Trang

Thứ Ba, 28 tháng 6, 2016

92-06-216 : THÁNH PHÊ-RÔ VÀ THÁNH PHAO-LÔ, TÔNG ĐỒ - LỄ TRỌNG

29/06/2016
THÁNH PHÊRÔ VÀ THÁNH PHAOLÔ, TÔNG ĐỒ.
Lễ trọng. Lễ HỌ. Cầu cho giáo dân.

* Thánh Phêrô và thánh Phaolô không giống nhau về tính khí, cũng không giống nhau về phạm vi hoạt động. Hoàn cảnh các vị gặp Chúa đã tạo nên nét đặc biệt cho sứ vụ tông đồ của mỗi vị. Rồi tài ba của thánh Phaolô quả là có một không hai trong Kitô giáo.
Nhưng hai vị liên kết với nhau nhờ lòng tin sâu xa và lòng yêu mến nhiệt thành đối với Đức Kitô. Các vị đã đổ máu mình để làm chứng cho Chúa Kitô tại Rôma; có lẽ thánh Phêrô năm 64 và thánh Phaolô năm 67.

Bài Ðọc I: Cv 12, 1-11
"Bây giờ tôi biết thật Chúa đã cứu tôi khỏi tay Hêrôđê".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, vua Hêrôđê làm khổ mấy người trong Hội thánh. Ông đã dùng gươm giết Giacôbê anh của Gioan. Ông thấy việc ấy đẹp lòng người Do-thái, nên lại cho bắt cả Phêrô. Bấy giờ là ngày lễ Bánh Không Men. Bắt được người, vua cho tống ngục, giao cho bốn đội binh, mỗi đội bốn người canh giữ, có ý đợi sau lễ Vượt Qua, sẽ điệu người ra cho dân. Phêrô bị giam trong ngục, nhưng Hội thánh vẫn luôn luôn cầu nguyện cùng Chúa cho người. Ðến khi vua Hêrôđê sắp điệu người ra, thì đêm ấy, Phêrô phải mang xiềng xích, nằm ngủ giữa hai tên lính, và có quân canh giữ trước cửa ngục. Bỗng có thiên thần Chúa đứng kề bên, một luồng ánh sáng chiếu giãi vào ngục; thiên thần đập vào cạnh sườn Phêrô, đánh thức người dậy mà rằng: "Hãy chỗi dậy mau". Xiềng xích liền rơi khỏi tay người. Thiên thần bảo người rằng: "Hãy thắt lưng và mang giày vào". Người làm y như vậy. Thiên thần lại bảo rằng: "Hãy khoác áo vào mà theo ta".
Người liền đi ra theo thiên thần, mà chẳng biết việc thiên thần làm có thật chăng, người tưởng như trong giấc mộng. Qua khỏi chặng thứ nhất và chặng thứ hai, thì đến cửa sắt thông ra thành. Cửa ấy tự nhiên mở ra. Thiên thần và Phêrô rảo qua một phố nọ, rồi thiên thần biến đi. Phêrô hoàn hồn và nói rằng: "Bây giờ tôi biết thật Chúa đã sai thiên thần cứu tôi khỏi tay Hêrôđê và khỏi mọi âm mưu của dân Do-thái".
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 33, 2-3. 4-5. 6-7. 8-9
Ðáp: Chúa đã cứu tôi khỏi điều lo sợ (c. 5b).
Xướng: 1) Tôi chúc tụng Chúa trong mọi lúc; miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Người. Trong Chúa linh hồn tôi hãnh diện, bạn nghèo hãy nghe và hãy mừng vui. - Ðáp.
2) Các bạn hãy cùng tôi ca ngợi Chúa, cùng nhau ta hãy tán tạ danh Người. Tôi cầu khẩn Chúa, Chúa đã nhậm lời, và Người đã cứu tôi khỏi điều lo sợ. - Ðáp.
3) Hãy nhìn về Chúa để các bạn vui tươi, và các bạn khỏi hổ ngươi bẽ mặt. Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe, và Người đã cứu họ khỏi mọi điều tai nạn. - Ðáp.
4) Thiên Thần Chúa hạ trại đồn binh chung quanh những người sợ Chúa và bênh chữa họ. Các bạn hãy nếm thử và hãy nhìn coi, cho biết Chúa thiện hảo nhường bao; phúc đức ai tìm nương tựa ở nơi Người. - Ðáp.

Bài Ðọc II: 2 Tm 4, 6-8. 17-18
"Từ đây triều thiên công chính đã dành cho cha".
Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi Timôthêu.
Con thân mến, phần cha, cha đã già yếu, giờ ra đi của cha đã gần rồi. Cha đã chiến đấu trong trận chiến chính nghĩa, đã chạy đến cùng đường và đã giữ vững đức tin. Từ đây triều thiên công chính đã dành cho cha. Và trong ngày đó, Chúa là Ðấng phán xét chí công sẽ trao lại cho cha mũ triều thiên ấy, nhưng không phải cho cha mà thôi, mà còn cho những kẻ yêu mến trông đợi Người xuất hiện. Nhưng có Chúa phù hộ giúp sức cho cha, để nhờ cha, việc giảng đạo nên trọn, và tất cả Dân Ngoại được nghe giảng dạy: và cha đã thoát được khỏi miệng sư tử. Nguyện cho Người được vinh quang muôn đời. Amen.
Ðó là lời Chúa.

Alleluia: Mt 16, 18
Alleluia, alleluia! - Con là Ðá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được. - Alleluia.

Phúc Âm: Mt 16, 13-19
"Con là Ðá, Thầy sẽ trao cho con chìa khoá nước trời".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt thành Cêsarêa Philipphê, và hỏi các môn đệ rằng: "Người ta bảo Con Người là ai?" Các ông thưa: "Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó". Chúa Giêsu nói với các ông: "Phần các con, các con bảo Thầy là ai?" Simon Phêrô thưa rằng: "Thầy là Ðức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống".
Chúa Giêsu trả lời rằng: "Hỡi Simon con ông Giona, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời. Vậy Thầy bảo cho con biết: Con là Ðá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được. Thầy sẽ trao cho con chìa khoá nước trời. Sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc; và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở".
Ðó là lời Chúa.


Suy niệm : Hủy bỏ con người cũ để mặc lấy con người mới
Kinh Thánh có nhiều đoạn về hai thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô; nhưng phụng vụ đọc cho chúng ta nghe 3 bài này trong thánh lễ hôm nay. Chắc chắn phải có một hay nhiều ý tứ nào đó. Chúng ta được tự do tìm hiểu. Và nếu chúng ta đồng ý, chúng ta thử xếp đặt lại thứ tự 3 bài đọc như sau để có một phương hướng suy nghĩ. Trước hết bài Phúc âm gợi lên vinh dự của hai thánh Tông đồ được đặt làm rường cột cho Hội Thánh Chúa, rồi bài sách Công vụ cho chúng ta thấy các ngài được bảo hộ mạnh mẽ như thế nào khi thi hành sứ vụ; và cuối cùng bài Thánh thư kêu gọi chúng ta hết thảy hãy tin tưởng phấn đấu như các ngài đã hy sinh không mỏi mệt.

A. Là Những Tông Ðồ Ðược Ðặc Cách
Bài Tin Mừng chỉ nói đến vinh dự đặc biệt đã được dành cho Phêrô. Nhưng vinh dự ấy một ngày kia cũng sẽ được trao tặng Phaolô qua lời Chúa phán với Hananya: Hãy đi tìm Saulô, vì nó là lợi khí Ta chọn để mang Danh Ta ra trước mặt các dân ngoại. Và Hananya đã ra đi làm theo lệnh Chúa, vì ông hiểu Phaolô đã được đặc cách, như Phêrô và các Tông đồ trước đây.
Phêrô hôm ấy cùng đi theo Chúa với đồng bạn... Cuộc truyền giáo của Chúa ở Galilê đã sửa soạn hoàn tất. Ngài sắp phải qua Yuđê để chịu thương khó. Ngài ý thức mọi sự và mọi việc. Ðể đánh dấu khúc quanh lịch sử quan trọng này, Chúa Yêsu đột xuất qua hỏi môn đệ: Người ta nói Con Người là ai? Ngài muốn đo kết quả của 3 năm truyền giáo. Ngài muốn biết môn đệ đã hiểu Ngài đến mức nào?
Người thì bảo Ngài là Yoan Tẩy giả; kẻ lại nói Ngài là Êlya; nhiều người khác nữa thì tưởng Ngài là Yêrêmya hay một tiên tri nào đó. Như vậy chung chung thiên hạ đã lờ mờ nghĩ rằng Ngài là Thiên sai cứu thế vì dư luận Dothái thời đó cho rằng các vị tiên tri như thế sẽ trở lại trong thời Ðấng Thiên sai và có thể một trong những vị đó sẽ chính là Ðấng muôn dân trông đợi. Ở đây chúng ta chỉ chú ý điều này: một mình sách Tin Mừng Matthêô nhắc đến tên tiên tri Yêrêmya, có lẽ muốn ngầm nói rằng: Ðấng Thiên sai sẽ đau khổ và bị bắt bớ như nhà Tiên tri đã có cuộc đời gian nan khổ sở, mà Chúa nhật XII Thường niên chúng ta đã nghe nói. Dù sao phần đông người ta vẫn chưa dám khẳng định dứt khoát Ðức Yêsu Kitô là ai.
Còn chính các môn đệ?
Chúa đã hỏi thẳng các ông. Chưa ai dám lên tiếng thưa, thì Phêrô đã nói: "Thầy là Ðức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống". Chắc chắn mọi người đã phải giật mình. Chính Chúa Yêsu cũng thấy rõ không phải xác thịt đã nói lên được điều đó. Con người tự nhiên không thể biết được như vậy. Quả là Cha trên trời đã mạc khải cho Phêrô, đã nói qua miệng lưỡi người Tông đồ này. Vì lời tuyên xưng kia thật là chính xác, là chính sự thật, vượt quá mọi hiểu biết và suy tư của con người. Chỉ có Cha trên trời biết Con, thế mà cho đến nay Người chưa mạc khải ra. Ðúng hơn, Người đã có lần công bố Yêsu Kitô là Con Chí Ái, nhưng Thánh Thần chưa được ban xuống cho loài người thì làm sao ai hiểu được điều đó. Thế mà miệng lưỡi của Phêrô vừa nói lên niềm tin chính xác mà chỉ sau này, khi đã được tràn đầy Thánh Thần, Hội Thánh mới có thể tuyên xưng.
Như vậy Phêrô đã được ơn mạc khải đặc biệt. Chúa Cha đã tỏ ra đặc cách Phêrô. Thế thì luôn luôn thi hành Thánh ý Người, Ðức Yêsu liền tuyên bố sẽ chọn Phêrô làm nền tảng để xây Hội Thánh của Người. Và quả thật tên của Phêrô như đã được tiền định vì Phêrô trong tiếng Dothái có nghĩa là Ðá. Vậy Phêrô sẽ là đá tảng xây nên Hội Thánh. Và Ðá này sẽ được củng cố để ngay sức mạnh hỏa ngục dấy lên cũng không lung lay nổi. Nhưng không phải để Phêrô đè đầu thiên hạ; Hội Thánh của Ðức Kitô là để cứu thế. Và cứu thế, trước hết là tha tội. Thế nên Ðức Kitô lại tiếp: Ta sẽ ban cho con chìa khóa Nước Trời để con đóng mở cho người ta ra vào.
Chúng ta mừng cho Phêrô đã được những vinh dự như vậy. Ðó là những ơn hoàn toàn nhưng không mà Thiên Chúa đã ban cho người, vì hạnh phúc của tất cả chúng ta. Sự lựa chọn hoàn toàn chỉ vì tình thương. Cũng như sau này, đang khi Phaolô hung hăng phi ngựa trên con đường Ðama để bắt đạo, Ðức Kitô đã từ trời cao phán gọi người, khiến người tức khắc ngã quỵ để rồi khi ngẩng lên, đã trở thành vị Tông đồ dân ngoại.
Nhiều người đã muốn thử giải thích vì những lý do tâm lý, xã hội và tôn giáo nào đã khiến hai thánh Tông đồ được lựa chọn một cách đột xuất, và được trao phó những sứ mạng cao cả như vậy? Nhưng chẳng có câu trả lời nào thỏa đáng, ngoại trừ công nhận chính mạc khải của lòng nhân nghĩa Chúa.
Do đó, ngày lễ hai thánh Tông đồ, trước hết chúng ta phải tuyên xưng điều ấy: chính Thiên Chúa đã đặc cách hai ngài. Và việc này khiến chúng ta phải hân hoan tạ ơn, bởi vì Hội Thánh chúng ta được xây trên nền tảng của hai ngài, mà hai ngài được Chúa đặc cách như vậy, thì tòa nhà Hội Thánh của chúng ta tốt đẹp, vinh dự và bảo đảm biết bao? Ngôi nhà của chúng ta không những vững bền mà còn đầy phúc, vì nền tảng của nó là hai vị Tông đồ đã được tuyển chọn một cách tuyệt diệu. Chúa Cha và Chúa Yêsu Kitô đã tỏ ra vô vàn ưu ái và rộng rãi, quyền năng đối với nền tảng của tòa nhà Hội Thánh chúng ta. Chúng ta phải hân hoan cảm mến. Và phải tiếp tục xem hai vị Tông đồ ưu tú đó đã thi hành sứ mệnh thế nào.

B. Các Ngài Tiếp Tục Ðược Chúa Bảo Hộ
Bài sách Công vụ cho thấy Lời Chúa nói với Phêrô khi đặt người làm nền tảng Hội Thánh, luôn luôn thực hiện. Phêrô quả thật là Ðá vững vàng trong mọi sóng gió. Hêrôđê bấy giờ bắt đạo. Hành động và thái độ của nhà vua rất đẹp lòng người Dothái. Hêrôđê liền mạnh tay, truyền bắt giam chính Phêrô, thủ lãnh của Hội Thánh mới. Sức mạnh của hỏa ngục rõ ràng mạnh mẽ. Nhưng bài sách nghe đọc hôm nay cho thấy Phêrô bình tĩnh lạ thường. Dường như ông không nhúc nhích. Mặc cho người ta cùm tay trói chân, và đặt lính gác trong ngoài cửa ngục, ông như chìm đắm trong suy nghĩ nhớ đến giáo đoàn và hiệp ý cầu nguyện với tất cả nhiệm thể. Bỗng dưng xiềng xích ở tay chân mở ra. Có người bảo Phêrô mặc áo, thắt lưng và xỏ giầy vào. Rồi bảo ông đi theo. Ông không ngần ngại khoan thai cất bước, chẳng cần tìm hiểu. Hai người tiến bước dễ dàng; đi đến đâu, người vật dường như đều nhường bước. Kể cả cửa sắt có lính canh gác, cũng tự động mở ra mời hai người ra phố. Ðến lúc thần Chúa biến đi, Phêrô mới nhận ra: quả thật Chúa đã giải cứu mình.
Và về sau, khi suy nghĩ lại sự việc, ông mới thấy câu chuyện thật là mầu nhiệm. Ông đã bị bắt vào dịp lễ Bánh không men và cũng đã được giải thoát trong dịp ấy. Chúa Yêsu cũng đã bị nộp, bị giết và được Thiên Chúa cho sống lại vào dịp lễ Bánh không men. Phải chăng sự việc đã chẳng có ngụ ý rằng: đầy tớ không trọng hơn Thầy và đường Thầy đi thì tớ cũng sẽ phải theo. Phêrô phải đi theo đường của Chúa và sẽ đưa Hội Thánh Chúa đi vào. Ðó là con đường bị bắt, bị nộp, bị giết... nhưng sẽ dẫn tới phục sinh vinh quang. Và những người đi trên con đường ấy đều như thể chiên cừu bị đưa đi xén lông mà không hề kêu la. Phêrô trong câu truyện bị bắt hôm nay đã bắt chước Chúa Yêsu, hoàn toàn vâng theo Thánh ý Thiên Chúa. Và nếu chúng ta có đọc lại cuộc đời của Phaolô, chúng ta cũng thấy như vậy.
Những lời đầu tiên trong bài thư hôm nay xác định điều đó. Phaolô thấy mình là "tửu tế đã tiến", tức là cuộc đời mình đã trở thành lễ tế. Ðó là thứ rượu người ta dâng khi thuyền rời bến... Và chính Chúa Yêsu cũng đã nói với Hananya khi sai ông đi gặp Saulô. Ta sẽ tỏ cho nó biết tất cả những gì nó sẽ phải chịu vì Danh Ta. Nên tất cả cuộc đời của Phaolô là chiến đấu trong cuộc chiến chính nghĩa. Người đã chạy đến cùng đường... Và nhìn lại người có thể đếm trên con đường ấy: bao nhiêu lần đắm tàu, nhịn đói, chịu khát, bị đánh, bị tù. Sức mạnh của hỏa ngục cũng tung ra mạnh mẽ, nhưng Ơn Chúa vẫn đủ cho Phaolô cũng như cho Phêrô. Ðến nỗi ngày hôm nay, nhắc lại việc tử đạo của hai ngài Hội Thánh hân hoan cử hành một ngày vinh quang.
Quả thật hôm nay chúng ta kính nhớ cuộc chiến vẻ vang của hai thánh Tông đồ. Gian khổ các ngài đã chịu thật là sức mạnh của hỏa ngục. Nhưng Chúa đã bảo hộ các ngài. Các ngài đã đưa con thuyền Giáo hội vượt xa qua bao sóng gió... Con thuyền ấy cứ mỗi ngày một lớn. Và nhìn khắp mặt biển trần gian, không chỗ nào mà ta không thấy nó. Có chỗ nó đang ung dung rẽ sóng. Chỗ khác, nó lại như thuyền của các Tông đồ gặp bão trên mặt hồ Tibêria. Chính trong những trường hợp khó khăn này, khuôn mặt của Phêrô và Phaolô như lại nổi lên, nhắc lại Lời Chúa hứa sẽ ở cùng Hội Thánh mãi mãi và sức mạnh của hỏa ngục sẽ chẳng làm gì được.
Chúng ta hãy lưu ý tỉ mỉ hơn đến điều nhắn nhủ của các ngài.

C. Các Ngài Kêu Gọi Chúng Ta Tin Tưởng
Ðối với chúng ta, các ngài có một tình yêu thương đặc biệt. Bài thư Phaolô gửi cho Timôthê làm chứng điều ấy. Phêrô chắc chắn cũng đồng ý khuyên nhủ chúng ta như vậy. Vì hôm nay là lễ của hai ngài, Giáo hội nhắc nhớ lại cuộc đời phấn đấu kiên trung và thành quả của các ngài. Sự kiện này nào muốn nói lên gì khác hơn việc kêu gọi chúng ta hãy bắt chước các ngài.
Phaolô nói với Timôthê, tức là với tất cả chúng ta. Chúa đã phù hộ và ban sức mạnh cho người. Chúa sẽ cứu và độ người vào Nước trên trời. Và hoàn lại cho người triều thiên công chính, không phải cho người mà thôi, nhưng còn cho hết mọi người đầy lòng mến yêu trông đợi cuộc hiển linh của Chúa. Nói tắt, hai thánh Tông đồ đã muốn cho chúng ta cũng mến Chúa và tin tưởng phấn đấu cho Chúa.
Vì thế chúng ta phải nhìn lại đời sống các ngài để thấy từ đầu các ngài đã đón nhận ơn Chúa thế nào và đã tiếp tục làm sao để đi đến vinh quang ngày nay. Các ngài đã được Chúa chiếu cố một cách đặc biệt và đã được Người tiếp tục bảo hộ. Có thể nói các ngài chẳng có công trạng nào hết: Phêrô rõ ràng là người không có gì cả; còn Phaolô đã có lần khẳng định mọi điều người có theo xác thịt, thì người đã bỏ đi hết và coi như phân bón để được tình yêu nhưng không của Ðức Yêsu Kitô.
Ðó là thái độ căn bản của Kitô giáo. Người ta phải hủy bỏ con người cũ và mọi sự thuộc về nó để mặc lấy con người mới là Thần trí của Ðức Yêsu Kitô hầu chỉ còn sống cho Thiên Chúa. Khi đó người ta mới là người của Chúa và là lợi khí để Người dùng vào việc xây dựng Nước Trời. Và triều thiên công chính mới để dành cho người ấy.
Chúng ta có nên sợ trở thành những con người như vậy không? Có lẽ nhiều người ngại ngùng khi nghe nói đến thái độ từ bỏ. Nhưng ai có gì lắm mà sợ phải bỏ? Ðàng khác điều quan trọng là từ bỏ con người cũ; chứ từ bỏ những sự vật chất đâu đã là điều khó lắm. Và con người cũ là tinh thần không muốn đón nhận mạc khải của Chúa, không để cho Lời Chúa đi vào tâm hồn và sinh động ở trong đó để dần dần đổi mới chúng ta từ bên trong. Cả Phêrô và Phaolô đều đã bắt đầu đi vào đường lối của Chúa khi đón nhận lời mạc khải. Phêrô đã để Chúa Cha nói lên ở trong mình. Phaolô đã để lời Chúa Yêsu lọt vào tai khiến mình quỵ xuống và trở nên con người mới. Chúng ta phải bắt đầu nên thánh từ thái độ đầu tiên ấy: tức là đón nhận lời mạc khải, đón nhận ơn Chúa vào mình và để cho chính ơn Chúa từ đó làm việc nơi chúng ta.
Giờ đây Chúa cũng đến với chúng ta trong thánh lễ. Mình Máu Thánh Chúa đến tăng cường cho Lời Chúa chúng ta vừa nghe. Ai đón nhận Lời Chúa và Mình Thánh Chúa thật sự, sẽ để Người tiếp tục sống trong mình. Chính Người sẽ hoàn thành công việc của Người nơi chúng ta như nơi hai thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô. Chúng ta hãy cầu xin hai thánh cho chúng ta biết bắt chước các ngài.

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)


LI CHÚA MI NGÀY
Lễ Thánh Phêrô và Phaolô
Bài đọc: Acts 12:1-11; 2 Tim 4:6-8, 17-18; Mt 16:13-19.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Trung thành làm chứng nhân cho Thiên Chúa tới cùng.
Hội Thánh được xây dựng vững chắc trên hai cột trụ; vì nếu chỉ xây trên một cột trụ, sẽ không đứng vững, giống như người chỉ có một chân. Phêrô rao giảng cho dân Do-thái, Phaolô rao giảng cho Dân Ngoại. Phêrô lo tổ chức và bảo vệ Hội Thánh, Phaolô lo phát triển và bành trướng Hội Thánh.
Các Bài Đọc hôm nay nói lên sự lựa chọn, bảo vệ, và ban ơn của Thiên Chúa dành cho hai ông. Trong Bài Đọc I, Sách CVTĐ tường thuật việc thiên sứ giải thoát Phêrô khỏi ngục tù. Trong Bài Đọc II, Phaolô xác quyết nhờ sức mạnh của Thiên Chúa, ông đã chiến đấu một trận chiến cao đẹp, đã chạy đến cùng đường, và đã trung thành giữ vững đức tin. Trong Phúc Âm, sau khi Phêrô được Thiên Chúa soi sáng để nhận ra và tuyên xưng đức tin vào Đức Kitô, Ngài đã chính thức thiết lập Giáo Hội trên Đá Tảng Phêrô; và Ngài hứa sẽ bảo vệ Giáo Hội khỏi mọi quyền lực của thế gian và ma quỉ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Ông Phêrô được thiên sứ giải thoát khỏi ngục tù.
1.1/ Giáo Hội bị bách hại: Chúa Giêsu đã báo trước cho các tông-đồ: "Tôi tớ không trọng hơn chủ và môn đệ không hơn Thầy. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em." Sau khi Chúa Giêsu về trời, Giáo Hội tại Jerusalem bị bắt bớ dữ dội, bắt đầu bằng cuộc tử đạo tiên khởi của phó tế Stephanô. Trình thuật hôm nay liệt kê cuộc bắt bớ của vua Herode: "Thời kỳ ấy, vua Herode ra tay ngược đãi một số người trong Giáo Hội. Nhà vua đã cho chém đầu ông Giacôbê là anh ông Gioan. Thấy việc đó làm vừa lòng người Do-thái, nhà vua lại cho bắt cả ông Phêrô nữa. Bấy giờ đang là tuần lễ Bánh Không Men. Bắt được rồi, nhà vua truyền tống ngục và giao cho bốn tốp lính canh gác, mỗi tốp gồm bốn người, định sau lễ Vượt Qua sẽ điệu ông ra cho dân chúng."
Chúa Giêsu đã từng nói với các môn đệ: "Họ sẽ giết chủ chăn và đoàn chiên sẽ tan tác." Phêrô, Giacôbê, và Gioan được coi như những môn đệ thân tín nhất của Chúa Giêsu; giờ đây Giacôbê đã bị giết, Phêrô bị cầm tù. Vì thế, Giáo Hội không ngừng dâng lên Thiên Chúa lời cầu nguyện khẩn thiết cho ông.
1.2/ Thiên sứ giải thoát Phêrô: Đức Kitô biết đau khổ do bắt bớ và tù đày cần thiết để tôi luyện niềm tin của các tông-đồ và để bành trướng đức tin; nên Ngài để cuộc bách hại xảy ra. Nhưng Ngài cũng biết Giáo Hội của Ngài cần sự lãnh đạo của Phêrô, nên Ngài sai một thiên sứ tới để giải thoát ông khỏi ngục tù, như Ngài sẽ làm tương tự với Phaolô sau này.
- Xiềng xích và lính canh trở nên vô hiệu trước quyền lực của Thiên Chúa: Trình thuật kể: "Trong đêm trước ngày bị vua Herode đem ra xử, ông Phêrô ngủ giữa hai người lính, và bị khoá vào hai cái xiềng. Trước cửa ngục lại có lính canh. Bỗng thiên sứ của Chúa đứng bên cạnh ông, và ánh sáng chói rực cả phòng giam. Thiên sứ đập vào cạnh sườn ông Phêrô, đánh thức ông và bảo: "Đứng dậy mau đi!" Xiềng xích liền tuột khỏi tay ông."
- Phêrô làm theo lệnh thiên sứ một cách vô thức: "Thiên sứ nói tiếp: "Thắt lưng lại và xỏ dép vào!" Ông làm như vậy. Rồi thiên sứ lại bảo ông: "Khoác áo choàng vào và đi theo tôi!" Ông liền theo ra, mà không biết việc thiên sứ làm đó có thật hay không, cứ tưởng là mình thấy một thị kiến. Qua vọng canh thứ nhất, rồi vọng canh thứ hai, thiên sứ và ông tới trước cửa sắt thông ra phố. Cửa tự động mở ra trước mặt hai người. Ra đến ngoài, đi hết một đường phố, thì bỗng nhiên thiên sứ bỏ ông mà đi." Tất cả những việc này xảy ra khi lính vẫn canh và cửa tù vẫn khóa.
- Phêrô ý thức mình đã được cứu thoát: "Lúc ấy ông Phêrô mới hoàn hồn và nói: "Bây giờ tôi biết thực sự là Chúa đã sai thiên sứ của Người đến, và Người đã cứu tôi thoát khỏi tay vua Herode, và khỏi mọi điều dân Do-thái mong muốn tôi phải chịu."" Khi Thiên Chúa muốn, Ngài vô hiệu hóa mọi quyền lực thế gian.
2/ Bài đọc II: Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính.
2.1/ Chiến đấu cho chính nghĩa: Giống như Chúa Giêsu khi sắp rời bỏ thế gian để về cùng Thiên Chúa, Ngài dành thời gian để kiểm điểm những gì Ngài đã làm, những gì sắp xảy đến, và vinh quang Ngài sẽ được hưởng trong tương lai; Phaolô cũng thế.
(1) Nhìn lại quá khứ: "Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin."
+ Cuộc thi đấu cao đẹp: Thế gian là một bãi chiến trường để Thiên Chúa thử luyện đức tin của con người. Nhìn lại quá khứ, Phaolô biết mình đã cố gắng hết sức vượt qua các gian khổ để chu toàn sứ vụ Đức Kitô đã trao phó cho ngài.
+ Đã chạy hết chặng đường: Cuộc đời con người có thể ví như một cuộc chạy Marathon, có nguồn gốc từ quốc gia Hy-lạp. Đây là một cuộc chạy đường dài rất gian khổ, đòi người chạy phải có sức khỏe dẻo dai để chịu đựng. Nhiều người ghi danh, không nhằm chạy nhanh để đạt đích trước, nhưng chỉ cần thử xem mình có thể dẻo dai để về tới đích hay không. Nhiều người không chịu nổi phải bỏ cuộc dọc đường.
+ Đã giữ vững niềm tin: Đây là điều tối quan trọng để lãnh phần thưởng từ Đức Kitô. Nếu ai chạy đến đích mà đánh mất niềm tin ở dọc đường, người ấy sẽ không được lãnh nhận phần thưởng từ Đức Kitô.
(2) Kiểm điểm hiện tại: "Tôi sắp phải đổ máu ra làm lễ tế, đã đến giờ tôi phải ra đi." Thánh Phaolô được Đức Kitô hiện ra cho biết trước: ông sẽ bị bắt ở Jerusalem để làm chứng cho Ngài; không những thế, ông sẽ còn làm chứng cho Đức Kitô tại Rôma nữa. Nhiều tín hữu khóc thương ngăn cản; nhưng ông vẫn quyết chí lên Jerusalem để chịu bắt bớ như Đức Kitô đã từng trải qua.
(3) Hy vọng tương lai: Con người chiến đấu là cho một mục đích. Giống như lực sĩ thắng giải được khoác vòng hoa chiến thắng, Phaolô biết rõ mình cũng sẽ được Đức Kitô đeo vòng hoa chiến thắng cho như vậy. Ngài nói: "Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính; Chúa là vị Thẩm Phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho tôi trong Ngày ấy."Phaolô dùng kinh nghiệm cá nhân để động viên tinh thần các môn đệ: "Và không phải chỉ cho tôi, nhưng còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người xuất hiện." Nếu Timothy, Titô, hay bất cứ một tín hữu nào trung thành giao chiến tới cùng, họ cũng sẽ lãnh nhận phần thưởng của các chứng nhân từ Đức Kitô.
2.2/ Phaolô chiến thắng là nhờ sức mạnh của Thiên Chúa: Ông biết rõ con người yếu đuối của mình, nhất là qua biến cố ngã ngựa và bị mù trên đường đi Damascus; nhưng ông cũng biết sức mạnh của Thiên Chúa hoạt động để nâng đỡ các yếu đuối của ông. Ông xác tín niềm tin này nhiều lần, và trong trình thuật hôm nay: "Nhưng có Chúa đứng bên cạnh, Người đã ban sức mạnh cho tôi, để nhờ tôi mà việc rao giảng được hoàn thành, và tất cả các dân ngoại được nghe biết Tin Mừng. Và tôi đã thoát khỏi nanh vuốt sư tử. Chúa sẽ còn cho tôi thoát khỏi mọi hành vi hiểm độc, sẽ cứu và đưa tôi vào vương quốc của Người ở trên trời. "
3/ Phúc Âm: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?"
3.1/ Người môn đệ phải biết Thầy của mình là ai:
(1) Kiến thức về Đức Kitô: Khi Đức Giêsu đến vùng kế cận thành Caesarea Philippi, Người hỏi các môn đệ rằng: "Người ta nói Con Người là ai?" Các ông thưa: "Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Elijah, có người lại cho là ông Jeremiah hay một trong các vị ngôn sứ." Vua Herode đã từng nghĩ Chúa Giêsu là Gioan Tẩy Giả sống lại từ cõi chết. Elijah là một tiên tri làm nhiều phép lạ như Chúa Giêsu; truyền thống tin ông sẽ trở lại trước thời Đấng Thiên Sai, vì ông chưa chết. Jeremiah là tiên tri rất khí khái dám nói và làm chứng cho sự thật, mà không lui bước trước bất cứ quyền lực nào của vua chúa. Tất cả các nhận định này chỉ nói lên một khía cạnh của Đức Kitô, nhưng chưa nói lên được căn tính của Ngài.
(2) Mối liên hệ của người môn đệ với Đức Kitô: Chúa Giêsu không chỉ bằng lòng với những gì các môn đệ biết về Ngài qua người khác; nhưng Ngài muốn các ông nghĩ sao về Ngài, nên Ngài hỏi các ông: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?" Ông Simon Phêrô, đại diện cho các tông đồ, tuyên xưng: "Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống." Đây là câu trả lời mà Chúa Giêsu muốn nghe: Ngài chính là Đấng Thiên Sai mà các ngôn sứ đã nói tới; đồng thời, Ngài cũng là Người Con Một của Thiên Chúa hằng sống. Chỉ khi nghe được lời tuyên xưng này từ miệng các môn đệ, Chúa Giêsu mới hoàn thành sứ mệnh mặc khải của Ngài.
3.2/ Hội Thánh được xây dựng trên Tảng Đá là Phêrô: Đức Giêsu nói với ông Phêrô: "Này anh Simon, con ông Jonas, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời." Thánh Phaolô cắt nghĩa rõ ràng điều này hơn: Không ai tuyên xưng Đức Kitô là Thiên Chúa, mà không do Thánh Thần soi sáng. Thánh Thần được gởi tới cho các tông-đồ là do sự can thiệp của Chúa Giêsu với Chúa Cha.
Nhận ra niềm tin xác thực của Phêrô, Chúa Giêsu thành lập Giáo Hội khi Ngài nói với Phêrô: "Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi." Trong Kinh Thánh, khi Thiên Chúa đổi tên cho ai, Ngài tin tưởng và trao sứ vụ cho người ấy. Ví dụ, Abraham từ Abram, Phaolô từ Saul, và Phêrô từ Simon ... Chúa Giêsu muốn trao quyền điều khiển Giáo Hội vào tay Phêrô và các người kế vị ông. Tảng Đá đây không phải là con người yếu đuối của Phêrô với ba lần chối Thầy; nhưng là đức tin của ông vào Đức Kitô sau nhiều lần sa ngã và chịu gian khổ.
Đức tin của Giáo Hội được đặt trên niềm tin nền tảng của các tông-đồ. Đức tin này được ví như "đá," có nghĩa vững chắc và không thay đổi với thời gian. Nhiều người chỉ trích Giáo Hội cổ hủ, cứng nhắc, không chịu theo thời ... nhưng cũng chính vì điều này mà Giáo Hội được thiết lập. Nếu Giáo Hội cũng thay đổi để được con người chấp nhận, hòa giải nhượng bộ trước áp lực của ma quỉ và thế gian, Giáo Hội sẽ không tồn tại đến ngày hôm nay.
Chúa Giêsu trao chìa khóa Nước Trời để nói lên quyền cầm buộc và tháo cởi: "Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy." Công dụng của chìa khóa là để mở ra và đóng lại, cho phép vào và từ chối không cho vào. Giáo Hội dùng quyền này để tha thứ hay cầm buộc hối nhân nơi tòa cáo giải.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Đức Kitô cần cả Phêrô lẫn Phaolô. Ngài muốn hai ông hợp tác để củng cố, bảo vệ, và phát triển Giáo Hội. Chúng ta cũng phải biết cộng tác với nhau trong việc mở mang Nước Chúa.
- Để có thể làm việc cho Đức Kitô và bảo vệ Giáo Hội, chúng ta không chỉ cần biết về Đức Kitô, nhưng phải sống mối liên hệ với Ngài.
- Giáo Hội không phải chỉ là Đức Thánh Cha và hàng Giáo Phẩm; nhưng là tất cả các tín hữu ở khắp nơi. Tất cả đều có bổn phận trong việc mở mang Nước Thiên Chúa.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.

29/06/16 TH TƯ TUN 13 TN
Th. Phê-rô và Phao-lô, tông đồ, tử đạo
Mt 16,13-19

Suy nim: Có nhng chân lý người ta “ng” ra như trong mt tia chp ca mt phút xut thn nhưng li có tác đng sâu xa, đnh hướng c mt đi người. Đó chính là cm nghim ca thánh Phê-rô khi ngài tuyên xưng Thy mình là “Đng Ki-tô, Con Thiên Chúa hng sng,” li tuyên xưng “không phi do phàm nhân mc khi” mà là do Thiên Chúa. Điu đó li càng đúng vi thánh Phao-lô khi ngài “ng” ra Đc Ki-tô qua li phán trong “lung ánh sáng” trên đường đi Đa-mát: “Ta là Giê-su mà ngươi đang bt b (x. Cv 9,1-9). Dù cm nghim đc tin ca hai ngài có nhiu khía cnh khác nhau, c hai đu cùng mt nim say mê Đc Ki-tô, l sng ca đi mình: “B Thy thì chúng con biết đến vi ai? Thy mi có nhng li đem li s sng đi đi” (Ga 6,68). “Tôi sng, nhưng không còn là tôi, mà là Đc Ki-tô sng trong tôi” (Gl 2,20).
Mi Bn: Nim say mê Đc Ki-tô ca các tông đ cũng là đng lc, là sc  mnh khiến các ngài hăng say rao ging Tin Mng và dũng cm hy sinh mng sng đ làm chng cho li mình rao ging. Chúa đã thương ban cho bn ơn đc tin, đ bn tr thành chi th ca Hi Thánh, được xây trên máu ca các thánh Tông Đ và T Đo. Vi nhn thc đó, bn hãy mnh dn sng nim tin và lòng trung tín ca mình.
Sng Li Chúa: Nuôi dưỡng đc tin ca mình bng vic siêng năng lãnh nhn bí tích Thánh Th.
Cu nguyn: Ly Chúa, con cm t Chúa vì gương anh hùng ca hai thánh Tông đ Phê-rô và Phao-lô. Xin cho con hôm nay trung kiên theo bước các ngài sng chng nhân Tin Mng trong đi sng ki-tô hu thường nht.

Anh là tng đá 
Hi Thánh hôm nay vn cn nhng Phêrô và Phaolô mi, dám b, dám theo và dám yêu, dám sng và dám chết cho Ðc Kitô và Tin Mng. Hi Thánh vn cn nhng chiếc ct và nhng tng đá.


Suy nim:
Trong ngày lễ kính thánh Phêrô và thánh Phaolô,
chúng ta được mời gọi chiêm ngắm hai khuôn mặt,
rất khác nhau mà cũng rất giống nhau.
Phêrô, một người đánh cá ít học, đã lập gia đình.
Ông theo Thầy Giêsu ngay từ buổi đầu sứ vụ.
Còn Phaolô là người có nhiều điều để tự hào,
về gia thế, về học thức, về đời sống đạo hạnh.
Ông chưa hề gặp mặt Ðức Giêsu khi Ngài còn sống.
Nhưng hai ông có nhiều nét tương đồng.
Cả hai đều được Ðức Giêsu gọi.
Phêrô được gọi khi ông đang thả lưới bắt cá nuôi vợ con.
Phaolô được gọi khi ông hung hăng tiến vào Ðamát.
Cả hai đã từ bỏ tất cả để theo Ngài.
Tất cả của Phêrô là gia đình và nghề nghiệp.
Tất cả của Phaolô là những gì ông cậy dựa vênh vang.
Bỏ tất cả là chấp nhận bấp bênh, tay trắng.
Cả hai đều đã từng có lần vấp ngã.
Vấp ngã bất ngờ sau khi theo Thầy như Phêrô,
trong một phút giây quá tự tin vào sức mình.
Ngã ngựa bất ngờ và trở nên mù lòa như Phaolô,
trong lúc tưởng mình sáng mắt và đi đúng hướng.
Vấp ngã nào cũng đau và in một dấu không phai.
Vấp ngã bẻ lái đưa con người đi vào hướng mới.
Phêrô và Phaolô đều yêu Ðức Giêsu cách nồng nhiệt,
vì họ cảm nhận sâu xa mình được Ngài yêu.
“Này anh Simon, anh có mến Thầy không?
Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy.” (Ga 21,16)
Cả Phaolô cũng yêu Ðấng ông chưa hề chung sống,
vì Ngài là “Con Thiên Chúa,
Ðấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi.” (Gl 2, 20)
Phaolô đã không ngần ngại khẳng định:
Không gì có thể tách được chúng ta
ra khỏi Tình Yêu của Ðức Kitô (x. Rm 8, 35.39)
Tình yêu Ðức Kitô là linh hồn của đời truyền giáo,
vì nói cho cùng truyền giáo chính là
giúp người khác nhận ra và yêu mến
Ðấng đã yêu tôi và yêu cả nhân loại.
Cả hai vị tông đồ đều hăng say rao giảng,
bất chấp muôn vàn nguy hiểm khổ đau.
Phêrô đã từng chịu đòn vọt ngục tù (x. Cv 5,40)
Còn nỗi đau của Phaolô thì không sao kể xiết (x. 2C 11, 23-28).
“Tôi mang trên mình tôi những thương tích của Ðức Giêsu” (Gl 6, 1-7)
Cả hai vị đã chết như Thầy.
Phêrô bị dẫn đến nơi ông chẳng muốn (x. Ga 21, 18).
Phaolô đã chiến đấu anh dũng cho đến cùng,
và đã đổ máu ra làm lễ tế (x. 2Tm 4, 6).
Hội Thánh hôm nay vẫn cần những Phêrô và Phaolô mới,
dám bỏ, dám theo và dám yêu,
dám sống và dám chết cho Ðức Kitô và Tin Mừng.
Hội Thánh vẫn cần những chiếc cột và những tảng đá.
Cầu nguyn:

Lạy Chúa,
chúng con không hiểu tại sao Chúa chọn Simon,
một người đánh cá ít học và đã lập gia đình,
để làm vị Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo Hội.
Chúa xây dựng Giáo Hội
trên một tảng đá mong manh,
để ai nấy ngất ngây trước quyền năng của Chúa.
Hôm nay Chúa cũng gọi chúng con
theo Chúa, sống cho Chúa,
đặt Chúa lên trên mọi sự :
gia đình, sự nghiệp, người yêu.
Chúng con chẳng thể nào từ chối
viện cớ mình kém đức kém tài.
Chúa đưa chúng con đi xa hơn,
đến những nơi bất ngờ,
vì Chúa cần chúng con ở đó.
Xin cho chúng con một chút liều lĩnh của Simon,
bỏ mái nhà êm ấm để lên đường,
hạnh phúc vì biết mình đang đi sau Chúa. Amen.

Lm Antôn Nguyn Cao Siêu, SJ

29 Tháng Sáu
Ngài Là Cha Tôi

Truyện cổ Roma thường ghi lại các cuộc chiến thắng khải hoàn của các vị Hoàng đế. Sau một lần thắng trận, các vị hoàng đế thường hướng dẫn các đoàn quân tiến qua các ngã phố cho dân chúng tung hô.
Lần kia, các đường phố đều đông nghẹt. Người ta phải dựng một khán đài đặc biệt để hoàng gia có thể theo dõi cuộc diễu hành. Khi hoàng đế và quân đội tiến đến gần khán đài nơi hoàng hậu và các công chúa, hoàng tử đang chờ đợi, người ta kinh ngạc vô cùng vì vị hoàng tử nhỏ nhất đã rời khỏi khán đài và chạy vụt đến chiến xa của hoàng đế.
Những người vệ binh có trách nhiệm giữ an ninh hai bên đường đã chận hoàng tử lại. Họ giải thích cho cậu biết rằng: xa giá đang tiến lại gần chính là xa giá của hoàng đế. Không ai được phép đến gần... Vị hoàng tử nhỏ điềm nhiên trả lời: "Ngài là hoàng đế của các ông, còn đối với tôi thì ngài là cha tôi".
"Ngài là cha tôi": đó phải là danh xưng mà chúng ta có quyền sử dụng để gọi Thiên Chúa. Ðó cũng là danh xưng nói lên mối liên hệ mật thiết mà Thiên Chúa luôn muốn thắt chặt với từng người trong chúng ta.
"Ngài là cha tôi": danh xưng ấy cũng cho phép chúng ta khẳng định về giá trị của con người chúng ta. Dù chúng ta có bất tài, yếu hèn, tội lỗi đến đâu, chúng ta vẫn có thể gọi Chúa là Cha.
"Ngài là cha tôi": danh xưng ấy không cho phép chúng ta thất vọng về chính mình. "Hãy trở nên chính mình". Ðó là mệnh lệnh mà Thiên Chúa dành cho từng người chúng ta. Thiên Chúa yêu thương từng người trong chúng ta và yêu thương chúng ta vì những cá biệt của từng người.
Hôm nay chúng ta mừng trọng thể hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô. Hai trụ cột của Giáo hội, nhưng đồng thời cũng là hai tính khí khác nhau, có khi lại xung khắc nhau. 
Một người xuất thân từ một dân chài, nóng nảy, cục mịch. Một người xuất thân là một thư sinh học rộng, hiểu sâu.
Hai trình độ khác nhau, hai tính tình khác nhau, nhưng mẫu số chung nối kết hai tâm hồn: đó là cuộc gặp gỡ với Ðức Kitô. Cuộc gặp gỡ ấy cũng diễn ra trong hai trường hợp khác nhau. Một người chỉ thực sự khám phá ra con người của Ðức Kitô sau ba lần phản bội. Một người chỉ nhận biết Ngài sau những lần truy lùng gắt gao các môn đệ của Ngài... Một người đã nhận ra tình yêu của Ngài qua những giọt nước mắt của sám hối, một người đã gặp gỡ Ngài sau một lần ngã ngựa đớn đau.
Hai tính khí khác nhau, hai trực giác khác nhau, hai đường hướng hoạt động tông đồ khác nhau, nhưng đã gặp gỡ nhau trong tình yêu Chúa và bổ túc cho nhau để xây dựng Giáo hội của Chúa.
Hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô vừa là hình ảnh đa diện phong phú của Giáo Hội, vừa là biểu trưng của Tình Yêu của Chúa đối với chúng ta. Thiên Chúa yêu thương chúng ta trong sự yếu hèn, thiếu sót của chúng ta. Tình yêu đó không đòi hỏi chúng ta phải chối bỏ con người tự nhiên của chúng ta. Trái lại Chúa muốn sử dụng tất cả những khuyết điểm, những giới hạn của con người chúng ta để làm nổi bật sức mạnh và sự khôn ngoan của Ngài.

Lẽ Sống

Lectio Divina: L Thánh Phêrô và Thánh Phaolô, Tông Đ
Thứ Tư, 29 Tháng 6, 2016
Đức Giêsu nói với ông Phêrô:  “Này con là Đá!”
Tảng Đá của hỗ trợ và của cản lối 
Mt: 16:13-23


1.  Lời nguyện mở đầu
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy sai Thần Khí Chúa đến giúp chúng con đọc Kinh Thánh với cùng tâm tình mà Chúa đã đọc cho các môn đệ trên đường Emmau.  Trong ánh sáng của Lời Chúa, được viết trong Kinh Thánh, Chúa đã giúp cho các môn đệ khám phá ra được sự hiện diện của Thiên Chúa trong nỗi đau buồn về bản án và cái chết của Chúa.  Vì thế, cây thập giá tưởng như là sự kết thúc của mọi niềm hy vọng, đã trở nên nguồn mạch của sự sống và sự sống lại.

Xin hãy tạo trong chúng con sự thinh lặng để chúng con có thể lắng nghe tiếng Chúa trong sự Tạo Dựng và trong Kinh Thánh, trong các sự việc của đời sống hằng ngày và trong những người chung quanh, nhất là những người nghèo khó và đau khổ.  Nguyện xin Lời Chúa hướng dẫn chúng con, để giống như hai môn đệ từ Emmau, chúng con cũng sẽ được hưởng sức mạnh sự phục sinh của Chúa và làm chứng cho những người khác rằng Chúa đang sống hiện hữu giữa chúng con như nguồn mạch của tình anh em, công lý và hòa bình.  Chúng con cầu xin vì danh Chúa Giêsu, con Đức Maria, Đấng đã mặc khải cho chúng con về Chúa Cha và đã sai Chúa Thánh Thần đến với chúng con.  Amen.

 2.  Bài Đọc

a)  Chìa khóa dẫn đến bài đọc:
Văn bản phụng vụ của ngày lễ các Thánh Phêrô và Phaolô được lấy từ sách Tin Mừng theo thánh Mátthêu 16:13-19.  Trong phần bình luận của chúng ta, chúng tôi cũng bao gồm các câu 20-23, bởi vì trong toàn bộ của văn bản, các câu 13-23, Chúa Giêsu quay về phía thánh Phêrô và hai lần gọi ông là “đá”.  Một lần Chúa gọi ông là đá nền tảng (Mt 16:18) và một lần là tảng đá cản đường (Mt 16:23).  Cả hai câu nói bổ sung cho nhau.  Trong khi đọc Tin Mừng, chúng ta nên chú ý đến thái độ của ông Phêrô và những lời trang trọng mà Chúa Giêsu nói với ông trong cả hai lần.

b)  Phân đoạn bài Tin Mừng để trợ giúp cho bài đọc:
Mt 16:13-14:  Chúa Giêsu muốn biết người ta nghĩ gì về Người.
Mt 16:15-16:  Chúa Giêsu hỏi các môn đệ và ông Phêrô tuyên xưng đức tin của mình:  “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa!”
Mt 16:17-20:  Sau đó, chúng ta có câu trả lời trang trọng của Chúa Giêsu dành cho ông Phêrô (câu nói chính cho ngày lễ hôm nay).
Mt 16:21-22:  Chúa Giêsu giải thích ý nghĩa của Đấng Cứu Thế, nhưng ông Phêrô phản ứng và từ chối chấp nhận ý nghĩa ấy.
Mt 16:22-23:  Câu trả lời long trọng của Chúa Giêsu dành cho ông Phêrô.

c)  Phúc Âm:  
13 Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt thành Cêsarêa Philípphê, và hỏi các môn đệ rằng:  “Người ta bảo Con Người là ai?” 14 Các ông thưa:  “Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó.”

15 Chúa Giêsu nói với các ông:  “Phần các con, các con bảo Thầy là ai?” 16 Simon Phêrô thưa rằng:  “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống.”

17 Chúa Giêsu trả lời rằng:  “Hỡi Simon con ông Giôna, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt hay máu huyết mặc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. 18Vậy Thầy bảo cho con biết:  Con là Đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được. 19 Thầy sẽ trao cho con chìa khóa Nước Trời.  Sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc, và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở.” 20 Rồi Người cấm ngặt các môn đệ không được nói cho ai biết Người là Đấng Kitô.

21 Từ lúc đó, Đức Giêsu Kitô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết:  Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại.

22 Ông Phêrô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người:  “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!” 23 Nhưng Đức Giêsu quay lại bảo ông Phêrô:  “Satan, lui lại đàng sau Thầy!  Con cản lối Thầy, vì tư tưởng của con không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.”

3.  Giây phút thinh lặng cầu nguyện

Để Lời Chúa được thấm nhập và soi sáng đời sống chúng ta.

4.  Một vài câu hỏi gợi ý

Để giúp chúng ta trong việc suy gẫm cá nhân.

a)  Điều gì trong đoạn Tin Mừng làm tôi chú ý nhất?
b)  Người ta nghĩ Đức Giêsu là ai?  Phần ông Phêrô và các môn đệ thì nghĩ Chúa Giêsu là ai?         
c)  Đối với tôi, Chúa Giêsu là ai?  Tôi là ai đối với Chúa Giêsu?
d)  Phêrô có nghĩa là tảng đá theo hai cách:  hai nghĩa đó là gì?
e)  Cộng đoàn chúng ta thì thuộc loại tảng đá nào?
f)  Trong đoạn Tin Mừng, chúng ta thấy có một số ý kiến về Đức Giêsu là ai và một số cách bày tỏ đức tin.  Ngày nay cũng vậy, có một số ý kiến về Đức Giêsu là ai.  Ý kiến của cộng đoàn chúng ta về Đức Giêsu là gì?  Sứ vụ ngụ ý dành cho chúng ta là loại sứ vụ gì?

5.  Chìa khóa dẫn đến bài đọc

Dành cho những ai muốn đào sâu hơn vào chủ đề.

i)  Bối cảnh:

Trong phần tường thuật Tin Mừng của mình, thánh Mátthêu đã dùng cùng trình tự của Tin Mừng theo thánh Máccô.  Tuy nhiên, ông cũng trích dẫn một tài liệu được thánh Luca và ông biết đến.  Hiếm khi ông đưa ra những dữ kiện hoàn toàn của ông, như trong bài Tin Mừng hôm nay.  Bài Tin Mừng này và cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và ông Phêrô được giải thích theo nhiều cách khác nhau, thậm chí còn theo những chiều hướng đối nghịch trong các giáo hội Kitô giáo khác nhau.  Trong Giáo Hội Công Giáo, văn bản này là cơ sở cho tính ưu việt của ông Phêrô.  Dù sao chăng nữa, cũng không có bất kỳ điều gì làm giảm bớt tầm quan trọng của văn bản này, tốt nhất là đặt nó vào trong bối cảnh của Tin Mừng Mátthêu, nơi mà ở những chỗ khác, phẩm chất được gán cho ông Phêrô cũng là gán cho những người khác.  Chúng không hẳn là riêng cho ông Phêrô.

ii)  Lời bình giải về văn bản: 

a)  Mt 16:13-16:  Các ý kiến của dân chúng và của các môn đệ về Đức Giêsu.

Chúa Giêsu muốn biết người ta nghĩ gì về Người.  Câu trả lời khá là đa dạng:  là Gioan Tẩy Giả, là tiên tri Giêrêmia hay một tiên tri nào đó.  Khi Chúa Giêsu hỏi ý kiến của các môn đệ, ông Phêrô nhân danh các ông mà thưa rằng:  “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống!”  Câu trả lời của ông Phêrô không có gì mới mẻ.  Vào một dịp trước đó, khi Chúa Giêsu đi trên mặt nước, các môn đệ đã tuyên xưng đức tin một cách tương tự:  “Quả thật Thầy là Con Thiên Chúa!” (Mt 14:33).  Đây là lời thừa nhận rằng trong Đức Giêsu, những lời tiên tri của Cựu Ước đã được thực hiện.  Trong Tin Mừng của thánh Gioan, bà Máctha cũng đã tuyên xưng tín điều tương tự:  “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian” (Ga 11:27).

b)  Mt 16:17:  Câu trả lời của Chúa Giêsu dành cho ông Phêrô:  Hỡi Simon, con ông Giôna, con thật có phúc!

Chúa Giêsu tuyên bố rằng ông Phêrô thật là “có phúc” bởi vì ông đã được mặc khải bởi Đức Chúa Cha.  Câu trả lời của Chúa Giêsu cũng chẳng mới lạ gì.  Vào một dịp trước đây, Đức Giêsu cũng đã thực hiện việc công bố cùng một niềm ân phúc cho các môn đệ vì các ông đã được nghe và được thấy điều mà trước đây không ai được nghe và thấy (Mt 13:16), và Người ca tụng Đức Chúa Cha vì Người đã mặc khải Con Thiên Chúa cho những kẻ bé mọn mà không mặc khải cho những bậc khôn ngoan thông thái (Mt 11:25).  Ông Phêrô là một trong những kẻ bé mọn mà chính Chúa Cha đã mặc khải cho.  Việc nhận thức rằng Thiên Chúa hiện diện trong con người Đức Giêsu không phải “đến từ xác thịt và máu”, đó không phải là kết quả của sự nghiên cứu hoặc nỗ lực của loài người, mà là một ân sủng mà Thiên Chúa tự ý ban cho người đó.    

c)  Mt 16:18-20:   Tư cách khả năng của ông Phêrô:  Là nền đá tảng và giữ chìa khóa cửa Nước Trời.

1.  Là Tảng Đá:  ông Phêrô phải là đá, đó là, ông phải là nền tảng vững chắc cho Hội Thánh, để Giáo Hội có thể đứng vững trước các cuộc tấn công của cửa địa ngục.  Qua những lời này của Chúa Giêsu nói với ông Phêrô, thánh Mátthêu khuyến khích các cộng đoàn đang bị bách hại và đau khổ tại Syria và Paléstine, là những người đã chứng kiến sự lãnh đạo của ông Phêrô được đánh dấu từ lúc đầu.  Dù rằng yếu ớt và bị đàn áp, họ đã có một nền tảng vững chắc, được bảo đảm bởi Lời của Chúa Giêsu.  Vào những ngày ấy, các cộng đoàn được gieo trồng một mối quan hệ tình cảm rất vững chắc với các nhà lãnh đạo đã tạo lập ra cộng đoàn.  Do đó, các cộng đoàn tại Syria và Paléstine đã vun trồng mối quan hệ của họ với con người Phêrô; những người thuộc cộng đoàn Hy Lạp thì với thánh Phaolô; một số cộng đoàn ở tiểu Á thì với Người Môn Đệ Chúa Yêu và những cộng đoàn khác thì với thánh Gioan của sách Khải Huyền.  Xác định căn tính của mình với nhà lãnh đạo của xứ sở họ đã giúp cho cộng đoàn phát triển tốt hơn trong phần bản sắc và tâm linh.  Nhưng điều này cũng có thể làm phát sinh xung đột như trong trường hợp của cộng đoàn Côrintô (1Cr 1:11-12).

Là nền đá tảng của đức tin, gợi nhớ lại trong trí Lời Chúa nói với dân chúng trong thời gian lưu đày ở Babylon:  “Hỡi ai theo đuổi sự công chính, hỡi kẻ đi tìm Đức Chúa, hãy nghe Ta!  Hãy đưa mắt nhìn lên tảng đá:  từ tảng đá này, các ngươi sẽ được đẽo ra; hãy đưa mắt nhìn vào hầm đá:  từ hầm đá này, các ngươi sẽ được lấy ra.  Hãy ngước mắt nhìn tổ phụ Ápraham và Sara, người đã sinh ra các ngươi; vì khi được Ta gọi, Ápraham chỉ có một mình, nhưng Ta đã ban phúc lành cho nó, và cho nó trở nên đông đảo” (Is 51:1-2).  Khi được áp dụng cho ông Phêrô, phẩm chất của nền đá tảng này hướng đến một khởi đầu mới cho dân riêng của Thiên Chúa.    

2.  Chìa khóa của Nước Trời:  ông Phêrô nhận lãnh chìa khóa Nước Trời để cầm buộc và tháo gỡ, có nghĩa là, để hòa giải con người với Thiên Chúa.  Cùng một quyền lực cầm buộc và tháo gỡ cũng được trao cho các cộng đoàn (Mt 18:8) và các môn đệ (Ga 20:23).  Một trong những điểm mà Tin Mừng Mátthêu khẳng định là ơn hòa giải và tha thứ (Mt 5:7,23-24,38-42,44-48; 6:14-15).  Thực tế là vào những năm của thập niên 80 và 90, có rất nhiều căng thẳng và chia rẽ giữa các gia đình trong cộng đoàn tại Syria vì đức tin vào Chúa Giêsu.  Có một số người chấp nhận Ngài là Đấng Mêssia trong khi những kẻ khác thì không, và điều này là nguồn gốc của nhiều quan điểm trái ngược và xung đột.  Thánh Mátthêu khẳng định về việc hòa giải.  Sự hòa giải tiếp tục là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của các điều phối viên của cộng đoàn.  Giống như ông Phêrô, họ cũng phải ràng buộc và tháo gỡ, có nghĩa là, làm việc để mang lại sự hòa giải, chấp nhận lẫn nhau, và xây dựng tình huynh đệ đích thực.

3.  Hội Thánh:  từ ngữ Hội Thánh, tiếng Hy Lạp là ekklesia, được tìm thấy 105 lần trong Tân Ước, hầu như luôn tìm thấy trong sách Tông Đồ Công Vụ và các Thánh Thư.  Chúng ta chỉ tìm thấy chữ này ba lần trong các sách Tin Mừng và chỉ trong sách Tin Mừng của Mátthêu mà thôi.  Từ ngữ này có nghĩa là “cộng đoàn được gọi” hay là “cộng đoàn được tuyển chọn”.  Từ ngữ này áp dụng cho những người tụ tập lại, được mời gọi bởi Lời Thiên Chúa, những người tìm kiếm để sống sứ điệp về Nước Trời được đem đến bởi Chúa Giêsu.  Giáo Hội không phải là Nước Trời, mà là một khí cụ và là một dấu chỉ của Nước Trời.  Nước Trời thì cao trọng hơn.  Trong Giáo Hội, cộng đoàn, tất cả mọi người phải trông thấy hoặc nên thấy những gì sẽ xảy ra khi một nhóm người để cho Thiên Chúa cai trị và chiếm hữu đời sống của mình.

d)  Mt 16:21-22:  Chúa Giêsu hoàn chỉnh những gì thiếu sót trong câu trả lời của ông Phêrô, và Phêrô phản ứng bằng cách không chấp nhận.

Thánh Phêrô đã tuyên xưng:  “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống!”  Để phù hợp với ý tưởng thịnh hành thời bấy giờ, ông đã tưởng tượng ra một Đấng Cứu Thế vinh quang.  Chúa Giêsu đã sửa ông:  “Thật là cần thiết cho Đấng Cứu Thế phải chịu đau khổ và sẽ bị giết chết tại Giêrusalem”.  Với những chữ “cần thiết”, Chúa nói rằng sự đau khổ đã được dự kiến trong những lời tiên tri (Is 53:2-8).  Nếu các môn đệ chấp nhận Chúa Giêsu như là Đấng Cứu Thế và là Con Thiên Chúa, thì các ông cũng phải chấp nhận Người như là Đấng Mêssia Tôi Tớ phải chịu chết.  Không những chỉ có chiến thắng vinh quang mà cũng còn phải qua con đường thập giá!  Nhưng ông Phêrô không chịu nghe lời sửa dạy của Chúa Giêsu và cố gắng thuyết phục Người.

e)  Mt 16:23:  Câu trả lời của Chúa Giêsu cho ông Phêrô:  Tảng đá cản đường

Câu trả lời của Chúa Giêsu thật đáng ngạc nhiên:  “Satan, lui lại đàng sau Thầy!  Con cản lối Thầy, vì tư tưởng của con không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người!”  Satan là một trong những kẻ đã lôi kéo chúng ta ra khỏi con đường mà Thiên Chúa đã vạch ra cho chúng ta.  Chúa Giêsu, theo đúng nghĩa đen, nói rằng:  “Hãy lui lại đàng sau Thầy!” (theo tiếng Latin, vada retro!).  Ông Phêrô muốn lèo lái và chỉ đường.  Chúa Giêsu nói:  “Hãy lui lại đàng sau Thầy!”  Đức Giêsu là người chỉ đường và giữ nhịp chứ không phải ông Phêrô.  Người môn đệ phải đi theo sau thầy mình.  Người ấy phải sống trong sự chuyển đổi liên tục.  Lời của Chúa Giêsu cũng là một thông điệp cho tất cả những ai đang đứng đầu cộng đoàn.  Họ phải “đi theo” chúa Giêsu và không thể đi ở phía trước như ông Phêrô đã muốn đi.  Không phải chỉ có họ mới là những người có thể vạch ra đường hướng hay cách thức.  Mà trái lại, giống như ông Phêrô, thay vì phải là tảng đá hỗ trợ, họ có thể trở thành tảng đá cản đường.  Như có một số người lãnh đạo cộng đoàn tại thời ông Mátthêu.  Mơ hồ rằng hình như cũng có những chuyện tương tự xảy ra giữa chúng ta ngày nay.

iii)  Phụ chú Tin Mừng liên quan đến ông Phêrô:

Chân dung thánh Phêrô.

Thánh Phêrô được biến đổi từ một ngư phủ đánh cá sang một ngư phủ đi lưới người (Mc 1:7).  Ông đã lập gia đình (Mc 1:30).  Ông là một người tốt bụng và rất nhân bản.  Ông có khuynh hướng đảm nhận vai trò lãnh đạo cách tự nhiên trong số mười hai môn đệ của Chúa Giêsu.  Đức Giêsu tôn trọng khả năng thiên phú này và chọn Phêrô làm người lãnh đạo cho cộng đoàn đầu tiên của mình (Ga 21:17).  Trước khi gia nhập cộng đoàn của Chúa Giêsu, Phêrô có tên là Simon con ông Giôna (Mt 16:17).  Chúa Giêsu đặt tên cho ông là Kêpha có nghĩa là Đá, và từ đó trở thành tên Phêrô (Lc 6:14).

Cách tự nhiên, ông Phêrô có thể là bất cứ điều gì, ngoại trừ là đá.  Ông dũng cảm trong lời nói, nhưng trong giờ phút lâm nguy ông trở thành kẻ sợ hãi và trốn chạy.  Ví dụ, khi Đức Giêsu đi trên mặt nước, ông Phêrô đã hỏi:  “Lạy Thầy Giêsu, con cũng có thể đi trên mặt nước mà đến với Thầy không?”  Chúa Giêsu trả lời:  “Cứ đến, Phêrô!”  Ông Phêrô liền từ thuyền bước xuống và bắt đầu đi trên mặt nước.  Nhưng khi một làn gió lớn thổi lên, ông đã sợ và bắt đầu chìm.  Khi ấy ông kêu lên:  “Lạy Chúa, xin cứu con với!”  Chúa Giêsu nắm lấy tay ông và cứu ông (Mt 14:28-31).  Trong bữa Tiệc Ly, ông Phêrô đã thưa với Chúa Giêsu:  “Lạy Chúa, con sẽ không bao giờ chối Chúa!” (Mc 14:31); thế mà chỉ ít giờ sau đó, tại dinh thượng tế, trước mặt một cô tớ gái, khi Chúa Giêsu đã bị bắt, ông Phêrô đã chối Chúa Giêsu và thề độc rằng ông không biết Người là ai (Mc 14:66-72).  Trong vườn Cây Dầu, khi Chúa Giêsu bị bắt, ông thậm chí còn dùng đến gươm đao (Ga 18:10), nhưng sau đó bỏ trốn, để lại một mình Chúa Giêsu (Mc 14:50).  Ông Phêrô tự nhiên không là một tảng đá!  Thế nhưng là một ông Phêrô yếu hèn và con người, cũng như chúng ta, đã trở nên tảng đá bởi vì Chúa đã cầu nguyện cho ông:  “Phêrô, Thầy đã cầu nguyện cho con để con khỏi mất lòng tin.  Phần con, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của con nên vững mạnh” (Lc 22:31-32).  Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu đã có thể nói:  “Con là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy” (Mt 16:18).  Chúa Giêsu đã giúp ông trở thành tảng đá.  Sau khi sống lại, ở Galilêa, Chúa Giêsu đã hiện ra với ông Phêrô và hỏi ông hai lẩn:  “Phêrô, con có yêu mến Thầy không?  Và ông Phêrô đã thưa lại hai lần:  “Lạy Chúa, Chúa biết con yêu mến Chúa” (Ga 21:15,16).  Khi Chúa Giêsu hỏi cùng câu hỏi đến lần thứ ba với ông, Phêrô đã buồn.  Chắc ông đã nhớ đến việc mình đã chối Chúa ba lần.  Vì vậy, ông đã trả lời:  “Lạy Chúa, Chúa biết tất cả mọi sự!  Chúa biết rằng con yêu mến Chúa!”  Đến lúc đó Chúa Giêsu mới trao phó cho ông việc chăm sóc đàn chiên:  “Phêrô, hãy chăm sóc chiên của Thầy!” (Ga 21:17).  Với sự giúp đỡ của Chúa Giêsu, sức mạnh của tảng đá tăng triển trong con người Phêrô và ông đã tự tỏ lộ vào ngày lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống.  Vào ngày hôm ấy, khi Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các môn đệ, ông Phêrô đã mở các cánh cửa của căn phòng trên lầu nơi tất cả các ông đã cùng tụ họp đàng sau các cánh cửa khép kín vì sợ người Do Thái (Ga 20:19), và được truyền cho lòng can đảm, đã bắt đầu công bố Tin Mừng của Chúa Giêsu cho dân chúng (Cv 2:14-40).  Từ đó ông không bao giờ ngừng nghỉ!  Trong câu chuyện về việc công bố dũng cảm này về sự sống lại, ông đã bị tống ngục (Cv 4:3).  Trong khi bị thẩm vấn, ông đã bị cấm không được loan báo về Tin Mừng của Chúa Giêsu nữa (Cv 4:18), nhưng ông Phêrô đã không tuân theo lệnh cấm.  Ông đáp:  “Chúng tôi phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời loài người!” (Cv 4:19; 5:29).  Ông lại bị bắt lần nữa (Cv 5:18,26).  Ông đã bị đánh dòn (Cv 5:40).  Nhưng ông đã nói:  “Cảm ơn quý vị rất nhiều.  Nhưng chúng tôi phải tiếp tục giảng dạy! (xem Cv 5:42).

Truyền thống cho chúng ta biết rằng vào cuối đời của ông, khi ở thành Rôma, ông Phêrô đã lại có một khoảng khắc sợ hãi.  Nhưng sau đó ông đã trở lại, bị bắt và bị kết án tử hình đóng đinh trên thập giá.  Tuy nhiên, ông đã xin cho được đóng đinh ngược đầu xuống đất.  Ông nghĩ rằng mình không xứng đáng để chết trong cùng một cách như Thầy mình, Đức Giêsu.  Ông Phêrô đã sống thật với chính mình cho đến phút cuối cùng.
                                                                                                                                        
6.  Thánh Vịnh 103 (102)                                                                                                          
Chúc tụng CHÚA đi, hồn tôi hỡi,
toàn thân tôi, hãy chúc tụng Thánh Danh!

Chúc tụng CHÚA đi, hồn tôi hỡi,
chớ khá quên mọi ân huệ của Người.
CHÚA tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi,
thương chữa lành các bệnh tật ngươi.
Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt,
bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà,
ban cho đời ngươi chứa chan hạnh phúc,
khiến tuổi xuân ngươi mạnh mẽ tựa chim bằng.

CHÚA phân xử công minh,
bênh quyền lợi những ai bị áp bức,
mặc khải cho Môisen biết đường lối của Người,
cho con cái nhà Ít-ra-en
thấy những kỳ công Người thực hiện.

CHÚA là Đấng từ bi nhân hậu,
Người chậm giận và giàu tình thương,
chẳng trách cứ luôn luôn,
không oán hờn mãi mãi.
Người không cứ tội ta mà xét xử,
không trả báo ta xứng với lỗi lầm.

Như trời xanh trổi cao hơn mặt đất,
tình Chúa thương kẻ thờ Người cũng trổi cao.
Như đông đoài cách xa nhau ngàn dặm,
tội ta đã phạm, Chúa cũng ném thật xa ta.
Như người cha chạnh lòng thương con cái,
CHÚA cũng chạnh lòng thương kẻ kính tôn.

Người quá biết ta được nhồi nắn bằng gì,
hẳn Người nhớ: ta chỉ là cát bụi.
Kiếp phù sinh, tháng ngày vắn vỏi,
tươi thắm như cỏ nội hoa đồng,
một cơn gió thoảng là xong,
chốn xưa mình ở cũng không biết mình.

Nhưng ân tình CHÚA thiên thu vạn đại,
dành cho kẻ nào hết dạ kính tôn.
Người xử công minh cả với đời con cháu,
cả những ai giữ giao ước của Người
và nhớ tuân hành mệnh lệnh Người ban.

CHÚA đặt ngai báu trên trời cao thẳm,
quyền đế vương bá chủ muôn loài.
Chúc tụng CHÚA đi, hỡi muôn vì thiên sứ,
bậc anh hùng dũng mãnh thực hiện lời Người,
luôn sẵn sàng phụng lệnh.

Chúc tụng CHÚA đi, toàn thể thiên binh,
hằng hầu cận và tuân hành thánh ý.
Chúc tụng CHÚA đi, muôn vật Chúa tạo thành,
thuộc quyền Người thống trị khắp nơi nơi.
Chúc tụng CHÚA đi, hồn tôi hỡi!

7.  Lời Nguyện Kết

Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ Chúa về Lời Chúa đã giúp chúng con hiểu rõ hơn ý muốn của Chúa Cha.  Nguyện xin Thần Khí Chúa soi sáng các việc làm của chúng con và ban cho chúng con sức mạnh để thực hành Lời Chúa đã mặc khải cho chúng con.  Nguyện xin cho chúng con, cũng được trở nên giống như Đức Maria, thân mẫu Chúa, không những chỉ lắng nghe mà còn thực hành Lời Chúa.  Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Đức Chúa Cha trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.  Amen.





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét