08/08/2018
Thứ tư tuần 18 thường niên
Thánh Đaminh, linh mục.
Lễ nhớ.
* Thánh nhân sinh quãng năm 1170, tại Ca-lê-ru-ê-ga, Tây Ban Nha. Người học thần học tại Pa-len-xi-a rồi làm
kinh sĩ giáo phận Ốt-ma. Trước hết, người quy tụ một số phụ nữ về sống tại Pơ-rô-vin-lơ (Pháp), theo một tu luật, rồi sau người lập Dòng Anh Em Thuyết Giáo tại Tu-lu-dơ để đối lại lạc giáo Ca-tha. Chính người đã chiến đấu với lạc giáo bằng lời giảng thuyết, bằng gương sáng và đã thu hoạch được kết quả khả quan. Người muốn các anh em trong Dòng phải sống khất thực, và lời giảng dạy phải xuất phát và được nuôi dưỡng bằng chiêm niệm. Người đã đặt trung tâm Dòng ở Rôma trước khi qua đời ở Bô-lô-nha ngày 6 tháng 8 năm 1221.
BÀI ĐỌC I: Gr 31, 1-7
“Ta đã yêu ngươi bằng mối tình
muôn thuở”.
Trích sách Tiên tri
Giêrêmia.
Khi ấy, Chúa phán rằng:
“Ta sẽ là Thiên Chúa của mọi chi tộc Israel, và chúng sẽ là dân Ta”.
Chúa phán thế này:
“Dân thoát khỏi tay gươm, đã được nghĩa trong rừng vắng: Israel sẽ đi vào nơi
an nghỉ của mình. Từ xa Chúa đã hiện ra với ta mà phán rằng: “Ta yêu ngươi bằng
mối tình muôn thuở, bởi đó Ta đã xót thương dắt ngươi đến. Rồi Ta lại kiến thiết
ngươi, hỡi trinh nữ Israel, ngươi sẽ được tái thiết. Ngươi lại mang những trống
cơm, sẽ bước đi với hội hát vui mừng. Ngươi lại trồng nho trên các núi đồi
Samaria; kẻ vun trồng cứ vun trồng và sẽ không hái trái nho khi chưa đến mùa.
Vì sẽ đến ngày những người canh gác trên núi Ephraim sẽ kêu lên: “Hãy chỗi dậy,
chúng ta đi lên Sion, đến cùng Chúa là Thiên Chúa chúng ta”.
Vì Chúa phán thế này:
“Hỡi Giacóp, hãy nhảy mừng, hãy hét to vào đầu dân ngoại; hãy nói cho người ta
nghe; hãy ca hát và nói lên rằng: ‘Lạy Chúa, xin cứu dân Chúa; những kẻ còn sót
lại trong Israel'”. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Gr 31, 10.
11-12ab. 13
Đáp: Chúa sẽ gìn giữ
chúng ta như mục tử chăn dắt đoàn chiên mình (c. 10d).
Xướng: 1) Hỡi các dân
tộc, hãy nghe lời Chúa, hãy công bố lời Chúa trên các đảo xa xăm; hãy nói rằng:
Đấng đã phân tán Israel, sẽ quy tụ nó lại, và sẽ gìn giữ nó như mục tử chăn dắt
đoàn chiên mình. – Đáp.
2) Vì Chúa đã giải
phóng Giacóp, giờ đây với cánh tay mạnh mẽ hơn, Người cứu thoát nó. Chúng sẽ đến
và ca hát trên núi Sion, chúng sẽ đổ xô về phía hạnh phúc của Người. – Đáp.
3) Bấy giờ người trinh
nữ sẽ hân hoan nhảy mừng, các thanh niên và các cụ già cũng làm y như thế. Ta sẽ
biến đổi tang chế của chúng ra niềm hân hoan; sẽ an ủi chúng và cho chúng hết
đau khổ. – Đáp.
ALLELUIA: 1 Sm 3, 9
Alleluia, alleluia!
– Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời ban sự
sống đời đời. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 15, 21-28
“Này bà, bà có lòng
mạnh tin”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, ra khỏi đó,
Chúa Giêsu lui về miền Tyrô và Siđon, thì liền có một bà quê ở Canaan từ xứ ấy
đến mà kêu cùng Người rằng: “Lạy Ngài là con Vua Đavít, xin thương xót tôi: con
gái tôi bị quỷ ám khốn cực lắm”.
Nhưng Người không đáp
lại một lời nào. Các môn đệ đến gần Người mà rằng: “Xin Thầy thương để bà ấy về
đi, vì bà cứ theo chúng ta mà kêu mãi”. Người trả lời: “Thầy chỉ được sai đến
cùng chiên lạc nhà Israel”.
Nhưng bà kia đến lạy
Người mà nói: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi”. Người đáp: “Không nên lấy bánh của
con cái mà vứt cho chó”. Bà ấy đáp lại: “Vâng, lạy Ngài, vì chó con cũng được
ăn những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi xuống”.
Bấy giờ, Chúa Giêsu trả
lời cùng bà ấy rằng: “Này bà, bà có lòng mạnh tin. Bà muốn sao thì được vậy”.
Và ngay lúc đó, con gái bà đã được lành. Đó là lời Chúa.
SUY NIỆM : Sống Niềm
Tin
Mahatma Gandhi, người
có công giành độc lập cho Ấn Ðộ bằng con đường bất bạo động, đã có lần tuyên bố:
"Tôi yêu mến Chúa Kitô, nhưng tôi không phục những người Kitô hữu".
Câu nói của con người đã từng lấy giáo lý của Chúa Kitô làm nền tảng cho chủ
trương bất bạo động đáng làm cho chúng ta suy nghĩ.
Giáo lý của Chúa Kitô
thì cao đẹp, nhưng nhiều Kitô hữu làm cho bao nhiêu người xa lánh Giáo Hội, chỉ
vì cuộc sống của họ đi ngược lại với những gì họ tuyên xưng. Người ta thường
nói: "Bà con xa không bằng láng giềng gần". Ðôi khi chúng ta cảm thấy
gần gũi với những người láng giềng hơn là với những người thân thuộc. Trong
liên hệ với Chúa Giêsu cũng thế, có biết bao người chưa từng được nghe nói đến
Chúa Giêsu, có biết bao người không mang danh hiệu Kitô, nhưng lại gần gũi với
Chúa Kitô và sống tinh thần Kitô hơn chính những người Kitô hữu.
Trong Tin Mừng hôm
nay, Chúa Giêsu đề cao lòng tin của người đàn bà xứ Canaan, tức là một người
ngoại giáo. Một trong những điều hẳn sẽ làm chúng ta ngỡ ngàng, đó là trên
Thiên đàng, chúng ta sẽ gặp gỡ những người chúng ta chưa từng quen biết, ngay cả
những người chưa một lần mang danh hiệu Kitô hay đặt chân đến nhà thờ.
Thời Chúa Giêsu, có biết
bao người ngoại giáo có lòng tin sâu sắc hơn cả những người Do thái. Trước hết,
tiên tri Isaia đã từng khiển trách lòng giả dối của người Do thái: "Dân
này thờ Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng họ thì xa Ta". Thời Chúa Giêsu, có
biết bao người bị loại ra khỏi xã hội, bị đặt bên lề Ðền thờ, và có lẽ cũng
không hề thuộc toàn bộ lề luật của Môsê, nhưng lại có lòng sám hối và tin tưởng
sâu xa hơn. Nói với những người chỉ giữ đạo một cách hình thức, Chúa Giêsu đã cảnh
cáo: "Không phải những ai nói: Lạy Chúa, lạy Chúa, là được vào Nước Trời;
nhưng là những kẻ thực thi ý Chúa".
Người đàn bà Canaan có
lẽ không hề biết đến lề luật Môsê, nhưng đã sống niềm tin của mình một cách mãnh
liệt. Lòng tin đó được thể hiện qua việc phó thác hoàn toàn vào quyền năng của
Chúa Giêsu. Trong tình thế hầu như tuyệt vọng, bà đã chạy đến với Chúa Giêsu; sự
van nài của bà cho thấy sự kiên nhẫn và lòng tin sắt đá của bà. Sự khác biệt cơ
bản giữa một người có niềm tin và một người không có niềm tin, không hệ tại ở
danh hiệu Kitô hay những thực hành đạo đức, mà chính là lòng tin. Tin vào sự hiện
diện quyền năng của Thiên Chúa trong cuộc sống, tin vào tình yêu vô biên của
Ngài, tin vào ý nghĩa của cuộc sống, tin vào tình người, đó là sắc thái chủ yếu
của người có niềm tin: chính trong niềm tin đó, con người gặp gỡ Chúa Giêsu.
Trong một hoàn cảnh mà
cái nhìn của con người có thể cho là tuyệt vọng, người Kitô hữu hơn bao giờ hết
được mời gọi để nêu cao niềm tin của mình. Ðây là thời điểm để họ chứng tỏ bản
sắc đích thực của mình. Trong cuộc sống chỉ có nghi kỵ và hận thù, họ được mời
gọi để đốt lên ngọn đuốc của yêu thương. Trong một xã hội bị gậm nhấm bởi chán
nản tuyệt vọng, họ được mời gọi để mang lại niềm hy vọng. Chỉ khi nào giữ đúng
vai trò đó, người Kitô hữu mới thực sự xứng đáng với danh hiệu của mình.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày
Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Lễ Thánh Đaminh (Ngày 8 tháng 8)
Bài đọc: Isa
52:7-10; 2 Tim 4:1-8; Mt 5:13-19.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Rao giảng Tin Mừng để đưa các
linh hồn về cho Chúa.
Cuộc đời của Thánh Đa-minh có thể tóm gọn trong chủ đề: “Rao giảng Tin Mừng để
đưa các linh hồn về cho Chúa.” Thánh Đa-minh yêu mến Thiên Chúa nên muốn đem tất
cả linh hồn về cho Ngài, và cách thức Ngài dùng là “rao giảng Tin Mừng.” Câu
châm ngôn trong cuộc đời của thánh nhân là: “Chỉ nói với Chúa và về Chúa.” Khi
ngài nói với Chúa là lúc ngài cầu nguyện; khi ngài nói về Chúa là lúc ngài rao
giảng Tin Mừng cho tha nhân. Thánh Đa-minh kết hợp cả hai chiều kích của đời
tu: chiêm niệm và hoạt động. Người tu sĩ Đa-minh là người chiêm niệm và sau đó
đem những gì mình đã chiêm niệm chia sẻ cho tha nhân.
Đường lối dùng Tin Mừng để đem các linh hồn về cho Thiên Chúa được đặt căn bản
trên Lời Chúa trong ba bài đọc hôm nay. Trong bài đọc I, ngôn-sứ Isaiah được
Thiên Chúa cho thấy trước ngày Thiên Chúa sẽ cứu độ dân của Ngài, và để cho Tin
Mừng này được loan đi, ngôn sứ thấy sự cao đẹp của những người rao giảng Tin Mừng.
Còn gì đẹp hơn bước chân của những người mang Tin Mừng của Thiên Chúa đến cho
dân của Ngài đang đau khổ! Trong bài đọc II, thánh Phaolô khuyên môn đệ của ngài
là Timothy phải kiên trì trong việc rao giảng, vì ông sẽ gặp nhiều khó khăn
trong việc rao giảng Tin Mừng. Các nhà giảng thuyết phải kiên nhẫn vượt mọi
gian khổ mới có thể đưa các linh hồn về cho Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, để có thể
chu toàn thành công sứ vụ rao giảng, nhà giảng thuyết phải kết hợp mật thiết với
Thiên Chúa, lắng nghe tiếng của Ngài, và thực thi những gì Ngài dạy trước khi
loan báo những lời này cho tha nhân.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Đẹp thay trên đồi núi bước chân người loan báo tin mừng,
công bố ơn cứu độ.
1.1/ Thiên Chúa cho dân trở về Sion từ nơi lưu đày: “Đẹp thay trên đồi núi bước chân người loan báo tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ và nói với Sion rằng: “Thiên Chúa ngươi là Vua hiển trị.” Kìa nghe chăng quân canh gác của ngươi cùng cất tiếng reo hò vang dậy; họ sẽ được thấy tận mắt Đức Chúa đang trở về Sion.” Người loan báo Tin Mừng phải loan báo 3 điểm có liên quan mật thiết với nhau, mỗi điểm nói lên một khía cạnh của ơn cứu độ:
1.1/ Thiên Chúa cho dân trở về Sion từ nơi lưu đày: “Đẹp thay trên đồi núi bước chân người loan báo tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ và nói với Sion rằng: “Thiên Chúa ngươi là Vua hiển trị.” Kìa nghe chăng quân canh gác của ngươi cùng cất tiếng reo hò vang dậy; họ sẽ được thấy tận mắt Đức Chúa đang trở về Sion.” Người loan báo Tin Mừng phải loan báo 3 điểm có liên quan mật thiết với nhau, mỗi điểm nói lên một khía cạnh của ơn cứu độ:
(1) Công bố bình an: Bình an là một trong những chữ được tiên-tri Isaiah dùng
nhiều nhất; nó không phải là sự vắng mặt của chiến tranh, nhưng là quà tặng của
Thiên Chúa ban cho con người. Con người được hòa giải với Thiên Chúa; vì thế,
con người có bình an.
(2) Loan tin tốt lành: Tin Mừng đến từ Thiên Chúa, Đấng Tốt Lành. Ngài ban phúc
lành của Ngài cho con người, nhất là tha thứ tội lỗi và cho được hưởng ơn cứu độ.
(3) Công bố ơn cứu độ: Ơn Cứu Độ đến từ Thiên Chúa. Ơn Cứu Độ không chỉ giới hạn
trong việc giải phóng dân Do-thái khỏi lưu đày Babylon; nhưng bao gồm cả việc
giải phóng dân khỏi tội lỗi, và đem lại cho dân sự tốt lành và bình an.
Thiên Chúa là Vua hiển trị, chính Ngài sẽ lãnh đạo dân. Những người canh gác của
Thành Thánh Jerusalem sẽ nhìn thấy Đức Chúa, và cất tiếng reo hò. Ngài sẽ cai
trị dân và cho họ hưởng bình an, những điều tốt lành, và ơn cứu độ.
1.2/ Mọi người sẽ nhìn thấy
Thiên Chúa cứu độ Jerusalem: Sự kiện Chúa giải
phóng dân Do-thái khỏi lưu đày Babylon và cho về lại Jerusalem, là một phép lạ
mà các dân trong vùng đều hay biết: không bằng sức mạnh quân sự, không bằng sức
cố gắng của dân Do-thái; nhưng bằng niềm tin tưởng của Cyrus, vua Ba-tư vào
Thiên Chúa. Tương tự khi Chúa Giêsu giải phóng dân khỏi tội bằng cái chết của
Ngài trên Thập Giá tại Jerusalem, nước Do-thái còn đang dưới ách đô hộ của Đế-quốc
Rôma.
2/ Bài đọc II: Hãy rao giảng lời Chúa, hãy lên tiếng lúc thuận tiện cũng
như lúc không thuận tiện.
2.1/ Những khó khăn trong
việc rao truyền Lời Chúa
(1) Lý do phải trung thành rao giảng: Phaolô đưa ra hai lý do chính để chỉ thị
Timothy phải trung thành rao giảng Tin Mừng: Thứ nhất, Đức Kitô sẽ phán xét kẻ
sống và kẻ chết; không một ai và không một hành động nào của con người thoát khỏi
sự phán xét của Ngài. Thứ hai, Ngài sẽ xuất hiện và nắm vương quyền; lúc đó,
Ngài sẽ trả công cho mỗi người tùy theo việc làm của họ. Vì thế, anh “hãy rao
giảng Lời Chúa, hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện;
hãy biện bác, ngăm đe, khuyên nhủ, với tất cả lòng nhẫn nại và chủ tâm dạy dỗ.”
Nhiều người chủ trương: “gió chiều nào che chiều đó.” Khi hoàn cảnh xã hội đã đổi,
họ cũng phải thay đổi sao cho phù hợp; vì nếu không thay đổi sẽ bị người khác
ghét và không trở thành phổ thông. Vì thế, nhiều nhà rao giảng có khuynh hướng
thay đổi cách giảng dạy: họ chỉ nói những gì khán giả thích và tránh đề cập những
tội mà khán giả đang mang trong mình. Tiên tri Jeremiah đã tuyên sấm nặng nề
cho các ngôn sứ giả này: Họ sẽ phải chịu trách nhiệm về sự hư đi của khán giả.
(2) Khuynh hướng thay đổi của con người: Phaolô nói trước cho môn đệ mình biết
về sự thay đổi của khán giả: “Thật vậy, sẽ đến thời người ta không còn chịu
nghe giáo lý lành mạnh, nhưng vì ngứa tai, họ sẽ tìm kiếm cho họ những nhà rao
giảng thích hợp với sở thích của họ, và sẽ quay lưng lại với sự thật và hướng về
những chuyện hoang đường.” Điều này không lạ, vì theo tâm lý con người, họ
không muốn ai làm cho họ phải cắn rứt về những chuyện họ đang mang trong lòng;
nhưng chỉ muốn ai khen những chuyện họ làm hoặc nói những chuyện vui cười để giải
trí. Nhà rao giảng Tin Mừng chân chính không được chiều theo thị hiếu của khán
giả, như Phaolô khuyên nhủ Timothy: “anh hãy thận trọng trong mọi sự, hãy chịu đựng
đau khổ, làm công việc của người loan báo Tin Mừng và chu toàn chức vụ của
anh.”
2.2/ Hãy cố gắng dành cho
được phần thưởng không hư nát: Câu hỏi quan
trọng đặt ra cho mọi người: Họ muốn làm vừa lòng ai? Thiên Chúa hay con người?
Họ muốn làm vừa lòng Thiên Chúa để lãnh phần thưởng bất diệt là sự sống đời đời,
hay làm vừa lòng con người để lãnh phần thưởng mau hư nát. Thánh Phaolô cho
chúng ta một tấm gương để soi chung: “Còn tôi, tôi sắp phải đổ máu ra làm lễ tế,
đã đến giờ tôi phải ra đi. Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết
chặng đường, đã giữ vững niềm tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho
người công chính; Chúa là vị Thẩm Phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho tôi
trong Ngày ấy, và không phải chỉ cho tôi, nhưng còn cho tất cả những ai hết
tình mong đợi Người xuất hiện.”
3/ Phúc Âm: Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để
họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự
trên trời.
3.1/ Công dụng của muối: Không có gì rẻ và căn bản hơn muối; nhưng muối làm nhiều
điều hữu ích cho con người:
+ Muối tượng trưng cho trong sạch tinh tuyền: vì được kết tinh bởi ánh sáng mặt
trời và nước biển. Kitô hữu là những người đã được rửa sạch bằng máu Đức Kitô
và thấm nhuần mọi quà tặng của Thánh Thần, họ phải trở nên thánh thiện và tinh
tuyền trước khi sinh ích cho người khác.
+ Muối dùng để ngăn ngừa đồ ăn cho khỏi hư: Vì đặc tính mặn mà của muối, nên muối
được dùng để làm cho lương thực khỏi hư: thịt cá cần muối, rau cỏ cần muối như
dưa, cà, kim chi, trái cây cần muối nếu muốn để lâu. Ca dao Việt-nam dùng việc
muối cá để nói lên sự cần thiết của con cái phải vâng lời cha mẹ: “Cá không ăn
muối cá ươn. Con cãi cha mẹ trăm đường con hư.” Nếu điều này cần thiết cho con
cái, những điều dạy dỗ của Đức Kitô còn cần thiết hơn cho các Kitô hữu. Nếu
không có vị mặn của muối, làm sao các Kitô hữu có thể “ướp mặn lòng người.
+ Muối dùng để thêm gia vị cho thực phẩm: Muối không thể thiếu trong việc nấu
ăn, thực phẩm có ngon tới đâu mà nếu không có chất mặn của muối hay nước mắm
(cũng từ muối), cũng trở thành vô vị. Người Kitô hữu đã được trang bị để trở
thành muối cho đời. Điều cần chú ý ở đây là Chúa Giêsu dùng động từ ở thời hiện
tại “là;” có nghĩa: người Kitô hữu đã và luôn có. Bản chất của Kitô hữu có những
điều tốt để giúp cho thế gian trở nên tốt.
3.2/ Công dụng của ánh
sáng: Biểu tượng này còn gần gũi với con người
hơn cả muối. Ánh sáng có rất nhiều công dụng.
+ Ánh sáng dùng để soi sáng: Khi trời tối, con người cần ánh sáng để khỏi vấp
ngã và tìm đồ đạc. Người Kitô hữu có sự thật soi sáng để khỏi rơi vào sai lầm.
+ Ánh sáng dùng để sưởi ấm: Khi trời lạnh, con người cần ánh sáng để sưởi ấm
như ánh sáng mặt trời hay lửa. Người Kitô hữu có Thánh Thần để sưởi ấm mọi cô
đơn, buồn khổ.
+ Ánh sáng bảo vệ con người khỏi nguy hiểm: Tội lỗi thường xảy ra ở nơi không
có ánh sáng. Người làm tội lỗi ghét ánh sáng vì họ sợ việc làm đen tối của họ bị
phơi bày…
Chúa Giêsu nói: “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian.” Đã là ánh sáng thì
không thể che giấu; nhưng phải đặt trên cao để soi sáng cho mọi người, vì “chẳng
có ai thắp đèn rồi lại để dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế, và đèn soi chiếu
cho mọi người trong nhà.” Mục đích của việc soi sáng là để những người chưa biết
Thiên Chúa “thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh
em, Đấng ngự trên trời.”
3.3/ Anh em đừng tưởng Thầy
đến để bãi bỏ Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ: Tất
cả Luật và Lời Thiên Chúa phán ra đều tốt lành và muôn đời không đổi vì phát xuất
từ Thiên Chúa và có khả năng giúp con người sống tốt lành; nhưng vấn đề là ở
phía con người. Một số những lý do làm con người hiểu sai Luật của Thiên Chúa:
(1) Không hiểu nguyên tắc của Lề Luật và phiên dịch Luật theo ý mình: Ví dụ: Luật
ngày Sabbath. Nguyên tắc là để con người nghỉ ngơi và thờ phượng Chúa; chứ
không phải để tranh luận trong những vấn đề liên quan đến sự sống như: có nên
chữa bệnh nhân trong ngày Sabbath, có nên bứt bông lúa để ăn cho khỏi đói, vì
đó thuộc lãnh vực bảo vệ sự sống.
(2) Tạo thêm nhiều Luật khác: Những nhà làm luật của Do-thái tạo thêm 615 luật
từ những Luật Chúa ban cho Moses, ấy là chưa kể những luật bất thành văn (truyền
khẩu) vì vô tình hay vì lợi nhuận (định nghĩa thế nào là của lễ thanh sạch). Những
luật do con người làm ra có thể thay đổi hay hủy bỏ.
Khi Chúa tranh luận những việc liên quan đến Luật, Chúa muốn con người nhận ra
đâu là Luật của Thiên Chúa và đâu là luật của con người. Các kinh sư tranh luận
với Chúa muốn đánh lừa mọi người để kết tội Chúa như người phá bỏ Luật của
Thiên Chúa. Ngài cũng muốn cho họ nhận ra nguyên lý đứng đang sau là tình yêu của
Thiên Chúa dành cho con người, chứ không giữ cách vụ luật.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Điều quan trọng nhất trong cuộc đời là lo sao cho chúng ta và mọi người được
về hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa, chứ không phải lo tìm của cải đời này.
– Chúng ta phải học hỏi và sống Tin Mừng của Thiên Chúa trước khi có thể loan báo
Tin Mừng đó cho tha nhân.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
08/08/2018 – THỨ TƯ TUẦN 18 TN
Th. Đa-minh, linh mục Mt 15,21-28
ĐỂ ĐỨC TIN VỮNG MẠNH
Bấy giờ Đức Giê-su đáp: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật.
Bà muốn sao thì sẽ được vậy.” (Mt 15,28)
Suy niệm: Nhà văn Pháp Marcel Proust
nhận xét: Một cuộc thám hiểm thật sự không phải ở chỗ tìm gặp được những vùng đất
mới, cho bằng có được đôi mắt mới. Đôi mắt ấy giúp họ khám phá thế giới quen
thuộc nhưng chứa chất nhiều điều bí ẩn, tuyệt diệu hữu ích cho cuộc sống. Người
đàn bà xứ Ca-na-an trong trình thuật Tin Mừng hôm nay, quả thật, có đôi mắt mới.
Bà không nhìn Chúa Giê-su như những người Na-da-rét, đồng hương của Chúa, để
khinh bỉ Ngài. Bà cũng không nhìn Chúa Giê-su như những đồng hương xứ Ca-na-an
của bà, để xa tránh Chúa. Trái lại, bà nhận ra trong con người Giê-su ấy một
quyền năng, mà không ai trong xã hội có thể có để cứu giúp bà trong cơn khốn đốn.
Ở nơi Ngài, bà trực giác nhận ra một lòng thương xót thường trực, khích lệ bà
tìm đến. Như người thấy được kho báu trong ruộng, bà bỏ hết những mặc cảm, đến
với Chúa Giê-su và đặt tất cả niềm tin vào Ngài. Với bà, Giê-su là Đấng làm cho
con tim của bà và con bà “vui trở lại.”
Mời Bạn: Này bạn ơi! Đức tin của
người phụ nữ Ca-na-an trưởng thành trong thử thách và được Chúa lấy làm mẫu
gương cho tín hữu. Còn đức tin của bạn thì sao?
Chia sẻ cho nhau những
cảm nghiệm đức tin của bạn về tình yêu Thiên Chúa.
Sống Lời Chúa: Đọc một đoạn Tin Mừng và
suy niệm để nhận ra điều Thiên Chúa muốn nói với bạn.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su,
xin cho đôi mắt con được ngời sáng để nhận ra những điều Chúa muốn nói với con
qua những biến cố cuộc đời, qua Lời Chúa chúng con đọc, qua các cử hành phụng vụ
con tham dự và qua việc rước Chúa hằng ngày.
(5 Phút Lời Chúa)
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
8 THÁNG TÁM
Tìm Kiếm Câu Trả Lời
Bằng Con Mắt Đức Tin
Sự đau khổ được nhìn
qua con mắt đức tin – ngay cả dù vẫn có vẻ thật ảm đạm – sẽ cho phép chúng ta
nhận ra mầu nhiệm quan phòng của Thiên Chúa. Mầu nhiệm này được tóm kết trong mạc
khải Đức Kitô, nhất là trong cái chết Thập Giá và cuộc Phục Sinh của Người. Con
người vẫn không ngừng đặt ra những vấn nạn về sự dữ và đau khổ trong thế giới
thụ tạo, song chắc chắn con người không thể nào tìm thấy những lời giải đáp trực
tiếp được. Không thể tìm thấy sự giải đáp trực tiếp nếu không có một đức tin sống
động vào Đức Giê-su Kitô.
Nhưng dần dần, với sự
giúp đỡ của đức tin được nuôi duỡng bằng cầu nguyện, chúng ta có thể khám phá
ra ý nghĩa đích thực của những nỗi thống khổ mà mọi con người kinh nghiệm trong
đời. Sự khám phá này phụ thuộc vào lời mạc khải thần linh và vào “lời của thập
giá” Đức Kitô (1Cr 1,18) – thập giá chính là “sức mạnh và sự khôn ngoan của
Thiên Chúa” (1Cr 1,24).
Công Đồng Vatican II dạy
chúng ta: “Nhờ Đức Kitô và trong Đức Kitô, chúng ta được soi sáng về bí ẩn của
sự đau khổ và sự chết, bí ẩn này sẽ đè bẹp chúng ta nếu chúng ta không biết đến
Phúc Âm” (MV 22). Nếu nhờ đức tin, chúng ta khám phá ra sức mạnh và “sự khôn
ngoan” này, thì đấy là chúng ta đang bước đi trên con đường cứu độ của sự quan
phòng của Thiên Chúa. Ý nghĩa của lời Thánh Vịnh bấy giờ sẽ thành hiện thực
hoàn toàn đối với chúng ta:
“Chúa là mục tử chăn dắt
tôi …
Dù tôi đi trong thung
lũng tối tăm,
tôi vẫn không lo sợ
gì,
vì có Chúa ở cùng tôi”
(Tv 23,1-4).
Vâng, trong sự quan
phòng của Thiên Chúa, chúng ta nhận thấy rằng Thiên Chúa luôn sóng bước cùng với
con người.
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lòng tin của bà lớn thật (8.8.2018 – Thứ Tư Tuần 18 Thường
niên)
Suy niệm:
Bài Tin Mừng hôm nay kể lại chuyện Đức Giêsu chữa bệnh từ xa,
tại Tia và Xiđon, vùng đất của dân ngoại.
Nhưng chuyện chữa bệnh không quan trọng lắm.
Chuyện quan trọng là lòng tin của người phụ nữ Canaan.
Hẳn bà biết ít nhiều về Do Thái giáo, khi gọi Đức Giêsu là Con Vua Đavít.
Con Vua Đavít là tước hiệu người Do Thái dùng để chỉ Đấng Mêsia.
Bà tin Đức Giêsu có thể chữa lành con gái của bà.
tại Tia và Xiđon, vùng đất của dân ngoại.
Nhưng chuyện chữa bệnh không quan trọng lắm.
Chuyện quan trọng là lòng tin của người phụ nữ Canaan.
Hẳn bà biết ít nhiều về Do Thái giáo, khi gọi Đức Giêsu là Con Vua Đavít.
Con Vua Đavít là tước hiệu người Do Thái dùng để chỉ Đấng Mêsia.
Bà tin Đức Giêsu có thể chữa lành con gái của bà.
Người phụ nữ trực tiếp gặp Đức Giêsu và ngỏ lời nài xin:
“Xin thương xót tôi… con gái tôi bị quỷ hành hạ dữ lắm.”
Người mẹ đau vì con của mình đau.
Bà kêu xin Đức Giêsu thương mình, bằng cách chữa lành cho cô con gái.
Nhưng bà chỉ gặp sự thinh lặng như thể Người không nghe thấy.
Dầu vậy bà vẫn không ngừng đi sau và kêu to.
Tiếng kêu dai dẳng của bà đuổi theo các môn đệ khiến họ bực bội.
Khi không chịu nổi được nữa, họ mới chạy đến với Thầy Giêsu.
“Xin Thầy cho bà ấy đi đi, vì bà ấy cứ kêu sau lưng chúng ta mãi.”
Có vẻ các môn đệ muốn Thầy gặp bà và cho điều bà cần.
Cho đến nay vẫn chưa có cuộc đối thoại giữa bà và Đức Giêsu.
Người phụ nữ vẫn là người độc thoại.
Nhưng Đức Giêsu vẫn chưa muốn nói chuyện với bà.
Người chỉ nói với các môn đệ và xác định sứ vụ của mình:
“Thầy chỉ được sai đến với những chiên lạc nhà Israel thôi.”
Đây là lời từ chối đầu tiên, rõ ràng và dứt khoát.
Nó như đặt một dấu chấm hết cho mọi hy vọng của người mẹ.
Đức Giêsu như muốn nói: Đừng kêu la vô ích.
Chị không phải là chiên của nhà Israel.
Dân ngoại lúc này không phải là sứ vụ của tôi,
vì Cha tôi chưa sai tôi đến.
“Xin thương xót tôi… con gái tôi bị quỷ hành hạ dữ lắm.”
Người mẹ đau vì con của mình đau.
Bà kêu xin Đức Giêsu thương mình, bằng cách chữa lành cho cô con gái.
Nhưng bà chỉ gặp sự thinh lặng như thể Người không nghe thấy.
Dầu vậy bà vẫn không ngừng đi sau và kêu to.
Tiếng kêu dai dẳng của bà đuổi theo các môn đệ khiến họ bực bội.
Khi không chịu nổi được nữa, họ mới chạy đến với Thầy Giêsu.
“Xin Thầy cho bà ấy đi đi, vì bà ấy cứ kêu sau lưng chúng ta mãi.”
Có vẻ các môn đệ muốn Thầy gặp bà và cho điều bà cần.
Cho đến nay vẫn chưa có cuộc đối thoại giữa bà và Đức Giêsu.
Người phụ nữ vẫn là người độc thoại.
Nhưng Đức Giêsu vẫn chưa muốn nói chuyện với bà.
Người chỉ nói với các môn đệ và xác định sứ vụ của mình:
“Thầy chỉ được sai đến với những chiên lạc nhà Israel thôi.”
Đây là lời từ chối đầu tiên, rõ ràng và dứt khoát.
Nó như đặt một dấu chấm hết cho mọi hy vọng của người mẹ.
Đức Giêsu như muốn nói: Đừng kêu la vô ích.
Chị không phải là chiên của nhà Israel.
Dân ngoại lúc này không phải là sứ vụ của tôi,
vì Cha tôi chưa sai tôi đến.
Lòng tin của người phụ nữ bị thử thách đến tột độ.
Chắc bà bị cám dỗ bỏ đi vì sự thinh lặng lạnh lùng,
và sự từ chối cương quyết của Đức Giêsu.
Nhưng trái tim của một người mẹ không cho phép bà làm thế.
Bà trở nên táo bạo hơn và dám vượt lên trước để gặp Đức Giêsu.
Trong thái độ cung kính bái lạy, bà tiếp tục nài xin:
“Lạy Ngài, xin giúp tôi” (c. 25);
khác với lúc nãy: “Lạy Ngài, xin thương xót tôi” (c. 22).
Cả hai lời nài xin đều nhắm đến người con, dù có vẻ bà chỉ xin cho bà.
Xin giúp tôi bằng cách giúp con tôi khỏi móng vuốt quỷ dữ.
Hạnh phúc của người mẹ gắn liền với hạnh phúc của con,
vì tình yêu nối kết cả hai nên một.
Tuy vậy lời nài xin này của trái tim người mẹ
dường như vẫn chưa đụng được vào trái tim Thầy Giêsu.
Người đưa ra lời từ chối thứ hai
quyết liệt hơn và có thể gây tổn thương nghiêm trọng:
“Không nên lấy bánh dành cho con mà ném cho chó.”
Con ở đây là dân Israel, là người trong nhà, có quyền hành.
Dân ngoại đôi khi được ví với chó nuôi trong nhà.
Hai bên không ở trên cùng một mặt phẳng.
Câu nói này của Đức Giêsu phản ánh cái nhìn của người Do Thái.
Họ tự hào về tính ưu việt của mình
trong tư cách là Dân riêng của Chúa.
Nói chung họ cho rằng chỉ họ mới xứng đáng hưởng ơn cứu độ.
Chắc bà bị cám dỗ bỏ đi vì sự thinh lặng lạnh lùng,
và sự từ chối cương quyết của Đức Giêsu.
Nhưng trái tim của một người mẹ không cho phép bà làm thế.
Bà trở nên táo bạo hơn và dám vượt lên trước để gặp Đức Giêsu.
Trong thái độ cung kính bái lạy, bà tiếp tục nài xin:
“Lạy Ngài, xin giúp tôi” (c. 25);
khác với lúc nãy: “Lạy Ngài, xin thương xót tôi” (c. 22).
Cả hai lời nài xin đều nhắm đến người con, dù có vẻ bà chỉ xin cho bà.
Xin giúp tôi bằng cách giúp con tôi khỏi móng vuốt quỷ dữ.
Hạnh phúc của người mẹ gắn liền với hạnh phúc của con,
vì tình yêu nối kết cả hai nên một.
Tuy vậy lời nài xin này của trái tim người mẹ
dường như vẫn chưa đụng được vào trái tim Thầy Giêsu.
Người đưa ra lời từ chối thứ hai
quyết liệt hơn và có thể gây tổn thương nghiêm trọng:
“Không nên lấy bánh dành cho con mà ném cho chó.”
Con ở đây là dân Israel, là người trong nhà, có quyền hành.
Dân ngoại đôi khi được ví với chó nuôi trong nhà.
Hai bên không ở trên cùng một mặt phẳng.
Câu nói này của Đức Giêsu phản ánh cái nhìn của người Do Thái.
Họ tự hào về tính ưu việt của mình
trong tư cách là Dân riêng của Chúa.
Nói chung họ cho rằng chỉ họ mới xứng đáng hưởng ơn cứu độ.
Người phụ nữ không phản đối cái nhìn của Đức Giêsu
Bà không cảm thấy mình bị xúc phạm và giận dữ bỏ đi.
Trái lại, bà đón nhận cái nhìn ấy và tìm thấy một kẽ hở cho ơn Chúa:
“Thưa Ngài đúng thế.
Nhưng chó con cũng được ăn các mảnh vụn rơi xuống từ bàn của chủ.”
Bà chấp nhận mình chỉ là chó con nuôi trong nhà,
không phải là ông chủ đang ngồi tại bàn ăn.
Bà tin rằng dù mình không đủ tư cách
để ngồi dự bàn tiệc cánh chung như những người Do Thái,
bà vẫn có thể được hưởng chút vụn bánh từ bàn ăn rớt xuống.
Bà vẫn giữ niềm hy vọng ngay khi bị từ chối thẳng thừng.
Chính lời từ chối của Đức Giêsu lại mở ra niềm hy vọng.
Bà không cảm thấy mình bị xúc phạm và giận dữ bỏ đi.
Trái lại, bà đón nhận cái nhìn ấy và tìm thấy một kẽ hở cho ơn Chúa:
“Thưa Ngài đúng thế.
Nhưng chó con cũng được ăn các mảnh vụn rơi xuống từ bàn của chủ.”
Bà chấp nhận mình chỉ là chó con nuôi trong nhà,
không phải là ông chủ đang ngồi tại bàn ăn.
Bà tin rằng dù mình không đủ tư cách
để ngồi dự bàn tiệc cánh chung như những người Do Thái,
bà vẫn có thể được hưởng chút vụn bánh từ bàn ăn rớt xuống.
Bà vẫn giữ niềm hy vọng ngay khi bị từ chối thẳng thừng.
Chính lời từ chối của Đức Giêsu lại mở ra niềm hy vọng.
Đức Giêsu bị ấn tượng bởi lòng tin của bà.
Người kêu lên: “Này bà, lòng tin của bà lớn thật.”
Đức Giêsu từng ngỡ ngàng trước lòng tin của viên bách quản (Mt 8,10-11).
Giờ đây Người đối diện với lòng tin của một người mẹ thương con.
Chính tình thương thêm sức mạnh cho lòng tin,
khiến lòng tin trở nên kiên trì, bất chấp thinh lặng và từ chối.
Lòng tin không mất hy vọng ngay khi có vẻ chẳng còn gì để hy vọng.
Lòng tin mạnh mẽ và khiêm hạ của người mẹ đã chinh phục Đức Giêsu,
và cuối cùng đã chạm được vào trái tim của Người.
Đức Giêsu đã để mình bị cuốn đi, ngỡ ngàng và ngây ngất…
Người kêu lên: “Này bà, lòng tin của bà lớn thật.”
Đức Giêsu từng ngỡ ngàng trước lòng tin của viên bách quản (Mt 8,10-11).
Giờ đây Người đối diện với lòng tin của một người mẹ thương con.
Chính tình thương thêm sức mạnh cho lòng tin,
khiến lòng tin trở nên kiên trì, bất chấp thinh lặng và từ chối.
Lòng tin không mất hy vọng ngay khi có vẻ chẳng còn gì để hy vọng.
Lòng tin mạnh mẽ và khiêm hạ của người mẹ đã chinh phục Đức Giêsu,
và cuối cùng đã chạm được vào trái tim của Người.
Đức Giêsu đã để mình bị cuốn đi, ngỡ ngàng và ngây ngất…
Bây giờ Người mới thực sự nói chuyện với bà: “Này bà…”
Người sẽ làm điều trước đây Người không định làm.
Người sẽ đáp lại lòng tin của bà, lòng ao ước của bà
chỉ bằng một lời nói từ xa cho một cô bé chưa hề gặp mặt:
“Hãy xảy ra cho bà như bà muốn”.
Người sẽ làm điều trước đây Người không định làm.
Người sẽ đáp lại lòng tin của bà, lòng ao ước của bà
chỉ bằng một lời nói từ xa cho một cô bé chưa hề gặp mặt:
“Hãy xảy ra cho bà như bà muốn”.
Cô bé đã được chữa lành kể từ lúc đó.
Mẹ cô đã được thương xót và trợ giúp.
Đức Giêsu không cứng nhắc và bó hẹp trong sứ vụ Cha giao.
Người vẫn nghe tiếng kêu của con người và chấp nhận những ngoại lệ.
Ngoại lệ cũng nằm trong Ý Cha.
Ý Cha vẫn mở ra mới mẻ từng ngày đòi ta phải tìm kiếm liên tục.
Ngoại lệ hôm nay sẽ mở đường cho sứ vụ ngày mai:
“Các con hãy đi, hãy làm cho mọi dân tộc thành môn đệ,”
để “nhiều người từ Đông sang Tây sẽ đến và dự tiệc trong Nước Trời.”
Mẹ cô đã được thương xót và trợ giúp.
Đức Giêsu không cứng nhắc và bó hẹp trong sứ vụ Cha giao.
Người vẫn nghe tiếng kêu của con người và chấp nhận những ngoại lệ.
Ngoại lệ cũng nằm trong Ý Cha.
Ý Cha vẫn mở ra mới mẻ từng ngày đòi ta phải tìm kiếm liên tục.
Ngoại lệ hôm nay sẽ mở đường cho sứ vụ ngày mai:
“Các con hãy đi, hãy làm cho mọi dân tộc thành môn đệ,”
để “nhiều người từ Đông sang Tây sẽ đến và dự tiệc trong Nước Trời.”
Xã hội hôm nay không thiếu những bà mẹ khổ vì con mình bị ám.
Ám vì đủ thứ nghiện ngập do cuộc sống đem lại.
Các bà mẹ thấy mình bất lực, chỉ biết hy vọng vào Chúa.
Nhiều khi có cảm tưởng Chúa không nghe và lạnh lùng trước nỗi đau.
Hãy có lòng tin lớn của người phụ nữ Dân ngoại,
tiếp tục tin, tiếp tục yêu, tiếp tục hy vọng
và biết mình có thể chạm được vào trái tim của Thiên Chúa.
Ám vì đủ thứ nghiện ngập do cuộc sống đem lại.
Các bà mẹ thấy mình bất lực, chỉ biết hy vọng vào Chúa.
Nhiều khi có cảm tưởng Chúa không nghe và lạnh lùng trước nỗi đau.
Hãy có lòng tin lớn của người phụ nữ Dân ngoại,
tiếp tục tin, tiếp tục yêu, tiếp tục hy vọng
và biết mình có thể chạm được vào trái tim của Thiên Chúa.
Lời nguyện:
Lạy Chúa,
xin ban cho con đức tin lớn hơn hạt cải,
để con làm bật rễ khỏi lòng con
những ích kỷ và khép kín.
Xin cho con đức tin can đảm
để con chẳng sợ thiệt thòi khi trao hiến,
chẳng sợ từ bỏ những gì con cậy dựa xưa nay.
xin ban cho con đức tin lớn hơn hạt cải,
để con làm bật rễ khỏi lòng con
những ích kỷ và khép kín.
Xin cho con đức tin can đảm
để con chẳng sợ thiệt thòi khi trao hiến,
chẳng sợ từ bỏ những gì con cậy dựa xưa nay.
Xin cho con đức tin sáng suốt
để con thấy được thế giới
mà mắt phàm không thấy,
thấy được Ðấng Vô hình,
nhưng rất gần gũi thân thương,
thấy được Ðức Kitô nơi những người nghèo khổ.
Xin cho con đức tin liều lĩnh,
dám mất tất cả chỉ vì yêu Chúa và tha nhân,
dám tiến bước trong bóng đêm
chỉ vì mang trong tim một đốm lửa của Chúa,
dám lội ngược dòng với thế gian
và khước từ những mời mọc quyến rũ của nó.
để con thấy được thế giới
mà mắt phàm không thấy,
thấy được Ðấng Vô hình,
nhưng rất gần gũi thân thương,
thấy được Ðức Kitô nơi những người nghèo khổ.
Xin cho con đức tin liều lĩnh,
dám mất tất cả chỉ vì yêu Chúa và tha nhân,
dám tiến bước trong bóng đêm
chỉ vì mang trong tim một đốm lửa của Chúa,
dám lội ngược dòng với thế gian
và khước từ những mời mọc quyến rũ của nó.
Xin cho con đức tin vui tươi,
hạnh phúc vì biết những gì
đang chờ mình ở cuối đường,
sung sướng vì biết mình được yêu
ngay giữa những sa mù của cuộc sống.
hạnh phúc vì biết những gì
đang chờ mình ở cuối đường,
sung sướng vì biết mình được yêu
ngay giữa những sa mù của cuộc sống.
Cuối cùng, xin cho con đức tin cứng cáp
qua những cọ xát đau thương của phận người,
để dù bao thăng trầm dâu bể,
con cũng không để tàn lụi niềm tin
vào Thiên Chúa và vào con người.
qua những cọ xát đau thương của phận người,
để dù bao thăng trầm dâu bể,
con cũng không để tàn lụi niềm tin
vào Thiên Chúa và vào con người.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 08/8
Tháng Đaminh. linh
mục
Gr 31, 1-7; Mt 15,
21-28.
LỜI SUY NIỆM: “Này bà, lòng
tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy.” Từ giờ đó, con gái bà được
khỏi.”
Ơn Thánh của Chúa luôn luôn sẵn có cho mỗi người trong chúng ta, nhưng Chúa
luôn đặt để những thách đố trước mặt của chúng ta, để giúp cho con người biết
vượt thắng, bằng sự khiêm tốn, nhận ra với sức lực và tài năng của mình, cũng
như của loài người đều không thể giải quyết được vấn đề, để mà biết tìm kiếm
Người, mà nhận lấy ân sủng của Người. Trong Tin Mừng hôm nay chúng ta thấy được
lòng tin và sự trông cậy của người đàn bà ngoại giáo, bà đã vượt thắng chính
mình trong sự khiêm tốn, trước những thử thách mà Chúa Giêsu đã đưa ra cho bà:
“Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con.” Với lòng tin và sự
khiêm tốn của bà, bà đã được chính Chúa Giêsu đã khen ngợi và ban phúc cho con
gái của bà: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì được vậy.”
Lạy Chúa Giêsu. Xin cho mọi người trong chúng con luôn biết tìm kiếm Chúa trong
mọi lúc và mọi sự, để đặt trọn niềm tin vào Chúa, để nhận được mọi ơn lành
trong cuộc sống của bản thân, gia đình và những người thân cận..
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 08-08
Thánh ĐAMINH
Linh mục (1170 –
1221)
Thánh Đaminh sinh tại
Castille, Tây Ban Nha, năm 1170. Truyện về tuổi trẻ của Ngài nói tới nhiều điềm
báo lạ lùng. Mẹ Ngài, bà Aza mơ thấy con mình như một con chó ngậm đuốc chạy khắp
cả thế gian. E ngại vì giấc mơ này bà làm tuần cửu nhật xin cho được sinh nở
vuông tròn đến ngày thứ bảy, vị chánh sở nói với bà : – Đừng sợ gì vì đứa trẻ
sinh ra sẽ trở thành ánh sáng thế gian và niềm an ủi cho Giáo hội, nhờ sự thánh
thiện và giáo thuyết của nó.
Khi trẻ Đaminh còn nằm
trong nôi, một bầy ong mật lượn quanh rồi êm ái đậu xuống nơi nôi Ngài. Điều
này báo trước rằng lời lẽ miệng Ngài sẽ êm dịu như mật ngọt. Ngày chịu phép rửa
tội, vú nuôi Ngài thấy một vì sao chói sáng trên trán Ngài. Đó là dấu ơn thánh
Ngài sẽ tỏa chiếu để thu hút các linh hồn.
Được cưng chiều, thánh
Đaminh sớm sống đời khổ hạnh. Ngài học hãm mình cầu nguyện khi vừa thôi nôi.
Người vú nuôi nhiều lần thấy Ngài âm thầm thức dậy trong đêm tối để cầu nguyện.
Ngài chọn một nơi thanh vắng ở cuối vườn làm nơi tâm sự với Chúa. Đức Trinh nữ
thường hiện ra với Ngài, dạy Ngài lần chuỗi. Việc đạo đức này về sau trở thành
phương thế hữu hiệu để cải hóa những người theo lạc giáo.
Đến tuổi đi học,
Đaminh được gởi tới thụ giáo với ông cậu là tổng linh mục ở Gumiel. Năm 14 tuổi,
Ngài theo học tại đại học ở Palencia và đã tiến triển rất nhanh về hiểu biết lẫn
nhân đức. Nạn đói lan tràn nước Tây Ban Nha, một người bạn đến thăm Đaminh
không thấy đồ dùng lẫn những pho sách quí đâu nữa. Ngài đã bán để giúp người
nghèo khó rồi. Gương sáng này đã lôi kéo được nhiều sinh viên lẫn các giáo sư bắt
chước.
Sau khi hoàn tất việc
học, Đaminh được đức Chadiegô, giám mục Osma truyền chức linh mục. Vị giám mục
đạo đức này đang muốn canh tân lòng đạo đức trong giáo phận, đã đặt cha Đaminh
làm kinh sĩ. Khi lo chuyện nhà nước qua Châu Au, đức cha Diegô dẫn cha Đaminh
đi theo. Tại Languedoc, các Ngài được chứng kiến được tàn phá mà bè rối
Albigeois gây ra. Họ chủ trương rằng: mọi vật chất đều xấu và do ma quỉ. Sự
hoàn thiện theo họ, hệ tại sự từ bỏ phi nhân bản để sống khắc khổ. Chủ trương
này dẫn tới sự lãnh cảm. Chẳng hạn đối với việc hôn nhân và chôn vùi mọi cơ cấu
xã hội gia đình. Họ còn có lễ nghi, và phẩm trật riêng. Người ta bị phân thành
hai loại: một bên gồm những người hoàn thiện và những nhà lãnh đạo sống rất khắc
khổ; bên kia là quần chúng tìm thấy nơi giáo thuyết mới lý do bào chữa cho sự tự
do luân lý không bị kiềm chế của mình.
Trên đường về, đức cha
Diegô và cha Đaminh đến Roma xin từ nhiệm để dấn thân vào cuộc truyền giáo
quanh vùng Dniepen. Đức giáo hoàng Innocentê III từ lâu đã mong có người ra đi
rao giảng tại miền nam nước Pháp, chống lại ảnh hưởng của bè rối Albigeois,
thay vì chấp nhận lời thỉnh cầu, Đức giáo hoàng sai các Ngài tới miền nam nước
Pháp. Hai người đã tới phụ lực với các sứ giả đã được sai tới trước kia. Tại
Montpellier, đức cha Diegô đã nhận thấy sự khác biệt giữa các nhà giảng thuyết
công giáo đầy xa hoa với các nhà giảng thuyết phái Albigeois đầy khiêm tốn giản
dị. Các Ngài chọn đường lối khác, lấy khó nghèo và cầu nguyện làm gương sáng
thu hút mọi người. Tháng 4 năm 1207, nhiều tu sĩ Xitô đến trợ lực. Trong vòng một
năm trời, có đến 40 vị dấn thân vào hoạt động. Những thành công sơ khởi bắt đầu
tới, nhưng không kéo dài được lâu. Các tu sĩ Xitô nản lòng. Đức cha Diegô trở về
Tây Ban Nha kiếm thêm người trợ lực và qua đời tại đây. Một vị sự thần cũng từ
trần. Tệ hại hơn cả là Phêrô Castelman, vị sự thần khác, bị bọn lạc giáo ám
sát.
Còn lại mình cha
Đaminh. Ngài vẫn tiếp tục nhiệt tình hoạt động trong đường lối khổ hạnh và cầu
nguyện. Không chấp nhận kiểu rao giảng khua trống gióng chiêng, Ngài nói : –
Không thể đến với kẻ thù như vậy được. Hãy trang bị bằng kinh nguyện và chân
không mà đến với tên khổng lồ Goliath.
Trong sáu năm, cha
Đaminh trải qua nhiều sóng gió, ngay khi mới tới, đức cha Diegô và Ngài đã thiết
lập một cộng đoàn nữ tu tại Prouille. Bây giờ Ngài chỉ còn là trợ lực duy nhất,
một ngày kia trong khi nhiệt tình cầu nguyện, thánh nhân than thở tại sao số
người lạc giáo quá nhiều mà trở lại thì quá ít. Đức Trinh nữ đã hiện ra và dạy
Ngài hãy rao giảng phép lần hạt Mân Côi. Vâng lời Mẹ, thánh nhân dồn nỗ lực vào
việc truyền bá sự sùng kính kỳ diệu này, thay vì tranh luận như trước, Ngài dạy
dân chúng hiểu phương pháp và tinh thần khi lần chuỗi. Ngài dẫn giải cho họ các
mầu nhiệm thánh. Kết quả thật lạ lùng. Sau một thời gian ngắn, thánh Đaminh đã
được an ủi khi thấy hơn một trăm ngàn người tội lỗi và những kẻ lạc giáo được
đưa trở về với Giáo hội.
Hoàn thành sứ mệnh,
thánh Đaminh có ý định thành lập một dòng tu làm vườn ươm các tông đồ. Ngài
trình bày dự tính với Đức giáo hoàng Innocentê III. Nhưng đức giáo hoàng ngần
ngại. Đêm sau Ngài mơ thấy đại giáo đường Lateranô bị rung chuyển và thánh
Đaminh đưa vai chống đỡ bức tường cho khỏi sụp đổ. Biết ý Chúa Ngài cho gọi
thánh nhân đến và chấp thuận cho lập dòng mới. Đây là dòng giảng thuyết.
Khi còn ở Roma, một
đêm kia, trong lúc cầu nguyện, thánh Đaminh thấy Chúa Giêsu giận dữ muốn phóng
ba ngọn đuốc xuống thiêu hủy thế gian: – Loài người lao mình vào nết xấu kiêu
căng nhục dục và biển lận, nên Ta muốn hủy diệt chúng bằng 3 ngọn lửa này.
Nhưng đức trinh nữ cản
lại: – Con ơi, hãy thương xót thế gian. Này đây có hai người sẽ làm sống dậy
các nhân đức.
Đaminh biết mình là một,
nhưng người kia là ai thì chưa rõ. Hôm sau khi đến nhà thờ Ngài gặp một tu sĩ,
mặc đồ người ăn xin ngồi ngay cửa. Đó là thánh Phanxicô. Hai người chưa gặp
nhau, nhưng đã ôm choàng lấy nhau và gọi tên nhau. Các Ngài hợp nhất với nhau
trong công cuộc của Chúa.
Thánh Đaminh đề cao việc
học, Ngài gởi các tu sĩ đến các đại học, Ngài truyền : – Chớ gì các tu sĩ
chuyên cần học tập ngày đêm. Lúc ở nhà cũng như khi đi ngoài đường, họ phải
không ngừng đọc sách và suy gẫm.
Thánh Đaminh rảo qua
khắp nẻo trên đường giảng dạy, một thanh niên ngây ngất hỏi Ngài đã học cách
nào, Ngài nói:
– Hỡi con trong sách đức
ái đó, sách này hơn mọi sách dạy bảo tất cả.
Một năm trước khi qua
đời, các cha dòng Đaminh đã được sai tới Oxford, Hungaria, Đan Mạch và Hy lạp.
Thánh Đaminh qua đời tại Bologna ngày 6 tháng 8 năm 1221.
(daminhvn.net)
08 Tháng Tám
Vị Thánh Của Kinh Mân Côi
Ðaminh, vị thánh
Giáo Hội mừng kính hôm nay, mở mắt chào đời năm 1170 bên Tây Ban Nha trong một
gia đình quý tộc, nhưng ngay từ nhỏ, Ðaminh đã tập quen sống hãm mình. Ngoài
ra, Ðaminh có tính khẳng khái, thích làm việc có hệ thống và chú ý đến việc
trau dồi kiến thức.
Khi làm linh mục, rồi
kinh sĩ, Ðaminh nổi bật về lòng ngay thẳng, hăng hái và tinh thần hy sinh. Ngài
cảm thấy như được Chúa gọi đi để loan báo Tin Mừng cho các bộ lạc bên nước Nga,
nhưng Ðức Innocentê thứ 3 lại cử ngài đến hoạt động tại Toulouse bên Pháp, nơi
những làn sóng lạc giáo đang làm lung niềm tin của nhiều người.
Ðaminh xác tín rằng:
Lời giảng dạy phải đi đôi với cuộc sống. Vì thế, ngài đã lập một hội dòng, quy
tụ các tu sĩ sống khó nghèo theo tinh thần Phúc Âm để có thể rao giảng, không
chỉ bằng lời nói mà bằng cả cuộc sống của mình. Chính Ðaminh đã là người đầu
tiên làm gương về nếp sống ấy bằng cách đi chân không, ngủ dưới đất, ăn chay và
sống bằng của bố thí.
Vào năm 1216, Ðức
Hônôriô thứ 3 đã phên chuẩn dòng do cha Ðaminh sámg lập mang tên “Dòng anh em
giảng thuyết” thưo quy luật của thánh Augustinô, tức là dòng Ðaminh ngày nay.
Thiên Chúa chỉ dành cho cha Ðaminh 5 năm vắn vỏi để chu toàn sứ mệnh của người
gieo giống. Suốt thời gian này ngài đã rảo qua các nước Pháp, Italia và Tây Ban
Nha để rao giảng và đã đưa nhiều người ly giáo trở về với Giáo Hội.
Trong suốt cuộc sống,
Ðaminh đã nêu cao gương hy sinh và cầu nguyện. Ngoài ra, ngài còn truyền bá
lòng sùng kính Ðức Maria và kinh Mân Côi, vì thế, ngài đã thành lập một dòng nữ
để giúp chị em sống theo tinh thần này.
Cha Ðaminh qua đời
tại Bologna bên italia ngày 06/8/1221 và chỉ 13 năm sau, vào năm 1234, Ðức
Gregoriô thứ 9 tôn phong ngài lên bậc hiển thánh.
Có một câu chuyện thuật
lại giấc mơ của thánh Ðaminh: Ngài thấy thế gian sắp bị án công thẳng của Thiên
Chúa luận phạt, nhưng được cứu thoát nhờ lời cầu bàu của Ðức Maria. Ðức Mẹ chỉ
cho Chúa Giêsu hai hình ảnh: một hình ảnh là chính Ðaminh và hình ảnh kia là một
người ăn mày quần áo rách tả tơi.
Ngày hôm sau, trong
lúc cầu nguyện trong nhà thờ, Ðaminh thấy người ăn mày trong mộng xuất hiện, tiến
đến gần, ôm chầm Ðaminh và nói: “Anh là người đồng hành với tôi. Nếu chúng ta
cùng sánh vai tiến bước, thì không quyền lực nào có thể thắng chúng ta”. Nhìn kỹ,
Ðaminh nhận ra người ăn mày đó chính là Phanxicô thành Assisi.
Cuộc gặp gỡ này của
hai vị sáng lập dòng vẫn được các tu sĩ Ðaminh và Phanxicô mừng mỗi năm. Vào
ngày lễ kính hai thánh nhân, họ cùng nhau dâng Thánh Lễ và sau đó ngồi vào bàn
để chia sẻ với nhau những tấm bánh và những lý tưởng đã làm cho Giáo Hội trở
nên phong phú trong việc sống theo tinh thần Phúc Âm trải qua 7 thế kỷ nay.
Lý tưởng mà dòng
Ðaminh cũng như của các dòng khác không phải chỉ để chúng ta kính phục, nhưng
cũng là để chúng ta noi gương. Các tu sĩ là những người tự nguyện sống trọn những
lời khuyên của Phúc Âm qua ba lời khấn: khó nghèo, thanh tinh, vâng lời. Ðó
cũng là ba nhân đức mà mỗi người Kitô cũng phải thực hành tùy sức, tùy hoàn cảnh
và địa vị của mình.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét