời chép rằng: Đấng Kitô sẽ phải chịu thương khó, và ngày thứ ba Người sẽ từ cõi chết sống lại. 47 Rồi phải nhân danh Người rao giảng sự thống hối và sự ăn năn để lãnh ơn tha tội cho muôn dân, bắt đầu từ thành Giêrusalem. 48Còn các con, các con sẽ làm chứng nhân về những điều ấy".
ii)  Giây phút thinh lặng cầu nguyện:

Hãy để cho Lời Chúa vang vọng ở trong lòng chúng ta.

3.  Suy Gẫm

i)  Một vài câu hỏi gợi ý:

a)  Chuyện đã xảy ra trên đường đi, các ông nhận ra Người:  Đã có bao nhiêu cơ hội ân sủng dọc theo con đường đời của chúng ta?  Chúng ta có nhận ra được Người trong lúc Người bẻ bánh với chúng ta vào buổi tối tại quán trọ không?  
b)  Đức Giêsu đang ở giữa các ông.  Hãy xem và chạm vào:  Chính Thầy đây!  Hai tay của chúng ta đã có chạm vào ân sủng của sự tự do trong con người của Chúa Kitô hằng sống chưa? và trong việc đánh vỡ tình yêu của chúng ta chưa?
c)  Các ông giật mình và bối rối vì tưởng mình thấy ma:  Chúng ta bị lôi cuốn theo Thiên Chúa nào?  Có phải là Thiên Chúa vô hình là Đấng luôn luôn vượt ngoài tầm thế giới nhỏ bé của chúng ta không, hay là Thiên Chúa “thần thánh” đầy quyền năng như chúng ta mong muốn?
d)  Các ông vẫn chưa tin, vì vui mừng và bỡ ngỡ:  sự vui mừng có phải là cây gậy đi đường trên cuộc hành trình của chúng ta không?  Cảm giác mong đợi có sống động trong chúng ta không hay là chúng ta di chuyển theo cái bóng cam chịu số phận của chúng ta?
e)  Chúa Giêsu mở trí để cho các ông hiểu được Kinh Thánh:  Hình ảnh người mà chúng ta tìm kiếm đang ở đâu?  Chúng ta đã có sự hoài niệm Kinh Thánh cho Lời Chúa đã bị bỏ rơi như làn gió thoảng của Tình Yêu vĩnh cửu ở giữa các chi tộc loài người đang chịu đau khổ không?

ii)  Chìa khóa dẫn đến bài Tin Mừng:                                                                               

Ý tưởng về một cuộc hành trình trong Tin Mừng Luca, phản ảnh rõ ràng lộ trình thần học cuộc hành trình về sự can thiệp của ơn Chúa trong các sự kiện của loài người.  Gioan Tiền Hô dọn đường cho Chúa đến (Lc 1:76) và hô hào sửa lối cho ngay thẳng (Lc 3:4); Đức Maria vội vã lên đường, đến miền núi (Lc 1:39);  Đức Giêsu, đường của Thiên Chúa (Lc 20:21), đi với loài người và dẫn vào nẻo bước bình an (Lc 1:79) và đường về cõi sống (Cv 2:28), Người đi trước trên đường bằng sự hiện hữu của mình.  Sau khi sống lại, Chúa tiếp tục cuộc hành trình cùng với các môn đệ (Lc 24:32) và vẫn là nhân vật chủ đạo trên cuộc hành trình của Giáo Hội được đồng hóa với cuộc hành trình của Chúa (Cv 18:25).  Tất cả lý do hiện hữu của Giáo Hội nằm trong cuộc hành trình của ơn cứu độ này (Cv 16:17) để dẫn đến Thiên Chúa (Cv 18:2).  Giáo Hội được mời gọi để sống theo đường lối và chỉ ra cho tất cả muôn dân để mọi người có thể từ bỏ đường lối của mình (Cv 14:16) và hướng về Chúa là Đấng cùng đồng hành với những ai thuộc về Người.

Câu 35:   Khi ấy, trên đường trở về từ Emmau, hai môn đệ được giải thích những gì đã xảy ra trên đường đi và cách họ đã nhận ra Chúa khi Người bẻ bánh.  Kinh nghiệm cuộc gặp gỡ với Sự Sống, cho phép người ta trở lại con đường cũ.  Đây không phải là sự trở lại vì hối hận hoặc hối tiếc.  Đó là sự trở về của người đọc lại câu chuyện của mình và biết rằng người ấy sẽ tìm thấy, dọc theo đường đi, nơi ghi dấu của mình.  Chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa trong những sự kiện.  Người là Đấng đến để gặp chúng ta và sánh bước với chúng ta trên con đường thường là khô khan và cằn cỗi với những thứ còn dang dở.  Thiên Chúa tỏ mình qua những cử chỉ quen thuộc của kinh nghiệm đã được ưa chuộng từ lâu.  Đây là những dấu vết đã được hoàn thành để chào đón một ngày mới không bao giờ tàn.  Mọi người được mời gọi để chào đón sự hiện diện của Thiên Chúa trên con đường của mỗi người nơi Thiên Chúa tỏ mình trong những dấu chỉ căn bản của đời sống cộng đoàn Kitô hữu:  Kinh Thánh, đọc trong ánh sáng đạo lý Kitô giáo, và việc bẻ bánh (Lc 24:1-33).   Lịch sử nhân loại, không gian đặc quyền cho hoạt động của Thiên Chúa, là lịch sử cứu độ cố hữu trong mọi tình huống của con người và trải qua hằng thế kỷ trong dạng của cuộc xuất hành lưu niên, đầy đủ tính mới mẻ của việc công bố.    

Câu 36:  Trong lúc hai môn đệ đang nói với các ông điều này, đột nhiên Chúa hiện ra giữa các ông và phán:  “Bình an cho các con!”  Thánh sử Luca đã khôn khéo dệt các sự kiện để cung cấp cho một nền tảng và tính liên tục lịch sử ơn cứu độ.  Hạt giống được công bố sẽ nở hoa và bầu không khí của sự mới mẻ nhẹ nhàng thổi qua các trang của những sự kiện này, tạo thành căn bản cho sự phát triển Ký Ức về Thiên Chúa (Dei Memoria) thỉnh thoảng nảy trồi.  Chúa Giêsu trở lại với những ai thuộc về Người.  Người đứng giữa các ông, hoàn toàn, như trước đây, dù rằng trong một cách khác nhau mà bây giờ là cuối cùng.  Người tỏ mình trong hình thức thân xác vinh quang để chứng minh rằng sự sống lại là một điều đã thực sự xảy ra.  
      
Câu 37:  Các ông bối rối và sợ hãi vì tưởng rằng mình thấy ma.  Phản ứng của các môn đệ không có vẻ phù hợp với câu chuyện đã được kể trước đây bởi vì các ông đã tin vào sự sống lại từ lời của ông Phêrô (câu 34).  Tuy nhiên, sự bối rối của các ông không liên quan đến việc xác tín rằng Chúa Giêsu đã sống lại, mà liên quan đến bản chất cơ thể của Chúa Giêsu Phục Sinh.  Vì vậy, không có sự mâu thuẫn trong câu chuyện.  Thật cần thiết cho các môn đệ trải nghiệm một cách mạnh mẽ cơ thể thực của Chúa Giêsu Phục sinh để cho họ thực hiện đầy đủ sứ vụ tương lai là làm nhân chứng cho tin mừng và làm rõ ý tưởng về Đấng Đã Sống Lại:  các ông đã không nghĩ đó là Chúa Giêsu, nhưng lại cho rằng họ đã trông thấy ma.       

Các câu 38-40:  Nhưng Chúa lại phán với các ông:  “Sao các con bối rối và lòng các con lo nghĩ như vậy?  Hãy xem tay chân Thầy:  chính Thầy đây!  Hãy sờ mà xem:  ma đâu có xương thịt như các con thấy Thầy có đây".  Nói xong, Người đưa tay chân cho họ xem.  Chúa Giêsu trong Tin Mừng Luca gần giống như là một vị anh hùng đối diện với số phận của mình với sự tin chắc, và có một vài bóng tối chỉ làm nổi bật và nhấn mạnh đến sự viên mãn của Người.  Luca đã gợi nhớ lại nguồn gốc và gia phả khiêm tốn, những người khá bình thường và không danh giá, một đám đông những kẻ vô danh mà từ đó hình ảnh Đức Kitô đã xuất hiện.  Trong cuộc khủng hoảng và nghi ngại của các môn đệ sau khi Chúa sống lại, rõ ràng rằng Chúa Giêsu không những là Đấng Cứu Độ vĩ đại, mà còn hơn hết tất cả, cho dù các ông có giật mình và bối rối.  Chúa Giêsu, nhân vật chủ động trong cuộc hành trình của Giáo Hội, đã đi trên con đường hoài nghi của nhân loại để chữa lành cho họ với đức tin, và tiếp tục song hành, cho các tín hữu xem tay và chân của Người bằng xương bằng thịt.   

Các câu 41-43:  Thấy các ông vẫn còn chưa tin, vì họ đầy tràn vui mừng và bỡ ngỡ; Chúa đã hỏi các ông:  “Ở đây các con có gì ăn không?”  Họ dâng cho Người một mẩu cá nướng, Người ăn trước mặt các ông.  Tất cả mọi lời mời ngồi vào bàn ăn, bao gồm cả điều mong muốn được gần gũi; nó vẫn là một sự chia sẻ.  Sự sống lại không cất đi khỏi Chúa Giêsu khả năng cho thấy chính Người là nơi để chia sẻ. Mẩu cá nướng đó, sau nhiều năm ăn chung với các môn đệ của Người, tiếp tục là một phương tiện hiệp thông.  Mẩu cá nướng trong tình yêu thương với nhau; một của ăn đã không ngừng trấn an cơn đói tiềm ẩn của nhân loại, một thức ăn có khả năng bác bỏ ảo ảnh của điều gì đó đem đến kết thúc trong hoang tàn của quá khứ.

Câu 44:  Đoạn Người phán với các ông:  “Đúng như lời Thầy đã nói với các con, khi Thầy còn ở với các con là:  cần phải ứng nghiệm hết mọi lời đã ghi  chép về Thầy trong Luật Môisen, trong sách tiên tri và trong Thánh Vịnh.”  Những khoảnh khắc lo âu, cảm xúc, khóc thương cho dân tộc (Lc 19:41), nỗ lực đi lên Giêrusalem, những cám dỗ, tất cả những điều này đã xác định biên giới muôn đời giữa sự tủi nhục tiềm ẩn và sự vinh quang khẳng định tập trung trong các giai đoạn khác nhau trong đời sống con người của Chúa Giêsu trong ánh sáng của thánh ý Chúa Cha. Sự cay đắng, tối tăm và đau khổ đã nuôi dưỡng trái tim của Đấng Cứu Thế:  “Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất!” (Lc 12:50).  Giờ đây công việc của ân sủng đã thấy rõ ràng bởi vì thông qua hoạt động của Chúa Thánh Thần, ngày tận thế, đã được hoàn thành trong Chúa Kitô và trong những kẻ tin vào Người, tạo ra một bầu không khí chúc tụng, một môi trường vui mừng và bình an sâu xa, điển hình của những điều vừa thực hiện.  Việc tái xuất hiện của Chúa Kitô sẽ đánh dấu sự kết thúc của cuộc hành trình cứu độ, thời của an ủi và phục hồi vạn vật (Cv 3:21).

Câu 45:  Rồi Người mở trí cho các ông am hiểu Kinh Thánh.  Đức tin của các tông đồ vào sự phục sinh là chìa khóa chú giải cho một giải thích của Kinh Thánh và căn bản cho việc rao giảng mầu nhiệm vượt qua.   Kinh Thánh đã được viên mãn trong Đức Kitô, trong Người nó được thống nhất về giá trị tiên tri của Người và trong Người nó có được đầy đủ ý nghĩa.  Loài người không thể tự hiểu được Lời Chúa. Sự hiện diện của Đấng Phục Sinh mở tâm trí đến một sự hiểu biết đầy đủ Mầu Nhiệm tàng ẩn trong những lời thiêng liêng liên quan đến sự tồn tại của loài người.

Câu 46-47:  “Có lời chép rằng:  Đấng Cứu Thế sẽ phải chịu thương khó và ngày thứ ba Người sẽ từ cõi chết sống lại.  Rồi phải nhân danh Người rao giảng sự thống hối và sự ăn năn để lãnh ơn tha tội cho muôn dân, bắt đầu từ thành Giêrusalem.”  Trong Tin Mừng Luca, ơn cứu rỗi liên quan đến tất cả mọi khía cạnh của nhân loại qua việc làm của Đức Kitô, Đấng cứu nhân loại khỏi sự dữ, Đấng giải thoát nhân loại khỏi bóng tối (Cv 26:18) và khỏi tội lỗi (Lc 5:20-26; Cv 2:38), khỏi bệnh tật, khỏi đau khổ, khỏi sự chết, khỏi sự hoài nghi và ngẫu tượng; Đấng thừa nhận cuộc sống loài người trong cộng đoàn Thiên Chúa, hạnh phúc của tình yêu anh chị em; Đấng không để chúng ta mồ côi nhưng luôn luôn hiện diện cùng với Chúa Thánh Thần từ trên trời (Cv 2:2).  Nguồn gốc căn bản việc cứu rỗi nhân loại nằm trong việc giải thoát tâm hồn khỏi chai đá và nhận được trái tim mới, ngụ ý một sự năng động hầu giải thoát khỏi mọi hình thức của chế độ nô lệ (Lc 4:16-22). Thiên Chúa hướng dẫn lịch sử; chính Ngài là Đấng đã phúc âm hóa và hướng dẫn cuộc hành trình của những kẻ thuộc về Ngài.  Người rao giảng Tin Mừng của chân trời rộng mở - từ thời Adong đến Vương quốc Nước Trời, từ Giêrusalem đến tận cùng trái đất – Người cũng là nhà truyền giáo của tất cả các sự kiện hằng ngày. Quá trình lịch-sử-ngày-sau-hết đang xảy ra thông qua lịch sử cụ thể được thực hiện vượt quá lịch sử nhân loại và Chúa Giêsu tiếp tục ban ơn cứu rỗi qua Chúa Thánh Thần là Đấng tạo nên các nhân chứng có khả năng nói tiên tri và truyền bá ơn cứu chuộc cho đến ngày Chúa Kitô trở lại (Lc 21:28) khi mà sự tự do hoàn toàn của nhân loại sẽ được chứng tỏ.  Trong sách Tông Đồ Công Vụ câu 2:37, chúng ta tìm thấy một bản lý lịch của toàn bộ đường đi an toàn được đề nghị ở đây:  đón nhận Lời Chúa, được hoán cải, tín thác, được thanh tẩy và được nhận lãnh sự tha thứ các tội lỗi và ơn Chúa Thánh Thần.  Lời của ơn cứu rỗi, lời của ân sủng, mở ra sức mạnh của nó trong tâm hồn của những kẻ lắng nghe (Lc 8:4-15), và lời khẩn cầu đến Danh Đấng Cứu Độ đóng ấn sự cứu rỗi trong kẻ hoán cải vì đức tin.  Hành động của Chúa Giêsu qua Chúa Thánh Thần, hiện diện qua trung gian của Giáo Hội (Cv 9:3-5), bổ sung cho hoạt động được thực hiện qua Giáo Hội đến những ai mà Người nhắc đến như trong việc gọi ông Phaolô (Cv 9:6-18).

Câu 48:  Còn các con, các con sẽ làm chứng nhân về các điều ấy.  Cộng đồng Kitô hữu, được kêu gọi để vạch ra hành trình cho nhân chứng trong lịch sử nhân loại; công bố bằng lời nói và việc làm sự ứng nghiệm của Nước Thiên Chúa ở giữa nhân loại; và sự hiện diện của Chúa Giêsu vẫn tiếp tục công việc của Đấng Cứu Thế, Chúa và ngôn sứ trong Giáo Hội của Người.  Giáo Hội sẽ tăng triển và bước đi trong niềm kính sợ Chúa, đầy dẫy sự nâng đỡ của Chúa Thánh Thần (Cv 9:31). Đây là cuộc hành trình của phục vụ, có nghĩa là để vang vọng Lời Cứu Độ đến tận cùng trái đất (Cv 1:1-11).  Dần dần cuộc hành trình tiến xa hơn từ Giêrusalem và đi đến trung tâm của thế giới dân ngoại.  Khi nó đi đến Rôma, thủ đô của đế chế, Luca sẽ đặt ký hiệu của ông trên những bước đi rao giảng Tin Mừng của mình.  Không một ai sẽ bị loại trừ trong quá trình này.  Tất cả mọi người đều đáng được nhận ơn cứu rỗi, đặc biệt là những người tội lỗi bởi vì việc ăn năn của họ tạo niềm vui khôn xiết trên trời (Lc 15:7-10).  Giống như Đức Maria, người mà đối với Luca là tấm gương cho người môn đệ bước đi trong Chúa, các tín hữu được kêu gọi hoán cải hoàn toàn để sống tình mẫu tử của Đấng Thiên Sai, bất luận tình trạng “đồng trinh” của một người, đó là câu nói về sự bần hàn của loài thụ tạo (Lc 1:30-35).  Lời xin vâng của kinh Ngợi Khen là con đường để đi.  Chúng ta đi mang theo bên trong mình lời của ơn cứu rỗi; chúng ta bước đi trong đức tin, tín thác vào Thiên Chúa là Đấng trung tín; chúng ta bước đi trong sự vui mừng của Đấng đã làm cho chúng ta được ơn phúc, không phải vì bất kỳ một công trạng nào mà là trong sự khiêm tốn của cuộc sống.  Nguyện xin hành trình của Đức Maria cũng là hành trình của chúng ta: ra đi, được dìu đắt bởi Chúa Thánh Thần, hướng về anh chị em chúng ta, hành lý duy nhất là Lời Cứu Rỗi: Chúa Kitô (Cv 3:6).   
   

iii)  Suy niệm:

Trong buổi gặp gỡ với mọi người, Chúa Giêsu ban phát sự hiện diện nhân từ của Người và chờ đợi cho hạt giống Lời Chúa và đức tin được nảy mầm.  Khi các tông đồ bỏ rơi Người, khi Phêrô chối Chúa, khi người đàn bà tội lỗi yêu Người, khi các người Biệt Phái gần gũi Người, Chúa đã không bị tai tiếng hoặc bị giao động.  Chúa biết Người đã nói những gì và đề nghị để họ không bị hư mất… và, thật vậy sau ngày lễ Ngũ Tuần, chính những người này đã không hề nao núng ra trước Thượng Hội Đồng để nói rằng người ta cần phải vâng phục Thiên Chúa hơn là vâng phục loài người, Phêrô đã rao giảng công khai đến nỗi đã chết trên thập giá như Chúa của mình, những người phụ nữ đã được sai như là nhân chứng của sự sống lại đi đến các tông đồ và người thanh niên con của người Biệt Phái, Phaolô quê ở Tácxô, trở thành vị tông đồ của dân ngoại.
Nếu bạn, bất luận là nam hay nữ, không thể tránh được cái chết của mình trong cuộc sống hằng ngày, tuy nhiên, thì bạn không nên quên rằng sự sống lại được ẩn dấu trong những vết thương của mình để làm cho bạn sống trong Người, ngay cả lúc này.  Trong số những người chung quanh bạn, họ có thể là ngôi mộ của cái chết và bùn đất cho bạn, một cây thập giá oan khiên, bạn sẽ tìm thấy cuộc sống mới. Vâng, bởi vì Đức Kitô Phục Sinh sẽ đảm nhiệm vẻ bề ngoài của những người chung quanh bạn:  người làm vườn, kẻ lữ thứ, bóng ma, người bên bờ hồ…  Khi bạn có thể chấp nhận sự thử thách của Philatô lặp lại qua nhiều thế kỷ và không chấp nhận lời đề nghị đổi chác (Ga 18:39-40) bởi vì bạn sẽ có kinh nghiệm trong đêm của sự từ bỏ rằng bạn không thể đánh đổi mạng sống của kẻ trộm cướp với mạng sống của Đức Giêsu, Con Một của Thiên Chúa hằng sống, Chúa của sự sống và cái chết, bạn là kẻ bất xứng với danh xưng của Người:  Bar-Abba, Con của Chúa Cha… thì khi ấy bạn cũng sẽ kêu lên như ông Tôma, tông đồ, trong mầu nhiệm của đức tin:  Lạy Chúa con và lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20:28), Thiên Chúa của con và Đấng trên hết của con, và vẻ đẹp sự vui mừng của bạn sẽ không bao giờ phai nhạt.            

4.  Cầu Nguyện

Lạy Chúa, chúng con tìm kiếm Chúa và muốn thấy dung nhan Ngài:
Một ngày khi tấm màn che sẽ được gỡ bỏ,
Chúng con sẽ có thể chiêm ngưỡng Ngài.

Chúng con tìm kiếm Chúa trong Kinh Thánh nói về Ngài:
Dưới bức màn của sự khôn ngoan chúng con chào đón cây thập giá, ân sủng của Chúa cho tất cả mọi người.

Chúng con tìm kiếm Ngài trong những khuôn mặt rạng rỡ của anh chị em chúng con:
Chúng con thấy Chúa trong các dấu tích của sự thương khó của Ngài trên cơ thể đau khổ của họ.

Không phải mắt của chúng con, mà là tâm hồn của chúng con nhìn thấy Chúa:
Trong ánh sáng của niềm hy vọng, chúng con mong sẽ được gặp Chúa và trò chuyện cùng Ngài.

5. Chiêm Niệm

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con sự kiên trì để tiến bước về thượng trí, trong ánh sáng của Lời Chúa, Lời duy nhất đem đến ơn cứu rỗi.  Như anh chị em ruột thịt, Bửu Huyết Chúa khiến tất cả chúng con là anh chị em một nhà, con vẫn đứng đây, gần ngôi mộ của cái chết nội tâm để sửa soạn ra đi như một lữ khách trên lối đi vô cảm và đi đến con đường của tình bằng hữu và tập hợp.  Hôm nay, con muốn chia sẻ điều diệu kỳ của tình yêu nhân loại, niềm vui của những người tuyệt vời sống gần con, không phải bên lề của sự hiện hữu của họ mà là trong những bí mật rộng mở của họ, nơi tâm hồn họ đón nhận Thiên Chúa Chí Thánh.  Xin cảm tạ Chúa đã ban cho con khuôn mặt phục sinh của Ngài và trái tim say mến của Sự Sống và được hôn bởi Đấng Đời Đời.  Xin cảm tạ Chúa về sự tự do đi tìm kiếm nhận chìm trong chiều sâu của Đấng Cần Thiết.  Thiên Chúa của hoang địa đã trở nên vườn cây, xin cho con luôn là một ánh lửa nhỏ thắp sáng trong bóng đêm của sự nỗ lực loài người, sự ấm cúng lan truyền đến những nơi cơn gió lạnh của sự dữ đã tiêu diệt và làm mất đi những chân trời của Sự Thật và Toàn Mỹ, điều đó nói với thế giới về cuộc phiêu lưu tuyệt vời của tình yêu con người sống lại, tình yêu biết làm thế nào chết đi để được nhập thể với nụ cười của Thiên Chúa.  Amen.    


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét