27/08/2018
Thứ hai tuần 21 thường niên
Thánh nữ Mônica.
Lễ nhớ.
BÀI ĐỌC I: 2 Tx 1, 1-5.
11b-12
“Để danh Chúa được vinh hiển
trong anh em, và anh em được vinh hiển trong Người”.
Khởi đầu thư thứ
hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Thêxalônica.
Phaolô, Silvanô, và
Timôthêu kính gửi lời thăm Giáo đoàn Thêxalônica trong Thiên Chúa là Cha chúng
ta, và trong Chúa Giêsu Kitô. Nguyện xin ân sủng và bình an của Thiên Chúa là
Cha chúng ta, và của Chúa Giêsu Kitô ở cùng anh em. Anh em thân mến, tôi phải
luôn luôn cảm tạ ơn Thiên Chúa vì anh em, đó là điều phải lẽ, bởi vì anh em
ngày càng thêm lòng tin và hết thảy anh em đều đầy lòng thương yêu nhau, đến nỗi
chính chúng tôi cũng được hãnh diện trong các giáo đoàn của Chúa, vì anh em hằng
kiên nhẫn và giữ lòng tin trong những cơn bắt bớ gian truân anh em phải chịu.
Đó là dấu chỉ về sự phán xét công minh của Thiên Chúa, để anh em xứng đáng vào
nước Thiên Chúa, bởi anh em phải chịu khốn khó vì nước ấy.
Xin Thiên Chúa chúng
ta đoái thương làm cho anh em nên xứng đáng ơn Chúa kêu gọi anh em, và xin Người
dùng quyền phép mà kiện toàn những ý định ngay lành do lòng tốt của anh em và
công việc của lòng tin anh em, để danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, được vinh
hiển trong anh em, và anh em được vinh hiển trong Người, do ân sủng của Thiên
Chúa chúng ta, và của Chúa Giêsu Kitô. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 95, 1-2a.
2b-3. 4-5
Đáp: Hãy tường thuật
phép lạ Chúa giữa muôn dân (c. 3).
Xướng: 1) Hãy ca mừng
Chúa một bài ca mới. Hãy ca mừng Chúa đi, toàn thể địa cầu! Hãy ca mừng Chúa,
hãy chúc tụng danh Người. – Đáp.
2) Ngày ngày hãy loan
truyền ơn Người cứu độ. Hãy tường thuật vinh quang Chúa giữa muôn dân, và phép
lạ Người ở nơi vạn quốc. – Đáp.
3) Vì Thiên Chúa, Người
hùng vĩ và rất đáng ngợi khen. Người khả uý hơn mọi bậc chúa tể. Vì mọi chúa tể
của chư dân là hư ảo, nhưng Thiên Chúa đã tác tạo trời xanh. – Đáp.
ALLELUIA: 2 Cr 5, 19
Alleluia, alleluia!
– Thiên Chúa ở trong Đức Kitô đã giải hoà thế gian với Người, và đã đặt lời giải
hoà trên môi miệng chúng tôi. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 23, 13-22
“Khốn cho các ngươi, hỡi những
kẻ dẫn đường đui mù”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu
phán rằng: “Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình! Vì các
ngươi đóng cửa nước trời không cho người ta vào: vì các ngươi không vào, mà kẻ
muốn vào, các ngươi cũng chẳng để cho vào.
“Khốn cho các ngươi, hỡi
những luật sĩ và biệt phái giả hình! Vì các ngươi đọc kinh cho dài để nuốt tài
sản của các bà goá, bởi thế, các ngươi sẽ chịu phán xét nặng hơn.
“Khốn cho các ngươi, hỡi
những luật sĩ và biệt phái giả hình! Vì các ngươi rảo khắp biển khơi và lục địa,
để tìm cho được một người tòng giáo, nhưng khi đã cho người đó tòng giáo, các
ngươi làm cho nó trở thành con cái hoả ngục gấp hai lần các ngươi.
“Khốn cho các ngươi, hỡi
những kẻ dẫn đường đui mù! Vì các ngươi nói rằng: Ai lấy đền thờ mà thề, thì
không có giá trị gì, nhưng ai lấy vàng trong đền thờ mà thề, thì mắc lời thề. Hỡi
kẻ ngu ngốc và đui mù, chớ thì vàng hay là đền thờ thánh hoá vàng, cái nào trọng
hơn? Các ngươi còn bảo rằng: Ai lấy bàn thờ mà thề, thì không giá trị gì, nhưng
ai lấy của lễ để trên bàn thờ mà thề, thì mắc lời thề. Hỡi những kẻ đui mù, chớ
thì của lễ hay là bàn thờ thánh hoá của lễ, cái nào trọng hơn?
“Vậy ai lấy bàn thờ mà
thề, thì lấy cả bàn thờ và mọi sự để trên bàn thờ mà thề. Kẻ nào lấy đền thờ mà
thề, thì lấy cả đền thờ và Đấng ngự trong đền thờ mà thề. Và kẻ nào lấy trời mà
thề, thì lấy ngai toà Thiên Chúa và Đấng ngự trên ngai toà ấy mà thề”. Đó là lời
Chúa.
SUY NIỆM : Lắng Nghe Tiếng
Nói Của Lương Tri (Mt 23,13-22)
Những lời "khốn
cho các ngươi" được lập lại nhiều lần tương ứng với những điều chướng tai
gai mắt cũng là những tội của các kinh sư và biệt phái. Họ đã cố tình làm những
điều phi lý, khóa cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào, nuốt hết tài sản của
các bà góa, rảo khắp các biển cả đất liền rủ cho được một người theo đạo, nhưng
khi họ theo rồi thì lại làm cho họ đáng xuống hỏa ngục hơn. Chúa Giêsu đã gọi
các kinh sư và biệt phái là những người sống mù quáng. Ðiều đáng nói ở đây là
các kinh sư và biệt phái cố tình chia lìa trong lỗi lầm của mình, họ thích danh
vọng và chạy theo những bả vinh hoa, vì vậy họ cố gắng tìm mọi cách để đạt đến
nó bằng bất cứ cách nào. Có thể nói đây là những người chủ trương lấy cứu cánh
biện minh cho phương tiện. Cứu cánh của họ đã không công minh, chính trực và
phương tiện lại còn đê hèn hơn, nên họ đã lợi dụng những dân đen, là những người
thấp cổ bé họng, không có khả năng tự bảo vệ mình.
Lời Chúa hôm nay nhắc
nhở chúng ta hãy lắng nghe tiếng nói của lương tri, là lời của Chúa muốn dạy
chúng ta cách cụ thể trong từng trường hợp của đời sống ta.
Lạy Chúa,
Xin Chúa ban cho mỗi
chúng con luôn biết xa tránh những điều xấu xa và tìm đến nguồn mạch ân sủng là
Lời Chúa, nhờ đó lương tâm của chúng con mãi trong sáng để rọi lên hình ảnh sống
động của Chúa và thánh ý Ngài trong mỗi giây phút của cuộc sống chúng con.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày
Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Hai Tuần 21 TN2, Năm Chẵn
Bài đọc: II
Thes 1:1-5, 11-12; Mt 23:13-22
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Một niềm tin,
hai lối sống.
Thủ tướng Ghandi có lần
nhận xét: “Nếu tất cả các Kitô hữu sống đúng những gì Chúa dạy, có lẽ cả thế giới
đã tin vào Ngài.” Thật vậy, các Kitô hữu là những người có chung một niềm tin
nơi Thiên Chúa, nhưng không phải ai cũng thực hành những gì Ngài dạy. Các bài đọc
hôm nay cho chúng ta thấy những ví dụ cụ thể về hai lối sống của những người
cùng một niềm tin vào Thiên Chúa.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Lối sống tin Chúa yêu người của tín hữu thành Thessalonica.
Đứng trước thử thách
và đau khổ, những tín hữu sống theo tin yêu sẽ sẵn sàng chấp nhận gian khổ để
làm chứng cho Thiên Chúa, sẽ sẵn sàng hy sinh để người khác được những sự tốt đẹp
hơn mình. Đây là những mẫu người mà Thánh Phaolô đã tìm được nơi các tín hữu
Thessalonica. Ngài khen họ: “Thưa anh em, chúng tôi phải luôn luôn tạ ơn Thiên
Chúa về anh em: đó là điều phải lẽ, vì lòng tin của anh em đang phát triển mạnh,
và nơi tất cả anh em, lòng yêu thương của mỗi người đối với người khác cũng gia
tăng. Bởi thế, chúng tôi hãnh diện về anh em trước mặt các Hội Thánh của Thiên
Chúa, vì anh em kiên nhẫn và có lòng tin mỗi khi bị bắt bớ hay gặp cảnh gian
truân. Đó là dấu cho thấy Thiên Chúa xét xử công minh: anh em sẽ được coi là xứng
đáng tham dự Nước Thiên Chúa, chính vì Nước Thiên Chúa mà anh em chịu đau khổ.”
Lòng tin yêu, nếu
không luôn được tôi luyện, sẽ dễ dàng rơi vào tình trạng suy nhược, và dần dà sẽ
mất đức tin. Vì thế, Thánh Phaolô luôn cầu nguyện cho những tín hữu mới của
ngài luôn được bền vững trong đức tin mà họ mới lãnh nhận: “Xin Thiên Chúa
chúng ta làm cho anh em được xứng đáng với ơn gọi, và xin Người dùng quyền năng
mà hoàn thành mọi thiện chí của anh em và mọi công việc anh em làm vì lòng tin.
Như vậy, danh của Chúa chúng ta là Đức Giêsu, sẽ được tôn vinh nơi anh em, và
anh em được tôn vinh nơi Người, chiếu theo ân sủng của Thiên Chúa chúng ta và của
Chúa Giêsu Kitô.”
2/ Phúc Âm: Lối sống giả hình của các Kinh-sư và Biệt-phái.
Giả hình (hupokrites)
trong tiếng Hy-lạp có nghĩa “người trả lời.” Vì thế, theo truyền thống Hy-lạp,
chữ này có liên quan đặc biệt đến những người trả lời trong cuộc đối thọai của
các vở kịch trên sân khấu, các diễn viên. Họ là những người đóng kịch, trong
lòng đang vui mà phải giả bộ khóc hay đang buồn mà phải cố cười để mua vui cho
thiên hạ. Nói tóm, người giả hình là người sống không thật với lòng mình, người
mà ca dao Việt-nam mô tả:
Bề ngòai thơn thớt
nói cười,
Mà trong nham hiểm
giết người không dao.
Đứng trước thử thách
và đau khổ, những người theo lối sống giả hình sẽ tìm cách không phải chịu gian
khổ bằng cách nêu lên mọi lý do để biện minh cho hành động nhát đảm sợ sệt của
mình. Họ sẽ cố gắng che đậy sự ích kỷ trong lòng bằng những hành động giả ân
nghĩa bên ngoài.
Chúa Giêsu gọi các
Kinh-sư và Biệt-phái là những hạng người này: “Khốn cho các ngươi, hỡi các
Kinh-sư và Biệt-phái giả hình! Các ngươi khoá cửa Nước Trời không cho thiên hạ
vào. Các người đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các ngươi cũng không để họ
vào. Khốn cho các ngươi, hỡi các Kinh-sư và Biệt-phái giả hình! Các người nuốt
hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ, cho nên
các người sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn.”
Kinh-sư và Biệt-phái
khóa cửa Nước Trời bằng lối sống giả hình. Làm sao họ có thể vào Nước Trời bằng
giữ chi li bao lề luật không cần thiết mà bỏ quên biết bao điều quan trọng của
Luật như công bằng, nhân từ và trung tín? Và nếu dân chúng cũng tin họ và làm
như thế thì cũng chẳng được vào Nước Trời.
Chúa cũng lên án họ về
việc không chịu làm gương sáng cho những người mới theo đạo: “Khốn cho các người,
hỡi các Kinh-sư và Biệt-phái giả hình! Các người rảo khắp biển cả đất liền để rủ
cho được một người theo đạo; nhưng khi họ theo rồi, các người lại làm cho họ
đáng xuống hoả ngục gấp đôi các người.” Thay vì làm gương sáng, họ làm gương mù
và dạy cho những người mới trở lại đạo giả hình của mình. Những người mới vào đạo
thường hăng hái và nhiệt thành hơn những người đã theo đạo lâu năm; nếu không
nhiệt thành về điều tốt, họ sẽ nhiệt thành về những gì xấu đã được chỉ dạy.
Các Kinh-sư và Biệt-phái
là những người làm luật và thông luật. Họ biết cách phiên dịch luật sao cho trắng
hóa đen, đúng hóa sai, bằng cách thêm bớt hay tìm chỗ sơ hở của lề luật. Một ví
dụ Chúa Giêsu đưa ra hôm nay về việc chỉ Đền Thờ mà thề. Luật dạy khi đã chỉ Đền
Thờ, nơi Thiên Chúa hiện diện, thì phải giữ lời thề đó bằng bất cứ giá nào.
Nhưng các Kinh-sư và Biệt-phái tìm cách làm cho lời thề đó không phải giữ bằng
cách lý luận loanh quanh. Họ bảo: “Ai chỉ Đền Thờ mà thề, thì có thề cũng như
không; còn ai chỉ vàng trong Đền Thờ mà thề, thì bị ràng buộc.”
Chúa vạch trần những
lý luận khôi hài của họ: “Đồ ngu si mù quáng! Thế thì vàng hay Đền Thờ là nơi
làm cho vàng nên của thánh, cái nào trọng hơn? Các ngươi còn nói: “Ai chỉ bàn
thờ mà thề, thì có thề cũng như không; nhưng ai chỉ lễ vật trên bàn thờ mà thề,
thì bị ràng buộc.” Đồ mù quáng! Thế thì lễ vật hay bàn thờ là nơi làm cho lễ vật
nên của thánh, cái nào trọng hơn? Vậy ai chỉ bàn thờ mà thề, là chỉ bàn thờ và
mọi sự trên bàn thờ mà thề.”
Và Chúa kết luận: “Ai
chỉ Đền Thờ mà thề, là chỉ Đền Thờ và Đấng ngự ở đó mà thề. Và ai chỉ trời mà
thề, là chỉ ngai Thiên Chúa và cả Thiên Chúa ngự trên đó mà thề.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Cùng một niềm tin có
thể dẫn tới hai lối sống hoàn toàn trái ngược nhau: một lối sống dựa trên tin
yêu và một lối sống giả hình hoàn toàn bên ngòai.
– Con người có thể bị
đánh lừa bằng lối sống giả hình bên ngoài, nhưng Thiên Chúa không bao giờ bị
đánh lừa vì Ngài thấu suốt mọi sự trong tâm hồn.
– Chúng ta cần biết sống
đơn sơ thành thật trước mặt Thiên Chúa và con người.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
27/08/2018 – THỨ HAI TUẦN 21 TN
Th. Mô-ni-ca
Mt 23,13.15-22
KHIỂN TRÁCH THÓI ĐẠO ĐỨC GIẢ HIỆU
“Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và Pha-ri-sêu đạo đức
giả. ” (Mt 23,13)
Suy niệm: Ta có thể nhận thấy Chúa
Giê-su lên án năm cung cách đạo đức giả nơi người Pha-ri-sêu như sau: một là
không muốn ai tiếp cận chân lý (c. 13); hai là biến các tân tòng thành con cái
hỏa ngục, quy về mình hơn là về Chúa (c. 15); ba là an tâm tự tại với một số đồ
dâng cúng mà bỏ qua những điều cần phải tuân giữ cho đẹp lòng Thiên Chúa (cc.
16-19); bốn là nộp mọi thứ thuế, nhưng lại bỏ qua những điều quan trọng hơn là
công lý, lòng nhân và thành tín (cc. 23-24); năm là chú trọng nghi thức thanh tẩy
bên ngoài, mà bên trọng đầy chuyện cướp bóc và ăn chơi vô độ (cc. 25-26). Sở dĩ
các kinh sư có những cung cách đạo đức giả đáng ghét này vì họ muốn trục lợi vật
chất, thích phô trương thanh thế, tôn thờ mình thay vì thật sự thờ phượng Chúa.
Họ biết thế, nhưng họ không muốn làm theo điều mình lẽ ra phải làm, mà vẫn khư
khư ôm chặt cái lợi về mình nên bị Chúa quở trách là giả hình, giả hiệu.
Mời Bạn: Xã hội ta đang sống
không thiếu những biểu hiện giả đạo đức “ngoài miệng thì niệm nam mô, trong
lòng lại đựng một bồ dao găm” làm ta phát sợ, khiến ta bi quan cho thế thái
nhân tình. Một đàng, ta được Lời Chúa răn dạy tránh xa cung cách đạo đức giả ấy;
đàng khác, ta nỗ lực sống trung thực như Lời Chúa mời gọi.
Sống Lời Chúa: Tôi sẽ coi chừng và phân định
năm biểu hiện đạo đức giả trên đây nơi tôi, nơi cộng đoàn để sửa đổi kịp thời.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin
giúp con biết thành thật với chính mình để có thể cư xử thành thật với Chúa và
với tha nhân. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
Đạo đức giả (27.8.2018 – Thứ hai Tuần 21 Thường niên)
Suy niệm:
Trong Bài Giảng trên núi, Đức Giêsu đã nói đến Các Mối Phúc.
Ngài chúc mừng những ai thuộc về Nước Trời bằng các lời Phúc cho.
Còn trong chương 23 của Tin Mừng Mátthêu,
Đức Giêsu lại 7 lần dùng lối nói Khốn cho,
khi nói với giới lãnh đạo Do Thái giáo là các kinh sư và nhóm Pharisêu.
Đức Giêsu không phải là người đầu tiên dùng lối nói khó chịu này.
Các ngôn sứ thời xưa như Amốt hay Isaia (Am 6, 1; Is 5, 8-24)
cũng đã lắm khi dùng lối nói này để tố cáo những người quyền thế.
Mục đích của các ngôn sứ là vạch trần những sai phạm của họ,
và cảnh báo cho mọi người biết mà tránh xa.
Ngài chúc mừng những ai thuộc về Nước Trời bằng các lời Phúc cho.
Còn trong chương 23 của Tin Mừng Mátthêu,
Đức Giêsu lại 7 lần dùng lối nói Khốn cho,
khi nói với giới lãnh đạo Do Thái giáo là các kinh sư và nhóm Pharisêu.
Đức Giêsu không phải là người đầu tiên dùng lối nói khó chịu này.
Các ngôn sứ thời xưa như Amốt hay Isaia (Am 6, 1; Is 5, 8-24)
cũng đã lắm khi dùng lối nói này để tố cáo những người quyền thế.
Mục đích của các ngôn sứ là vạch trần những sai phạm của họ,
và cảnh báo cho mọi người biết mà tránh xa.
Đức Giêsu đã nói như một vị ngôn sứ.
Khi nói khốn cho, Ngài không có ý nguyền rủa hay kết án ai,
cho bằng nói lên sự đau xót, thậm chí giận dữ đến độ trách phạt.
“Khốn cho ngươi, hỡi Khoradin! khốn cho ngươi, hỡi Bétsaiđa!”
Đức Giêsu đã nói như thế với các thành phố từ chối Ngài (Mt 11, 21).
“Khốn cho kẻ nào nộp Con Người, thà nó đừng sinh ra thì hơn” (Mt 26, 24).
Đây không phải là một lời chúc dữ cho Giuđa,
hay kết án anh phải đời đời hư mất.
Đúng hơn đây diễn tả một tiếc nuối xót xa về tội của người môn đệ.
Khi nói khốn cho, Ngài không có ý nguyền rủa hay kết án ai,
cho bằng nói lên sự đau xót, thậm chí giận dữ đến độ trách phạt.
“Khốn cho ngươi, hỡi Khoradin! khốn cho ngươi, hỡi Bétsaiđa!”
Đức Giêsu đã nói như thế với các thành phố từ chối Ngài (Mt 11, 21).
“Khốn cho kẻ nào nộp Con Người, thà nó đừng sinh ra thì hơn” (Mt 26, 24).
Đây không phải là một lời chúc dữ cho Giuđa,
hay kết án anh phải đời đời hư mất.
Đúng hơn đây diễn tả một tiếc nuối xót xa về tội của người môn đệ.
Vào thời thánh Mátthêu viết sách Tin Mừng, từ sau năm 70,
có một sự xung đột nghiêm trọng giữa các Kitô hữu gốc Do Thái
với những nhà lãnh đạo Do Thái giáo lúc bấy giờ.
Bài Tin Mừng hôm nay phản ánh sự căng thẳng đó.
Các vị kinh sư và những người pharisêu đầy quyền lực
không muốn đồng bào của mình tin vào một ông Giêsu bị đóng đinh.
Ai tin sẽ bị trục xuất khỏi hội đường (x. Ga 9, 22).
Như thế họ đã khóa cửa Nước Trời để chẳng ai vào được, kể cả họ (c. 13).
Các vị kinh sư và nhóm Pharisêu hăng say trong việc truyền giáo.
Họ muốn làm cho dân ngoại trở thành Dân Chúa.
Tiếc thay, sau khi đã vào đạo rồi, những người tân tòng này
có thể trở nên cứng nhắc vì nệ luật, và rơi vào thói giả hình.
Họ “trở thành con cái của hỏa ngục gấp đôi các ông” (c. 15).
Đức Giêsu cũng tố cáo sự phân biệt quá chi li về giá trị những lời thề.
Đối với Ngài, thề nhân danh Đền thờ hay vàng trong Đền thờ,
nhân danh bàn thờ hay lễ vật trên bàn thờ (cc. 16-20),
thì cũng chẳng khác gì thề nhân danh chính Thiên Chúa (cc. 21-22).
có một sự xung đột nghiêm trọng giữa các Kitô hữu gốc Do Thái
với những nhà lãnh đạo Do Thái giáo lúc bấy giờ.
Bài Tin Mừng hôm nay phản ánh sự căng thẳng đó.
Các vị kinh sư và những người pharisêu đầy quyền lực
không muốn đồng bào của mình tin vào một ông Giêsu bị đóng đinh.
Ai tin sẽ bị trục xuất khỏi hội đường (x. Ga 9, 22).
Như thế họ đã khóa cửa Nước Trời để chẳng ai vào được, kể cả họ (c. 13).
Các vị kinh sư và nhóm Pharisêu hăng say trong việc truyền giáo.
Họ muốn làm cho dân ngoại trở thành Dân Chúa.
Tiếc thay, sau khi đã vào đạo rồi, những người tân tòng này
có thể trở nên cứng nhắc vì nệ luật, và rơi vào thói giả hình.
Họ “trở thành con cái của hỏa ngục gấp đôi các ông” (c. 15).
Đức Giêsu cũng tố cáo sự phân biệt quá chi li về giá trị những lời thề.
Đối với Ngài, thề nhân danh Đền thờ hay vàng trong Đền thờ,
nhân danh bàn thờ hay lễ vật trên bàn thờ (cc. 16-20),
thì cũng chẳng khác gì thề nhân danh chính Thiên Chúa (cc. 21-22).
Tất cả lời thề đều phải được giữ như nhau, đều ràng buộc như nhau.
Những lời tố giác của Đức Giêsu đối với giới lãnh đạo Do Thái giáo
vẫn đặt câu hỏi cho chúng ta thời nay.
Làm sao để tôn giáo mở đường cho con người gặp gỡ Thiên Chúa,
chứ không khép lại hay gây cản trở?
Làm sao để người tân tòng thực sự trở thành con cái Nước Trời?
Làm sao để chúng ta khỏi sa vào những chi li thái quá của luật lệ?
Những lời của Đức Giêsu mời gọi chúng ta nhìn lại mình và thay đổi.
Những lời tố giác của Đức Giêsu đối với giới lãnh đạo Do Thái giáo
vẫn đặt câu hỏi cho chúng ta thời nay.
Làm sao để tôn giáo mở đường cho con người gặp gỡ Thiên Chúa,
chứ không khép lại hay gây cản trở?
Làm sao để người tân tòng thực sự trở thành con cái Nước Trời?
Làm sao để chúng ta khỏi sa vào những chi li thái quá của luật lệ?
Những lời của Đức Giêsu mời gọi chúng ta nhìn lại mình và thay đổi.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
khi đến với nhau,
chúng con thường mang những mặt nạ.
Chúng con sợ người khác thấy sự thật về mình.
Chúng con cố giữ uy tín cho bộ mặt
dù đó chỉ là chiếc mặt nạ giả dối.
khi đến với nhau,
chúng con thường mang những mặt nạ.
Chúng con sợ người khác thấy sự thật về mình.
Chúng con cố giữ uy tín cho bộ mặt
dù đó chỉ là chiếc mặt nạ giả dối.
Khi đến với Chúa,
chúng con cũng thường mang mặt nạ.
Có những hành vi đạo đức bên ngoài
để che giấu cái trống rỗng bên trong.
Có những lời kinh đọc trên môi,
nhưng không có chỗ trong tâm hồn,
và ngược hẳn với cuộc sống thực tế.
chúng con cũng thường mang mặt nạ.
Có những hành vi đạo đức bên ngoài
để che giấu cái trống rỗng bên trong.
Có những lời kinh đọc trên môi,
nhưng không có chỗ trong tâm hồn,
và ngược hẳn với cuộc sống thực tế.
Lạy Chúa Giêsu,
chúng con cũng thường ngắm mình trong gương,
tự ru ngủ và đánh lừa mình,
mãn nguyện với cái mặt nạ vừa vặn.
chúng con cũng thường ngắm mình trong gương,
tự ru ngủ và đánh lừa mình,
mãn nguyện với cái mặt nạ vừa vặn.
Xin giúp chúng con cởi bỏ mọi thứ mặt nạ,
đã ăn sâu vào da thịt chúng con,
để chúng con thôi đánh lừa nhau,
đánh lừa Chúa và chính mình.
Ước gì chúng con xây dựng bầu khí chân thành,
để chúng con được lớn lên trong bình an.
đã ăn sâu vào da thịt chúng con,
để chúng con thôi đánh lừa nhau,
đánh lừa Chúa và chính mình.
Ước gì chúng con xây dựng bầu khí chân thành,
để chúng con được lớn lên trong bình an.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
27 THÁNG TÁM
Ánh Sáng Soi Dẫn Sự
Sống Của Giáo Hội Hôm Nay
Bản Báo Cáo Chung Kết
(tài liệu đúc kết kỳ Thượng Hội Đồng bất thường này) diễn tả hùng hồn mối quan
tâm của tập thể các giám mục và nỗ lực chung của toàn thể Giáo Hội nhằm muốn
trân trọng hơn đối với Công Đồng Vatican II. Ở đây chúng ta nhìn các vấn đề của
Giáo Hội hậu Công Đồng với một cái nhìn mới, với một tinh thần nhận định khách
quan và với nhãn giới ưu tư mục vụ. Chúng ta khảo sát kỹ lưỡng tình hình của
mình sau hai mươi năm, với tất cả những thay đổi và những cải thiện quan trọng
đã xảy ra trong đời sống Giáo Hội. Trong cuộc khảo sát này, chúng ta nhìn thấy
cả những khó khăn và những thành công.
Bản Báo Cáo Chung Kết
này – được xem xét kỹ – đã trao cho chúng ta những đề nghị thích hợp để thay đổi
và đã soi sáng cho những vấn đề khẩn cấp trong đời sống của Giáo Hội hiện nay.
Có những nhấn mạnh đặc biệt về tiếng gọi nên thánh phổ quát. Chúng ta thấy rằng
sự nên thánh này phải phát nguồn từ chính đời sống và ơn gọi của Giáo Hội. Trước
hết, nó phải được cắm rễ trong sự đáp trả của Giáo Hội đối với Lời Chúa và đối
với tiếng gọi phổ quát Phúc Aâm hóa bằng việc chia sẻ Tin Mừng. Hết thảy mọi
Kitôhữu đều được mời gọi tiến tới trong tiếng gọi nên thánh khẩn thiết này, được
hướng dẫn bởi quyền giáo huấn của các giám mục và công việc không ngừng của các
nhà thần học của Giáo Hội.
Thứ hai, phụng vụ phải
dẫn chúng ta vào trong một kinh nghiệm đích thực về sự thiêng thánh và thái độ
tôn kính sự hiện diện của Thiên Chúa. Thực tại Giáo Hội trong phụng vụ phải được
diễn tả như một sự hiệp thông với Đức Kitô và Thân Thể mầu nhiệm của Ngài.
Thứ ba, chúng ta nhận
thấy nhu cầu phải đẩy mạnh những lãnh vực được Công Đồng đề cập đến. Chúng ta
nhận thấy cần phải đối thoại và phát triển mối hiệp nhất giữa các Giáo Hội Đông
phương và Tây phương. Chúng ta cần phải lưu tâm đến những đóng góp quan trọng của
các hội đồng giám mục. Chúng ta phải tiếp tục làm cho Giáo Hội liên đới với những
nhu cầu và những vấn đề của con người hiện đại. Chúng ta phải tăng cường sự hiểu
biết và cảm thông đối với các tôn giáo ngoài Kitô giáo và đối với các anh chị
em vô thần. Chúng ta phải luôn luôn thăng tiến quyền lợi của người nghèo và những
người bị áp bức, và bảo vệ nhân phẩm của mọi con người bằng cách tuân thủ các
giáo huấn xã hội của Giáo Hội. Công Đồng Vatican II là di sản của chúng ta, di
sản của Giáo Hội.
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 27/8
Thánh nữ Mônia
2Tx 1, 1-5.11b-12;
Mt 23, 13-22.
LỜI SUY NIỆM: “Khốn cho các
ngươi, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! Các ngươi khóa cửa Nước Trời
không cho thiên hạ vào! Các ngươi đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các ngươi
cũng không để họ vào.”
Những người Phariếu và các kinh sư, đã biến Tôn Giáo thành một gánh nặng cho
dân Do-thái, biến những thành tâm trong thờ phượng Thiên Chúa thành những hình
thức phô trương, và đang đóng cửa Nước Trời. Chúa Giêsu đã lên án: “Khốn cho
các ngươi”. Đây cũng là những lời Chúa Giêsu cũng đang cảnh báo với chúng ta
hôm nay.
Lạy Chúa Giêsu. Xin cho mỗi người trong chúng con luôn vâng phục Lề Luật Chúa
trong yêu thương và tôn kính và giúp nhau sống Lời Chúa trong khiêm nhường, biết
ẩn mình kín đáo trong chay tịnh và cầu nguyện, biết hiệp thông với nhau trong
phụng vụ Thánh Thể để tất cả được sự sống đời đời như Chúa đã hứa ban.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
27-08: Thánh MONICA
(331 – 387)
Thánh Monica, mẹ của
Thánh Augustinô, có lẽ sinh tại Thagaste miền Numidia, là nơi Ngài lập gia đình
và sống phần lớn cuộc đời mình. Thuộc dòng dõi Berber nên tên Ngài là Berber.
Những gì chúng ta biết được về thánh nữ đều nhờ các bút tích của con Ngài, nhất
là cuốn IX bộ “tự thuật” (confessions)
Monica là một người tốt,
nhưng được một vú nuôi già của gia đình dạy dỗ những các khắt khe. Chẳng hạn,
bà không cho phép cô uống nước ngoài những bữa ăn. Có lẽ vì vậy Ngài có thói
quen dùng những thứ không được phép. Thói xấu lớn dần cho đến khi cha mẹ Ngài
sai đi ép rượu, người đầy tớ giúp việc chế nhạo Ngài như một tay nghiền. Thánh
nữ mắc cỡ và bỏ hẳn thói xấu ấy.
Còn nhỏ tuổi, Monica
đã được gả cho Pareiciô, một người có tính hẹp hòi, nhưng không phải là xấu nết
khó thương. Tuy nhiên thánh nữ đã đối xử tốt đẹp với cả chồng lẫn mẹ chồng khiến
sau một thời gian nàng đã hoàn toàn chinh phục được bà. Khác với các phụ nữ
láng giềng, không hề có dấu nào chứng tỏ rằng: thánh nữ đã bị chồng ngược đãi.
Lý do khiến ông không mạnh tay với thánh nữ vì Ngài đã giữ không mạnh miệng với
chồng.
Mối giây liên kết
thánh nữ với người con thông thái là cả một phép mầu của lòng nhẫn nại và tình
thương không biết mệt mỏi. Có lẽ thánh nữ đã không hoàn toàn hiểu nổi đời sống
khó khăn và những thay đổi trong trí khôn con mình mà chỉ biết đau buồn vì
chàng đã đi theo thuyết Manichêô. Về phần Augustinô khi ấy chỉ thấy mẹ mình gây
phiền toái mà thôi. Khi bà quyết theo con tới Roma (vì Patricô đã qua đời)
Augustinô đã trốn bà và đi một mình. Dẫu vậy, bà vẫn đuổi theo và gặp lại chàng
ở Milanô. Tại đây bà gặp thánh Abrosiô. Hai người rất mực kính trọng lẫn nhau.
Cuối cùng vào năm 386,
thánh nữ vui mừng thấy con hối cải. Đó là phần thưởng đền bù không biết bao
nhiêu là nước mắt và kinh nguyện của Ngài. Thánh nữ cùng tĩnh tâm với Augustinô
ở Cassicicum và có mặt trong lễ rửa tội của con do thánh Ambrosiô cử hành.
Năm 387, thánh nữ lên
đường về Phi châu với con và các bạn hữu của Ngài. Tại Ostia, thánh nữ chia sẻ
với con mình sự hoan lạc trong tâm hồn mà thánh Augustinô ghi lại trong cuốn IX
“bộ tự thuật”.
Sau đó thánh Monica
nói: – Con ơi, phần mẹ, mẹ không còn thấy vui sướng vì bất cứ điều gì ở đời này
nữa. Mẹ không hiểu sẽ phải làm gì và tại sao lại còn sống ở đây. Niềm hy vọng của
mẹ trên thế gian này đã được hoàn thành. Chỉ có một điều mẹ ao ước là được thấy
con trở thành người công giáo trước khi mẹ lìa đời. Thiên Chúa cho mẹ được toại
nguyện và hơn nữa đã cho mẹ thấy con chán ghét hạnh phúc trần gian và hiến thân
phụng sự Ngài. Mẹ còn làm gì nữa đây ?
Chẳng bao lâu sau đó,
thánh nữ mang bệnh và từ trần tại Ostia vào tuổi 56 .
Trước kia thánh nữ thường
ao ước được chôn cất bên chồng. Bây giờ, thánh nữ được hỏi xem có buồn khi phải
gởi xác ở xa quê hương không ? Ngài trả lời : – Không có gì cách xa Thiên Chúa
cả. Đừng sợ rằng: Ngài sẽ không biết mẹ ở đâu để phục sinh mẹ dậy .
Và những lời cuối cùng
nói cho con mình:
– Hãy chôn cất mẹ ở
đâu cũng được. Đừng lo lắng chi về điều đó cả. Mẹ chỉ xin con hãy nhớ đến mẹ tại
bàn thờ Chúa khi nào con có thể.
Chắc chắn Augustinô
không bao giờ quên Ngài và cả được ai đọc về Ngài trong bộ “tự thuật”. Ngài được
mai táng tại Ostia. Dường như năm 1430 xác Ngài được cải táng về Roma chôn tại
thánh đường thánh Augustinô.
(daminhvn.net)
27 Tháng Tám
Ăn Cắp Lửa Trời
Thần thoại Hy Lạp
có kể lại câu chuyện của thần Prométhée ăn cắp lửu trời để sáng tạo con người.
Theo óc tưởng tượng
của người Hy Lạp, Thiên Triều do thần Zeus cai trị gồm có hai loại thần: các đại
thần và tiểu thần. Tiểu thần là các vị thần đã bị nhóm các vị thần trung thành
với Ngọc Hoàng Zeus đánh đổ… Trong số các tiểu thần thất sủng ấy, Prométhée là
vị thần duy nhất vẫn còn được Ngọc Hoàng Zeus tín nhiệm nên ban cho quyền tạo dựng
con người và súc vật trên mặt đất.
Ngày nọ, Prométhée
và em của mình đã thí nghiệm khảt năng sáng tạo của họ. Họ dùng mọi yếu tố trên
trần gian để nhào nặn nên con người… Thế nhưng, giống người mà họ tạo nên vẫn
chết cứng bởi vì còn thiếu lửa. Nhưng lửa thì chỉ có các vị đại thần trên thiên
triều mới nắm giữ. Thế là Prométhée đã lén đến lò rèn của thần Hephetus để đánh
cắp lửa thiêng. Lửa ăn cắp từ thiên triều đx lan tràn khắp mặt đất làm cho con
người được sưởi ấm và hân hoan.
Ngọc Hoàng Zeus đã
hay biết mọi chuyện. Ông nổi giận lôi đình và cho sấm sét đến lay chuyển cả mặt
đất… Vì tội ăn cắp lửa trời, nên Prométhée đã bị Zeus cho trói vào một ngọn núi
cao, mỗi ngày diều hâu đến mổ vào gan của ông.
Huyền thoại
Prométhée trên đây như muốn nói lên sự khao khát vô tận và khả năng khoa học gần
như không giới hạn của con người… Khả năng đó là một thể hiện của chính hình ảnh
Thiên Chúa khắc ghi vào con người… Khả năng sáng tạo đó cũng nói lên phẩm giá
siêu việt của con người… Khả năng sáng tạo đó, Thiên Chúa phú bẩm cho con người
là để phục vụ phẩm giá con người hay để hủy hoại nó? Ðó là câu hỏi đang được đặt
ra cho con người của thời đại chúng ta.
Có nhiều người chủ
trương rằng do tiến hóa, con người bởi loài khỉ mà ra. Ðứng trên phương diện
khoa học thì giả thuyết đó không phải là một điều tưởng tượng… Tuy nhiên, một
thách đố có thể đặt ra cho con người là: liệu có thể có một tiến trình ngược lại
theo đó con người có trở thành khỉ không?
Cách đây không lâu,
ông Chiarelli, một giáo sư nhân chủng học tại đại học Firenze bên Italia đã đề
nghị cho khỉ cái được thụ tinh nhân tạo với tinh trùng của người nam. Giống
sinh vật do sự lai giống này sinh ra sẽ là một con vật nửa người nửa khỉ. Mục
đích được tạo dựng của giống sinh vật này là để dùng vào các công tác tạp dịch
hoặc để lấy các cơ phận của nó ghép vào các bệnh nhân.
Vấn đề được đặt ra
là: giống sinh vật nửa người nửa khỉ này nếu dùng được ngôn ngữ của con người,
nó sẽ xưng hô thế nào với người cho tinh trùng từ đó nó được thụ thai? Dù muốn
dù không, không ai có thể chối bỏ được phụ tính của người đàn ông cho tinh
trùng. Nói một cách nôm na, giống sinh vật nửa người nửa khỉ này là con của
ông, nó có quyền gọi ông là cha… Vậy thì, có người cha nào muốn dùng con mình
vào những cuộc thử nghiệm không? Có người cha nào muốn biết con của mình thành
một con thú hay không?
Ðặt câu hỏi như thế
không phải là xa vời, bởi vì dưới ánh mặt trời này, khi con người chối bỏ lẫn
nhau, khi con người không còn biết nhìn nhận phẩm giá siêu việt của người khác,
thì chuyện gì xem ra cũng có thể xảy đến… Hitler đã giết hại 6 triệu người Do
Thái, Polpot đã tiêu diệt gần 2 triệu đồng bào ruột thịt của mình. Cả hai đều
xây dựng trên một lý thuyết: con người chỉ là một con vật!
Câu chuyện khoa học
trên đây có quá xa vời với chúng ta không? Dù trong nghiên cứu khoa học, trong
các hoạt động chính trị hay trong các giao tế hằng ngày: vấn đề vẫn giống nhau.
Mỗi khi con người chối bỏ phẩm giá của người khác là lúc con người cũng muốn biến
người đó thành một loài khỉ và dĩ nhiên theo một thứ luận lý rất chặt chẽ, con
người cũng tự nhận mình là khỉ.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét