05/08/2018
Chúa Nhật tuần 18 Thường Niên năm B
(phần I)
BÀI ĐỌC I: Xh 16, 2-4.
12-15
“Ta sẽ cho bánh từ trời rơi xuống
như mưa”.
Trích sách Xuất
Hành.
Trong những ngày ấy,
toàn thể cộng đoàn con cái Israel kêu trách Môsê và Aaron, họ nói với hai ông rằng:
“Thà chúng tôi chết trong đất Ai-cập do tay Chúa, khi chúng tôi ngồi kề bên nồi
thịt và ăn no nê. Tại sao các ông dẫn chúng tôi lên sa mạc này, để cả lũ phải
chết đói như vầy?”
Chúa liền phán cùng
Môsê rằng: “Đây Ta sẽ cho bánh từ trời rơi xuống như mưa: dân chúng phải đi lượm
bánh ăn mỗi ngày, để Ta thử coi dân có tuân giữ lề luật của Ta hay không. Ta đã
nghe tiếng kêu trách của con cái Israel: ngươi hãy nói với họ rằng: ‘Chiều nay
các ngươi sẽ ăn thịt, và sáng mai sẽ ăn bánh no nê, như thế các ngươi sẽ biết rằng
Ta là Thiên Chúa các ngươi'”.
Chiều hôm ấy, có chim
cút bay tới che rợp các trại, và sáng hôm sau có sương sa xuống quanh trại. Tới
lúc sương tan trên mặt đất, thì thấy có vật gì nho nhỏ tròn tròn như hột sương
đông đặc trên mặt đất. Con cái Israel thấy vậy, liền hỏi nhau rằng: “Man-hu”,
có nghĩa là: “Cái gì vậy?” vì họ không biết là thứ gì. Môsê liền nói với họ:
“Đó là bánh do Chúa ban cho anh em ăn”. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 77, 3 và
4bc. 23-24. 25 và 54
Đáp: Chúa đã ban
cho họ được bánh bởi trời (c. 24b).
Xướng: 1) Điều mà
chúng tôi đã nghe, đã biết mà tổ tiên đã thuật lại cho chúng tôi hay, chúng tôi
sẽ kể lại cho thế hệ tương lai: đó là những lời khen ngợi và quyền năng của
Chúa. – Đáp.
2) Nhưng Người đã ra lệnh
cho ngàn mây trên cõi cao xanh, và Người đã mở rộng các cửa trời. Người đã làm
mưa man-na xuống để họ ăn, và Người đã ban cho họ được bánh bởi trời. – Đáp.
3) Con người được ăn
bánh của những bậc hùng anh; Người ban cho họ lương thực ăn tới no nê. Người
đưa họ vào nơi thánh địa của Người, tới miền núi non mà tay hữu Người tậu sắm.
– Đáp.
BÀI ĐỌC II: Ep 4, 17.
20-24
“Hãy mặc lấy người mới đã được
tác thành theo thánh ý Chúa”.
Trích thư Thánh
Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Anh em thân mến, tôi
nói với anh em điều này, và chứng thực trong Chúa là anh em chớ ăn ở như Dân
Ngoại ăn ở, chiều theo sự giả trá của tâm tư mình. Phần anh em, anh em không hề
học biết Đức Kitô như thế đâu, nhưng nếu anh em đã nghe biết Người và đã được
thụ giáo trong Người, như sự chân thật trong Đức Giêsu dạy, là anh em hãy khử
trừ lối sống xưa kia, hãy lột bỏ con người cũ, đã bị hư theo những đam mê lầm lạc.
Anh em hãy trở nên mới trong lòng trí anh em, hãy mặc lấy người mới đã được tác
thành theo thánh ý Chúa trong sự công chính và thánh thiện xứng với sự thật. Đó
là lời Chúa.
ALLELUIA:
Alleluia, alleluia!
– Lạy Chúa, xin mở lòng chúng con, để chúng con nghe lời Con Chúa. –
Alleluia.
PHÚC ÂM: Ga 6, 24-35
“Ai đến với Ta sẽ không hề đói,
ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, lúc đám đông
thấy không có Chúa Giêsu ở đó, và môn đệ cũng không, họ liền xuống các thuyền
và đến Caphar-naum tìm Chúa Giêsu. Khi gặp Người ở bờ biển bên kia, họ nói với
Người rằng: “Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ?” Chúa Giê-su đáp: “Thật, Ta bảo
thật các ngươi, các ngươi tìm Ta, không phải vì các ngươi đã thấy những dấu lạ,
nhưng vì các ngươi đã được ăn bánh no nê. Các ngươi hãy ra công làm việc không
phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống muôn đời,
là của ăn Con Người sẽ ban cho các ngươi. Người là Đấng mà Thiên Chúa Cha đã
ghi dấu”.
Họ liền thưa lại rằng:
“Chúng tôi phải làm gì để gọi là làm việc của Thiên Chúa?” Chúa Giêsu đáp: “Đây
là công việc của Thiên Chúa là các ngươi hãy tin vào Đấng Ngài sai đến”.
Họ thưa Chúa Giêsu:
“Ngài sẽ làm dấu lạ gì để chúng tôi thấy mà tin Ngài? Ngài làm được việc gì?
Cha ông chúng tôi đã ăn manna trong sa mạc, như đã chép rằng: “Người đã ban cho
họ ăn bánh bởi trời”. Chúa Giêsu đáp: “Thật, Ta bảo thật các ngươi, không phải
Môsê đã ban cho các ngươi bánh bởi trời, mà chính Cha Ta mới ban cho các ngươi
bánh bởi trời đích thực. Vì bánh của Thiên Chúa phải là vật tự trời xuống, và
ban sự sống cho thế gian”.
Họ liền thưa Người rằng:
“Thưa Ngài, xin cho chúng tôi bánh đó luôn mãi”. Chúa Giêsu nói: “Chính Ta là
bánh ban sự sống. Ai đến với Ta, sẽ không hề đói; ai tin vào Ta, sẽ không hề
khát bao giờ”. Đó là lời Chúa.
SUY NIỆM : Câu Truyện Manna, Bánh Bởi Trời
Lời Chúa hôm nay tiếp nối giáo huấn Chúa nhật trước. Chúng ta hy vọng sẽ
lĩnh hội được nhiều tư tưởng thâm thúy hơn và nhiều ơn cao cả hơn. Cho được như
vậy, chúng ta phải cố gắng tìm hiểu cặn kẽ các bài Kinh Thánh vừa nghe đọc.
1. Một Câu Truyện Ðược Nghiền Ngẫm Lâu Năm
Bài đọc I thuật lại một câu truyện đã xảy ra ở thời Xuất hành, tức là
vào buổi dân Chúa mới được ra khỏi Aicập, khoảng năm 1250 trước Chúa Yêsu giáng
sinh, cách chúng ta chừng 32 thế kỷ rưỡi. Chúng ta cứ tưởng tượng đoàn người
Dothái bấy giờ đang đi theo Môsê nơi hoang địa. Cơm ăn nước uống còn thiếu, huống
nữa là những "văn phòng phẩm" để ghi chép các việc xảy ra hằng ngày.
Chắc chắn ở thời bấy giờ chẳng ai đã viết nhật ký trên giấy trắng mực đen.
Nhưng trái lại, trí nhớ của con người khi ấy lại dính kỹ khác thường. Người ta
nhớ hết những gì xảy ra, rồi truyền lại cho hậu thế, từ cha tới con, tới cháu,
tới chắt... Phải đợi đến nhiều thế kỷ sau, những truyện ngày xưa ấy mới được viết
ra trên các thứ "giấy" của thời bấy giờ. Riêng trong dân Dothái, các
tác giả lại không phải là những văn sĩ thường. Họ là những con người đạo đức được
Thiên Chúa thúc đẩy và trợ giúp viết lại truyện xưa nhưng để "dạy đạo".
Các sự việc, như thế đã được suy nghĩ lại rất nhiều. Nói rằng các tác giả đã mặc
cho chúng những bộ áo màu sắc tôn giáo, cũng chưa đủ. Phải nói rằng họ đã dùng
ánh sáng đức tin và ơn soi sáng của Thánh Thần để nhìn và đọc lại các biến cố
ngày trước, hầu nhận ra được sự can thiệp và bàn tay hướng dẫn lịch sử của
Thiên Chúa ở trong các biến cố kia. Do đó, các câu truyện viết về những thời đại
xa xưa trong Cựu Ước đều có mục đích huấn giáo hơn là kể truyện.
Câu truyện Manna hôm nay cũng vậy. Nó thuật lại những sự việc xảy ra thời
xưa, nhưng đã được suy nghĩ trong nhiều thế kỷ và được viết ra để giáo huấn. Ai
không hiểu như vậy sẽ đọc đoạn văn này theo nghĩa đen và không thấy nó nói gì với
mình hơn điều này là ngày xưa đã có một chuyện như thế. Nhiều học giả không có
đức tin, khi đọc trang Kinh Thánh này, không hiểu theo nghĩa đen, nhưng cũng
không thấy nó nói gì cho đời sống của mình. Họ sẽ giải thích rằng: đoàn người
Dothái bấy giờ vừa ra khỏi đất Aicập màu mỡ và đang tiến về "Ðất Hứa"
chảy sữa và mật. Ở giữa sa mạc hoang vu, họ thiếu lương ăn nước uống. Họ kêu
trách Môsê và ông này giới thiệu với họ một thứ phấn cây ăn được để cầm cự cho
đến khi ra khỏi sa mạc. Nhưng nếu dừng lại ở chỗ giải thích như vậy, người ta
chưa đọc Thánh Kinh, mà mới chỉ đọc truyện. Thánh Kinh là Lời Chúa. Khi đọc
Thánh Kinh, người ta phải tự hỏi Chúa muốn nói gì đây? Hay ít ra, tác giả thánh
muốn thông đạt tư tưởng nào?
Chúng ta có thể đồng ý với các học giả mà quyết rằng thứ
"Manna" mà dân Dothái ăn trong sa mạc là loại "lương thực bất đắc
dĩ" cho kẻ chẳng tìm được thức ăn gì khác. Chính sách Dân số (11,4-6;
21,5) cũng coi khinh thứ thực phẩm này. Nhưng điều cốt yếu không ở tại giá trị
của Manna. Chính lúc bấy giờ câu truyện đã quan trọng ở điểm khác. Và sau này
giá trị của nó còn xê dịch thêm nữa.
Bấy giờ, câu truyện chú ý đến việc dân Dothái kêu trách Môsê và Aaron, tức
là kêu trách Thiên Chúa. Có lần họ kêu trách như vậy, Người để rắn độc ra cắn
nhiều người. Lần này, Người không phạt, nhưng lại "thử thách" họ. Người
cho "mưa" thứ phấn cây ấy xuống và Môsê giới thiệu cho họ đó là thực
phẩm mới Chúa ban. Nó chẳng ngon lắm, nhưng ăn được. Chúa đã cho họ ăn như thế
để rồi xem họ có trung thành với Chúa không?
Có lẽ thoạt đầu chỉ có như vậy. Nhưng về sau qua nhiều thế kỷ suy nghĩ,
trọng tâm của câu truyện xê dịch khác nhiều. Manna trở thành một thực phẩm hi hữu
từ trời mưa xuống. Nó là tặng phẩm của Cha nhân ái ban cho thời đại vàng son vì
thời gian sống nơi sa mạc gần gũi Chúa và được Chúa dẫn dắt không là vàng son
sánh với các thời đại chung chạ với dân ngoại và trở thành dân lưu lạc sao?
Chúng ta cần nhớ lại bối cảnh xuất xứ của bản văn hôm nay để hiểu ý của
tác giả. Ông sống nhiều thế kỷ sau biến cố Xuất hành. Ông là người đạo đức thấy
dân Chúa càng ngày càng tội lỗi. Vì thế đối với ông, thời Chúa làm cho dân những
kỳ công nơi Aicập và trong sa mạc là thời đại vàng son. Tiếng "Manna"
thoát ra từ miệng dân khi thấy vật lạ, chỉ có nghiã là: "cái gì vậy".
Ðối với ông, nó không còn là một dấu hỏi hay là một giọng nghi nan nữa, mà đã
trở thành một ngạc nhiên, ngưỡng mộ: "cái gì (lạ) như vậy!".
Ông kinh ngạc trước lòng tốt và tặng phẩm của Chúa bao nhiêu thì lại
càng rầu lòng vì thái độ bất trung, bất hiếu của dân. Ông nhấn mạnh đến ý nghĩa
"thử thách" của thứ lương thực mới này. Không những nó được ban để
xem dân có biết mở mắt ra mà tin tưởng và trung thành với Chúa không; mà Chúa
còn cho kèm nhiều lệnh truyền: không được lấy quá mức ăn một ngày; riêng ngày
áp hưu lễ được lấy gấp đôi để ngày Sabat nghỉ ngơi hoàn toàn hầu bắt chước
Chúa. Những lệnh này suy ra nữa sẽ thấy tác giả muốn ngụ ý nói rằng: thời gian
sa mạc là thời đại lý tưởng; ai ai cũng được nuôi dưỡng theo nhu cầu; nhưng
không ai hơn ai và chẳng ai có sở hữu gì; mọi người sống "hằng ngày dùng đủ",
hoàn toàn tùy thuộc ơn Chúa và không làm giàu làm có; người ta lại có nếp sống
theo thời khóa biểu của Thiên Chúa.
Suy nghĩ như vậy thì đã đi xa cốt truyện lúc đầu. Nhưng đó mới là tư tưởng
của tác giả Thánh Kinh và là ý Chúa muốn nói với chúng ta. Nó dẫn chúng ta vào
bài Tin Mừng hôm nay, vì người Dothái, như ta sẽ thấy, có tư tưởng như thế khi
họ gợi lại câu truyện Manna.
2. Một Cuộc Ðối Thoại Gay Go
Theo tác giả Yoan, thì sau khi Ðức Yêsu rút lui lên núi để tránh việc
người ta tôn Người làm vua, các môn đệ đã lên thuyền trở về Capharnaum. Nhưng
dùng quyền năng, Người cũng đã cùng cập bến với họ. Hôm sau, dân chúng mới về.
Gặp Người, họ muốn hỏi Người đã trở lại Capharnaum bằng cách nào? Nhưng
Người đã đọc được tâm tư của họ là lại muốn được nuôi ăn như hôm trước. Người
liền dạy bảo: "Hãy lao công đừng vì lương thực hư nát, nhưng lương thực sẽ
lưu lại mãi đến sự sống đời đời". Có thể nói Người đã chán ngấy với thái độ
của người ta chỉ muốn lợi dụng quyền năng của Người để được những sự ở đời này�
đang khi Người đã giao ước cho họ kho tàng Nước Trời là sự sống đời đời. Thành
ra cuộc đời... vô cùng khó khăn.
Vừa nghe Người nói phải "lao công", họ đã nghĩ ngay đến
"các việc đạo đức" mà thường tiên tri nào mới cũng đề ra để hứa hẹn hạnh
phúc cho những ai thi hành. Cũng có thể họ chờ đợi Người phát biểu ý kiến về
các việc đạo đức mà Luật dạy phải làm. Những thứ việc này nhiều lắm, làm không
hết; nên người ta thắc mắc không biết phải làm việc nào và có thể bỏ việc nào?
Nhưng Ðức Yêsu không phải là luật sĩ để có ý kiến về những vấn đề tỉ mỉ này.
Người cũng không phải là tiên tri như mọi tiên tri khác. Người là Con Thiên
Chúa được Chúa Cha sai đến và niêm ấn bằng uy quyền trong lời nói và việc làm.
Người đã giới thiệu mình như thế mà người ta vẫn không biết mở mắt ra mà nhìn.
Họ cứ hỏi những câu trên để lôi Người xuống ngang hàng với họ và đáp ứng các
nhu cầu vật chất của họ. Nhưng Người không thể chiều theo dục vọng của người
ta. Người như khẳng định: không có vấn đề nhiều việc đạo đức mà chỉ có một: đó
là tin vào Ðấng mà Thiên Chúa sai đến.
Lời tuyên bố rõ rệt quá. Người ta hiểu: Ðức Yêsu bảo họ phải tin vào Người
là Ðấng Thiên Sai. Những Ngài đã làm gì để chúng tôi tin? Họ nghĩ như vậy. Tác
giả Yoan diễn tả ý họ một cách hơi khác. Ông vốn có óc phụng vụ và thiên về mầu
nhiệm, như chúng ta đã có lần nói. Ông đặt những từ ngữ chuyên môn của mầu nhiệm
đức tin và bí tích trên môi các diễn viên. Ông viết: họ nói với Ðức Yêsu:
"Vậy thì ông làm dấu gì để chúng tôi thấy mà tin ông?". Ðối với Yoan
"dấu" là những việc để khơi lên niềm tin và đòi được chấp nhận. Còn đối
với người Dothái, những việc khiến họ tin phải vĩ đại kỳ diệu hơn cả những kỳ
công mà Thiên Chúa đã làm trong quá khứ. Chẳng hạn Môsê đã cho dân được Manna
thì vị Cứu thế phải cho dân được thứ lương thực mỹ vị và lâu dài hơn... một lần
hóa bánh ra nhiều chưa bảo đảm. Hơn nữa họ còn lý tưởng hóa Manna theo các tác
giả thời sau (như Tv 105, 40; 78, 24-25; Ne 9, 15.20; Kng 16,20-21) chứ không
như tác giả sách Dân số (11,4-6; 21,5). Dù đã bị Ðức Yêsu khước từ cử chỉ của họ
muốn tôn Người làm vua và dù đã qua một đêm suy nghĩ, họ vẫn còn mơ ước một vị
tiên tri hoàn toàn với những vinh quang của trần gian này.
Một lần nữa, Ðức Yêsu lại phủ nhận lập trường của họ. Ngài vạch cho họ
thấy nó sai từ căn bản. Họ nhắc lại truyện Manna, nhưng họ đã không đọc được ý
của tác giả thánh trong câu truyện ấy như chúng ta đã trình bày ở trên. Họ chỉ
giữ lại cái cốt truyện vật chất; còn tinh thần và ý nghĩa đạo đức sâu xa của nó
thì họ bỏ qua. Hơn nữa họ còn "vật chất hóa" lời Thánh Kinh. Thánh vịnh
nói: "Người đã ban cho họ ăn bánh bởi trời". Câu này họ hiểu về Môsê
đã ban Manna cho họ. Ðức Yêsu bảo không phải. Môsê không ban Manna, nhưng chính
Thiên Chúa đã ban. Còn nói gì đến việc ông ban bánh bởi trời! Làm sao ông có thể
làm được việc đó? Chính Chúa Cha đang ban bánh ấy cho họ đây là chính Người
đang nói với họ những lời hằng sống.
Chúng ta có thể chắc chắn rằng: các người Dothái khi nghe nói như vậy đã
chẳng hiểu gì. Vì thế Ðức Yêsu còn phải giải thích nhiều nữa như chúng ta sẽ thấy
trong Chúa nhật sau.
Hôm nay phụng vụ muốn chúng ta dừng lại ở điểm này để thấy cuộc đối thoại
giữa Ðức Yêsu và người Dothái đã tỏ ra gay go. Một bên quá siêu nhiên, một bên
quá vật chất. Cũng một câu truyện Manna, người Dothái chỉ nhìn thấy khía cạnh vụ
lợi và thỏa mãn xác thịt. Còn Ðức Yêsu và các tác giả thánh đã nhìn thấy như
"dấu" chỉ về niềm tin. Manna gợi lên bánh bởi trời; chứ bánh bởi trời
không phải là Manna. Người ta hãy khao khát lương thực linh thiêng ấy, chứ đừng
uốn những lời Kinh Thánh trở về thứ thực phẩm tạm bợ của thời gian lữ thứ...
3. Một Cuộc Chuyển Biến Sâu Sắc
Thánh Phaolô trong bài thư hôm nay khuyên tín hữu Ephêsô đừng trở về nếp
sống cũ của thời trước khi theo đạo, nhưng hãy mặc lấy con người mới đã được dựng
nên trong sự công chính và thánh thiện, bắt nguồn trong sự thật. Lời khuyên ấy
còn hợp với chúng ta. Chúng ta hết thảy đã sinh ra trong tội lỗi nhưng đã được
tái sinh trong phép Rửa. Nếp sống cũ với con người cũ nơi chúng ta là các
khuynh hướng và dục vọng tội lỗi mà đôi khi chúng ta còn cảm thấy mãnh liệt.
Còn con người mới với nếp sống mới là sự thánh thiện và các khuynh hướng tốt
lành của Chúa đã dựng nên trong chúng ta ngày rửa tội để sống theo tinh thần của
Ðức Kitô.
Nếu người Dothái xưa thường có khuynh hướng vật chất hóa đến cả lời
Thánh Kinh và chỉ muốn chờ đợi một vị cứu tinh để thỏa mãn những nhu cầu trần
thế; nếu thánh Phaolô đã phải cảnh giác giáo dân E�phêsô đừng trở về với
nếp sống của dân ngoại, thì chúng ta cũng nên đề phòng sự vùng dậy của con người
cũ. Và cho được như vậy, thánh Phaolô nói chúng ta phải nhớ lại đã được biết Ðức
Kitô như thế nào. Cho chắc hơn phải nhìn Ðức Kitô nơi chính Ðức Yêsu.
Tại sao vậy?
Vì người Dothái đã chờ đợi Ðức Kitô, nhưng không muốn nhận Người là
chính Ðức Yêsu. Họ đòi Ðức Kitô phải thể khác, vì Ðức Yêsu không chịu đáp lại
các nhu cầu thực tiễn của họ. Và ở thời thánh Phaolô, đã bắt đầu có những kẻ
xuyên tạc những điều về Ðức Yêsu để, theo ý họ, Người hợp với quan niệm của họ
về Ðức Kitô hơn. Nghĩa là nhiều người muốn tôn thờ Ðức Kitô và xưng mình là
Kitô hữu, nhưng lại không muốn Người chỉ như Ðức Yêsu đã tử nạn và phục sinh. Họ
muốn và ao ước Người "khác" một chút... để cuối cùng đời sống của họ
được "lợi" hơn. Họ không muốn lột xác để biến mình nên Kitô hữu tốt
hơn, nhưng lại ao ước Kitô giáo đổi đi ít nhiều cho hợp với ước nguyện của họ.
Tâm lý này phát xuất từ con người cũ. Nó đã có nơi người Dothái và
Ephêsô. Nó là cám dỗ năng đến với chúng ta. Thánh Phaolô cũng như thánh Yoan và
tác giả bài Xuất hành bảo chúng ta phải dẹp đi và mặc lấy con người mới, tâm lý
mới, đạo đức mới của Ðức Yêsu Kitô.
Chính Người giờ đây muốn trở nên bánh bởi trời nuôi dưỡng chúng ta cho sự
sống muôn đời. Chúng ta hãy rước lễ với niềm tin và lòng mến. Chúng ta tin vào
giá trị đường lối Ðức Yêsu đã đi và kêu gọi chúng ta đi vào... Chúng ta nhiệt
tình đi vào đường lối đó, đường lối sống theo giáo lý của Chúa và tha thiết phục
vụ anh em. Nó đòi hy sinh và có thể thiệt thòi những sự ở đời này; nhưng chấp
nhận quảng đại đóng đinh xác thịt vào thánh giá Chúa Yêsu chắc chắn chúng ta sẽ
cứu được linh hồn mình và linh hồn anh em. Xin Mình Thánh Chúa là lương thực
hành hương về Nước Trời luôn nuôi dưỡng chúng ta.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật 18 Thường Niên, Năm B
Bài đọc: Exo
16:2-4, 12-15; Eph 4:17, 20-24; Jn 6:24-35.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát.
Cám dỗ về bánh ăn luôn là một diệu kế ma quỉ dùng để cám
dỗ con người. Chúng đã từng dùng để cám dỗ Chúa Giêsu, khi Ngài ăn chay 40 ngày
trong sa mạc: “Hãy biến những hòn đá thành của ăn.” Chúa trả lời: “Người
ta sống không chỉ bởi bánh, nhưng còn bởi mọi Lời do miệng Thiên Chúa phán ra.”
Chúa muốn con người nhận ra chân lý: “Bánh cần thiết, nhưng không phải tất cả.”
Nếu con người chú trọng đến bánh quá nhiều, con người sẽ phát sinh nhiều bệnh:
cả phần hồn lẫn phần xác.
Các Bài Đọc hôm nay muốn nêu bật hai thực tại: lương thực mau hư nát và lương
thực trường tồn. Trong Bài Đọc I, con cái Israel kêu trách Thiên Chúa vì họ bị
đói và khát trong sa mạc. Thiên Chúa cho họ có manna từ trời rơi xuống ban
sáng, và có thịt chim cút lúc ban chiều. Họ có thể ăn uống thỏa thuê; nhưng
không được họ tích trữ. Ngài truyền chỉ lấy lương thực đủ cho ngày đó; nếu tham
lam tích trữ, manna sẽ hư hại hôm sau. Trong Bài Đọc II, thánh Phaolô phân biệt
hai lối sống: Dân Ngoại sống theo tư tưởng phù phiếm: họ chỉ biết ra công làm
việc để có của ăn hư nát và hưởng thụ; ngược lại, các tín hữu phải sống theo
Thánh Thần và tuân theo những lời chỉ dạy của Đức Kitô, để có lương thực trường
tồn. Trong Phúc Âm, dân chúng đi kiếm Đức Kitô sau khi đã được Ngài làm phép lạ
cho ăn uống thỏa thuê. Chúa Giêsu biết rõ họ tìm kiếm Ngài chỉ vì lý do đó; nên
Ngài khuyên họ: “Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư
nát, nhưng để có lương thực trường tồn đem lại phúc trường sinh.”
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa đã cho dân có bánh và thịt trong sa mạc.
1.1/ Con cái Israel kêu
trách Thiên Chúa và Moses: Trong sa mạc,
toàn thể cộng đồng con cái Israel kêu trách ông Moses và ông Aaron. Con cái
Israel nói với các ông: “Phải chi chúng tôi chết bởi tay Đức Chúa trên đất Ai-cập,
khi còn ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thoả thuê. Nhưng không, các ông lại đưa
chúng tôi ra khỏi đó mà vào sa mạc này, để bắt chúng tôi phải chết đói cả lũ ở
đây!” Nhiều người cho con cái Israel có lý do để than phiền, vì nếu phải “chết
đói” trong sa mạc thì ở lại Ai-cập để được “chết no” còn sướng hơn. Nhưng sự thực
là con cái Israel đã không phải chết đói, vì nếu Thiên Chúa đã có kế hoạch đưa
dân ra khỏi Ai-cập để vào Đất Hứa, làm sao Ngài có thể để dân chết đói dọc đường
được! Những lời than phiền này biểu tỏ:
(1) Con cái Israel không có đức tin mạnh đủ vào Thiên Chúa: Họ vừa mới chứng kiến
biến cố Thiên Chúa đưa toàn dân qua Biển Đỏ ráo chân; trong khi quân đội Pharao
bị nhận chìm trong Biển Đỏ, và uy quyền Thiên Chúa bày tỏ qua 7 thiên tai. Tại
sao họ không cầu xin Thiên Chúa ban của ăn, mà lại buông những lời vô ơn bạc
nghĩa như thế?
(2) Con cái Israel quí trọng của ăn hơn những giá trị tinh thần: Làm nô lệ cho
Pharao là một cực hình; vì chính họ đã từng kêu than lên Thiên Chúa. Tại sao giờ
đây họ đã được tự do rồi, lại muốn trở lại kiếp nô lệ ngày xưa để có thịt và
bánh ăn thỏa thuê? Đây là một kinh nghiệm quan trọng cho chúng ta học hỏi: lòng
ham muốn của ăn có thể làm lu mờ những giá trị tinh thần.
1.2/ Thiên Chúa cho dân
ăn manna và chim cút trong sa mạc:
(1) Cho dân ăn manna: Đức Chúa phán với ông Moses: “Này, Ta sẽ làm cho bánh từ
trời mưa xuống cho các ngươi ăn. Dân sẽ ra lượm lấy khẩu phần cho mình, ngày
nào cho ngày đó; Ta muốn thử lòng chúng như vậy xem chúng có tuân theo Luật của
Ta hay không.” Sự thể đã xảy ra như lời Chúa hứa: Mỗi buổi sáng, có lớp sương
phủ quanh trại; lúc sương tan đi thì trên mặt hoang địa, có một thứ gì nho nhỏ
mịn màng, nho nhỏ như sương muối phủ mặt đất. Khi con cái Israel thấy thế, họ
liền hỏi nhau: “Manhu?” Nghĩa là: “Cái gì đây?” Vì họ không biết đó là cái gì.
Ông Moses bảo họ: “Đó là bánh Đức Chúa ban cho anh em làm của ăn!”
(2) Cho dân ăn thịt chim cút: Con cái Israel không chỉ muốn ăn bánh để sống,
nhưng còn ao ước được ăn ngon. Họ nói: chúng tôi đã quá nhàm chán thức ăn vô vị
này (manna); và họ nhớ tới những cao lương mỹ vị khi còn ở Ai-cập. Thiên Chúa
thấu tỏ lòng họ, nên Ngài lại nói với ông Moses: “Ta đã nghe tiếng con cái
Israel kêu trách. Vậy, ngươi hãy bảo chúng rằng: Vào buổi chiều, các ngươi sẽ
được ăn thịt, và ban sáng, các ngươi sẽ được ăn bánh thoả thuê, và các ngươi sẽ
biết rằng Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi.” Sự thể đã xảy ra như lời
Chúa hứa: Buổi chiều, chim cút bay đến rợp cả trại.
2/ Bài đọc II: Anh em phải để Thánh Thần đổi mới tâm trí anh em.
2.1/ Lối sống theo Dân
Ngoại: Ephesô là một thành phố của Hy-lạp,
các tín hữu Ephesô hầu hết là những người Dân Ngoại, và đã được Phaolô rao giảng
Tin Mừng và nhận vào Đạo Thánh của Đức Kitô. Giống như con cái Israel, các tín
hữu Ephesô luôn bị cám dỗ để trở về với nếp sống cũ trước khi được Rửa Tội.
Thánh Phaolô nhận ra khuynh hướng này; vì thế, ngài viết thư khuyên họ: “Đây là
điều tôi nói với anh em, và có Chúa chứng giám, tôi khuyên anh em: đừng ăn ở
như Dân Ngoại nữa, vì họ sống theo những tư tưởng phù phiếm của họ.”
Lối sống theo Dân Ngoại mà thánh Phaolô đề cập đến ở đây bao gồm rất nhiều tật
xấu, dựa trên những Thư của Ngài, chúng ta có thể liệt kê các tội như: thờ bụt
thần, không tin tưởng nơi Thiên Chúa và sự sống đời sau, hưởng thụ vật chất và
khoái lạc, loạn luân, ham quyền hành, và ghen tương chia rẽ …
2.2/ Lối sống theo Thánh
Thần: Thánh Phaolô nhắc nhở cho các tín hữu
Ephesô hai điều quan trọng:
(1) Sống theo sự thật của Đức Kitô: “Còn anh em, anh em đã chẳng học biết về Đức
Kitô như vậy đâu; anh em đã được nghe nói về Đức Giêsu và được dạy dỗ theo tinh
thần của Người, đúng như sự thật ở nơi Đức Giêsu. Vì thế, anh em phải cởi bỏ
con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa
dối.”
Tin thế nào, phải sống như thế. Nếu tin một đàng và sống một nẻo, đức tin không
sinh lợi ích gì cho các tín hữu; họ chẳng khác gì những người không tin.
(2) Sống theo sự hướng dẫn của Thánh Thần: “Anh em phải để Thánh Thần đổi mới
tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo
theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện.”
Chúa Thánh Thần mà các tín hữu đã lãnh nhận Ngài khi lãnh nhận Bí-tích Rửa Tội,
sẽ soi sáng để họ nhận ra những gì là sự thật mà Đức Kitô đã loan báo; đồng thời,
Ngài sẽ ban những ơn thánh đủ để thúc đẩy các tín hữu biết sống theo những gì Đức
Kitô đã dạy bảo. Chương 8 của Thư Rôma cho chúng ta một đời sống viên mãn dưới
sự hoạt động của Chúa Thánh Thần.
3/ Phúc Âm: Đừng chỉ tìm kiếm những của ăn mau hư nát.
3.1/ Dân chúng tìm Chúa
vì đã được ăn no nê: Trình thuật của Gioan
hôm nay tiếp tục trình thuật của tuần trước, khi Chúa Giêsu làm phép lạ nuôi
hơn 5,000 người ăn uống no nê từ năm chiếc bánh và hai con cá nhỏ, mà vẫn còn
dư 12 thúng đầy những mảnh vụn. Sau đó, họ hợp lại và muốn tôn Chúa Giêsu làm
vua; nhưng Chúa Giêsu truyền lệnh cho các tông-đồ qua bờ bên kia trước, còn
Ngài lên núi cầu nguyện một mình. Đêm đó, biển động mạnh làm thuyền các tông-đồ
gần chìm. Chúa Giêsu từ trên núi đi trên mặt biển đến để trấn an các ông, và
làm cho sóng yên biển lặng. Thuyền của các tông-đồ ghé bến Capernaum bình an.
Phần dân chúng, khi họ thấy Đức Giêsu cũng như các môn đệ đều không có ở đó,
thì họ xuống thuyền đi Capernaum tìm Người. Khi gặp thấy Người ở bên kia Biển Hồ,
họ nói: “Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy?” Đức Giêsu đáp: “Thật, tôi bảo thật
các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các
ông đã được ăn bánh no nê.”
Chúa Giêsu thấu hiểu dụng ý của dân chúng, như ma quỉ đã từng cám dỗ Ngài trong
sa mạc: Họ sẽ tôn Ngài làm vua, nếu Ngài tiếp tục làm phép lạ cho họ có của ăn,
mà không cần phải vất vả làm việc!
3.2/ Chúa Giêsu chỉ dạy
cho dân chúng tìm lương thực tồn tại muôn đời: Chúa
từ chối dụng ý của dân chúng, như Chúa đã từ chối thẳng thừng cám dỗ của ma quỉ
trong sa mạc. Tuy nhiên, Chúa vẫn kiên nhẫn dạy dỗ và cắt nghĩa cho dân chúng
thấy những giá trị tốt lành và vĩnh cửu hơn là lương thực vật chất: “Các ông
hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực
thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các
ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận.” Lương
thực mau hư nát ai cũng có thể hiểu được: ngoài đồ ăn thức uống, còn có thể hiểu
là những giá trị chóng qua của thế gian như: tiền bạc, của cải, thú vui, danh vọng,
chức quyền … Về lương thực mang lại giá trị vĩnh cửu, chúng ta phải học hỏi hết
chương 6 của Gioan trong ba tuần kế tiếp. Một cách tổng quát, Chúa Giêsu muốn đề
cập đến hai điều căn bản:
(1) Thánh ý Thiên Chúa: Họ liền hỏi Người: “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện
những việc Thiên Chúa muốn?” Đức Giêsu trả lời: “Việc Thiên Chúa muốn cho các
ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến.”
Điều nền tảng nhất trong cuộc đời là tìm ra và thi hành thánh ý của Thiên Chúa
cho đến hơi thở cuối cùng, như Chúa Giêsu đã làm. Theo Kế Họach Cứu Độ, Đức
Kitô là Con Thiên Chúa, được sai đến để cứu chuộc con người. Vì thế, theo thánh
ý Thiên Chúa, con người phải tin vào Ngài để được hưởng ơn cứu độ. Việc tin vào
Đức Kitô không đơn thuần là thái độ của trí khôn trong một lúc; nhưng là tin và
thực hành tất cả những gì Đức Kitô đã mặc khải và truyền dạy. Hơn nữa, con người
còn phải sẵn sàng chấp nhận gian khổ để làm chứng cho Ngài.
(2) Bí-tích Thánh Thể: Không phải chuyện tình cờ mà Gioan đề cập đến biến cố
Thiên Chúa cho con cái Israel ăn manna trong sa mạc, và biến cố Chúa Giêsu làm
phép lạ “Bánh hóa nhiều.” Thánh Gioan muốn dẫn chúng ta đến sự quan trọng của
Bí-tích Thánh Thể khi Chúa Giêsu chuyển đề và trả lời người Do-thái như sau:
“Thật, tôi bảo thật các ông, không phải ông Moses đã cho các ông ăn bánh bởi trời
đâu, mà chính là Cha tôi cho các ông ăn bánh bởi trời, bánh đích thực, vì bánh
Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian.” Họ liền
nói: “Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy.” Đức Giêsu bảo họ:
“Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào
tôi, chẳng khát bao giờ!” Chúng ta sẽ nói về BT Thánh Thể trong ba tuần tới.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta cần khôn ngoan để phân biệt lương thực mau hư nát và lương thực trường
tồn; để rồi biết dành thời gian tương xứng, và ra sức làm việc cho lương thực
trường tồn.
– Trong sự quan phòng khôn ngoan của Thiên Chúa, Ngài có dư uy quyền để ban cho
chúng ta lương thực hàng ngày. Chúng ta có dám tin tưởng điều đó không?
– Một trong những thói xấu của con người là thói quen đầu cơ tích trữ để người
khác phải đói khát. Chúa dạy chúng ta xin cho đủ lương thực hàng ngày; chứ
không xin cho có đủ lương thực hay có tiền đủ để mua lương thực cho cả một đời!
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
05/08/2018 – CHÚA NHẬT TUẦN 18 TN – B
Ga 6,24-35
TÌM KIẾM BÁNH TRƯỜNG SINH
Đức Giê-su đáp: “Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm
tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no
nê.” (Ga 6,26)
Suy niệm: Chúa Giê-su làm phép lạ hoá bánh ra nhiều cho dân chúng được no thoả
cơn đói trong hoang địa. Qua dấu chỉ đó, Chúa báo trước Ngài sẽ ban Bánh Hằng Sống
để ai ăn sẽ được sống đời đời. Thế mà dân chúng không quan tâm đến thứ “lương
thực thường tồn” đó mà hăm hở đi tìm Chúa chỉ để tìm kiếm những “lương thực mau
hư nát” cốt sao được no cái bụng. Chúa Giê-su mạnh mẽ khiển trách não trạng thực
dụng đó của người Do Thái. Và Ngài mời gọi mọi người tin vào Ngài là Đấng Chúa
Cha sai đến và lãnh nhận Bánh Trường Sinh là Mình Máu Ngài để được sống đời đời.
Mời Bạn: Sống trong xã hội duy vật và thực dụng, với nếp sống hưởng thụ vật chất
đang lên ngôi thống trị mọi ngõ ngách của cuộc sống, người ta chấp nhận một
cách đương nhiên rằng “có thực mới vực được đạo;” và sống trong môi trường đó,
những người con cái Chúa cũng chịu tác động mạnh mẽ của lối sống này. Mời bạn
phản ứng lại lối sống thế tục này bằng cách đem tinh thần siêu nhiên thấm nhập
vào cuộc sống của mình, bằng cách sống trọn vẹn những giáo huấn của Chúa cho dù
có phải hy sinh, thiệt thòi trong cuộc sống ở đời này.
Chia sẻ: Đời sống và cái chết của các thánh tử đạo là lời tuyên
xưng đức tin vào cuộc sống vĩnh cửu. Lời tuyên xưng đó có giá trị gì cho chúng
ta ngày nay?
Sống Lời Chúa: Trong giờ kinh tối, xét mình xem tinh thần thế tục đã len
vào gia đình, cộng đoàn mình như thế nào.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su,
con đã tìm Chúa chỉ vì “ăn bánh no nê”, xin chữa lành con và giúp con biết tìm
kiếm “của ăn thật” là Thịt Máu Chúa. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
Bánh đích thực (5.8.2018 – Chúa nhật 18 Thường
niên, Năm B)
Suy Niệm
Dân chúng vẫn còn sôi nổi sau phép lạ bánh hoá nhiều.
Hôm sau, họ lên thuyền qua bờ bên kia để tìm Ðức Giêsu.
Ðức Giêsu thấy nỗ lực tìm kiếm của họ.
Ngài biết họ tìm Ngài chỉ vì đã được ăn bánh no nê.
Có lẽ họ hy vọng sẽ được những bữa ăn tương tự…
Miếng ăn là nỗi lo của người nghèo vùng Galilê.
Ðó cũng là nỗi lo của hàng tỉ người trên thế giới.
Ðức Giêsu không trách họ về chuyện này.
Ngài chỉ muốn nâng họ lên cao hơn,
bởi lẽ con người không chỉ là thân xác.
Dân chúng vất vả tìm chút lương thực mau qua.
Ðức Giêsu muốn họ đừng quên thứ lương thực thường tồn
nhằm nuôi dưỡng tinh thần và đem lại sự sống vĩnh cửu.
Người dân Galilê chỉ nhớ đến chiếc bánh hôm qua.
Họ bị sa lầy và ngừng lại trong phép lạ.
Họ không thể đi xa hơn và cũng không mơ ước gì hơn.
Hôm sau, họ lên thuyền qua bờ bên kia để tìm Ðức Giêsu.
Ðức Giêsu thấy nỗ lực tìm kiếm của họ.
Ngài biết họ tìm Ngài chỉ vì đã được ăn bánh no nê.
Có lẽ họ hy vọng sẽ được những bữa ăn tương tự…
Miếng ăn là nỗi lo của người nghèo vùng Galilê.
Ðó cũng là nỗi lo của hàng tỉ người trên thế giới.
Ðức Giêsu không trách họ về chuyện này.
Ngài chỉ muốn nâng họ lên cao hơn,
bởi lẽ con người không chỉ là thân xác.
Dân chúng vất vả tìm chút lương thực mau qua.
Ðức Giêsu muốn họ đừng quên thứ lương thực thường tồn
nhằm nuôi dưỡng tinh thần và đem lại sự sống vĩnh cửu.
Người dân Galilê chỉ nhớ đến chiếc bánh hôm qua.
Họ bị sa lầy và ngừng lại trong phép lạ.
Họ không thể đi xa hơn và cũng không mơ ước gì hơn.
Con người hôm nay có nét giống đám đông ngày xưa.
Người nghèo thì bị hút vào công việc lam lũ nhọc nhằn,
để thỏa mãn cái đói cấp bách của thân xác.
Người giàu thì mê mải với bao tiện nghi đang mời gọi.
Họ bị ám ảnh và chạy đua với những mặt hàng mới.
Rốt cuộc, kẻ nghèo người giàu đều có nguy cơ như nhau,
đó là đánh mất đi cái đói khát tinh thần,
mãn nguyện với cái bụng no, hay với thứ nữ trang đắt giá.
Người nghèo thì bị hút vào công việc lam lũ nhọc nhằn,
để thỏa mãn cái đói cấp bách của thân xác.
Người giàu thì mê mải với bao tiện nghi đang mời gọi.
Họ bị ám ảnh và chạy đua với những mặt hàng mới.
Rốt cuộc, kẻ nghèo người giàu đều có nguy cơ như nhau,
đó là đánh mất đi cái đói khát tinh thần,
mãn nguyện với cái bụng no, hay với thứ nữ trang đắt giá.
Thật ra, cũng khó dập tắt nỗi khát khao về Tuyệt Ðối
mà Thiên Chúa đã đặt rất sâu trong lòng người.
Mọi thứ thức ăn trần gian, con người không lấy làm đủ.
Người nghèo không chỉ cần cơm bánh, mà còn cần tình thương.
Người giàu dư cơm bánh, nhưng lại cần lẽ sống.
Không thiếu những bạn trẻ nhà giàu, có học, có tương lai,
nhưng lại thất vọng chán chường, thậm chí rơi vào trụy lạc.
Họ có tất cả, nhưng vẫn thấy thiếu cái gì đó…
Thiếu cái này thì mọi thứ khác trở thành thừa.
Có khi sống sa đọa lại là cách họ biểu lộ
cơn đói khác vô cùng về những điều cao cả.
mà Thiên Chúa đã đặt rất sâu trong lòng người.
Mọi thứ thức ăn trần gian, con người không lấy làm đủ.
Người nghèo không chỉ cần cơm bánh, mà còn cần tình thương.
Người giàu dư cơm bánh, nhưng lại cần lẽ sống.
Không thiếu những bạn trẻ nhà giàu, có học, có tương lai,
nhưng lại thất vọng chán chường, thậm chí rơi vào trụy lạc.
Họ có tất cả, nhưng vẫn thấy thiếu cái gì đó…
Thiếu cái này thì mọi thứ khác trở thành thừa.
Có khi sống sa đọa lại là cách họ biểu lộ
cơn đói khác vô cùng về những điều cao cả.
Ðức Giêsu khơi dậy những khát khao tốt đẹp đang ngủ quên.
Ngài không cho dân chúng thứ manna từ trời rơi xuống,
để mỗi ngày họ phải lượm mà ăn.
Ngài cho họ thứ bánh bởi trời đích thực,
bánh ban sự sống đời đời cho toàn thế giới.
“Xin cho chúng tôi thứ bánh đó luôn luôn”
“Xin ông cho tôi thứ nước ấy” (Ga 4, 15).
Con người vẫn đói khát thức ăn tinh thần.
Cơn đói này còn kinh khủng hơn cả cơn đói thân xác.
Hãy đến với Giêsu! Hãy tin vào Giêsu!
Nếu bạn khao khát Tuyệt Ðối
thì chỉ Tuyệt Ðối mới làm bạn no thỏa.
Tuyệt Ðối đã hiện diện nơi Ðức Giêsu.
Ước chi bạn để cho Ngài nuôi bằng lời giáo huấn,
và tin tưởng dấn thân theo Ngài bằng cả cuộc đời.
Ngài không cho dân chúng thứ manna từ trời rơi xuống,
để mỗi ngày họ phải lượm mà ăn.
Ngài cho họ thứ bánh bởi trời đích thực,
bánh ban sự sống đời đời cho toàn thế giới.
“Xin cho chúng tôi thứ bánh đó luôn luôn”
“Xin ông cho tôi thứ nước ấy” (Ga 4, 15).
Con người vẫn đói khát thức ăn tinh thần.
Cơn đói này còn kinh khủng hơn cả cơn đói thân xác.
Hãy đến với Giêsu! Hãy tin vào Giêsu!
Nếu bạn khao khát Tuyệt Ðối
thì chỉ Tuyệt Ðối mới làm bạn no thỏa.
Tuyệt Ðối đã hiện diện nơi Ðức Giêsu.
Ước chi bạn để cho Ngài nuôi bằng lời giáo huấn,
và tin tưởng dấn thân theo Ngài bằng cả cuộc đời.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa,
những lúc con cảm thấy đói,
xin ban cho con một ai đó đang cần của ăn.
những lúc con cảm thấy đói,
xin ban cho con một ai đó đang cần của ăn.
Khi con khát,
xin gởi đến cho con một ai đó đang cần nước uống.
xin gởi đến cho con một ai đó đang cần nước uống.
Khi con lạnh lẽo,
xin gởi đến cho con một ai đó đang cần được sưởi.
xin gởi đến cho con một ai đó đang cần được sưởi.
Khi con bị xúc phạm,
xin ban cho con một ai đó đang cần ủi an.
xin ban cho con một ai đó đang cần ủi an.
Khi thập giá của con trở nên nặng nề,
xin ban cho con thập giá của một người khác
để cùng chia sẻ.
xin ban cho con thập giá của một người khác
để cùng chia sẻ.
Khi con túng nghèo,
xin dẫn đến cho con một người thiếu thốn.
xin dẫn đến cho con một người thiếu thốn.
Khi con không có thời giờ,
xin ban cho con ai đó để con giúp họ giây lát.
xin ban cho con ai đó để con giúp họ giây lát.
Khi con nản chí,
xin gởi đến cho con một người cần khích lệ.
xin gởi đến cho con một người cần khích lệ.
Khi con chỉ biết nghĩ đến mình,
xin xoay chuyển tư tưởng con hướng đến tha nhân.
xin xoay chuyển tư tưởng con hướng đến tha nhân.
Trích trong
PRIER
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
5 THÁNG TÁM
Những Đường Lối
Khôn Dò Của Thiên Chúa
Bây giờ chúng ta có thể
nhận ra bằng cách nào mọi sự – ngay cả sự dữ và đau khổ hiện diện trong thế giới
thụ tạo – hoàn toàn được kiểm soát bởi sự khôn ngoan kỳ diệu mà Thánh Phaolô đã
phải thốt lên: “Ôi, sự giàu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm
dường nào! Quyết định của Ngài, ai dò cho thấu!” (Rm 11,33).
Thật vậy, chính trong
bối cảnh của ơn cứu độ chúng ta, “sự dữ không thể lướt thắng được sự khôn
ngoan” (Kn 7,30). Đó là một sự khôn ngoan đầy tình yêu, bởi vì “Thiên Chúa đã
yêu thế gian đến nỗi đã trao ban chính Con Một Ngài …” (Ga 3,16).
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 05/8
Chúa Nhật XVIII thường
niên
Xh 16,
2-4.12-15; Ep 4, 17.20-24; Ga 6, 24-35.
LỜI SUY NIỆM: “Các ông hãy
ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực
thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các
ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa đã ghi dấu xác nhận.”
Trong cuộc sống của con người có rất nhiều thứ đói khát, nhưng được quy chiếu về
hai lãnh vực thân xác và tinh thần, về mặt đói khát của thân xác con người có
thể ra công làm việc để tìm kiếm thức ăn vật chất và những tiện nghi cho cuộc sống,
nhưng phần đói khát của tâm linh thì cần phải có ân sủng của Chúa. “Chính vì thế
mà chỉ có Chúa Giêsu mới làm thỏa mãn cơn đói đời đời. Người được Thiên Chúa
đóng ấn, là chân lý của Thiên Chúa nhập thể, chỉ mình Thiên Chúa mới làm thỏa
mãn cơn đói của tâm linh do chính Ngài tạo nên.” (William Barclay)
Lạy Chúa Giêsu, chính nhờ Chúa đã đến, và qua Chúa chúng con biết Thiên Chúa là
Cha của chúng con, Ngài hằng yêu thương chăm sóc chúng con và luôn chờ đợi sự
sám hối, hoán cải của chúng con, để Ngài tha thứ, giúp chúng con được gần gủi với
Ngài và không còn nghi ngờ lòng yêu thương và tha thứ của Ngài.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 05-08
LỄ CUNG HIẾN ĐỀN THỜ
ĐỨC BÀ MARIA
Đền thờ đầu tiên được
cung hiến để kính đức Trinh Nữ ở Roma, ngày nay gọi là đền thờ Đức Bà cả. Truyện
kể lại rằng, có hai vợ chồng không con nuôi nấng nuốn dâng gia tài của mình cho
Đức Mẹ. Trong đêm 4 hay 5 tháng 8, Đức Trinh nữ đã hiện ra với họ, cùng một lúc
với Đức Giáo hoàng Libêriô, bày tỏ ý muốn được thấy mọc lên trên núi Esquilin,
một thánh đường dâng kính Ngài.
Hôm sau Đức giáo hoàng
cùng với hàng giáo sĩ ở Roma đi lên núi Esquilin. Lúc ấy trời nóng nực nhưng
tuyết vẫn còn phủ đầy một góc núi. Theo ý Đức Trinh Nữ, Đức Giáo hoàng phác họa
một thánh đường, xây cất bằng tiền của cặp vợ chồng không con dâng cúng, lấy
tên là đền thờ Đức Bà xuống tuyết để ghi nhớ phép lạ trên.
Truyện kể lại như vậy,
nhưng tính chất chân thực của câu chuyện vẫn còn bị nghi ngờ, thực sự ở Roma đã
có một đền thờ Đức Bà cổ, còn cổ kính hơn cả đền thờ Đức giáo hoàng Libêriô
(352 – 366) cha xây cất nữa. Và đền thờ này được Đức Sixtô Israel (436 – 440)
tái thiết. Ngài đặt tên là đền thờ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa, chắc chắn là để ghi
nhớ cộng đồng Ephêsô (431) biến cố dẫn tới tín điều Đức Bà Maria Mẹ Thiên Chúa.
Ngoài danh xưng là đền
thờ Đức Bà xuống tuyết và đền thờ Đức Bà Maria Mẹ Thiên Chúa, ngôi đền này còn
mang tên đền thờ Đức Bà Máng cỏ, và đây lưu giữ máng cỏ Chúa Giêsu sinh ra.
Máng cỏ được đặt trong một cái hộp bằng bạc. Vào ngày lễ Giáng sinh, máng cỏ được
đưa ra cho mọi người kính viếng.
Ngày nay người ta thường
gọi là đền thờ Đức Bà cả. Danh hiệu nầy nhắc nhớ thứ bậc của đền thờ này trong
các các thánh đường dâng kính Đức Maria tại kinh thành muôn thuở. Đối với Giám
mục Roma, đây là nhà thờ chính tòa thứ hai.
Vậy hôm nay chúng ta
kính nhớ việc dâng hiến đền thờ chính, nếu không phải là đền thờ cổ nhất được
xây cất dở dang kính Đức Trinh Nữ. Chúng ta nghĩ ngay đến vô số đền thờ mà lòng
tôn kính của các tín hữu đã được dựng lên để kính nhớ Mẹ Thiên Chúa.
Nhiều đền thờ trong số
những đền thờ này đều ghi nhớ một giai thoại đạo đức như một ảnh lạ, vài ơn
phúc đặc biệt mà tình yêu của Đức Trinh nữ đã thực hiện. Các tín hữu đến đây cầu
nguyện để bày tỏ niềm cậy trông chân thành.
(daminhvn.net)
05 Tháng Tám
Tha Nhân Không Là Hỏa Ngục
Có một chàng thanh
niên khao khát trở thành một thánh nhân. Chàng xin vào một dòng tu. Không mấy
chốc, chàng khám phá ra tính tình nóng nảy của mình. Nhưng thay vì tìm căn
nguyên nơi mình, chàng quy trách cho những người xung quanh. Tha nhân đã trở
thành hỏa ngục đối với chàng.
Sau cùng, không còn
chịu nổi đời sống tập thể nữa, chàng nghĩ có thể tìm thấy sự yên tĩnh trong sa
mạc. Thế là chàng đã lên đường tìm đến một nơi hoang vu vắng vẻ để cắm lều sống
đời ẩn sĩ. Mà thật thế, chàng đã tìm lại được sự thanh thản trong tâm hồn…
Tuy nhiên, sự bình
an trong cô quạnh ấy không kéo dài được. Ma quỷ đã kéo đến và chúng đã gây xáo
trộn trong căn lều xinh xắn của chàng. Không còn giữ được bình tĩnh, chàng đã nổi
tam bành và đạp đổ tất cả…
Sau cơn giận dữ, trở
lại trạng thái bình thường, chàng mới hồi tâm suy nghĩ: Tôi đã bỏ lại tu viện
các anh em của tôi, nhưng tôi lại mang chính tôi vào sa mạc. Không phải anh em
tôi là căn nguyên của đau khổ của tôi, nhưng tính tình của tôi mới là đầu mối của
mọi đổ vỡ…
Chúng ta được sinh ra
trong một gia đình, chúng ta được mời gọi để sống trong xã hội. Tha nhân không
phải là một trở ngại, nhưng chính là một trợ giúp để chúng ta phát triển nhân
cách và thành toàn.
Tất cả mọi căn nguyên
chính của thất bại và thành công đều nằm trong ta. Cuộc chiến cam go nhất và
liên lỉ nhất của chúng ta, chính là chiến đấu chống lại bản thân chúng ta. Xã hội
có thể thay đổi, cuộc sống có thể tốt đẹp hơn nếu chúng ta biết cải thiện con
người của chúng ta trước.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét