Trang

Chủ Nhật, 5 tháng 2, 2012

THỨ HAI TUẦN V MÙA THƯỜNG NIÊN


Thứ Hai sau Chúa Nhật 5 Quanh Năm


Bài Ðọc I: (Năm I) St 1, 1-19
"Thiên Chúa phán: và xảy ra như vậy".
Trích sách Sáng Thế.
Từ nguyên thủy Thiên Chúa đã tạo thành trời đất. Ðất còn hoang vu trống rỗng, tối tăm bao trùm vực thẳm, và Thần trí Thiên Chúa bay sà trên mặt nước.
Thiên Chúa phán: "Hãy có ánh sáng". Và có ánh sáng. Thiên Chúa thấy ánh sáng tốt đẹp, Người phân rẽ ánh sáng khỏi tối tăm. Thiên Chúa gọi ánh sáng là ngày, tối tăm là đêm. Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ nhất.
Thiên Chúa phán: "Hãy có một vòm trời ở giữa nước, phân rẽ nước với nước", và Thiên Chúa làm nên vòm trời, và phân rẽ nước phía trên vòm trời với nước dưới vòm trời. Và xảy ra như vậy. Thiên Chúa gọi vòm đó là trời. Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ hai.
Thiên Chúa phán: "Nước dưới trời hãy tụ tại một nơi, để lộ ra chỗ khô cạn. Và đã xảy ra như vậy. Thiên Chúa gọi chỗ khô cạn là đất, và Người gọi khối nước là biển. Thiên Chúa thấy tốt đẹp. Và Thiên Chúa phán: "Ðất hãy trổ sinh thảo mộc xanh tươi mang hạt giống, và cây ăn trái phát sinh trái theo giống nó, và trong trái có hạt giống, trên mặt đất. Và đã xảy ra như vậy. Tức thì đất sản xuất thảo mộc xanh tươi mang hạt theo giống nó, và cây phát sinh trái trong có hạt tuỳ theo loại nó. Và Thiên Chúa thấy nó tốt đẹp. Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ ba.
Thiên Chúa còn phán: "Hãy có những vật sáng trên vòm trời và hãy phân chia ngày và đêm, và trở thành dấu chỉ thời gian, ngày và năm tháng, để soi sáng trên vòm trời và giãi sáng mặt đất". Và đã xảy ra như vậy. Thiên Chúa đã làm nên hai vầng sáng lớn: Vầng sáng lớn hơn làm chủ ban ngày, và vầng sáng nhỏ hơn làm chủ ban đêm; và Ngài cũng làm nên các tinh tú. Thiên Chúa đặt chúng trên vòm trời để soi sáng trên mặt đất, và làm chủ ngày đêm, và phân chia ánh sáng với tối tăm. Thiên Chúa thấy tốt đẹp. Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ tư.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 103, 1-2a. 5-6. 10 và 12. 24 và 35c
Ðáp: Nguyện cho Chúa hân hoan vì công cuộc của Chúa (c. 31b).
Xướng: 1) Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa. Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, Ngài rất ư vĩ đại! Ngài mặc lấy oai nghiêm huy hoàng, ánh sáng choàng thân như mang áo khoác. - Ðáp.
2) Ngài dựng vững địa cầu trên nền tảng, cho tới muôn đời nó chẳng lung lay. Ngài dùng biển che phủ nó như áo che thân, trên ngọn núi non muôn ngàn nước đọng. - Ðáp.
3) Ngài lệnh cho mạch nước tràn ra thành suối, chúng chảy rì rào giữa miền non núi. Bên cạnh chúng, chim trời cư ngụ, từ trong ngành cây vang ra tiếng hót. - Ðáp.
4) Lạy Chúa, thực nhiều thay công cuộc của Ngài! Ngài đã tạo thành vạn vật cách khôn ngoan, địa cầu đầy dẫy loài thụ tạo của Ngài. Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa. - Ðáp.

* * *

Bài Ðọc I: (Năm II) 1 V 8, 1-7. 9-13
"Họ mang hòm bia Thiên Chúa vào nơi Cực Thánh, và mây bao phủ nhà Chúa".
Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.
Trong những ngày ấy, các kỳ lão Israel, cùng những thủ lãnh các chi họ và những trưởng gia tộc con cái Israel đều tề tựu trước mặt vua tại Giêrusalem, để cung nghinh hòm bia Thiên Chúa từ thành Ðavít, tức là thành Sion. Trong ngày đại lễ, nhằm tháng Ethanim, tức tháng bảy, toàn dân Israel tụ họp quanh vua Salomon. Khi các kỳ lão Israel đến, các tư tế liền khiêng hòm bia, và mang hòm bia Chúa đi, mang cả nhà tạm giao ước và tất cả những đồ thánh trong nhà tạm; các tư tế và các thầy Lêvi phụ trách khiêng đi.
Vua Salomon và toàn dân Israel tề tựu quanh ngài, tiến đi với ngài trước hòm bia, và tế lễ vô số chiên bò không kể xiết. Các tư tế khiêng hòm bia Thiên Chúa đặt vào nơi đã chỉ định tại đền thờ, nơi cực thánh, dưới cánh các tượng vệ binh thần. Các tượng này giang cánh trên nơi để hòm bia, và che phủ hòm bia và các đòn khiêng. Trong hòm bia không có gì khác ngoài hai bia đá mà Môsê đã đặt vào hòm ở núi Horeb, lúc Chúa lập giao ước với con cái Israel khi họ ra khỏi đất Ai-cập. Khi các tư tế lui ra khỏi cung thánh, thì có mây bao phủ nhà Chúa. Vì mây mù, nên các tư tế không thể đứng đó mà thi hành chức vụ: vì vinh quang của Chúa tràn đầy nhà Chúa. Bấy giờ Salomon nói rằng: "Chúa đã từng phán sẽ ngự trong đám mây. Vậy tôi đã xây cất ngôi nhà làm nơi ở cho Chúa, một nơi vững chắc Chúa ngự đến muôi đời".
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 131, 6-7. 8-10
Ðáp: Lạy Chúa, xin lên đường đi tới nơi an nghỉ (c. 8a).
Xướng: 1) Ðây là điều chúng tôi đã nghe nói tại Ephrata, chúng tôi đã gặp thấy nơi đồng ruộng Gia-ar. Chúng ta hãy tiến vào nhà Chúa, hãy sụp lạy trước bệ dưới chân Ngài. - Ðáp.
2) Lạy Chúa, xin lên đường đi tới nơi an nghỉ, Chúa và Hòm Bia oai quyền của Chúa cùng đi! Các tư tế của Ngài hãy mặc lấy lòng đạo đức, và các tín đồ của Ngài hãy mừng rỡ hân hoan. Xin vì Ðavít là tôi tớ Chúa, Chúa đừng hắt hủi người được Chúa xức dầu. - Ðáp.

* * *

Alleluia: Ga 14, 5
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy". - Alleluia.

Phúc Âm: Mc 6, 53-56
"Tất cả những ai chạm tới Người, đều được khỏi bệnh".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ qua biển rồi, các ngài tới miền Giênêsarét và ghé bến. Các ngài lên khỏi thuyền, tức thì người ta nhận ra Người, họ liền rảo chạy khắp miền, và nghe tin Người ở đâu thì khiêng những người đau yếu nằm trên chõng đến đó. Bất cứ Người vào làng trại hay đô thị nào, người ta cũng đặt các bệnh nhân ở các nơi công cộng và xin Người cho họ ít là được chạm tới gấu áo Người, và tất cả những ai chạm tới Người, đều được khỏi bệnh.
Ðó là lời Chúa.

Suy Niệm:
Dân chúng đặt niềm tin mạnh mẽ vào Ðức Giêsu đến độ bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào, các bệnh nhân cũng được đem đến với Ngài. Và người ta chỉ cần chạm vào tua áo của Ngài cũng được khỏi. Ðức Giêsu đặc biệt yêu thương những người đau khổ, xấu số trong cuộc đời. Cảm nghiệm được Chúa là tình thương, là nguồn sống của họ, nên những người hèn mọn này chân thành và rất tin yêu Chúa.

Cầu Nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, tâm hồn chúng con đầy những bệnh hoạn, tật nguyền. Dẫu chúng con xấu xa đê tiện nhưng chúng con tin thật Chúa vẫn yêu thương chúng con. Chúa cảm thương sự yếu hèn của chúng con và Chúa sẽ chữa chúng con. Xin Chúa cho chúng con biết chân thành, tin tưởng vào Chúa như dân Ghê-nê-xa-rét xưa. Chúng con mau mắn đến trình Chúa những đui mù què quặt của chúng con. Có Chúa, cuộc đời chúng con luôn an bình, hạnh phúc. Amen.

Suy Niệm:
Chấp nhận bị quấy rầy
Tin Mừng hôm nay là một bản khái quát những hoạt động của Chúa Giêsu làm cho con người, những hoạt động này vừa nhiều vừa đa dạng, đến mức làm cho người ta có cảm tưởng Chúa Giêsu là một lương y đa khoa.
Nhìn vào cách thức hành động của Chúa Giêsu, con người thời nay có thể cho rằng Ngài làm việc thiếu khoa học. Dường như Chúa Giêsu không lên kế hoạch làm việc cho từng ngày, ngày nào của Ngài cũng chỉ theo một chương trình duy nhất, là rao giảng Tin Mừng và làm cho Nước Trời hiện diện cụ thể trong đời sống con người. Ðối tượng phục vụ của Ngài là người nghèo đủ loại, và nhu cầu của người nghèo lại cấp bách đến độ không thể dời lui dời tới hoặc giới hạn vào một số giờ nhất định. Sống với người nghèo và cho người nghèo là chấp nhận bị quấy rầy: quấy rầy vì những vấn đề của họ thật cấp thiết nhưng lại không dễ giải quyết, quấy rầy vì họ luôn ở cạnh chúng ta mà chúng ta không được phép quên đi.
Giáo Hội hôm nay muốn chọn người nghèo làm đối tượng ưu tiên để phục vụ như Chúa Giêsu ngày xưa đã làm, thì Giáo Hội cũng không thể quên sự quấy rầy của người nghèo và các vấn đề liên quan đến người nghèo. Nếu Giáo Hội có phải phân nhiệm cho ủy ban này, ủy ban khi lo từng vấn đề, nếu Giáo Hội có phải lên thời khóa biểu hằng ngày, thì tất cả chỉ vì muốn phục vụ người nghèo cho có kết quả hơn, chứ không phải để giảm bớt hoặc thoái thác công việc.
Chúa đã không phục vụ con người theo kiểu trưởng giả, gián tiếp, nhưng đã dấn thân phục vụ tất cả mọi người bất cứ giờ phút nào. Xin cho Giáo Hội và mỗi người chúng ta đừng phục vụ người nghèo trên môi miệng, trên giấy tờ hoặc trong tư duy, nhưng là phục vụ trong hành động cụ thể và mau mắn.

 Thánh Phaolô Miki và các bạn,
 tử đạo tại Nhật Bản
Kitô hữu là người sống "trong Danh" Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, có nghĩa là dưới sự hiện diện của Ba Ngôi, vì kêu gọi chính là làm cho hiện diện. Kitô hữu là người sống dưới sự hiện diện của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần Không phải chỉ có Chúa Cha, cũng không phải chỉ có Chúa Con, cũng không phải chỉ có Chúa Thánh Thần. Điều này thật đơn sơ, nhưng thật sự là thế.
Nhưng Thiên Chúa của chứng ta không đơn thuần, chỉ vì Thiên Chúa không đơn độc. Còn có Đâhg khác trong Thiên Chúa. Có sự khác biệt trong Thiên Chúa. Thiên Chúa của chúng ta không chỉ là một. Nói về Thiên Chúa Ba Ngôi, Người đổng thời là hiệp thông: Hiệp thông tình yêu. Nói về Thiên Chúa chỉ là muôn nói Thiên Chúa là TÌNH YÊU. Tình yêu không phải là một phẩm chất của Thiên Chúa, dù là phẩm Chất đầu tiên. Tinh yêu là hữu thể của chính Thiên Chúa. Thiên Chúa là sự hiệp thông tình yêu. Chúng ta hãy bước vào sự năng động của tình yêu Ba Ngôi. Chỉ vì, một khi đã được rửa tội nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, chúng ta được đưa vào chuyển động của Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúng ta nghe trích dẫn của Đức giáo hoàng Gioan-Phaolô II: "Chính từ sự kiện Thiên Chúa là hiệp thông xuất phát ơn gọi của nhân loại để tạo thành một gia đình duy nhất, trong đó nhiều giống nòi khác nhau và văn hóa sẽ gặp nhau và làm cho nhau nên phong phú".

Viện phụ Thomas Cui
06/02/12                                               thứ hai tuần 5 tn
Th. Phaolô Miki và các bạn, tử đạo
                                                                            Mc 6,53-56

lương y toàn hảo, toàn năng
“Bất cứ ai chạm đến Người, thì đều được khỏi.” (Mc 6,56)
Suy niệm: Kỹ thuật y khoa hiện đại đã chữa trị được biết bao chứng bệnh mà trước đây vẫn bị liệt vào những chứng bệnh nan y. Hơn nữa, nhờ sự tận tâm và đôi tay khéo léo của y bác sĩ, nhiều người được cứu sống trong gang tấc. Tuy nhiên cũng có những trường hợp sai sót hay tắc trách khiến nhiều bệnh nhân phải chết oan. Thật ra những sự cố như thế, chẳng y bác sĩ nào muốn để cho xảy ra cả. Nhưng không ai không có những giới hạn của người phàm. Và nhất là không ai vượt qua được giới hạn của cái chết. Đức Giêsu là lương y toàn hảo, toàn năng, mọi bệnh nhân đến với Người đều được lành bệnh, dù chỉ chạm vào tua áo choàng của Người. Được Ngài đụng chạm đến thì mọi bệnh tật và cả cái chết cũng bị đẩy lui.
Mời Bạn: Chúa chữa bệnh cho ai thì Ngài cũng chữa cả tật bệnh phần hồn. Bạn đã để Ngài đụng chạm đến bạn để bạn được chữa lành những bệnh tật linh hồn chưa? Trung thành với giờ cầu nguyện và suy niệm Lời Chúa, siêng năng lãnh nhận các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể là phương thế để được Ngài đụng chạm đến và thánh hoá xác hồn và cả cuộc sống của bạn.
Chia sẻ: Khi thăm viếng bệnh nhân bạn có “kỹ năng” nào để giúp bệnh nhân sống vui tươi lạc quan và phó thác vào Chúa trong cơn bệnh của họ?
Sống Lời Chúa: Dành thời giờ đi thăm viếng một bệnh nhân, trước khi đi nhớ dành ít phút hướng về Chúa, cầu nguyện xin Chúa đồng hành với bạn.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, con đến với Chúa mang theo mọi tật nguyền của đời con. Xin Chúa cứu chữa con. Xin làm cho con nên mạnh mẽ tiến bước trên con đường thánh thiện. Amen.


Con người phải biết ơn tác giả của sự sống
Bài đọc: Gen 1:1-19; I Kgs 8:1-7, 9-13; Mk 6:53-56.

Trong thế giới con người, chúng ta thường thấy có 2 hạng người tiêu biểu: một hạng người chịu để tâm nghiên cứu để tìm ra sự thật, nguồn gốc, và căn nguyên mọi loài như: “Tôi đã tìm thấy Thiên Chúa trong vũ trụ.” Hay “Tôi đã tìm thấy Thiên Chúa nơi phòng thí nghiệm.” Ngược lại, có những người lười biếng, không chịu học hỏi lịch sử, và truy tầm nguồn gốc và căn nguyên của mọi loài; lại còn có thái độ tự tôn, kiêu ngạo, và nghĩ mình có thể làm mọi sự; chẳng hạn lời tuyên bố của triết gia hiện sinh F. Nietzsche “Tôi đã giết chết Thiên Chúa!” hay lời phê phán của K. Marx, ông tổ cộng sản, về niềm tin vào Thiên Chúa: “Tôn giáo là thuốc phiện mê ngủ con người.”
Nếu con người chịu khó học hỏi lịch sử và tìm về nguồn cội, con người sẽ khám phá ra trái đất con người đang sống chỉ là một hành tinh nhỏ và mỏng giòn của vũ trụ, chứ không phải là trung tâm điểm hay cái rốn của vũ trụ như nhiều người lầm tưởng. Trái đất tự nó không thể sống một mình, nhưng tùy thuộc vào các hành tinh chung quanh; nhất là 2 hành tinh lớn mặt trời và mặt trăng. Nhận ra thân phận yếu đuối của mình sẽ giúp con người khiêm nhường hơn, biết ơn, và trông cậy vào sự khôn ngoan, uy quyền, và sức mạnh của Đấng Sáng Tạo.
Hai Bài Đọc hôm nay nói lên sự tương phản giữa Đấng Sáng Tạo uy quyền và con người yếu đuối bệnh tật. Trong Bài Đọc I, năm lẻ, tác-giả Sách Sáng Thế Ký, dù không có một dụng cụ nghiên cứu thiên văn nào, cả hàng mấy ngàn năm trước đây, đã biết dùng trí óc lý luận của mình, nhận ra uy quyền sáng tạo của Thiên Chúa trong vũ trụ. Trong Bài Đọc I, năm chẵn, vua Solomon khánh thành Đền Thờ và cho rước Hòm Bia Thiên Chúa vào nơi Cực Thánh trong Đền Thờ. Thiên Chúa cho vua và dân chúng biết sự hiện diện của Ngài với dân bằng đám mây dày đặc.
Trong Phúc Âm, Thiên Chúa, tác giả của sự sống, cũng là người chữa lành mọi tật bệnh cho con người. Điều kiện để được chữa bệnh: con người phải nhận ra tình trạng bệnh tật của mình và đến với Thiên Chúa để được chữa lành.
I. KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I (năm lẻ): Thiên Chúa tạo dựng trời đất.
Điều đầu tiên chúng ta cần chú ý khi đọc trình thuật tạo dựng: Đây không phải là thứ tự những gì Thiên Chúa làm; nhưng là một tường thuật về công cuộc tạo dựng theo con mắt đức tin, dưới sự linh hứng của Thánh Thần. Tác-giả quan tâm tới ai là người sáng tạo, chứ không quan tâm đến cách thức chi tiết phải làm sao. Tác giả quan tâm đến sự thật đặt căn bản trên những sự kiện lịch sử, chứ không tới thứ tự lịch sử của những biến cố. Tác giả quan tâm đến sự cứu độ hơn là thần học về việc tạo dựng. Tác giả tường thuật công trình sáng tạo theo sự hiểu biết và suy tư của con người thời đó, khi chưa có những kiến thức khoa học về sự vận chuyển trong trời đất.
1.1/ Ngày thứ nhất, Thiên Chúa tạo dựng ánh sáng và phân rẽ ánh sáng khỏi bóng tối: Ngay từ khởi thủy, chỉ có một Thiên Chúa; khác hẳn với những tôn giáo đa thần. Ánh sáng và bóng tối là do Thiên Chúa tạo dựng, cả hai đều ở dưới uy quyền của Thiên Chúa, chứ không là 2 thần khác nhau. Uy quyền của Thiên Chúa trên ánh sáng và bóng tối được diễn tả bằng việc Chúa muốn và phán và sự vật liền có, và Chúa gọi là sự vật liền được gọi. Theo tâm thức của người Do-thái xưa, người được đặt tên là người có toàn quyền trên sự việc. Theo sự suy luận của tác giả, ánh sáng phải có trước khi làm các việc khác, nên Thiên Chúa tạo dựng ánh sáng trước khi tạo dựng các sự vật khác.
1.2/ Ngày thứ hai, Thiên Chúa tạo dựng bầu trời: Theo sự mô tả của tác-giả ở trên, toàn thể địa cầu bao bọc bởi nước; do đó, địa cầu cần được phân chia ranh giới hẳn hoi. Để làm điều này, Thiên Chúa chế tạo một cái vòm, và bầu trời giống như hình một cái phễu lớn giổng ngược để phân rẽ nước phía trên và nước phía dưới. Chỗ nước chảy xuống được khóa lại và mở ra khi muốn làm mưa.
1.3/ Ngày thứ ba, Thiên Chúa phân tách đất liền ra khỏi biển và tạo dựng cây cỏ: Sau khi đã phân cách nước phía trên, Thiên Chúa phân cách nước phía dưới khi Thiên Chúa phán: "Nước phía dưới trời phải tụ lại một nơi, để chỗ cạn lộ ra." Liền có như vậy. Thiên Chúa gọi chỗ cạn là "đất," khối nước tụ lại là "biển." Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp.
Chỗ nào có đất là có cây cỏ mọc. Theo sự suy nghĩ của tác gỉa, đến lúc Thiên Chúa tạo dựng chúng nên Ngài phán: "Đất phải sinh thảo mộc xanh tươi, cỏ mang hạt giống, và cây trên mặt đất có trái, ra trái tuỳ theo loại, trong có hạt giống." Liền có như vậy. Đất trổ sinh thảo mộc, cỏ mang hạt giống tuỳ theo loại, và cây ra trái, trong trái có hạt giống tuỳ theo loại. Điều cần chú ý là tiềm năng sự sống và sự tái tạo đã có trong các hạt giống khi Thiên Chúa tạo dựng; và không bao giờ cạn. Bao lâu còn đất, các hạt giống sẽ sinh hoa trái cho con người hưởng dùng.
1.4/ Ngày thứ tư, Thiên Chúa tạo dựng các hành tinh: mặt trời, mặt trăng, và các ngôi sao.
Có lẽ tác giả phân biệt 2 thứ ánh sáng: ánh sáng của ngày thứ nhất là để nhìn, và ánh sáng đến từ mặt trời. Có lẽ tác giả chưa đủ kiến thức để biết ánh sáng ban ngày đến từ mặt trời. Thiên Chúa nghĩ: Để phân biệt ngày với đêm, cần có 2 nguồn sáng khác nhau, nên Thiên Chúa phán: "Phải có những vầng sáng trên vòm trời, để phân rẽ ngày với đêm, để làm dấu chỉ xác định các đại lễ, ngày và năm. Đó sẽ là những vầng sáng trên vòm trời để chiếu soi mặt đất." Thiên Chúa làm ra hai vầng sáng lớn: vầng sáng lớn hơn để điều khiển ngày, vầng sáng nhỏ hơn để điều khiển đêm; Người cũng làm ra các ngôi sao. Thiên Chúa đặt các vầng sáng trên vòm trời để chiếu soi mặt đất, để điều khiển ngày và đêm, và để phân rẽ ánh sáng với bóng tối.
2/ Bài đọc I (năm chẵn): Khi các tư tế ra khỏi Cung Thánh, thì có đám mây toả đầy Đền Thờ Đức Chúa.
2.1/ Ngày khánh thành Đền Thờ của Thiên Chúa: Ước ao có được một Đền Thờ để Hòm Bia Thiên Chúa được đặt vào có từ thời vua David; nhưng Thiên Chúa không muốn David xây dựng Đền Thờ cho Ngài, vì tay David đã vấy máu Uriah, người vô tội. Ngài dành đặc quyền này cho vua Solomon, con của David. Tuy không được xây dựng Đền Thờ của Thiên Chúa, David cũng chuẩn bị nhiều thứ vật liệu để Solomon có thể hoàn thành dự án đó.
Hôm nay là ngày khánh thành Đền Thờ, vua Solomon triệu tập bên mình, tại Jerusalem, các kỳ mục Israel, gồm tất cả các người đứng đầu các chi tộc cùng các trưởng tộc con cái Israel, để đưa Hòm Bia Giao Ước của Đức Chúa lên, từ Thành vua David tức là Sion. Tất cả các kỳ mục Israel đều tới; các tư tế thì khiêng Hòm Bia, và đưa Hòm Bia của Đức Chúa cũng như Lều Hội Ngộ và tất cả các vật dụng thánh trong Lều lên. Các tư tế đưa Hòm Bia Giao Ước của Đức Chúa vào nơi đã dành sẵn trong cung điện bên trong của Đền Thờ, tức là Nơi Cực Thánh, dưới cánh các Cherubim. Trong Hòm Bia không có gì ngoài hai Bia đá ông Moses đã đặt vào đó, trên núi Horeb, khi Đức Chúa lập Giao Ước với con cái Israel vào thời họ ra khỏi đất Ai-cập.
2.2/ Thiên Chúa hiện diện trong Đền Thờ: Mục đích của việc xây dựng Đền Thờ không phải cho Thiên Chúa, nhưng là cho lợi ích của con người. Thiên Chúa hiện diện khắp nơi trong vũ trụ, vì tất cả là của Ngài. Con người cần có một nơi để họ biết chắc chắn Thiên Chúa đang ở giữa họ, để họ có thể đến cầu nguyện và cảm thấy được Thiên Chúa bảo vệ.
Trình thuật hôm nay xác nhận sự kiện Thiên Chúa ở giữa dân, vì "khi các tư tế ra khỏi Cung Thánh, thì có đám mây toả đầy Đền Thờ Đức Chúa." Cột mây là dấu chứng sự hiện diện của Thiên Chúa với con cái Israel kể từ khi họ xuất hành ra khỏi Ai-cập và lang thang suốt 40 năm trong sa mạc. Kể từ nay, vua Solomon và dân chúng có thể lui tới Đền Thờ để gặp gỡ Thiên Chúa và làm các việc thờ phượng.
3/ Phúc Âm: Chúa Giêsu chữa lành con người.
3.1/ Bệnh tật đe dọa sự sống con người: Tuy Thiên Chúa dựng nên mọi sự đều tốt lành; nhưng những điều dữ luôn đe dọa con người, một trong những điều dữ này là các bệnh tật. Bệnh tật có nhiều nguyên do, một trong những nguyên do chính là sự ô nhiễm môi trường và tính vô trách nhiệm của con người.
2.2/ Con người nhận ra tác giả của sự sống: Trình thuật kể: “Thầy trò vừa ra khỏi thuyền, thì lập tức người ta nhận ra Đức Giêsu. Họ rảo khắp vùng ấy và nghe tin Người ở đâu, thì bắt đầu cáng bệnh nhân đến đó. Người đi tới đâu, vào làng mạc, thành thị hay thôn xóm nào, người ta cũng đặt kẻ ốm đau ở ngoài đường ngoài chợ, và xin Người cho họ ít là được chạm đến tua áo choàng của Người; và bất cứ ai chạm đến, thì đều được khỏi.” Hai điều kiện để được chữa lành bệnh: (1) Nhận ra mình mắc bệnh, và (2) Chạy đến với Chúa Giêsu, tác giả của sự sống, để được chữa lành.
II. ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Mọi vật hiện hữu là do Thiên Chúa tạo dựng. Tuy trình thuật của Sách Sáng Thế Ký không mô tả chi tiết và lý do, nhưng đó là sự thật về nguồn gốc và căn nguyên của sự vật.
- Thiên Chúa là tác giả của sự sống. Ngài tạo dựng mọi sự: nước, đất, ánh sáng, hạt giống … để bảo vệ sự sống của muôn loài. Không phải ngẫu nhiên có sự sống như nhiều người lầm tưởng.
- Thiên Chúa không chỉ tạo dựng, rồi để mặc cho các tạo vật muốn ra sao thì ra như một số người lầm tưởng; nhưng Ngài luôn quan phòng điều khiển mọi sự sao cho hòa hợp và phát triển. Ngài luôn hiện diện giữa con người để dạy dỗ, chữa lành, và bảo vệ.
- Quan sát thiên nhiên và đọc trình thuật tạo dựng giúp con người đặt niềm tin nơi Thiên Chúa, Đấng Sáng Tạo muôn loài muôn vật.
Anthony Đinh Minh Tiên, OP.

 Ngày 6Suy nim:

Tiếng Việt có nhiều động từ nói về xúc giác: 
sờ, mó, đụng, chạm, rờ… 
Xúc giác là một trong năm ngũ quan. 
Nhìn thấy, nghe thấy, ngửi thấy, có khi vẫn chưa đủ. 
Người ta còn muốn sờ thấy, xem đằng mặt, bắt đằng tay. 
Sờ là một cách kiểm chứng đôi khi được coi là đáng tin hơn thấy. 
Đức Giêsu phục sinh đã nói với các môn đệ: 
“Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! 
Cứ rờ xem, ma đâu có xương thịt như anh em thấy Thầy có đây?” (Lc 24, 39). 
Thánh Tôma xem ra thích kiểm chứng bằng đụng chạm: 
“…nếu tôi không đặt ngón tay tôi vào lỗ đinh, 
không đặt bàn tay tôi vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin” (Ga 20, 25). 
Đức Giêsu phục sinh đã chiều Tôma (Ga 20, 27). 
Thiên Chúa đã chiều nhân loại, khi cho Con Ngài làm người như ta, 
nhờ đó chúng ta có thể đụng chạm đến Thiên Chúa theo nghĩa đen. 
Thánh Gioan đã reo lên khi loan báo Tin Mừng này: 
“Điều vẫn có ngay từ lúc đầu, điều chúng tôi đã nghe, 
Điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, 
và bàn tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống” (1 Ga 1, 1).
Bài Tin Mừng hôm nay là một bản tóm lược dài về quyền năng của Đức Giêsu. 
Quyền năng này được thi thố qua việc chữa bệnh. 
“Người ở đâu thì người ta cáng bệnh nhân đến đó. 
Người đi tới đâu…người ta cũng đặt kẻ ốm đau ở chỗ công cộng” (cc. 55-56). 
Dân chúng tin vào sức mạnh xuất phát từ chính con người Đức Giêsu. 
Ở đây không phải là chuyện Ngài đụng chạm vào các bệnh nhân để chữa họ, 
mà là các bệnh nhân xin “ít là được chạm đến tua áo choàng của Người; 
và “bất cứ ai chạm đến, thì đều được khỏi” (c. 56). 
Cái chạm của bệnh nhân là cái chạm của lòng tin vào Đức Giêsu. 
Nó giống với cái chạm của người phụ nữ bị băng huyết (Mc 5, 28). 
Không phải chỉ là chạm bằng tay, mà bằng cả con người.
Nơi đáy lòng con người vẫn có khát khao được đụng chạm đến Thiên Chúa, 
cả nơi những người không tin có Ngài hay bướng bỉnh như Tôma. 
Truyền giáo là giúp người ta thực hiện ước mơ chính đáng: chạm đến Thiên Chúa. 
Nhà truyền giáo phải là người đã có kinh nghiệm chạm đến Thiên Chúa. 
Mong mỗi Kitô hữu trở nên một nhà truyền giáo 
nhờ đụng chạm đến Lời Chúa và các Bí Tích mỗi ngày.
Cầu nguyn:
Con đã yêu Chúa quá muộn màng ! 
Ôi lạy Chúa là vẻ đẹp vừa cổ kính, 
vừa luôn mới mẻ, 
con đã yêu Chúa quá muộn màng ! 
Bấy giờ Chúa ở trong con 
mà con thì ở ngoài, 
con cứ chạy đi tìm Chúa ở ngoài.
Con thật hư hỏng, 
khi chạy theo các thụ tạo xinh đẹp. 
Bởi thế, bấy giờ Chúa ở với con 
mà con lại không ở với Chúa. 
Các thụ tạo xinh đẹp kia cứ giữ con ở xa Chúa, 
trong khi chúng hiện hữu được là nhờ Chúa.
Chúa đã gọi con, đã gọi to 
và phá tan sự điếc lác của con. 
Chúa đã soi sáng 
và xua đi sự mù lòa của con. 
Chúa đã tỏa hương thơm ngát 
để con được thưởng thức, 
và giờ đây hối hả quay về với Chúa. 
Con đã nếm thử Chúa 
và giờ đây con đói khát Người. 
Chúa đã chạm đến con, 
nên giờ đây con nóng lòng 
chạy đi tìm an bình nơi Chúa.
(Thánh Âu-Tinh)
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.



Thánh Paul Miki Và Các Bạn Tử Đạo
Người Nhật (1464- 1597)

            Nagasaki một thành phố tại Nhật, được nhiều người biết tới, vì  trong thế chiến thứ Hai (39-45) Mỹ đã bỏ bom nguyên tử làm chết hàng trăm ngàn người, khiến Nhật phải đầu hàng phe đồng minh.
- Năm 1549, đạo Công giáo được thánh Phanxicô Dòng Tên, rao giảng ở Nhật. Sau 50 năm, số tín hữu Nhật lên tới 200 ngàn người.
- Năm 1596 (50 năm sau) nhà vua cấm đạo.
            Lý do cấm đạo: Vua nước Nhật, sợ người Công Giáo lấn át quyền thế.
            Số vị tử đạo: bằng cách bị đóng đanh trên thập giá: Tổng cộng 26 vị (gồm: Linh mục, tu sĩ, giáo dân, dòng Tên, dòng Phanxicô, dòng  Ba Phanxicô. Họ gồm giáo lý viên, bác sĩ, dân quê, người già, người trẻ. Trong số 26 người, nổi tiếng nhất là thầy Phaolô Miki. Khi bị treo trên thập giá, thầy giảng cho dân chúng đứng chung quanh :
"Tôi là người Nhật, không phải là người ngoại quốc. Tôi bị bắt và bị giết chỉ vì tôi rao giảng giáo lý Chúa Kitô. Tôi giảng cách mạnh mẽ. Tôi cảm ơn Chúa đã cho tôi bị chết vì lời rao giảng. Trước khi chết, tôi nói thật cùng anh chị em: Hãy xin Chúa Giêsu ban cho anh chị em được hạnh phúc. Tôi vâng theo Chúa Kitô. Tôi noi gương Chúa Kitô mà tha thứ cho ai giết tôi. Tôi không ghét họ. Tôi xin Chúa thương xót họ. Tôi hi vọng máu tôi đổ ra sẽ tưới gội trên đồng bào tôi như trận mưa ơn phúc."
- Các ngài đã được phong thánh năm 1862 (gần 300 năm sau) vào thời Đức Thánh Cha Piô 9.
- Đạo Công giáo đã bị cấm trên đất Nhật trong  gần 30 năm. Dù không có các linh mục giúp đỡ, giáo dân vẫn âm thầm sống đạo. Nhờ các cha mẹ trong các gia đình âm thầm dạy con.
- Hiện nay họ được tự do theo đạo, nhưng không có nhiều.
(theo xuanha.net)
PHAO-LÔ MI-KI & Các bạn :
26 cây thập giá trên một ngọn đồi ở thành phố Nagasaki đầu năm 1597: đó là lễ dâng hoa trái đầu mùa của Hội Thánh Nhật Bản. Dòng Tên góp phần vào hiến tế ấy ba anh em người bản xứ: thánh Phaolô Miki, 33 tuổi, lúc ấy đang chuẩn bị chịu chức linh mục; thánh Giacôbê Kisai, 64 tuổi, tu huynh; thánh Gioan Soan, 19 tuổi, giáo lý viên đang tìm hiểu Dòng Tên. Các vị còn lại gồm 6 thừa sai dòng thánh Phanxicô và 17 giáo dân mà người trẻ nhất mới 11 tuổi.
Người đầu tiên loan báo Tin Mừng Đức Kitô cho Nhật Bản là thánh Phanxicô Xavier. Khu vực truyền giáo này thu hút nhiều thừa sai và lớn mạnh nhanh chóng. Chỉ trong vòng 50 năm, số tín hữu đã lên đến 200 ngàn. Dòng Tên cũng thành lập một tỉnh Dòng riêng với hơn 120 anh em mà đa số là người Nhật Bản. Vào cuối thế kỷ XVI, chế độ quân phiệt ở trung ương đang cố gắng buộc các sứ quân ở các địa phương phải phục tùng để thống nhất quyền lãnh đạo đất nước trong tay  một vị tướng, nhờ đó có thể phản ứng hữu hiệu khi các đế quốc Châu Âu có ý đồ xâm lăng. Người Nhật Bản vốn thích cái gì mới, lại thấy người Châu Âu chế tạo được tàu vượt đại dương, súng bắn xa hàng loạt, nên kính nể và dễ dàng đón nhận tôn giáo do các thừa sai Châu Âu đem tới. Điều này làm cho giới cầm quyền quân phiệt lo ngại. Họ sợ người Công Giáo sẽ nghe theo các sứ quân địa phương, hoặc sẽ ủng hộ các nước Châu Âu mà chống lại họ. Để cảnh cáo và ngăn chặn, họ cho bắt mấy thừa sai cùng với một số tu sĩ và giáo dân bản xứ đem đi xử tử.
Thánh Phaolô Miki được rửa tội cùng với cả gia đình lúc ngài mới 5 tuổi, và gia nhập Dòng Tên lúc ngài 22 tuổi. Trong thời gian học hành, ngài đã cho thấy tài năng của một nhà giảng thuyết đầy triển vọng. Vào những tháng nghỉ học, ngài đã từng đi giảng ở những tỉnh miền nam cũng như tại kinh đô Myako. Cuối năm 1596, ngài đang học tại nhà Dòng ở thành phố Osaka thì bị bắt cùng với tu huynh Kisai và ứng sinh Gioan Soan. Ngày nay nhiều sử gia vẫn thắc mắc tại sao nhà cầm quyền lại bắt 3 tu sĩ Dòng Tên này. Riêng thánh Phaolô Miki, ngài không hề thắc mắc, trái lại cảm thấy hết sức hân hoan: “Tôi sung sướng được giống Chúa phần nào”. Cùng với cả nhóm 26 chứng nhân, ngài được dẫn lên kinh thành Myako, và cùng bị cắt tai, cắt mũi, rồi bị đem đi diễu hành cho mọi người đều thấy.
Nhà cầm quyề chọn Nagasaki làm pháp trường hẳn là có ý đe dọa người Công Giáo và người nước ngoài, vì đó là thành phố cảng đông người Công Giáo và người nước ngoài nhất. Trên một đỉnh đồi, người ta dọn sẵn 26 cây thánh giá. Đoàn người bị kết án tử hình chẳng những không hề tỏ ra sợ hãi mà còn luôn miệng ca hát. Người ta buộc chân tay và bụng mỗi người vào một cây thánh giá, rồi dựng lên. Hôm ấy, dân chúng đến dự rất đông. Từ trên thánh giá, 26 chứng nhân đồng thanh hát vang: “Chúng con ca ngợi Chúa là thượng đế, chúng con tuyên xưng Chúa là chúa tể…” Rồi thánh Phaolô Miki hùng hồn nói về Đức Kitô, kêu gọi tín hữu vững tin và mời gọi lương dân tìm hiểu đạo. Khi được lệnh, lý hinh lấy giáo đâm mỗi vị hai nhát chéo xuyên qua ngực. Thánh Phaolô Miki và các bạn đã chết trên thập giá, giống Chúa Kitô, như ngài mong ước.
Chế độ quân phiệt Nhật Bản qua đi  mà không ai thương tiếc. Trái lại, 26 cây thánh giá trên ngọn đồi thành phố Nagasaki sẽ vượt mọi thử thách của thời gian, nhắc nhở mọi người về tình yêu của Con Thiên Chúa xuống trần để cứu đời.
*
AMDG
ĐỂ TÔN VINH THIÊN CHÚA HƠN
(theo dongtenvn.net)

Thánh PHAOLÔ MIKI 
và các bạn tử đạo (1597)
Thánh Phanxicô Xavier là nhà truyền giáo đã đem Tin Mừng cho nước Nhật. Nửa thế kỷ sau các Kitô hữu vẫn còn giữ đức tin của mình, khi năm1597 một cuộc bách hại bùng nổ dữ dội. Lúc ấy Hideyeshi, một viên chức có thế lực đã dựa vào tiếng la hét điên khùng của một thuyền trưởng Tây Ban Nha rằng, các thừa sai đang dọn đường cho cuộc chinh phục Nhật bản của người Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha để khích động cuộc bách hại. Vua Taicosme tin điều đó. Sáu linh mục dòng Phanxico bị bắt giữ cùng với những người Nhật thuộc dòng ba Phanxicô giúp việc truyền giáo.
Trong số những người Nhật này có ba nhi đồng tuổi thừ 12 tới 15 là Lu-y , Antôn và Toma Cosaki. Người ta đề nghị Lu-y nên trốn đi nhưng Lu-y từ chối. Em nói với cha mẹ đang khẩn khoản xin em chạy trốn cái chết :- Chúa sẽ cho con đầy đủ can đảm để chiến đấu.
Khi vị quan xét hứa ban cho em của cải, nếu em bỏ đạo. Em khinh bỉ tuyên bố : - Thánh giá tôi không sợ, vì tình yêu Chúa tôi còn ao ước nữa là khác .
Ba tu sĩ dòng tên góp vào sổ các vị tử đạo là: Phaolô Miki, Gioan Gottô và Giacôbê Kissi. Họ bị dẫn tới công trường Mêaco. Nhà vua truyền lệnh cắt mũi, cắt tai các tù nhân và chở xe qua các thành phố chính rồi đóng đính vào thập giá tại Nagasaki. Nhìn ba chị em máu me bê bết, nhưng vẫn thản nhiên tươi cười, dân chúng cảm động. Các Kitô hữu phủ phục xin ban phép lành và trong cơn nhiệt hành, có người còn xin lính gác cho được lên chung một chiếc xe nữa mà không được. Phaolô Miki và Gioan tẩy giả, bề trên dòng Phanxicô, vẫn rao giảng suốt dọc đường xe đi qua. Cuộc du hành thảm khốc chiếu tỏa ánh sáng tình yêu. Các vị tử đạo không ngừng cùng gọi các linh hồn trở về với Chúa.
Cuối cùng các vị đã tới đỉnh Calvê, nơi họ được đồng hóa với đức Kitô, chính vì Ngài mà họ chịu chết. Trên một ngọn đồi quay ra biển, các cây thập tự đang chờ đợi họ.
Bé Lu-y hỏi xem cây thánh giá nào của mình. Em hăm hở chạy tới. Khi chịu đóng đinh. Em không dứt nụ cười.
Người ta nghe rõ một giọng nói nhiệt thành lặp lại lời người trộm lành: "Lạy Chúa xin nhớ đến con".
Một tu sĩ dòng Tên từ trên thánh giá, đã giảng bài cuối cùng và thêm : - Tôi tha thứ cho những người chủ mưu gây nên cái chết của tôi. Tôi khấn nguyện cho họ được lãnh phép rửa tội.
Bạn trẻ Antôn cố gắng dùng sức tàn để hát lên lời ca: Hỡi trẻ em hãy ca tụng Chúa. Nhưng Ngài đã không đủ thời gian để ca hết bài. Một lưỡi đòng đã đâm thủng tim Ngài.
Tất cả 26 vị được tôn phong hiển thánh năm 1862.
(theo daminhvn.net)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét