11/08/2018
Thứ bảy tuần 18 thường niên
Thánh Cơlara, trinh nữ.
Lễ nhớ.
* Thánh nữ sinh năm 1193 tại Átxidi. Năm 18 tuổi, chị xin thánh Phanxicô cho được theo nếp sống khó nghèo. Thánh Phanxicô đã cho chị ở trong một căn
nhà tồi tàn, gần nhà thờ thánh Đamianô ở cửa ngõ thành Átxidi. Em của thánh nữ tên là
Anê và một số thiếu nữ khác
gia nhập nếp sống của chị: sống thanh bần triệt để. Đó là những nữ tu Phanxicô tiên khởi. Chị qua đời năm
1253.
BÀI ĐỌC I: Kb 1, 12 – 2, 4
“Người
công chính sống được nhờ trung tín”.
Trích sách Tiên tri Khabacúc.
Chớ thì ngàn xưa Chúa chẳng phải là Thiên Chúa, Chúa của tôi, là
Đấng Thánh của tôi? Vậy là chúng tôi không sao chết được. Lạy Chúa, Chúa đã đặt
nó lên để xét xử, làm cho nó vững mạnh để trừng phạt. Mắt Chúa tinh sạch, không
thể nhìn sự dữ, không thể xem sự gian ác. Tại sao Chúa lại nhìn những kẻ gian
ác, và kẻ bất lương nuốt người công chính hơn nó, sao Chúa vẫn làm thinh?
Chúa để loài người như cá biển, như sâu bọ không có vua quan. Nó
lấy lưỡi câu mà bắt hết, lấy chài mà kéo mọi sự, lấy lưới mà thu lượm: bởi thế
nó hớn hở vui mừng. Vì vậy, nó cúng tế cho chài, nó dâng lễ vật cho lưới, vì bởi
đấy nó được phần béo tốt và món ăn ngon. Lẽ nào nó cứ thả lưới không ngừng và
luôn luôn tàn nhẫn sát hại các dân?
Tôi sẽ đứng ở vọng canh của tôi, đứng yên nơi thành lũy của tôi,
tôi chờ xem Chúa dạy tôi thế nào, và trả lời ra sao cho điều tôi biện bạch? Chúa
đáp lại tôi rằng: “Hãy chép điều ngươi thấy, hãy khắc nó vào tấm bảng để đọc được
dễ dàng. Bởi hình lạ còn xa, nó sẽ xuất hiện trong thời sau hết và sẽ chẳng hư
không. Nó kết duyên với ngươi, hãy chờ đợi nó, vì nó sẽ đến không trì hoãn. Chắc
chắn nó sẽ đến, không sai. Người không có lòng ngay thì ngã gục, nhưng người
công chính sẽ sống nhờ trung tín”. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 9, 8-9. 10-11. 12-13
Đáp: Lạy Chúa, Chúa không bỏ rơi kẻ kiếm tìm Chúa (c. 11b).
Xướng: 1) Chúa ngự trị tới muôn đời, Người dựng vững ngai vàng
ngõ hầu cai trị. Người công minh thống trị địa cầu, Người chính trực xét xử chư
dân. – Đáp.
2) Chúa là chỗ dung thân cho người bị ức, chỗ dung thân dành cho
những lúc gian truân, để những ai nhìn biết uy danh, cậy trông vào Chúa, vì lạy
Chúa, Chúa không bỏ rơi kẻ kiếm tìm Ngài. – Đáp.
3) Hãy đàn ca Chúa, Người ngự ở Sion; hãy loan truyền công cuộc
Chúa khắp chư dân: vì Đấng đòi nợ máu, Người nhớ họ, Người không quên tiếng kêu
của những kẻ cơ bần. – Đáp.
ALLELUIA: Tv 129, 5
Alleluia, alleluia! – Con hy vọng rất nhiều vào Chúa, linh hồn
con trông cậy ở lời Chúa. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 17, 14-19 (Hl 14-20)
“Nếu
các con có lòng tin, thì chẳng có gì các con không làm được”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, có một người đến gần, quỳ gối trước mặt Chúa Giêsu mà
nói rằng: “Lạy Ngài, xin thương xót con trai tôi vì nó mắc chứng kinh phong và
rất trầm trọng: nó thường ngã vào lửa và lắm lúc nó ngã xuống nước. Tôi đã đem
nó đến cùng môn đệ Ngài, nhưng các ông không thể chữa nó được”. Chúa Giêsu đáp:
“Ôi thế hệ cứng lòng tin và hư hỏng! Ta phải ở với các ngươi đến bao giờ? Ta
còn phải chịu đựng các ngươi đến bao giờ nữa? Hãy đem nó lại đây cho Ta”. Chúa
Giêsu quát mắng quỷ và quỷ liền ra khỏi đứa bé. Và nó được lành ngay trong lúc ấy.
Bấy giờ các môn đệ đến hỏi riêng Chúa Giêsu rằng: “Tại sao chúng con không thể
trừ quỷ ấy được?” Chúa Giêsu bảo các ông rằng: “Vì các con yếu lòng tin! Thầy bảo
thật các con: Nếu các con có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì các con có khiến
núi này rằng: ‘Hãy rời khỏi đây mà sang nơi kia’, thì nó liền đi sang, và chẳng
có gì các con không làm được”. Đó là lời Chúa.
SUY NIỆM : Ðức Tin Rất Cần Thiết
Thánh Augustinô nói: "Thiên Chúa dựng nên con người không cần
con người, nhưng để cứu chuộc con người, thì Ngài cần đến sự cộng tác của con
người". Sở dĩ như vậy là vì Thiên Chúa dựng nên con người có tự do, và tự
do bao hàm sự lựa chọn tin nhận hoặc khước từ Thiên Chúa. Ðức tin cần thiết cho
con người, không những để được cứu rỗi, mà còn để biết vui tươi đón nhận những
biến cố trong đời sống theo thánh ý Chúa.
Tin Mừng hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu chữa một đứa bé bị kinh
phong. Có thể nói, không có gì đặc biệt, nếu phép lạ được thực hiện do Chúa
Giêsu, bởi vì Ngài là Thiên Chúa toàn năng làm được mọi sự. Nhưng điều quan trọng
là phép lạ có thể xẩy ra là do đức tin của con người. Thật thế, trong bất cứ phép
lạ nào, Chúa Giêsu cũng đòi hỏi con người phải tin, hoặc chính đương sự hoặc
cha mẹ hay người bảo trợ. Là Ðấng Cứu Thế, Chúa Giêsu yêu thương và muốn cứu chữa
con người khỏi mọi tật bệnh; nhưng mỗi khi thực hiện phép lạ để cứu chữa một
người nào, Ngài cũng đòi phải có đức tin. Nếu việc cứu chữa riêng lẻ đó chỉ là
hình ảnh lu mờ của việc cứu chữa tối hậu mà Chúa còn đòi hỏi đức tin, thì để được
cứu rỗi trong thời cứu độ viên mãn, đức tin còn cần thiết biết chừng nào.
Kết thúc bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: Nếu
các con có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì chẳng có gì các con không làm được. Ðức
tin làm cho chúng ta từ con người tội lỗi trở thành con cái Thiên Chúa; đức tin
giúp cho những việc tầm thường trong đời sống trở thành có giá trị vĩnh cửu; đức
tin cho chúng ta có cái nhìn lạc quan tin tưởng vào mọi biến cố cuộc sống; đức
tin giúp con người làm được những điều mà người không có đức tin không hiểu nổi:
các thánh tử đạo can đảm chấp nhận cái chết đau thương, các thánh hiển tu đã từ
bỏ tất cả để hoàn toàn sống theo Chúa.
Nguyện xin Chúa củng cố đức tin của chúng ta để nhận ra bàn tay
Chúa luôn dẫn dắt chúng ta và luôn sống trong bình an dưới sự chăm sóc của Ðấng
Toàn Năng.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Bảy Tuần 18 TN2
Bài đọc: Hab 1:12-2:4;
Mt 17:14-20
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Kiên nhẫn cậy trông trong
đức tin.
Mặc dù chúng ta là những tội nhân xứng đáng để chịu đau khổ vì
những tội chúng ta đã phạm, nhưng chúng ta rất dễ nổi nóng khi thấy những người
chúng ta nghĩ là tội lỗi hơn chúng ta, lại sống sung sướng hạnh phúc hơn chúng
ta. Rồi chúng ta tự hỏi: Chúa ở đâu? Tại sao Ngài không có mắt? Tại sao Ngài để
kẻ “lương thiện” phải chịu nhiều gian nan khốn khó trong khi kẻ ác nhân được cuộc
sống dễ dãi giàu sang? Từ câu hỏi này, chúng ta sẽ dễ dàng đi vào hai kết luận:
hoặc không tin có Thiên Chúa hay có một Thiên Chúa bất công.
Hai bài đọc hôm nay cho chúng ta hai ví dụ tại sao phải kiên trì
trong đức tin. Trong bài đọc I, tiên tri Habakkuk không hiểu lý do tại sao
Thiên Chúa để vương quốc Israel miền Bắc rơi vào tay của Assyria, một dân tộc
hung ác và không biết gì đến Thiên Chúa. Thiên Chúa khuyên ông cứ kiên nhẫn chờ
thời gian, ông sẽ biết lý do của tất cả những việc Ngài làm. Trong Phúc Âm, các
môn đệ chất vấn Chúa Giêsu tại sao họ không thể trừ quỉ cho đứa bé mà cha nó
mang tới. Chúa Giêsu trả lời rất đơn giản: vì các con yếu lòng tin!
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Người công chính sẽ sống bởi niềm tin.
1.1/ Sao Ngài lặng thinh khi kẻ gian ác nuốt trửng người chính trực
hơn mình? Tiên tri Habakkuk có lẽ họat động đồng thời với tiên tri Nahum,
trong thời gian từ 640-598 BC, thời kỳ lưu đày của Israel bên Assyria. Lý do tại
sao vương quốc Israel bị thất thủ và vua quan cùng dân chúng bị lưu đày là tội
bất trung với Chúa chạy theo các thần ngọai như tiên tri Hosea đã tuyên cáo, và
tội bất công chèn ép dân nghèo như tiên tri Amos đã tuyên cáo.
Nhưng tiên tri Habakkuk đã mất kiên nhẫn chờ đợi khi thấy
Assyria tội lỗi hơn Israel, tại sao Chúa lại để một đứa ác nhân như thế mặc sức
chà đạp Dân Chúa và ông đặt câu hỏi với Thiên Chúa: “Từ muôn thuở, Ngài chẳng
là Đức Chúa, là Thiên Chúa con thờ, là Đức Thánh của con, là Đấng Bất Tử sao? Lạy
Đức Chúa, chính vì để xét xử mà Ngài đã đặt dân ấy lên. Lạy Đức Chúa là đá tảng,
chính vì để thi hành án phạt mà Ngài đã cho nó được mạnh sức. Mắt của Ngài thật
quá tinh tuyền không thể chịu được điều gian ác, Ngài không thể nhìn xem cảnh
khốn cùng, tại sao Ngài cứ đứng nhìn quân phản bội, sao Ngài lặng thinh khi kẻ
gian ác nuốt trửng người chính trực hơn mình?”
1.2/ “Ai không có tâm hồn ngay thẳng sẽ ngã gục, còn người công
chính thì sẽ được sống, nhờ lòng thành tín của mình.”
Habakkuk, cũng như Job, muốn hiểu lý do tại sao Chúa lại làm như
thế: Tôi sẽ ra đứng ở chòi canh, đứng gác trên tường luỹ canh chừng xem Người
nói với tôi điều gì và đáp lại nỗi bất bình của tôi ra sao! Và Đức Chúa trả lời
và nói với tôi: “Hãy viết lại thị kiến và khắc vào tấm bia cho ai nấy đọc được
xuôi chảy. Đó là một thị kiến sẽ xảy ra vào thời ấn định. Nó đang tiến nhanh tới
chỗ hoàn thành, chứ không làm cho ai thất vọng. Nếu nó chậm tới, thì cứ đợi chờ,
vì thế nào nó cũng đến, chứ không trì hoãn đâu.”
Chúa có chương trình và thời giờ của Chúa, Ngài không cần ai làm
cố vấn cho Ngài. Chúa có thể dùng kẻ gian ác như Assyria như cái roi để sửa phạt
Israel, Ngài cũng có thể dùng quân thù khác để trừng trị kẻ cầm roi. Con người
có tội không có quyền để tra vấn Chúa, nhưng phải kiên nhẫn chờ đợi trong đức
tin ngày Chúa cất đi những hình phạt cho mình: “Này đây, ai không có tâm hồn
ngay thẳng sẽ ngã gục, còn người công chính thì sẽ được sống nhờ lòng thành tín
của mình.”
2/ Phúc Âm: Đức tin của người cha có con trai bị kinh phong.
2.1/ Đức tin của người cha: Giống như người đàn bà xứ Canaan đã kiên trì
trong đức tin mặc dầu bị Chúa thử thách, người cha có đứa con trai bị kinh
phong hôm nay cũng vậy. Ông đã mang con đến cho các môn đệ của Chúa, nhưng họ
không chữa được; nhưng ông không nản lòng, ông cố tìm cơ hội cho được gặp Chúa
vì ông tin chắc Chúa sẽ cứu con ông khỏi bệnh.
2.2/ Đức tin yếu kém của các môn đệ: Khi nghe lời ông nói “Tôi
đã đem cháu đến cho các môn đệ Ngài chữa, nhưng các ông không chữa được,” Chúa
Giêsu phải kêu lên: “Ôi thế hệ cứng lòng không chịu tin và gian tà! Tôi còn phải
ở với các người cho đến bao giờ, còn phải chịu đựng các người cho đến bao giờ nữa?
Đem cháu lại đây cho tôi.”
Tại sao Chúa thốt lên những lời này? Chắc chắn không phải vì người
cha thiếu đức tin, nhưng là do sự cứng lòng tin của các môn đệ. Chúa mất kiên
nhẫn vì Chúa đã dạy dỗ và làm quá nhiều phép lạ trước các ông mà vẫn chưa đủ để
các ông đặt trọn vẹn niềm tin vào Ngài.
Chúa Giêsu quát mắng tên quỷ, quỷ liền xuất, và đứa bé được khỏi
ngay từ giờ đó. Bấy giờ các môn đệ đến gần hỏi riêng Đức Giêsu rằng: “Tại sao
chúng con đây lại không trừ nổi tên quỷ ấy?” Ngài trả lời: “Tại anh em kém tin!
Thầy bảo thật anh em: nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh
em có bảo núi này: “rời khỏi đây, qua bên kia!” nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có
gì mà anh em không làm được.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta rất dễ bị lung lay đức tin như tiên tri Habakkuk và
các môn đệ hôm nay khi đứng trước thử thách và đau khổ trong cuộc đời.
– Thay vì kiên trì hy vọng trong đức tin như người cha có con bị
kinh phong, chúng ta mất kiên nhẫn và chất vấn Chúa tại sao để chúng ta phải
đau khổ, tại sao chúng ta không làm được những gì người khác làm?
– Một đức tin vững mạnh nơi Chúa sẽ giúp chúng ta chịu đựng đau
khổ cách bình an và nhất là không bao giờ dám chất vấn Chúa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
11/08/2018 – THỨ BẢY TUẦN 18 TN
Th. Cla-ra, trinh nữ
Mt 17,14-20
SỨC MẠNH ĐỨC TIN
“Tại anh em kém tin! Thầy bảo thật anh em: nếu anh em có lòng
tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này: ‘rời khỏi đây, qua bên
kia!’ nó cũng sẽ nghe.” (Mt 17,20)
Suy niệm: Một người cha mang con của mình đến xin các môn đệ chữa bệnh
cho, nhưng các ông không chữa được. Các môn đệ thành thật hỏi Chúa lý do và
Chúa đã trả lời: “Tại anh em kém tin.” Chỉ cần có đức tin lớn bằng hạt cải thôi
mà đã có thể chuyển núi dời non. Thế mà đức tin của các môn đệ lúc này lại còn
kém hơn cả hạt cải thì đức tin đó cũng kể bằng không. Mà “không có đức tin thì
không thể làm đẹp lòng Thiên Chúa” (Dt 11,6). Thế nên, đức tin thật quan trọng
và cần thiết cho đời Ki-tô hữu biết bao. Chúa mời gọi chúng ta đặt niềm tin vào
Chúa, dù đức tin ấy chỉ bằng hạt cải thôi, thì Ngài sẽ thực hiện những gì còn lại
cho bạn.
Mời Bạn: Đức tin có vị trí nào và tầm quan trọng nào trong đời sống
của bạn? Bạn có thể vượt qua những thử thách hằng ngày nếu thiếu kém đức tin
không? Danh xưng Ki-tô hữu của bạn có ý nghĩa gì nếu bạn không còn đức tin?
Sống Lời Chúa: Thánh Phao-lô quả quyết: “Có đức tin là
nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố lời Đức Ki-tô” (Rm 10,17). Mỗi tuần
bạn dành thêm thời giờ học hỏi lời Chúa để được tăng cường đức tin.
Cầu nguyện: Lạy Cha, xin ban cho con đức tin lớn hơn hạt cải, để con
làm bật khỏi lòng con những ích kỷ và khép kín. Xin cho con đức tin can đảm, để
con chẳng sợ thiệt thòi khi trao hiến, chẳng sợ từ bỏ những gì con cậy dựa xưa
nay. Xin ban cho con đức tin sáng suốt, để con thấy được Đấng Vô Hình, nhưng rất
gần gũi, thân thương. (Rabbouni)
(5 phút Lời Chúa )
Tại anh em kém tin (11.8.2018 – Thứ Bảy Tuần 18 Thường niên)
Suy niệm:
Thầy Giêsu và ba môn đệ xuống từ trên núi, nơi Thầy mới hiển
dung.
Bốn Thầy trò gặp ngay một đám đông.
Một người cha chạy đến, quỳ xuống trước mặt Đức Giêsu.
Ông xin Ngài thương xót đứa con trai của ông bị kinh phong nặng lắm.
Những mô tả của ông về bệnh tình của con đúng là triệu chứng kinh phong.
Cậu bé không làm chủ được mình, dễ ngã vào nước, vào lửa.
Tính mạng cậu lúc nào cũng bị đe dọa (c. 15).
Bốn Thầy trò gặp ngay một đám đông.
Một người cha chạy đến, quỳ xuống trước mặt Đức Giêsu.
Ông xin Ngài thương xót đứa con trai của ông bị kinh phong nặng lắm.
Những mô tả của ông về bệnh tình của con đúng là triệu chứng kinh phong.
Cậu bé không làm chủ được mình, dễ ngã vào nước, vào lửa.
Tính mạng cậu lúc nào cũng bị đe dọa (c. 15).
Điều đáng lưu ý ở đây là chín môn đệ khác đã bó tay.
“Tôi đã đem cháu đến cho các môn đệ Ngài,
nhưng các ông không chữa được” (c. 16).
Chính những người đã được Thầy trao quyền để chữa bệnh và trừ quỷ
lại không thể giải quyết được trường hợp này.
Phải chăng vì không có sự hiện diện của Thầy, hay vì đám đông cứng lòng,
hay vì cơn bệnh quá nặng khiến các môn đệ không đủ tự tin và mạnh mẽ ?
Dù sao Thầy Giêsu cũng phải ra tay, để làm điều cần làm.
Với thái độ hơi mất kiên nhẫn, Ngài đã trách móc đám đông (c. 17).
Ngài gọi họ là một thế hệ không tin và gian tà.
Đức Giêsu thấy mình vẫn còn phải ở lại với họ và chịu đựng họ (c. 17)
“Đem cháu lại đây cho tôi”
Đức Giêsu quát mắng quỷ, quỷ liền xuất, và cậu bé được khỏi lập tức.
“Tôi đã đem cháu đến cho các môn đệ Ngài,
nhưng các ông không chữa được” (c. 16).
Chính những người đã được Thầy trao quyền để chữa bệnh và trừ quỷ
lại không thể giải quyết được trường hợp này.
Phải chăng vì không có sự hiện diện của Thầy, hay vì đám đông cứng lòng,
hay vì cơn bệnh quá nặng khiến các môn đệ không đủ tự tin và mạnh mẽ ?
Dù sao Thầy Giêsu cũng phải ra tay, để làm điều cần làm.
Với thái độ hơi mất kiên nhẫn, Ngài đã trách móc đám đông (c. 17).
Ngài gọi họ là một thế hệ không tin và gian tà.
Đức Giêsu thấy mình vẫn còn phải ở lại với họ và chịu đựng họ (c. 17)
“Đem cháu lại đây cho tôi”
Đức Giêsu quát mắng quỷ, quỷ liền xuất, và cậu bé được khỏi lập tức.
Các môn đệ hẳn bối rối và xấu hổ vì không đuổi được quỷ.
Chắc họ cũng ngạc nhiên vì thấy mình thất bại trong trường hợp này,
tuy họ đã thành công trong nhiều trường hợp khác (x. Lc 10, 17).
Họ chờ lúc riêng tư giữa Thầy trò để hỏi lý do tại sao (c. 19).
Câu trả lời của Thầy Giêsu ở đây là khá rõ ràng.
“Tại anh em kém tin !” (c. 20).
Kém tin là một từ đặc biệt chỉ có trong Tin Mừng Mátthêu.
Từ này được dùng nhiều lần (6, 30; 8, 26; 14, 31; 16, 8).
Người kém tin là người có lòng tin nhỏ bé (oligopistia),
chứ không phải là hoàn toàn không tin chút nào (apistia).
Nhưng lòng tin nhỏ bé này thật sự cũng chẳng đem lại hiệu quả gì.
Nó chưa đáng được gọi là tin theo đúng nghĩa.
Chắc họ cũng ngạc nhiên vì thấy mình thất bại trong trường hợp này,
tuy họ đã thành công trong nhiều trường hợp khác (x. Lc 10, 17).
Họ chờ lúc riêng tư giữa Thầy trò để hỏi lý do tại sao (c. 19).
Câu trả lời của Thầy Giêsu ở đây là khá rõ ràng.
“Tại anh em kém tin !” (c. 20).
Kém tin là một từ đặc biệt chỉ có trong Tin Mừng Mátthêu.
Từ này được dùng nhiều lần (6, 30; 8, 26; 14, 31; 16, 8).
Người kém tin là người có lòng tin nhỏ bé (oligopistia),
chứ không phải là hoàn toàn không tin chút nào (apistia).
Nhưng lòng tin nhỏ bé này thật sự cũng chẳng đem lại hiệu quả gì.
Nó chưa đáng được gọi là tin theo đúng nghĩa.
Một lòng tin đúng nghĩa thì dù nhỏ bé như một hạt cải
cũng có thể chuyển núi dời non (c. 20b; 1 Cr 13, 2).
Chỉ với lòng tin nhỏ như vậy, sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được.
Dĩ nhiên, câu này không có nghĩa là họ làm được mọi sự.
Các môn đệ chỉ làm được những gì liên quan đến việc loan báo Nước Trời,
như chữa mọi bệnh hoạn tật nguyền và trừ quỷ (Mt 10).
Họ chỉ làm được phép lạ khi người bệnh có lòng tin,
và khi việc họ làm nằm trong ý định của Thiên Chúa.
Những thừa tác viên của Giáo Hội nhiều khi thấy mình bất lực trước sự dữ.
Chúng ta cần xin Chúa thêm cho ta đức tin để có thể chuyển được
những đồi núi nơi lòng con người hôm nay.
cũng có thể chuyển núi dời non (c. 20b; 1 Cr 13, 2).
Chỉ với lòng tin nhỏ như vậy, sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được.
Dĩ nhiên, câu này không có nghĩa là họ làm được mọi sự.
Các môn đệ chỉ làm được những gì liên quan đến việc loan báo Nước Trời,
như chữa mọi bệnh hoạn tật nguyền và trừ quỷ (Mt 10).
Họ chỉ làm được phép lạ khi người bệnh có lòng tin,
và khi việc họ làm nằm trong ý định của Thiên Chúa.
Những thừa tác viên của Giáo Hội nhiều khi thấy mình bất lực trước sự dữ.
Chúng ta cần xin Chúa thêm cho ta đức tin để có thể chuyển được
những đồi núi nơi lòng con người hôm nay.
Lời nguyện:
Lạy Chúa,
xin ban cho con đức tin lớn hơn hạt cải,
để con làm bật rễ khỏi lòng con
những ích kỷ và khép kín.
Xin cho con đức tin can đảm
để con chẳng sợ thiệt thòi khi trao hiến,
chẳng sợ từ bỏ những gì con cậy dựa xưa nay.
xin ban cho con đức tin lớn hơn hạt cải,
để con làm bật rễ khỏi lòng con
những ích kỷ và khép kín.
Xin cho con đức tin can đảm
để con chẳng sợ thiệt thòi khi trao hiến,
chẳng sợ từ bỏ những gì con cậy dựa xưa nay.
Xin cho con đức tin sáng suốt
để con thấy được thế giới
mà mắt phàm không thấy,
thấy được Ðấng Vô hình,
nhưng rất gần gũi thân thương,
thấy được Ðức Kitô nơi những người nghèo khổ.
để con thấy được thế giới
mà mắt phàm không thấy,
thấy được Ðấng Vô hình,
nhưng rất gần gũi thân thương,
thấy được Ðức Kitô nơi những người nghèo khổ.
Xin cho con đức tin liều lĩnh,
dám mất tất cả chỉ vì yêu Chúa và tha nhân,
dám tiến bước trong bóng đêm
chỉ vì mang trong tim một đốm lửa của Chúa,
dám lội ngược dòng với thế gian
và khước từ những mời mọc quyến rũ của nó.
dám mất tất cả chỉ vì yêu Chúa và tha nhân,
dám tiến bước trong bóng đêm
chỉ vì mang trong tim một đốm lửa của Chúa,
dám lội ngược dòng với thế gian
và khước từ những mời mọc quyến rũ của nó.
Xin cho con đức tin vui tươi,
hạnh phúc vì biết những gì
đang chờ mình ở cuối đường,
sung sướng vì biết mình được yêu
ngay giữa những sa mù của cuộc sống.
hạnh phúc vì biết những gì
đang chờ mình ở cuối đường,
sung sướng vì biết mình được yêu
ngay giữa những sa mù của cuộc sống.
Cuối cùng, xin cho con đức tin cứng cáp
qua những cọ xát đau thương của phận người,
để dù bao thăng trầm dâu bể,
con cũng không để tàn lụi niềm tin
vào Thiên Chúa và vào con người.
qua những cọ xát đau thương của phận người,
để dù bao thăng trầm dâu bể,
con cũng không để tàn lụi niềm tin
vào Thiên Chúa và vào con người.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
11 THÁNG TÁM
Thiên Chúa Đã Yêu Thế Giới Đến Nỗi …
“Thế giới ở đây là thế giới của con người, thế giới ấy, người
Kitôhữu tin là đã được tình yêu của Đấng Tạo Hóa tác thành và bảo trì. Thế giới
ấy, đã rơi vào ách nô lệ tội lỗi, nhưng, nhờ Chúa Kitô chịu đóng đinh và sống lại
mà bẻ gãy uy quyền của Thần Dữ, đã được giải thoát để thay hình đổi dạng theo dự
định của Thiên Chúa mà tiến tới sự viên mãn” (MV 2).
Định nghĩa ấy gồm tóm toàn bộ giáo thuyết về sự quan phòng, hiểu
như kế hoạch vĩnh cửu của Thiên Chúa trong công trình sáng tạo, hoặc hiểu như sự
hoàn thành chung cục của vũ trụ. Điều này đặc biệt đúng đối với thế giới con
người theo như “được tiền định trong Đức Kitô”, Đấng là trung tâm và là nguồn gốc
của mọi sự.
Bằng cách này, Vatican II làm cho sắc bén giáo huấn tín lý của
Công Đồng Vatican I: “Thiên Chúa gìn giữ và điều khiển mọi loài Ngài đã dựng
nên với sự quan phòng của Ngài, từ chân trời này tới chân trời kia (Kn 8,1). ‘Tất
cả đều trần trụi và phơi bày trước mặt Ngài’ (Dt 4,13), ngay cả những gì xảy ra
thông qua sáng kiến tự do của tạo vật” (Dei Filius, DS 3003).
Ngay từ đầu, Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng tập chú đến một vấn đề
vừa liên quan với chủ đề của chúng ta ở đây vừa bức thiết với con người hiện đại:
Bằng cách nào sự phát triển của Nuớc Thiên Chúa và sự phát triển của thế giới
có thể hòa điệu với nhau?
– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 11/8
Thánh Clara, trinh nữ
Kb 1, 12-2,4; Mt 17, 14-20.
LỜI SUY NIỆM: “Giống
quỷ này không chịu ra, nếu người ta không ăn chay cầu nguyện.”
Khi các Tông đồ hỏi Chúa Giêsu về việc các ông đã không đuổi được quỷ ra khỏi
người con trai mà người cha đem đến với các ông. Chúa Giêsu cho biết: “Giống quỷ
này không chịu ra, nếu người ta không ăn chay cầu nguyện.”. Bởi vì chay tịnh
luôn kèm theo kinh nguyện, khẩn cầu, dùng để bày tỏ lòng khiêm nhường trước
nhan Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu. Trong Sách Đanien cho chúng con biết: “Tôi ăn chay, mặc áo vải
thô và rắc tro lên đầu rồi ngẩng mặt lên Chúa Thượng là Thiên Chúa để dâng lời
khẩn nguyện nài van” (Đn 9,3). Xin cho chúng con trước mọi sứ vụ, chúng con thực
hiện luôn biết ăn chay và cầu nguyện, để đem lại kết quả tốt và đẹp lòng Chúa.
Nhờ đó lòng yêu người, sự tìm kiếm chân lý sự thật của chúng con được trưởng
thành hơn.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 11-08
Thánh CLARA
Đồng Trinh (1193 – 1253)
Thánh Clara sinh năm 1193 tại Assisi miền Umbria. Thuộc dòng họ
danh gái Offreducciô. Người ta nói thánh nữ sinh ra với nụ cười trên môi và
không bao giờ thấy Ngài khóc. Ngài dành nước mắt để tưới chân Chúa Giêsu chịu
đóng dinh. Nghe biết một thanh niên giàu có đã trở nên người nghèo thành
Assisi, người thiếu nữ danh giá cảm kích trước mẫu gương của thánh nhân. Trong
khi gia đình nhắm cưới gả cho nàng, thì nàng chỉ nhắm đến cuộc sống sám hối
khiêm hạ. Sau khi nghe bài giảng của thánh nhân, Ngài đã đi tới quyết định.
Khi ấy thánh Clara 18 tuổi. Vào ngày Lễ Lá, 18 tháng 3 năm 1212,
thánh nữ ăn mặc sang trọng tới nhà thờ chính tòa dự lễ. Theo thói quen, các bà
tiến lên nhận lá từ tay Đức giám mục. Hôm ấy Clara quá xúc động, khiến chính đức
giám mục phải rồi ghế đưa lá đến cho Ngài. Chiều về, Ngài đã cùng với một người
bạn lén bỏ nhà theo lối cửa hậu rồi theo ánh đuốc tới gặp thánh Phanxicô tại
Porsiuncola…
Giai thoại thật cảm động, một cô gái 18 sang trọng đã bỏ tất cả
những gì là quen thuộc và an toàn để đi theo Đấng vô hình, còn Phaxicô 30 tuổi
không có lấy một xu dính túi đã nhận lấy trách nhiệm về cả tinh thần lẫn vật chất
đối với cô. Giữa đêm xuân trong rừng cây và dưới ánh đuốc của đoàn anh em.
Clara buông xõa mái tóc huyền trên bàn thờ cho Phanxicô cắt bỏ. Hành động hoàn
toàn ngoại lệ và không với một chút quyền hạn theo giáo luật. Phanxicô đã lãnh
bản ly dị của Clara đối với thế gian, rồi gởi đi vào một nữ tu viện Benedicto gần
đó.
Biến cố nổ lớn làm cả thành phố xúc động. Thế gian kết án Clara.
Ong Monaldo, cậu thánh nữ đến nhà dòng bắt thánh nữ về, nhưng Ngài ôm cứng chân
bàn thờ quyết chọn Chúa mà thôi. Phanxicô dẫn thánh nữ tới một nữ tu tu viện
Bênêdictô khác, cùng với em của mình là Anê. Sau cùng Phanxicô thiết lập cho
Clara và cộng đoàn đã tăng số một tu viện tại San Damianô, nơi đây bà
Ortolanta, mẹ của thánh nữ cũng nhập dòng. Trong một thời gian cộng đoàn độc lập
như những người hành khất đầu tiên. Phanxicô viết cho cộng đoàn một bản luật sống
vắn gọn, đòi kỷ luật gắt gao và chay tịnh khắc khổ.
Dầu vậy, Clara con người đi xa hơn cả ước muốn của thánh
Phanxicô. Năm 1215 Phanxicô đặt Clara làm tu viện trưởng và có lẽ đã trao cho
Ngài một bản luật dòng thánh Bênêdictô. Nhưng một mục chương nói rằng sự đơn sơ
và nhiệt tình của chị em khiến cộng đoàn tăng số rất nhanh.
Vào những năm cuối đời thánh Phanxicô, mọi liên hệ với San
Đômianô bị gián đoạn. Câu chuyện hay về bữa ăn tối với Clara không được chính
xác lắm. Nhưng cơn đau cuối cùng Phanxicô đã được Clara cho trú ngụ trong một
mái chòi bằng lá cây ở cổng tu viện Damianô, nơi Phaxicô trước tác bài ca mặt
trời. Ngài ban phép lành cuối cho Clara rồi về Porziuncola và qua đời tại đó.
Ngài cũng xin anh em đưa xác về Assisi qua ngã San Đamianô. Thánh Clara và chị
em tiếp rước và có dịp chiêm ngưỡng các vết thương ở tay và chân Ngài.
Clara thực hiện đúng lý tưởng của người nghèo thành Assisi. Đức
Innôcentê III đã đích thân ban phép cho Ngài được giữ đức nghèo khó tuyệt đối.
Nhưng Đức Grêgôriô IX nguyên là hồng y Ugôlinô đã muốn cải sửa luật cho phép
nhà dòng có đất đai nhà cửa. Clara cưỡng lại và năm 1228 đã được hưởng đặc ân
như sở nguyện. Ngài đã thưa với Đức Grêgôriô: – Thưa Đức Cha, xin tha tội cho
chúng con, nhưng đừng tha cho con khỏi theo lời Chúa.
Năm 1247, một lần nữa đức Innocentê IV kiểm soát lại luật thánh
Phanxicô, muốn sống đời khó nghèo truyệt đối. Luật này được Đức Innocente chấp
thuận vội vã, hai ngày trước khi thánh nữ qua đời. Năm 1893 người ta tìm thấy sắc
chỉ nguyên thủy trong mộ thánh nữ.
Cuộc sống còn được ghi nhớ bởi cuộc tàn phá năm 1241 của vua
Frêdêrico II, nhờ lời cầu nguyện đắc lực của Ngài. Trong cơn bệnh của Ngài, Đức
hồng y Rainalđô, tức là đức giáo hoàng Alexandrô sau này, đã đến trao mình Chúa
và khuyyên nhủ thánh nữ, thánh nữ trả lời: – Từ khi nếm thử chén đắng và cuộc tử
nạn của Chúa, con thấy không còn gì làm con đau đớn nữa.
Sau khi chúc lành cho các nữ tu đến thăm, Ngài nói với mình: –
Hãy an tâm, ngươi đã theo đúng đường, cứ tin tưởng vì Chúa tạo thành đã thánh
hiến và không ngừng gìn giữ ngươi, đã yêu ngươi với tình mẹ thương con, ôi lạy
Chúa xin chúc tụng Chúa vì đã dựng nên con.
Thánh nữ qua đời ngày 11 tháng năm 1253 và năm 1255 được tôn
phong hiển thánh.
(daminhvn.net)
11 Tháng Tám
Cô Bạn Của Thánh Phanxicô
Assisi
Một trong những cuốn phim có giá trị diễn tả về cuộc đời của
thánh Phanxicô thành Assisi mới được thực hiện cách đây vài năm đa thi vị hóa
vai trò của Clara, vị thánh Giáo Hội mừng kính hôm nay. Ðạo diễn của cuốn phim
đã giới thiệu Clara qua hình ảnh một nữ tài tử trẻ đẹp với mái tóc vàng óng ả,
thích tung tăng chạy nhảy giữa cánh đồng hoa hướng dương chạy dài mút mắt.
Trong thực tế, quãng đời thanh xuân của Clara đã cống hiến nhiều
chi tiết có thể được sử dụng làm chất liệu để quay phim. Vào tuổi trăng tròn
15, Clara đã từ chối kết hôn vì tâm hồn của nàng bị xúc động mãnh liệt qua lời
rao giảng có chiều sâu của Phanxicô. Từ đó cho đến lúc Clara trút hơi thở cuối
cùng, Phanxicô là một người bạn tinh thần, một cha linh hướng của nàng.
Lúc lên 18 tuổi, Clara thoát ly gia đình và trong một buổi lễ
đơn sơ cử hành vào đêm, nàng đã cởi bỏ những xiêm y đắt tiền để mặc lấy một chiếc
áo dòng bằng vải thô, đã thay chiếc dây nịt quý giá bằng một sợi dây thắt lưng
đơn sơ và đã để cho Phanxicô cắt mái tóc óng ả của mình tượng trưng cho tinh thần
từ bỏ.
Khi một số thiếu nữ khác cùng một chí hướng, kể cả Agnes, em gái
của Clara, theo chân nàng vào tu viện, họ đã bắt đầu một cuộc sống nghèo nàn,
khổ hạnh và ẩn dật, cắt đứt mọi giao tiếp với thế giới bên ngoài. Họ đi chân
không, ngủ trên nền nhà, không ăn thịt và giữ thinh lặng hầu như hoàn toàn. Ðó
là những dấu hiệu bên ngoài biểu lộ ý hướng bên trong của họ muốn sống khó
nghèo theo tinh thần Phúc Âm như Ðức Giêsu đã dạy.
Ðế sống cuộc đời từ bỏ, các nữ tu dòng thánh Clara khước từ quyền
sở hữu của bất cứ của cải nào, kể cả với tính cách là của chung.
Nhu cầu lương thực hằng ngày được giải quyết bằng của bố thí.
Khi Ðức Thánh Cha khuyên họ giảm bớt cách thực hành sống nghèo cách tuyệt đối
như vậy, Clara đã khẳng khái trả lời: “Thưa Ðức Thánh Cha, chúng con cần cha
tha tội, chứ chúng con không mong ước cha tha chúng con khỏi những bổn phận phải
giữ để trung tín dõi theo chân Chúa Giêsu”.
Trong bốn bức tường tu viện tại San Ðamianô gần Assisi, Clara ân
cần chăm sóc các bệnh nhân, khiêm nhượng hầu bàn và rửa chân cho các nữ tu sau
khi họ đi cầu thực trở về và dành nhiều thời giờ để tâm hồn chìm sâu trong kinh
nguyện. Các nữ tu đồng thời thuật lại rằng: Khi Clara cầu nguyện xong, mặt chị
chiếu sáng làm chói mắt mọi người.
Trong 27 năm cuối đời, Clara bị đau ốm luôn, nhưng chị đã thu
hút được nhiều Giám Mục, Hồng Y, kể cả các giáo chủ đến để tham khảo ý kiến của
chị.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét