Trang

Thứ Hai, 27 tháng 6, 2016

28-06-2016 : THỨ BA - TUẦN XIII THƯỜNG NIÊN - THÁNH I-RE-NÊ, GIÁM MỤC. TỬ ĐẠO - lễ Nhớ

28/06/2016
Thứ ba tuần 13 thường niên
Thánh Irênê, giám mục, tử đạo.
Lễ nhớ

* Chào đi khong năm 130, ln lên hc Miếc-na, Irênê tr thành môn đ ca thánh Pô-ly-cáp, giám mc thành này. Năm 177, người chu chc linh mc ti Ly-ông (Pháp). Sau đó mt thi gian ngn, người làm giám mc giáo phn này. Trong nhim v mc t, người lo loan báo Tin Mng cho các dân x Gô-lơ, nhưng người cũng lo bo v đc tin tinh tuyn, chng li nhng sai lm ca phái ng đo. Các tác phm ca người cho ta có được cái nhìn sâu sc v kế hoch ca Thiên Chúa, v ơn gi ca con người và mu nhim Hi Thánh. Người lãnh nhn triu thiên t đo khong năm 200.

Bài Ðọc I: (Năm II) Am 3, 1-8; 4, 11-12
"Chúa phán: Ai lại chẳng nói tiên tri".
Trích sách Tiên tri Amos.
Hỡi con cái Israel, hãy nghe lời Chúa phán về các ngươi, và cả dòng giống mà Ta đã đem ra khỏi đất Ai-cập: "Trong muôn dân trên mặt đất, Ta chỉ nhận biết một mình các ngươi. Vì thế, Ta sẽ đến sát hạch các ngươi về mọi gian ác của các ngươi. Hai người, nếu không đồng ý với nhau, có bao giờ lại đi chung với nhau không? Khi chưa bắt được mồi, có bao giờ sư tử gầm lên giữa rừng không? Khi sư tử con chưa bắt được gì, có bao giờ người ta nghe thấy tiếng nó không? Nếu không có gì cạm bẫy, chim có bao giờ sa lưới không? Nghe tiếng kèn thổi trong thành, có bao giờ người dân không lo sợ không? Có tai hoạ nào trong thành mà không do Chúa điều khiển không? Thực ra, Chúa là Thiên Chúa không làm điều gì mà lại không mạc khải ý định của Người cho các tiên tri tôi tớ của Người. Sư tử gầm thét, ai lại không run sợ? Chúa là Thiên Chúa phán, ai lại chẳng nói tiên tri?
"Ta đã triệt hạ các ngươi như Thiên Chúa đã triệt hạ Sôđôma và Gômôra, các ngươi đã trở thành như thanh củi cháy dở rút khỏi đống lửa, thế mà các ngươi không trở lại với Ta! - Chúa đã phán như thế. Vì vậy, hỡi Israel, Ta sẽ làm cho ngươi những điều này: nhưng sau khi Ta đã làm cho ngươi như vậy, hỡi Israel, ngươi hãy sửa soạn đón rước Thiên Chúa của ngươi".
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 5, 5-6. 7. 8
Ðáp: Lạy Chúa, xin dẫn con trong đức công minh (c. 9a).
Xướng: 1) Chúa không phải là Chúa tể ưa điều gian ác; kẻ độc dữ không được cư trú nhà Ngài; đứa bất nhân không thể đứng trước thiên nhan; Chúa ghét những kẻ làm điều gian ác. - Ðáp.
2) Ngài tiêu diệt những đứa nói man; người độc ác và gian giảo thì Chúa ghê tởm không nhìn. - Ðáp.
3) Phần con, bởi gội nhuần sủng ái, con sẽ vào tới hoàng đài của Chúa; con sấp mình gần bên thánh điện với lòng tôn sợ Ngài, thân lạy Chúa. - Ðáp.

Alleluia: 1 Sm 3, 9
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.

Phúc Âm: Mt 8, 23-27
"Người chỗi dậy, truyền lệnh cho gió và biển, và biển yên lặng như tờ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu xuống thuyền, có các môn đệ theo Người. Và đây biển động dữ dội, đến nỗi sóng phủ lên thuyền, thế mà Người vẫn ngủ. Các môn đệ lại gần đánh thức Người dậy mà rằng: "Lạy Thầy, xin cứu lấy chúng con kẻo chết mất!" Chúa phán: "Hỡi những kẻ yếu lòng tin! Sao các con nhát sợ?" Bấy giờ Người chỗi dậy, truyền lệnh cho gió và biển. Và biển yên lặng như tờ! Cho nên những người ấy kinh ngạc mà rằng: "Ông này là ai mà gió và biển đều vâng phục?"
Ðó là lời Chúa.


Suy Niệm: Xin cứu chúng con
Ông John Newton sống nghề buôn bán các nô lệ. Trong lần vượt đại dương, thuyền của ông gặp bão lớn gần chìm; lúc đó, vì quá lo sợ, ông đã thốt lên: "Lạy Chúa, xin cứu con; qua được cơn nguy hiểm này, con sẽ từ bỏ nghề buôn bán vô nhân đạo này và sẽ làm nô lệ Chúa". Và rồi, khi thuyền ông cập bến Mỹ Châu sau đó, ông đã từ bỏ mọi sự, trở thành nhà rao giảng Tin Mừng nổi tiếng.
Sự quan phòng của Thiên Chúa đã cho phép cơn bão tố xảy ra trong cuộc sống con người để thức tỉnh con người trở về với Ngài. Ðiều quan trọng không phải là không có bão tố hoặc khó khăn thử thách, nhưng là có Chúa hiện diện dù lúc đó xem ra Ngài ngủ, không màng chi đến nguy hiểm đang xảy ra. Thật thế, gian nan thử thách Thiên Chúa cho xẩy đến là để con người ý thức về sự yếu đuối, mỏng dòn của mình, đồng thời đặt niềm trông cậy vào Chúa. Cơn bão xẩy ra đã làm cho các Tông Ðồ không còn dựa vào phương tiện vật chất là chiếc thuyền đang nâng đỡ chở che các ông, cũng như không còn tự phụ vào tài năng vượt biển của mình; trái lại, các ông ý thức mình cần đến Chúa. "Lạy Thầy, xin cứu chúng con, chúng con chết mất". Chính nhờ lời cầu nguyện trong lúc gian nan nguy hiểm, các Tông Ðồ được chứng kiến phép lạ và quyền năng của Chúa.
Tôi đã có thái độ nào khi gặp những cơn bão tố trong cuộc đời? Những cơn bão tố đó làm cho tôi gặp Chúa hay xa rời Ngài?
Ước gì chúng ta cũng có thái độ như các Tông Ðồ xưa: "Lạy Thầy, xin cứu chúng con". Xin Chúa mở mắt cho chúng ta nhìn thấy sự hiện diện của Chúa trong đời sống chúng ta. Xin cho chúng ta ý thức rằng chúng ta cần đến Chúa hơn cơm bánh hằng ngày, hơn không khí để thở. Chúa là sức mạnh, là khiên thuẫn chở che, xin Ngài gìn giữ chúng ta luôn vững mạnh trong đức tin giữa những cơn thử thách.
Veritas Asia


Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Ba Tuần 13 TN2
Bài đọc: Amo 3:1-8, 4:11-12; Mt 8:23-27.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sợ hãi và bình an
Có lửa phải có khói, có quả phải có cây, có tội sớm muộn gì cũng phải đền tội. Người có tội lúc nào cũng phải thấp thỏm sợ hãi: sợ người khác phanh phui tội của mình và sợ những hậu quả xảy ra do tội gây nên. Họ không bao giờ tìm được sự bình an như khi chưa phạm tội.
Các bài đọc hôm nay muốn nêu bật sự sợ hãi do tội lỗi đem lại, và sự bình an khi con người sạch tội và đặt trọn vẹn niềm tin nơi Thiên Chúa. Trong bài đọc I, ngôn sứ Amos được Thiên Chúa gởi tới để phanh phui tất cả tội lỗi của con cái Israel và đe dọa: họ sẽ phải đi gặp Thiên Chúa và lãnh nhận những hình phạt mà Ngài đã sắp sẵn cho họ. Trong Phúc Âm, các môn đệ kinh ngạc khi thấy Chúa Giêsu vẫn ngủ an bình khi biển gầm thét và thuyền chòng chành sắp chìm. Họ còn sợ hãi hơn khi họ đánh thức Ngài dạy vì Ngài ra lệnh cho sóng biển phải im lặng và sóng biển phải tuân theo.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Đức Chúa không làm điều gì mà không bày tỏ kế hoạch của Người cho các ngôn sứ.
1.1/ Đức Chúa nói với dân qua các ngôn sứ của Đức Chúa.
(1) Ngôn sứ xuất hiện là cho một lý do: Từ câu 3-6 là một loạt những câu hỏi hùng biện và thách thức, tác giả có ý muốn nói Thiên Chúa có lý do để can thiệp vào nội bộ Israel. Đây là những hình ảnh quen thuộc mỗi ngày và chúng ám chỉ một sự liên hệ giữa nguyên nhân và hậu quả. Khán giả của Amos phải trả lời “không” cho tất cả những câu hỏi này. Mọi sự xảy ra trên đời đều có lý do của nó: Trước khi đồng hành phải có sự thỏa thuận. Sư tử chỉ gầm vang khi thấy hay bắt được mồi. Chim sẻ chỉ rơi vào bẫy khi có mồi nhử. Bẫy chỉ bật lên khi con mồi sa bẫy. Người ta chỉ rúc tù và trong thành khi có chuyện nguy hiểm xảy ra. Quan trọng hơn hết là tai họa xảy ra trong thành là chắc chắn do bàn tay của Đức Chúa.
(2) Ngôn sứ phải tuân hành để truyền đạt sứ điệp của Thiên Chúa: Amos muốn chứng tỏ cho dân thấy, sự can thiệp của ông là cũng có một lý do. Đức Chúa sai ông tới để nói tiên tri cho dân chúng biết về những chuyện sắp xảy ra. Người ngôn sứ phải nói những lời Đức Chúa truyền, ông không còn cách nào khác là phải làm theo ý Đức Chúa nếu không muốn cơn giận của Ngài đổ trên ông.
1.2/ Hình phạt mà Israel phải lãnh nhận:
Sodom và Gomorrha là hai thành bị tiêu diện bởi lửa diêm sinh từ trời vì các tội lỗi của họ đã xúc phạm đến Đức Chúa, được tường thuật trong Sách Khởi Nguyên (Gen 19). Tội của họ có nhiều, nhưng tội gớm ghê nhất là tội đồng tính luyến ái, đến độ muốn có liên hệ tình dục với cả thiên sứ của Đức Chúa gởi tới. “Thanh củi được rút khỏi đống lửa cháy” có lẽ ám chỉ tai họa xảy ra mà Đức Chúa cứu họ trong giờ phút cuối, thế mà họ vẫn không nhận ra tội lỗi của họ và trở về bới Thiên Chúa.
Những lời dạy của Amos là những lời cảnh cáo của Đức Chúa cho con cái Israel. Họ sẽ phải đối diện với cơn thịnh nộ của Đức Chúa nếu họ không ăn năn sám hối: “Vậy, hỡi Israel, Ta sẽ xử với ngươi như thế này, và bởi vì Ta sẽ xử với ngươi như vậy nên, hỡi Israel, ngươi hãy chuẩn bị đi gặp Thiên Chúa của ngươi.
2/ Phúc Âm: "Sao nhát thế, hỡi những người kém lòng tin!"
2.1/ Hai phản ứng khi phải đương đầu với sóng gió:
(1) Phản ứng của Chúa Giêsu: Tin Mừng tường thuật: "Biển động mạnh đến độ sóng nước ập vào thuyền, nhưng Người vẫn ngủ!" Tại sao Chúa Giêsu có thể ngủ được khi sóng biển động mạnh như thế? Thưa có hai lý do: Thứ nhất, Ngài không sợ hãi chi cả. Chỉ một người không biết sợ là gì mới có tâm hồn bình an như vậy; như chúng ta thường khôi hài chọc nhau: "Điếc không sợ súng!" Nếu một người không nghe thấy tiếng súng, người ấy sẽ không sợ súng đạn. Thứ hai, mọi quyền lực thế gian phải sợ Ngài. Khi các môn đệ hoảng hốt đánh thức Chúa dậy, "Người chỗi dậy, ngăm đe gió và biển: biển liền lặng như tờ."
(2) Phản ứng của các môn đệ: Có ngư phủ nào mà không sợ sóng gió, vì họ biết sóng gió chẳng những đe dọa, mà có thể lấy đi mạng sống của họ bất cứ lúc nào. Truyền thống ngư phủ có thói quen cầu trời khấn Phật bắt đầu mùa tôm cá và trước khi ra khơi, để xin Trời Phật phù hộ cho qua khỏi những cơn sóng gió lúc nào cũng đe dọa. Nếu đã cầu xin, họ phải tin tưởng sự phù hộ của Trời Phật; nhưng phản ứng sợ hãi khi sóng gió xảy đến chứng tỏ họ không tin, hay đức tin của họ còn yếu kém như Chúa mắng các môn đệ hôm nay. Các môn đệ đã từng nhìn thấy Chúa Giêsu làm các phép lạ mà sức con người không thể làm nổi; vả lại, các ông đang có Chúa Giêsu quyền năng trong thuyền, thế mà các ông vẫn lo sợ sóng gió!
2.2/ Niềm tin cần thiết để con người chống chọi với sóng gió của cuộc đời: Đức Giêsu nói với các môn đệ: "Sao nhát thế, hỡi những người kém lòng tin!" Đức tin có thể ví như kinh nghiệm mà một người sở hữu trong đời. Người đã có kinh nghiệm hay từng trải không dễ sợ hãi như người mới ra trường, chưa có kinh nghiệm. Cũng vậy, người đã có đức tin vững mạnh, sẽ không sợ hãi trước những đe dọa và bắt bớ của các quyền lực thế gian, ngay cả việc chấp nhận cái chết để làm chứng cho Đức Kitô.
Khi con người không sợ hãi ngay cả cái chết, họ bắt đầu sống và sống tròn đầy. Khi con người không sợ hãi các quyền lực thế gian, thế gian phải sợ hãi họ. Chúng ta có thể thấy điều này nơi các môn đệ của Đức Kitô: Trước khi Ngài về trời, các môn đệ là những người nhát sợ khi phải đương đầu với quyền lực thế gian, nên các ông chạy trốn Chúa và Phêrô đã chối Ngài 3 lần; nhưng khi đã thấy Chúa sống lại từ cõi chết, các ông không còn sợ hãi chi cả. Tại sao vậy? Vì các ông biết rằng quyền lực thế gian có thể lấy đi sự sống thể lý, nhưng Đức Kitô sẽ cho các ông sống lại; và không một quyền lực thế gian nào có thể động tới linh hồn của các ông. Vì thế, sau khi được Thánh Thần tác động, các ông mở tung cửa để vào đời làm chứng cho Đức Kitô. Những người trong Thượng Hội Đồng phải ngạc nhiên, vì thấy các ông không còn sợ hãi họ nữa. Các ông tranh luận với họ cách công khai và họ không thể đối đầu với các ông. Thay vì thẳng tay đàn áp như trước, giờ đây họ sợ phải đàn áp các ông. Lý do không phải họ không còn quyền, nhưng vì họ sợ dân chúng ném đá họ khi dân chúng đã nhận ra sự giả hình của họ.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải cố gắng hết sức để tránh tội vì sớm muộn gì chúng ta cũng phải đối diện và lãnh án công thẳng của pháp luật và của Thiên Chúa.
- Tội làm cho chúng ta luôn sợ hãi và lấy đi sự bình an của tâm hồn. Khi phạm tội, chúng ta hãy đến ngay với tòa cáo giải để xưng thú tội lỗi hầu có thể tìm lại được sự bình an cho tâm hồn.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

28/06/16 TH BA TUN 13 TN – C 
Th. I-rê-nê, giám mục, tử đạo
Mt 8,23-27

Suy nim: Người ta thường ví cuc đi con người, t khi sinh cho đến lúc chết, ta như mt cuc vượt bin, đi t bến b này sang bến b bên kia. Thế nhưng, bin cuc đi chng my khi phng lng. Không sóng gió, đá ngm, băng sơn thì cũng bão ni giông gào. Nhng lúc y, ai s chia s, nâng đ ta, nếu không phi là chính Chúa? Tin là hoàn toàn tín thác cuc đi cho s quan phòng yêu thương ca Thiên Chúa, đ lúc an vui hnh phúc, ta biết dâng li t ơn; khi gp đau thương th thách, ta xin Chúa i an nâng đ. Trên chuyến đò cuc đi, Chúa là bn đng hành đưa ta cp bến đến b an toàn. Có Ngài hin din h phù, chúng ta được vui sng bình an.
Mi Bn: Nh li, chính nhng lúc mi phương thế nhân loi đã phi bó tay, bn mi thy rõ bàn tay ca Thiên Chúa vn che ch bn. Nhìn li đi sng đc tin ca mình, bn có thy Chúa thc s là đim ta vng vàng, giúp bn bình an vui sng không? Khi bình an, bn có nh đến Chúa, hay ch khi gp th thách đau kh, bn mi chy đến vi Ngài?
Chia s: Bn hiu thế nào là Thiên Chúa quan phòng? Hãy chia s mt ln nào đó trong đi, bn cm nhn được s quan phòng ca Chúa đi vi bn.
Sng Li Chúa: Tôi dâng lên Chúa nhng d đnh, kế honh, vì tin Chúa có đ quyn năng đ giúp đ mình.
Cu nguyn: Ly Chúa, con tin cy vào Chúa, nhưng xin thương lòng tin còn quá yếu kém ca con. Xin ban cho con nim trông cy vng vàng, đ con dám trao c vn mng đi mình vào bàn tay quan phòng ca Chúa. Vì có Ngài bên, lòng con chng nao núng bao gi. Amen.

Người vn ng
“Thiên Chúa ng” mãi mãi là điu khó hiu và khó chu. Đng ngi đánh thc Ngài và kêu cu... Nhưng cũng nên nhìn Ngài ng bình an, đ khi b ht hong. 


Suy nim:
Nếu mức nước biển dâng lên thêm một mét do nạn toàn cầu ấm lên,
nhiều vùng đất của nước Việt Nam sẽ bị chìm dưới mặt nước.       
Bão lụt, hạn hán, động đất, núi lửa, vẫn là những thảm họa cho con người.
Ngày nay người ta biết rằng phần lớn thiên tai không do Trời,
nhưng do con người phá hoại trái đất là công trình tốt đẹp của Trời cao.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy uy quyền của Đức Giêsu,
không phải trên ma quỷ hay bệnh tật, nhưng trên thiên nhiên.
Ngài đã dùng quyền đó để bảo vệ các môn đệ khỏi bị dập vùi bởi sóng gió.
Thầy Giêsu đã ra lệnh cho họ qua bên kia hồ (Mt 8, 18).
Ngài xuống thuyền trước, các môn đệ theo sau (c. 23).
Đi theo Thầy Giêsu, trên cùng một con thuyền, đâu hẳn được bình an.
Cơn bão lớn ngoài biển đến thật bất ngờ,
khiến con thuyền của Thầy trò chao đảo vì sóng gió.
Giữa cơn cuồng nộ của biển cả, giữa sự kinh hoàng nhốn nháo của các môn đệ,
Thầy Giêsu vẫn ngủ yên.
Dường như chẳng có gì khuấy động được giấc ngủ bình an của Thầy.
“Thưa Ngài, xin cứu, chúng con chết mất” (c. 25).
Lời đánh thức vội vã, hối thúc, khi cái chết đã gần kề.
Nhưng Thầy Giêsu lại chẳng có vẻ gì vội vã.
Giữa tiếng thét gào của sóng gió và sự chòng chành của con thuyền,
Thầy Giêsu đã quở trách các môn đệ vì sự cuống cuồng sợ hãi của họ,
hậu quả của việc thiếu lòng tin (c. 26).
Thầy đã không làm cho biển lặng sóng yên ngay lập tức,
vì tập bình an giữa sóng gió là điều khó và cần hơn nhiều.
Lắm khi chúng ta không hiểu tại sao thuyền đời chúng ta gặp bão,
dù có Thầy trong thuyền, dù chúng ta đã theo Thầy nghiêm túc.
Chúng ta lại càng không hiểu tại sao Thầy có thể ngủ được bình an,
khi chúng ta gặp muôn vàn thử thách và rơi vào tuyệt vọng.
Nhưng Thầy Giêsu cũng không hiểu tại sao chúng ta lại sợ đến thế (c. 26).
Tại sao chúng ta lại sợ thuyền chìm hay sợ chết ?
Nếu có đức tin vào Thầy thì sóng gió đâu nhận chìm được chúng ta.
“Thiên Chúa ngủ” mãi mãi là điều khó hiểu và khó chịu.
Đừng ngại đánh thức Ngài và kêu cứu.
Đừng ngại la to át tiếng sóng, để làm cho Ngài nghe được.
Nhưng cũng nên nhìn Ngài ngủ bình an, để khỏi bị hốt hoảng.
Không hẳn là Ngài sẽ trỗi dậy ngay và dẹp tan bão tố.
Không hẳn là chúng ta sẽ được giải thoát ngay khỏi mọi nỗi hiểm nghèo.
Điều quan trọng là lòng ta được bình an,
vì biết Ngài vẫn bình an ở lại trong con thuyền đời ta.
Cầu nguyn:
Lạy Chúa Giêsu,
con chẳng dám xin đi trên mặt nước như Phêrô,
nhưng nhiều khi con cảm thấy
sống đức tin giữa lòng cuộc đời
chẳng khác nào đi trên mặt nước.

Có bao thứ sóng gió đẩy đưa và lôi cuốn.
Có bao cám dỗ muốn hút con vô vực sâu.
Cả sự nặng nề của thân xác con
cũng kéo ghì con xuống.
Đi trên mặt nước cuộc đời chẳng mấy dễ dàng.
Nhiều khi con thấy mình bàng hoàng sợ hãi.

Xin cứu con khi con hầu chìm.
Xin nắm lấy tay con khi con quỵ ngã.
Xin nâng đỡ niềm tin yếu ớt của con,
để con trở nên nhẹ tênh
mà bước những bước dài hướng về Chúa. Amen.

Lm Antôn Nguyn Cao Siêu, SJ

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
28 THÁNG SÁU
Sự Quan Phòng Của Thiên Chúa: Một Xác Nhận Nền Tảng
Việc tách biệt công cuộc sáng tạo khỏi sự quan phòng thần linh (thuyết tự nhiên thần giáo) và việc phủ nhận hoàn toàn sự hiện hữu của Thiên Chúa (thuyết duy vật) mở ngõ cho sự sai lầm của thuyết tất định duy vật (materialistic determinism). Ở đây con người và đời sống của con người trở thành hoàn toàn phụ thuộc vào một tiến trình phi ngã. Đối đầu với những tấn công này, chân lý về sự hiện hữu của Thiên Chúa và về sự quan phòng thần linh của Ngài giúp bảo đảm cho con người sự tự do và chỗ đứng của mình trong vũ trụ.
Chúng ta nhận thấy sự thật này được khẳng định trong Cựu Ước. Chẳng hạn, Thiên Chúa được xem như một sự đỡ nâng mạnh mẽ và không gì có thể tiêu diệt được: “Con yêu mến Ngài, lạy Chúa là sức mạnh của con; lạy Chúa là núi đá, là thành lũy, là Đấng giải thoát con; lạy Thiên Chúa con thờ, là núi đá cho con trú ẩn, là khiên mộc, là Đấng cứu độ quyền năng, là thành trì bảo vệ!” (Tv 18, 2-3). Thiên Chúa là nền tảng vững chắc để con người có thể tựa vào, như lời tác giả thánh vịnh thốt lên đầy xác tín: “Lạy Chúa, số mạng con, chính Ngài nắm giữ” (Tv 16, 5).
Sự quan phòng của Thiên Chúa là lời xác nhận hùng hồn của Ngài đối với tạo vật, nhất là đối với con người – triều thiên của mọi tạo vật. Sự quan phòng ấy đảm bảo quyền cai quản tối cao của con người trong thế giới này. Điều này không có nghĩa rằng các qui luật tự nhiên bị quyền cai quản tối cao của con người xóa bỏ. Trái lại, nó có nghĩa rằng chúng ta phải loại trừ thuyết tất định duy vật kia – một chủ thuyết giảm trừ toàn bộ sự hiện hữu của con người đến chỉ còn như một cái gì hoàn toàn tất định. Trong thực tế, một cái nhìn như vậy sẽ hủy diệt sự tự do chọn lựa của con người.
Thiên Chúa – trong sự quan phòng của Ngài – chính là sự đỡ nâng tối thượng cho sự tự do của chúng ta. Đó là điều tốt lành và quí hóa biết bao!
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 28 – 6
Thánh Irênê, giám mục, tử đạo
Am 3,1-8.11-22; Mt 8,23-27.

Lời suy niệm: “Đức Giêsu xuống thuyền, các môn đệ đi theo Người. Bổng nhiên, biển động mạnh, khiến sóng ập vào thuyền, nhưng Người vẫn ngủ.”
Trong cuộc sống của người Kitô hữu, luôn tin: có sự hiện diện với ơn ban của Chúa; tin Chúa luôn là Đấng cầu bàu cùng Chúa Cha cho chúng ta trong mọi hoàn cảnh, với tất cả niềm hy vọng, ngày sau được Chúa đón nhận trong Nước Trời. Nhưng rồi trong cuộc sống của mỗi người vẫn vấp phải bồn chồn lo sợ như các Tông Đồ khi bị sóng biển ập vào thuyền.
Lạy Chúa Giêsu. Xin ban thêm ơn sức mạnh đức tin, để chúng con không phải bị Chúa kiển trách: “sao nhát thế, hỡi những kẻ kém lòng tin” nhưng vững tin vào quyền năng yêu thương của Chúa mà phó thác đời mình trong tay Chúa.
Mạnh Phương


Gương Thánh Nhân
Ngày 28-06: Thánh IRENÊ
Giám mục, Tử Đạo (Thế kỷ II)

Thánh Irenê sinh tại Tiểu Á và giữa thế kỷ II. Chúng ta biết được phần nào ngày sinh của Ngài, dựa vào bản tường thuật Ngài viết về thánh Policarpô. Ngài viết cho Flôrinô:
- "Tôi có thể nói với ông nơi thánh Pôlicarpô ngồi khi Ngài rao giảng lời Chúa, tôi được thấy Người ra vào. Bước chân, phong thái, cách sống và lời Ngài nói in sâu vào lòng tôi. Tôi như còn nghe thấy Người kể lại cách người đàm luận với thánh Gioan và các tông đồ khác đã thấy mặt Chúa. Người nói lại cho chúng tôi những lời nói và những điều các Ngài đã học được liên quan đến Chúa Giêsu. Các phép lạ và giáo thuyết của Chúa.
Thánh Irenê còn phấn khởi ghi thêm: - "Tôi ghi nhận các hành vi và lời nói ấy không phải trên bảng viết mà là trong sâu thẳm tâm hồn. Thiên Chúa cho tôi được ơn không ngừng nhớ lại những kỷ niệm ấy trong lòng".
Như vậy, thánh Irenê luôn nhớ mãi hình ảnh sống động của thánh Policarpô qua đời năm 155. Vậy có thể là thánh Irenê ra đời khoảng từ năm 130 đến 135, và Ngài được giáo dục tại Smyrna, làm môn đồ của thánh Pôlicarpô. Hấp thụ nền giáo dục gần với các tông đồ. Nhất là với thánh Gioan, thánh Irenê còn ở trong vòng ánh sáng mà tâm điểm là tình yêu đằm thắm giữa thánh Gioan với Chúa Kitô. Trong tác phẩm dài "Adversus Haereses" của Ngài. Chúng ta cảm thấy Ngài là người được thấm nhiễm một trực giác hiếm có.
Thánh Pôlicarpô gọi Irênê sang Gaule. Tại đây thánh Pôthinô, giám mục Lyon phong chức linh mục cho Ngài. Phần đóng góp của thánh Irenê cho Giáo hội thật lớn. Ngài chú tâm tới mọi khoa học, chuyên cần suy gẫm thánh kinh. Khi nghiên cứu huyền thoại và các hệ thống triết học ngại giáo, Ngài biết tìm ra nguồn gốc các sai lầm và bác bỏ các lạc thuyết pha trộn huyền thoại vào Kitô giáo. Tertulianô đã tuyên nhận rằng không có ai nỗ lực tìm tòi hơn là thánh Irênê. Thánh Hiêrônimô, nại đến thánh nhân để củng xố uy tín của mình. Ngài được coi như là ánh sáng các vùng Gaules ở Phương Tây.
Năm 177, thánh Irenê được cử làm đại diện về Rôma, bên cạnh Đức giáo hoàng để thực hiện một sứ mệnh tế nhị là dàn xếp ngày mừng lễ phục sinh
Trở lại Lyon, thánh Irênê gặp lại một giáo đoàn côi cút. Marcô Aureliô vừa mới giết hại các Kitô hữu. Đức cha Pothinô đã bị sát hại. Thánh Irenê được bầu lên kế vị. Ngài trở thành thủ lãnh Giáo hội tại xứ Gaule, bận rộn với công việc rao giảng, thánh nhân vẫn viết sách để chống đỡ chân lý. Ngài phải chiến đấu không ngừng, bởi vì cuộc bách hại tưởng chấm dứt khi Marcô Aureliô qua đời, nhưng các lạc giáo lại nổi lên chống phá Giáo hội.
Thánh Irenê dùng hết tâm trí và đức tin chống lại các lạc thuyết nhưng vẫn yêu thương những lẻ lầm lạc, Ngài cầu nguyện cho họ van nài họ trở về với Giáo hội thật:
- "Hợp nhất với Chúa là sự sống và là Sự sống .... Khốn khổ cho ai lìa xa sự hợp nhất ấy. Hình phạt đổ xuống họ không phải do Thiên Chúa mà do chính họ, vì khi chọn quay mặt khỏi Thiên Chúa, họ đánh mất mọi tài sản".
Các tác phẩm lừng danh Ngài đã soạn khiến cho Ngài đang được gọi là "Anh sáng bên trời Tây".
Dưới sự dẫn dắt của thánh Irênê, Lyon đã trở thành một trường dạy phụng sự Chúa đào tạo nhà tri thức và có khả năng truyền giáo. Thế hệ đầu tiên của trường đã bảo vệ đức tin tinh tuyền bằng những nghiên cứu và sách vở của họ. Thế hệ thứ hai phổ biến Tin Mừng đến những miền khác.
Hoàng đế Seltinô - Severô tái diễn cuộc bách hại. Ông gia hình cho đến chết những ai kiên trì với đức tin. Lyon là thành phố diễn ra cuộc hãm xác tập thể các Kitô hữu thật khủng khiếp. Máu chảy thành suối trên đường phố tiếp nối dòng máu các giám mục tử đạo, thánh Irênê, cũng bị hạ sát với đàn chiên mình. Một tài liệu cố tìm được cho thấy có đến 19 ngàn Kitô hữu cùng chịu khổ chịu chết vì đạo với Ngài.
(daminhvn.net)


28 Tháng Sáu
Ngợi Khen Con Người
Trong tập thơ có tựa đề "Nhật ký", nữ thi sĩ công giáo Pháp là Marie Noel đã tưởng tượng ra một mẩu chuyện như sau: Hôm đó là ngày cuối năm. Từ trên Thiên Quốc nhìn xuống dương trần, Chúa thấy dân chúng đổ xô về một ngôi nhà thờ đổ nát, không có chuông, cũng chẳng có tháp chuông. Vị linh mục già đành phải khua mõ vào bất cứ đồ vật nào có thể gây ra tiếng vang để giục giã dân chúng đến giáo đường đọc Kinh "Te Deum" ngợi khen Cúa nhân ngày cuối năm.
Trời mưa lạnh như cắt. Vậy mà, từ khắp nơi trong xóm giáo, người ta vẫn đổ xô về ngôi giáo đường. Chúa theo dõi từng cử động một của một người đàn bà đơn độc mà ngôi nhà vừa bị thiêu rụi trong một trận hỏa hoạn. Chúa lại nhìn thấy một thiếu phụ mà cách đó không lâu bọn Ðức Quốc Xã đã tước đoạt mọi tài sản. Một người đàn bà khác, mà chồng đã bị giết trước mắt, cũng lặng lẽ tiến đến nhà thờ. Có cả thiếu phụ mất con mà người ta không tìm ra tung tích. Có cả người đàn ông mà vợ và con bị chôn vùi dưới đống gạch vụn... Còn bao nhiêu người khốn khổ khác nữa. Họ không biết đi đâu, họ không có gì để ăn bởi vì quân thù đã đốt phá và cướp đi tất cả những lương thực dự trữ.
Vậy mà những người khốn khổ ấy có mặt đày đủ trong ngôi giáo đường. Có một vài tiếng khóc. Nhưng tất cả đều cất tiếng hát bài "Te Deum" ngợi khen Chúa trong ngày cuối năm vì những ơn huệ Ngài ban trong năm qua.
Nhìn thấy cảnh tượng ấy cũng như lắng nghe lời ca ngợi của những con người khốn khổ, Thiên Chúa vô cùng cảm động. Ngài nói với các Thiên Thần như sau: "Quả thực, quả thực, Ta bảo các ngươi: con người là loài thụ tạo thánh thiện. Các ngươi hãy nhìn xuống đám người đáng thương kia. Cách đây 12 tháng, họ đã phó dâng cho Ta cả năm để được hạnh phúc, an khang. Vậy mà tai ương và thảm sầu đã xảy đến với họ... Họ đã kêu cầu bình an, nhưng chiến tranh đã đè bẹp họ. Họ đã xin lương thực hằng ngày, nhưng họ chỉ toàn gặp là đói khát. Họ đã phó dâng cho ta gia đình, người thân và tổ quốc của họ, nhưng tổ quốc, gia đình và người thân của họ lại bị xâu xé trăm bề. Dĩ nhiên, Ta có những lý do riêng của Ta... Ta không thể thanh tẩy thế giới mà không thể thử thách nó như thời Noe. Nhưng đây là công việc của một Thiên Chúa, không ai có thể hiểu được việc Thiên Chúa làm. Nhưng con người lại phải gánh chịu mọi sự. Vậy mà họ vẫn tiếp tục ngợi khen và cảm tạ Ta cứ như Ta đã bảo vệ họ trong từng phút giây của cuộc sống họ... Quả thực, lòng tin của họ lớn lao... Các ngươi có nghe họ hát "Thánh, thánh" với tất cả trang trọng không? Hỡi các Thiên Thần và các Thánh, nào các ngươi hãy hát lên một bài ca để tôn vinh những ai, mặc dù gặp gian lao khốn khó, vẫn lên tiếng tôn vinh Ta".
Nói xong, Thiên Chúa cùng với các thần thánh trên trời cất lên bài ca "Ngợi khen con người".
Thiên Chúa là Tình Yêu, Ngài không thể không say mê con người, Ngài không thể không chung thủy với con người. Giữa muôn ngàn khó khăn của cuộc sống hiện tại và những khắc khoải lo âu cho tương lai, chúng ta hãy tiếp tục dâng trọn niềm tín thác cho Thiên Chúa.
Tin tưởng ở tình yêu Thiên Chúa, chúng ta tin tưởng ở tình người. Tình người dù có bội bạc, mỗi một con người, dù có đốn mạt, xấu xa đến đâu, cũng vẫn còn chất chứa trong đáy thẳm tâm hồn mình vẻ đẹp cao vời phản ảnh chính tình yêu của Thiên Chúa. Ðáp lại với những phản trắc lừa đảo, đáp lại với những thấp hèn đê tiện, người có niềm tin nơi Thiên Chúa và tin ở tình người hãy giữ mã
(Lẽ Sống)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét