Trang

Thứ Hai, 6 tháng 2, 2012

THỨ BA TUẦN V MÙA THƯỜNG NIÊN


Thứ Ba sau Chúa Nhật 5 Quanh Năm


Bài Ðọc I: (Năm I) St 1, 20 - 2, 4a
"Chúng ta hãy dựng nên con người theo hình ảnh giống như Ta".
Trích sách Sáng Thế.
Thiên Chúa phán: "Nước hãy sản xuất những sinh vật bò sát và loài chim bay trên mặt đất, dưới vòm trời". Vậy Thiên Chúa tạo thành những cá lớn, mọi sinh vật sống động mà nước sản xuất theo loại chúng, và mọi chim bay tuỳ theo giống. Thiên Chúa thấy chúng tốt đẹp. Thiên Chúa chúc phúc cho chúng rằng: "Hãy sinh sôi nảy nở cho nhiều, đầy nước biển; loài chim hãy sinh cho nhiều trên mặt đất". Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ năm.
Thiên Chúa lại phán: "Ðất hãy sản xuất các sinh vật tuỳ theo giống: gia súc, loài bò sát và dã thú dưới đất tuỳ theo loại". Và đã xảy ra như vậy. Thiên Chúa đã dựng nên dã thú dưới đất tuỳ theo loại, gia súc và mọi loài bò sát dưới đất tuỳ theo giống. Thiên Chúa thấy chúng tốt đẹp; và Thiên Chúa phán: "Chúng ta hãy dựng nên con người theo hình ảnh giống như Ta, để chúng làm chủ cá biển, chim trời, dã thú khắp mặt đất, và tất cả loài bò sát di chuyển trên mặt đất". Vậy Thiên Chúa đã tạo thành con người giống hình ảnh Chúa; Chúa tạo thành con người giống hình ảnh Thiên Chúa. Người tạo thành họ có nam có nữ. Thiên Chúa chúc phúc cho họ và phán rằng: "Hãy sinh sôi nảy nở cho nhiều đầy mặt đất, và thống trị nó, hãy bá chủ cá biển, chim trời và toàn thể sinh vật di chuyển trên mặt đất". Thiên Chúa phán: "Ðây Ta ban cho các ngươi làm thức ăn mọi thứ cây cỏ mang hạt giống trên mặt đất và toàn thể thảo mộc sinh trái có hạt tuỳ theo giống. Ta ban mọi thứ cây cỏ xanh tươi làm thức ăn cho mọi loài dã thú trên mặt đất, chim trời và toàn thể sinh vật di chuyển trên mặt đất". Và đã xảy ra như vậy. Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm rất tốt đẹp. Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ sáu.
Thế là trời đất và mọi trang điểm của chúng đã hoàn thành. Ngày thứ bảy Thiên Chúa hoàn tất công việc Người đã làm. Và sau khi hoàn tất công việc Người đã làm, thì ngày thứ bảy Người nghỉ ngơi. Chúa chúc phúc và thánh hoá ngày thứ bảy, vì trong ngày đó, Người nghỉ việc tạo thành.
Ðó là gốc tích trời đất khi được tạo thành.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 8, 4-5. 6-7. 8-9
Ðáp: Lạy Chúa, lạy Chúa chúng con, lạ lùng thay danh Chúa khắp nơi hoàn cầu (c. 2a).
Xướng: 1) Khi con ngắm cõi trời, công cuộc tay Chúa tạo ra, vầng trăng và muôn tinh tú mà Chúa gầy dựng, thì nhân loại là chi mà Chúa nhớ tới? con người là chi mà Chúa để ý chăm nom? - Ðáp.
2) Chúa dựng nên con người kém thiên thần một chút, Chúa trang sức con người bằng danh dự với vinh quang, Chúa ban cho quyền hành trên công cuộc tay Ngài sáng tạo, Chúa đặt muôn vật dưới chân con người. - Ðáp.
3) Nào chiên nào bò, thôi thì tất cả, cho tới những muông thú ở đồng hoang, chim trời với cá đại dương, những gì lội khắp nẻo đường biển khơi. - Ðáp.

* * *


Bài Ðọc I: (Năm II) 1 V 8, 22-23. 27-30
"Chúa đã phán: "Danh Ta sẽ ở nơi đó, để nhậm lời van nài của dân Israel".
Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.
Trong những ngày ấy, Salomon đứng trước bàn thờ Chúa, đối diện với cộng đoàn Israel, ông giơ hai tay lên trời và nguyện rằng: "Lạy Chúa là Thiên Chúa Israel, trên trời dưới đất, không có thần nào giống như Chúa. Chúa giữ lời giao ước và lòng từ bi đối với các tôi tớ đang thành tâm đi trước mặt Chúa. Nhưng ai dám nghĩ rằng: quả thật Thiên Chúa ngự ở trần gian? Vì nếu trời và các tầng trời còn không thể chứa được Chúa, huống chi ngôi nhà con xây cất đây! Nhưng lạy Chúa là Thiên Chúa của con, xin đoái nghe lời cầu nguyện và sự van nài của tôi tớ Chúa; xin lắng nghe lời ca khen và kinh nguyện mà tôi tớ Chúa dâng lên trước mặt Chúa hôm nay, ngõ hầu đêm ngày mắt Chúa nhìn xem ngôi nhà này là nơi Chúa đã phán 'Danh Ta sẽ ở nơi đó', để nghe lời cầu nguyện mà tôi tớ Chúa kêu xin trong nơi này, để nhậm lời van nài của tôi tớ Chúa và của dân Israel sẽ cầu nguyện tại nơi đây. Từ thiên cung nơi Chúa ngự, xin Chúa nhậm lời, và khi đã nhậm lời, xin Chúa dủ lòng thương".
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 83, 3. 4. 5 và 10. 11
Ðáp: Lạy Chúa thiên binh, khả ái thay cung điện của Chúa (c. 2).
Xướng: 1) Linh hồn tôi khát khao và mòn mỏi, mong vào hành lang nhà Ðức Thiên Chúa. Tâm thần và thể xác tôi hoan hỉ tìm đến cùng Thiên Chúa trường sinh. - Ðáp.
2) Ðến như chim sẻ còn kiếm được nhà, và chim nhạn tìm ra tổ ấm, để làm nơi ấp ủ con mình, cạnh bàn thờ Chúa, ôi Chúa là Thiên Chúa thiên binh, Ôi Ðại Vương và Thiên Chúa của con. - Ðáp.
3) Ôi Thiên Chúa, phúc đức ai ngụ nơi nhà Chúa: họ sẽ khen ngợi Chúa tới muôn đời. Thuẫn đỡ cho chúng con, xin hãy nhìn xem, lạy Thiên Chúa, xin hãy đoái nhìn mặt Ðức Kitô của Người. - Ðáp.
4) Thực, một ngày sống trong hành lang nhà Chúa, đáng quý hơn ngàn ngày ở nơi đâu khác. Con ưa đứng nơi ngưỡng cửa nhà Chúa con, hơn là cư ngụ trong lều bọn ác nhân. - Ðáp.

* * *

Alleluia: Ga 14, 23
Alleluia, alleluia! - Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. - Alleluia.

Phúc Âm: Mc 7, 1-13
"Các ngươi gác bỏ một bên các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục phàm nhân".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, những người biệt phái và mấy luật sĩ từ Giêrusalem tụ tập lại bên Chúa Giêsu, và họ thấy vài môn đệ Người dùng bữa với những bàn tay không tinh sạch, nghĩa là không rửa trước. Vì theo đúng tập tục của tiền nhân, những người biệt phái và mọi người Do-thái không dùng bữa mà không rửa tay trước, và ở nơi công cộng về, họ không dùng bữa mà không tắm rửa trước. Họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa, như rửa chén, rửa bình, rửa các đồ đồng. Vậy những người biệt phái và luật sĩ hỏi Người: "Sao môn đệ ông không giữ tập tục của tiền nhân mà lại dùng bữa với những bàn tay không tinh sạch?" Người đáp: "Hỡi bọn giả hình, Isaia thật đã nói tiên tri rất chí lý về các ngươi, như lời chép rằng: "Dân này kính Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng chúng ở xa Ta. Nó sùng kính Ta cách giả dối, bởi vì nó dạy những giáo lý và những luật lệ loài người". Vì các ngươi bỏ qua các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người: rửa bình, rửa chén và làm nhiều điều như vậy". Và Người bảo: "Các ngươi đã khéo bỏ giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục của các ngươi. Thật vậy, Môsê đã nói: "Hãy thảo kính cha mẹ", và "ai rủa cha mẹ, sẽ phải xử tử". Còn các ngươi thì lại bảo: "Nếu ai nói với cha mẹ mình rằng: Những của tôi có thể giúp cha mẹ được là Corban rồi (nghĩa là của dâng cho Chúa)", và các ngươi không để cho kẻ ấy giúp gì cho cha mẹ nữa. Như thế các ngươi huỷ bỏ lời Chúa bằng những tập tục truyền lại cho nhau. Và các ngươi còn làm nhiều điều khác giống như thế".
Ðó là lời Chúa.

Suy Niệm:
Người biệt phái và ký lục chất vấn Ðức Giêsu vì các môn đệ của Ngài không rửa tay trước khi ăn theo lệ truyền. Ðức Giêsu thẳng thắn vạch rõ cho họ từng vấn đề: Nếu so sánh luật Chúa và lệ truyền của tiền nhân, luật Chúa quan trọng và buộc phải giữ cặn kẽ hơn.
Hơn nữa, trong cách giữ luật Chúa, chỉ giữ theo hình thức chưa phải là đã giữ trọn luật. Giữ luật vì tinh thần luật - cách giữ luật đó mới hoàn chỉnh. Thiên Chúa thấu suốt tận đáy tâm hồn chúng ta. Chỉ Thiên Chúa đánh giá mới chân thật, công bình.

Cầu Nguyện:
Lạy Chúa, ở đời chúng con thường đóng kịch với nhau. Chúng con thường tô son đánh phấn khi đến với nhau. Chúng con sống hình thức, giả tạo với nhau và ngay cả với Cha. Cha là chân lý, là sự thật chắc chắn Cha không thể chấp nhận được cách sống của chúng con. Xin Cha sửa lại con người chúng con. Xin giúp chúng con biết sống chân thành với Cha, với chính chúng con và với anh chị em chúng con. Chỉ khi nào chúng con biết sống theo sự thật, chúng con mới xứng đáng là con của Cha. Chúng con cầu xin, nhờ Ðức Giêsu, Chúa chúng con. Amen.

Tìm cái cốt yếu
Nhiều tôn giáo lấy việc tẩy rửa làm một trong những nghi thức linh thiêng của Ðạo. Chẳng hạn người Ấn giáo tắm ở sông Hằng trước khi vào tế tự ở đền thờ, hoặc các thành viên Cộng đoàn Qumrân thời Chúa Giêsu lấy việc tắm rửa hằng ngày để diễn tả thái độ sẵn sàng của mình cho ngày Ðấng Mêsia đến; ngay cả Gioan Tẩy giả cũng coi việc dìm người xuống dòng sông Giođan rồi trồi lên khỏi nước như cử chỉ nói lên sự hoán cải tâm hồn, sẵn sàng gia nhập đoàn dân mới của Thiên Chúa khi Ngài ngự đến. Người Do thái còn đi xa hơn đến mức đưa nghi thức tẩy rửa ấy vào từng chi tiết đời sống thường ngày, như rửa tay trước khi ăn, rửa chén đĩa, bình lọ...
Tin Mừng hôm nay kể lại cuộc đối chất giữa Chúa Giêsu và những người Biệt phái về vấn đề tập tục của tiền nhân. Ðối với người Do thái, việc rửa tay, rửa chén đĩa, rửa thực phẩm, không chỉ là một biện pháp vệ sinh nhằm phòng bệnh, mà còn là một nghi thức tôn giáo nói lên ước nguyện trở nên thanh sạch để có thể hiệp thông với Thiên Chúa là Ðấng Thánh. Ðây là điều tốt, nhưng người Biệt phái đã quá vụ hình thức mà bỏ quên điều thiết yếu, họ phán đoán một người tốt hay xấu dựa trên những hình thức bên ngoài. Chúa Giêsu đã trả lời cho thái độ vụ hình thức ấy như sau: "Các ông gạt bỏ giới răn của Thiên Chúa qua một bên, mà duy trì truyền thống của người phàm". Chúa Giêsu muốn cho thấy các việc làm bên ngoài ấy, dù có tính cách tôn giáo đến đâu, cũng không thể thay thế cho một việc khác quan trọng hơn. Ðiều quan trọng là sự thanh sạch của tâm hồn, chứ không phải việc rửa tay, rửa vật dụng bên ngoài; đừng lẫn lộn tập tục của truyền thống phàm nhân với lề luật do chính Thiên Chúa ban bố.
Chúa Giêsu nhắc đến trường hợp những người Do thái nhân danh tập tục dâng cúng một số của cải vào Ðền thờ, gọi là copan, nghĩa là lễ phẩm đã dâng cho Chúa, để rồi biện minh cho sự thiếu sót bổn phận đối với cha mẹ. Tập tục dâng cúng là do con người, thảo kính cha mẹ là lệnh truyền của Thiên Chúa, thế nhưng trong trường hợp vừa kể, vì tinh thần sống vụ hình thức, những người Biệt phái đã bỏ luật của Thiên Chúa để tuân giữ tập tục loài người.
Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta trở về với điểm căn bản: hãy đặt Chúa vào chỗ thứ nhất và tuân giữ giới răn của Ngài. Chúa không chủ trương phá bỏ hình thức lễ nghi cơ cấu, nhưng chỉ muốn đặt chúng vào đúng vị trí. Xin cho chúng ta biết trân trọng và thực hiện điều chính yếu mà Chúa đang chờ đợi chúng ta, thay vì cứ loay hoay với những điều phụ thuộc do loài người đặt ra.
Suy nim:
Trong Bài Tin Mừng hôm nay có năm từ truyền thống (cc. 3, 5, 8, 9, 13). 
Đó là truyền thống của tiền nhân, truyền thống của người phàm, 
truyền thống mà các ông Pharisêu nắm giữ và muốn người khác phải theo. 
Sông song với truyền thống này là điều răn của Thiên Chúa (cc. 8, 9) 
Đức Giêsu tố cáo người Pharisêu đã gạt bỏ, đã coi thường điều răn này 
chỉ vì muốn khư khư giữ lấy truyền thống của họ (cc 8, 9, 13).
Đây là một điều đáng tiếc, 
vì mục tiêu của người Pharisêu không phải là hủy bỏ lời của Thiên Chúa (c. 13). 
Trái lại, họ muốn dân Do thái sống nghiêm túc hơn ơn gọi của mình, 
sống như một dân tộc thánh thiện giữa một xã hội vàng thau thời Đức Giêsu. 
Chính vì thế họ chẳng những muốn tuân giữ điều được viết trong Luật Môsê 
mà còn muốn sống theo những truyền thống 
dựa trên luật truyền khẩu được ban cho Môsê nữa.
Họ đòi cả dân chúng cũng phải sống theo các luật về thanh sạch của các tư tế. 
Bởi vậy, họ than phiền chuyện vài môn đệ của Đức Giêsu 
đã không rửa tay trước khi ăn. 
Thật ra chẳng phải người Do thái nào cũng giữ luật rửa tay trước khi ăn. 
Các sách Cựu Ước cũng không hề đòi hỏi chuyện này (x. Lêvi 11-15). 
Đáng tiếc là khi tập trung vào chuyện sạch sẽ bên ngoài, 
người Pharisêu có nguy cơ bỏ rơi hay lơ là chuyện trong sạch nơi trái tim. 
Đây mới là điều quan trọng mà Đức Giê su muốn nhấn mạnh.
Theo truyền thống hội đường Do Thái, có cả thảy 613 điều răn, 
365 điều cấm làm và 248 điều phải làm. 
Cả một rừng điều răn này chi phối toàn bộ đời sống của người Do thái giáo. 
Người Pharisêu cho rằng sự thánh thiện nằm ở chỗ chu toàn hết mọi luật này. 
Còn Đức Giêsu coi sự thánh thiện nằm ở sâu nơi trái tim thuộc trọn về Chúa. 
Ngài trích lời của ngôn sứ Isaia (29, 13): 
“Dân này tôn kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì xa Ta.”
Làm thế nào để trái tim của chúng ta gần với Chúa? 
Làm thế nào chúng ta khỏi trở thành những kẻ đạo đức giả? 
Làm thế nào chúng ta giữ luật Chúa và Giáo Hội với sự mềm mại, tự do, vui tươi? 
Ước gì từng hành vi giữ luật của ta được chi phối bởi trái tim đầy yêu mến.
Cầu nguyn:
Lạy Chúa, 
xin cho con quả tim của Chúa.
Xin cho con đừng khép lại trên chính mình, 
nhưng xin cho quả tim con quảng đại như Chúa 
vươn lên cao, vượt mọi tình cảm tầm thường 
để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ.
Xin cho con vượt qua mọi hờn oán nhỏ nhen, 
mọi trả thù ti tiện. 
Xin cho con cứ luôn bình an, trong sáng, 
không một biến cố nào làm xáo trộn, 
không một đam mê nào khuấy động hồn con.
Xin cho con đừng quá vui khi thành công, 
cũng đừng quá bối rối khi gặp lời chỉ trích. 
Xin cho quả tim con đủ lớn 
để yêu người con không ưa. 
Xin cho vòng tay con luôn rộng mở 
để có thể ôm cả những người thù ghét con.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
07/02/12 THỨ BA TUẦN 5 TN
Mc 7,1-13
*****
SỐNG THẬT ĐI…!
“Dân này tôn kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta.” (Mc 7,6)
Suy niệm: Vở kịch “Tốt-xấu-giả-thật” của nhà hát kịch 5B Võ Văn Tần “dẫn dắt khán giả đi vào vấn đề cốt lõi của đời sống hôm nay: cái giả nhiều quá, cái xấu nhiều quá! Làm sao để có cái thật, làm sao để có cái tốt?” Sứ điệp của tác phẩm là: “Chỉ có sự thật và lòng tốt có trong mỗi người mới làm cho cuộc đời này tốt hơn, thật hơn, con người sống với nhau tử tế hơn” (x. Lê Quí Dương, “Sống Thật Đi, Cuộc Sống Sẽ Đổi Thay”, Tuổi Trẻ 26.12.2011, tr. 13). Không rõ thời Chúa Giêsu hàng dỏm, hàng nhái, bằng giả,… có nhiều không chứ thói đạo đức giả đã thành tệ nạn nơi những người Biệt phái. Chúa Giêsu đả phá thái độ đó vì họ: “tôn kính Chúa bằng môi miệng, còn lòng thì xa Chúa, gạt bỏ điều răn Thiên Chúa, duy trì truyền thống người phàm.”
Mời Bạn: Thiện căn ở tại lòng ta.  (Nguyễn Du). Gốc rễ của sự thiện nằm sâu trong tâm hồn bởi thế để sống đạo thật sự trước hết phải bồi dưỡng, thanh tẩy, chỉnh đốn nội tâm của mình. Phải sống thật trước cái nhìn của Chúa chứ không phải chỉ lo tô điểm cái vỏ đạo đức trước mặt người ta.
Chia sẻ: Trong các dịp đại lễ, cùng với việc tổ chức lễ bái, rước xách đẹp đẽ hoành tráng bên ngoài, chúng ta có để ý chuẩn bị phần thiêng liêng như: tĩnh tâm, học hỏi, cầu nguyện không?
Sống Lời Chúa: Lòng tôi luôn gắn bó với Chúa. Tôi năng tìm gặp Chúa nơi nội tâm của mình.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa biết rõ con người thật của con. Xin cho con biết nhận ra và khiêm tốn sám hối vì những lỗi lầm thiếu sót của mình. Xin Chúa giúp con sống với Chúa và với anh em với tình yêu chân thành không giả dối.
(5 Phút Lời Chúa)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
St 1,20-2,4a; TIN MỪNG THEO THÁNH Mc 7, 1-13.
LỜI SUY NIỆM: “Thế là các ông lấy truyền thống các ông đã truyền lại cho nhau mà hủy bỏ lời Thiên Chúa. Các ông còn làm nhiều điều khác giống như vậy nữa!” (Mc 7,13). Đức Giêsu khi thấy các Biệt Phái và Pharisêu quá chú tâm những hình thức bên ngoài mà quên mất những điều luật quan trọng để làm thăng tiến đời sống con người trong tương quan với Thiên Chúa và tương quan với nhau trong tinh thần yêu thương và phục vụ..
          Chúa Giêsu, Ngài đả phá một hệ thống tôn giáo đặt luật lệ và quy tắt trước nhu cầu con người. Mệnh lệnh của Chúa đòi hỏi phải đặt tình thương nhân loại lên hàng đầu. Chúa Giêsu quả quyết bất cứ luật lệ hay quy tắc nào ngăn cấm một con người muốn giúp đỡ người khác, khi người đó đang cần sự cứu giúp thì đều mâu thuẫn với Luật của Chúa.
          Tất cả những gì ngăn cấm con người giúp đỡ cho đồng bào và đồng loại, cũng như bảo vệ sự sống con người, đều là đi ngược với Thánh Ý của Thiên Chúa.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
07 Tháng Hai
Một Lý Tưởng Ðể Ðeo Ðuổi
Một buổi sáng năm 1888, Alfred Nobel, người phát minh ra chất nổ và từ đó, hái ra tiền như nước, đã thức giấc trong bàng hoàng sửng sốt: tất cả báo chí trong ngày đều nói đến cái chết của Alfred Nobel, vua chất nổ. Thật ra, đây chỉ là một lầm lẫn của một ký giả nào đó. Người anh của Alfred qua đời và ký giả đó tưởng lầm là chính Alfred. Nhưng dù sao, đây cũng là dịp để Alfred đọc được cảm nghĩ mà người khác đang có về ông. Trên môi miệng của mọi người, ông chỉ là ông vua của chất nổ, nghĩa là người làm giàu trên cái chết của không biết bao nhiêu sinh mạng do chất nổ gây ra. Người ta không hề nhắc đến những nỗ lực của ông nhằm phá vỡ những hàng rào ngăn cách giữa các dân tộc và các ý thức hệ. Không ai nhắc đến những cố gắng kiến tạo hòa bình của ông. Alfred Nobel buồn vô cùng về hình ảnh của một nhà "kinh doanh trên sự chết chóc" mà thiên hạ đang có về mình.
Ông quyết định làm cho thế giới hiểu được lẽ sống đích thực của ông. Với quyết tâm ấy, ông ngồi xuống bàn làm việc viết ngay tức khắc chúc thư trong đó ông để lại tất cả tài sản của ông để thiết lập một trong những giải thưởng lớn nhất thế giới: đó là giải thưởng Nobel Hòa Bình, nhằm tưởng thưởng tất cả những ai góp phần vào việc xây dựng Hòa Bình thế giới. 
Ngày nay, biệt hiệu của Alfred Nobel không còn là vua của chất nổ nữa, mà là Hòa Bình. 
Có một lý tưởng để đeo đuổi, có một lẽ sống cho cuộc đời: đó là niềm hạnh phúc lớn lao nhất của con người trên trần gian. Những ngưeời bất hạnh nhất phải chăng không là những người sống mà không biết tại sao mình sống, sống để làm gì và sẽ đi về đâu sau cái chết. Bất hạnh hơn nữa đó là những con người chỉ xây dựng cuộc sống của mình trên những sự chết chóc của người khác. thế giới sẽ không bao giờ quên những Tần Thủy Hoàng, những Nero, những Hitler, những Stalin, những Ceaucescu và không biết bao nhiêu những con người ngày nay có kẻ đang thờ trong lăng tẩm để rồi mai ngày kẻ khác lại khai quật lên. 
Người Kitô hữu là người có lý tưởng để xây dựng, có lẽ sống để đeo đuổi. Họ luôn luôn sẵn sàng để bày tỏ cho người khác những lý lẽ của niềm tin và hy vọng của họ. Sự bày tỏ ấy, họ không viết trong một chúc thư bằng giấy mực, mà bằng cả cuộc sống chứng tá của họ. 
Khi nói về sự rao giảng Tin Mừng, Ðức cố Giáo Hoàng Phaolô VI đã nói như sau: "Tin Mừng trước tiên phải được công bố bằng một chứng từ. Có chứng từ khi một người Kitôhay một nhóm người Kitô sống giữa nhân loại, bày tỏ được khả năng có thể cảm thông, đón tiếp, chia sẻ cuộc sống với người khác hoặc tỏ tình liên đới với người khác trong mọi cố gắng đối với những gì là cao quí và thiện hảo. Có chứng từ khi những người Kitô chiếu rọi một cách đơn sơ và bộc phát niềm tin của họ vào những giá trị vượt lên trên những giá trị thông thường và bày tỏ niềm hy vọng của họ vào một cái gì mà người ta không thấy hoặc không dám mơ ước. Với chứng từ không lời ấy, người Kitô làm dấy lên trong tâm hồn của những ai đang thấy họ sống, những câu hỏi mà con người không thể né tránh được. Ðó là: Tại sao họ sống như thế? Ðiều gì hoặc ai là người thúc đẩy họ sống như thế? Tại sao họ sống như thế giữa chúng ta?". 
Ðâu là chúc thư chúng ta muốn để lại cho hậu thế? Ðâu là lời biện minh của chúng ta trước mặt người đời nếu không phải là một cuộc sống chứng từ cho Nước Trời.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Ba Tuần V TN2
Bài đọc: Gen 1:20 - 2:4; I Kgs 8:22-23, 27-30; Mk 7:1-13.

1/ Bài đọc I (năm lẻ):
20 Thiên Chúa phán: "Nước phải sinh ra đầy dẫy những sinh vật lúc nhúc, và loài chim phải bay lượn trên mặt đất, dưới vòm trời." 21 Thiên Chúa sáng tạo các thủy quái khổng lồ, cùng mọi sinh vật vẫy vùng lúc nhúc dưới nước tuỳ theo loại, và mọi giống chim bay tuỳ theo loại. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp. 22 Thiên Chúa chúc phúc cho chúng rằng: "Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy biển; và chim phải sinh sản cho nhiều trên mặt đất." 23 Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ năm. 24 Thiên Chúa phán: "Đất phải sinh ra các sinh vật tuỳ theo loại: gia súc, loài bò sát và dã thú tuỳ theo loại." Liền có như vậy. 25 Thiên Chúa làm ra dã thú tuỳ theo loại, gia súc tuỳ theo loại và loài bò sát dưới đất tuỳ theo loại. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp.
26 Thiên Chúa phán: "Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất." 27 Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ. 28 Thiên Chúa ban phúc lành cho họ, và Thiên Chúa phán với họ: "Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời, và mọi giống vật bò trên mặt đất." 29 Thiên Chúa phán: "Đây Ta ban cho các ngươi mọi thứ cỏ mang hạt giống trên khắp mặt đất, và mọi thứ cây có trái mang hạt giống, để làm lương thực cho các ngươi. 30 Còn đối với mọi dã thú, chim trời và mọi vật bò dưới đất mà có sinh khí, thì Ta ban cho chúng mọi thứ cỏ xanh tươi để làm lương thực. Liền có như vậy." 31 Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp! Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ sáu.
1 Thế là trời đất cùng với mọi thành phần đã hoàn tất. 2 Ngày thứ bảy, Thiên Chúa đã hoàn thành công việc Người làm. Khi làm xong mọi công việc của Người, ngày thứ bảy, Thiên Chúa nghỉ ngơi. 3 Thiên Chúa ban phúc lành cho ngày thứ bảy và thánh hoá ngày đó, vì ngày đó Người đã nghỉ, ngưng làm mọi công việc sáng tạo của Người. 4 Đó là gốc tích trời đất khi được sáng tạo.

2/ Bài đọc I (năm chẵn):
22 Vua Sa-lô-môn đứng trước bàn thờ của Đức Chúa, trước toàn thể cộng đồng Ít-ra-en, giơ hai tay lên trời và 23 thưa: "Lạy Đức Chúa là Thiên Chúa Ít-ra-en, chốn trời cao cũng như nơi đất thấp, chẳng có thần nào giống như Ngài. Ngài vẫn giữ giao ước và tình thương đối với các tôi tớ Ngài, khi họ hết lòng bước đi trước nhan Ngài.
27 Có thật Thiên Chúa cư ngụ dưới đất chăng? Này, trời cao thăm thẳm còn không chứa nổi Ngài, huống chi ngôi nhà con đã xây đây! 28 Lạy Đức Chúa, Thiên Chúa của con! Xin đoái đến lời tôi tớ Chúa cầu xin khẩn nguyện, mà lắng nghe tiếng kêu cầu của tôi tớ Ngài dâng trước tôn nhan hôm nay. 29 Xin Ngài để mắt nhìn đến ngôi nhà này đêm ngày, nhìn đến nơi này, vì Ngài đã phán "Danh Ta sẽ ở đấy"; xin Ngài lắng nghe lời nguyện tôi tớ Ngài dâng ở nơi đây."
30 Xin nghe lời nài van của tôi tớ Ngài và của Ít-ra-en dân Ngài dâng lên ở nơi đây. Từ trời, nơi Ngài ngự, xin lắng nghe; xin lắng nghe và tha thứ.

3/ Phúc Âm:
1 Có những người Pha-ri-sêu và một số kinh sư tụ họp quanh Đức Giê-su. Họ là những người từ Giê-ru-sa-lem đến. 2 Họ thấy vài môn đệ của Người dùng bữa mà tay còn ô uế, nghĩa là chưa rửa. 3 Thật vậy, người Pha-ri-sêu cũng như mọi người Do-thái đều nắm giữ truyền thống của tiền nhân: họ không ăn gì, khi chưa rửa tay cẩn thận; 4 thức gì mua ngoài chợ về, cũng phải rảy nước đã rồi mới ăn; họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa như rửa chén bát, bình lọ và các đồ đồng.
5 Vậy, người Pha-ri-sêu và kinh sư hỏi Đức Giê-su: "Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa? " 6 Người trả lời họ: "Ngôn sứ I-sai-a thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết rằng: Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. 7 Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân. 8 Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm." 9 Người còn nói: "Các ông thật khéo coi thường điều răn của Thiên Chúa để nắm giữ truyền thống của các ông. 10 Quả thế, ông Mô-sê đã dạy rằng: Ngươi hãy thờ cha kính mẹ và kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử! 11 Còn các ông, các ông lại bảo: "Người nào nói với cha với mẹ rằng: những gì con có để giúp cha mẹ đều là "co-ban" nghĩa là lễ phẩm đã dâng cho Chúa" rồi, 12 và các ông không để cho người ấy làm gì để giúp cha mẹ nữa.
13 Thế là các ông lấy truyền thống các ông đã truyền lại cho nhau mà huỷ bỏ lời Thiên Chúa. Các ông còn làm nhiều điều khác giống như vậy nữa!"

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Thiên Chúa tạo dựng mọi sự tốt đẹp.

Thiên Chúa là Đấng Tốt Lành, Ngài tạo dựng mọi sự tốt lành, và không có sự gì Ngài tạo dựng xấu xa cả; nhưng tại sao có những sự dữ trong thế giới? Một trong những nguyên nhân chính là sự lạm dụng tự do, điều tốt lành do Thiên Chúa trao ban cho các thiên thần và con người. Các Bài Đọc hôm nay cho thấy sự tạo dựng tốt lành của Thiên Chúa, và sự lạm dụng tự do làm cho ra xấu xa của con người. Trong Bài Đọc I, năm lẻ, tác-giả Sách Sáng Thế Ký tường thuật sự tạo dựng chim trời, cá biển, thú vật, và nhất là con người của Thiên Chúa. Tác giả nhấn mạnh đến sự kiện Thiên Chúa thấy tất cả mọi sự đều rất tốt lành và Ngài chúc lành cho tất cả các tạo vật. Trong Bài Đọc I, năm chẵn, vua Solomon xây dựng và khánh thành Đền Thờ không phải vì muốn giới hạn Thiên Chúa; nhưng để dân chúng cảm thấy sự hiện diện của Ngài trong đời sống. Trong Phúc Âm, các Biệt-phái và Kinh-sư tố cáo các môn đệ của Chúa vi phạm Lề Luật của tiền nhân, vì các ông không chịu rửa tay trước khi ăn. Chúa Giêsu vạch ra các tội lỗi của họ: “Các ông thật khéo coi thường điều răn của Thiên Chúa để nắm giữ truyền thống của các ông.”

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I (năm lẻ): Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp.
1.1/ Ngày thứ năm, Thiên Chúa tạo dựng chim trời và cá biển: Khi theo dõi các chương trình của đài Discovery hàng tuần, chúng ta không khỏi ngạc nhiên đến độ sửng sốt về các loài thảo mộc, chim trời, cá biển, và các loài thú vật trong trời đất. Chúng quá đẹp, quá nhiều giống loại khác nhau, và quá hữu ích cho con người. Một điều làm chúng ta phải sửng sốt là mặc dù chúng trở thành của ăn cho nhau và cho biết bao con người, nhưng chúng là nguồn lương thực không bao giờ cạn, vì lời chúc lành của Thiên Chúa trong trình thuật hôm nay: "Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy biển; và chim phải sinh sản cho nhiều trên mặt đất."
1.2/ Ngày thứ sáu, Thiên Chúa tạo dựng con người: Việc tạo dựng con người được coi là tuyệt đỉnh của sự tạo dựng vì những lý do sau:
(1) Khi tạo dựng các loài khác, Thiên Chúa chỉ cần phán là chúng có; khi tạo dựng con người, Thiên Chúa lấy ý kiến của những vị cùng ở với Thiên Chúa trên trời khi Ngài phán: "Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta.” Hai chữ tác-giả dùng khác nhau ở đây: (1) hình ảnh (selem), là một bản in chính xác của những gì nguyên thủy; và (2), giống như (demut), chỉ sự tương tự hay gần giống nhau. Con người mang hình ảnh của Thiên Chúa, và có những đức tính gần giống như Ngài.
(2) Con người có quyền trên các loài thọ tạo khác: Trình thuật hôm nay nói rõ mục đích của Thiên Chúa khi tạo dựng con người: “để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất." Trong trình thuật sau này, các thú vật được dẫn tới Adam để ông đặt tên cho chúng: “Ông gọi chúng là gì, tên của chúng như vậy.” Khi một người đặt tên cho ai, người đó có quyền trên người được đặt tên.
(3) Thiên Chúa sáng tạo gia đình đầu tiên và chúc lành cho họ: Khi tạo dựng các sinh vật khác, tuy không thấy tác-giả nói tới giống loại (đực hay cái) của chúng, nhưng được giả định phải có cho việc sinh sản. Khi đề cập tới việc tạo dựng con người, tác giả nhấn mạnh tới phái tính và lời truyền cũng như lời chúc lành cho gia đình. “Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ. Thiên Chúa ban phúc lành cho họ, và Thiên Chúa phán với họ: "Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất."”
(4) Mọi sự được tạo dựng cho sự xử dụng của con người: Con người không chỉ có quyền trên muôn vật, mà muôn vật còn được đặt dưới quyền xử dụng của con người. Thiên Chúa phán: "Đây Ta ban cho các ngươi mọi thứ cỏ mang hạt giống trên khắp mặt đất, và mọi thứ cây có trái mang hạt giống, để làm lương thực cho các ngươi. Còn đối với mọi dã thú, chim trời và mọi vật bò dưới đất mà có sinh khí, thì Ta ban cho chúng mọi thứ cỏ xanh tươi để làm lương thực. Liền có như vậy." Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp!
1.3/ Ngày thứ bảy, Thiên Chúa nghỉ ngơi: Ngày này cũng được Thiên Chúa dựng nên cho con người với mục đích để con người cùng nghỉ ngơi với Thiên Chúa. Chúng ta cần chú ý đặc biệt đến lý do khi Thiên Chúa tạo dựng ngày này, vì nó sẽ trở thành đề tài cho những xung đột giữa Chúa Giêsu và các biệt-phái cùng các kinh-sư. Tác giả viết: “Ngày thứ bảy, Thiên Chúa đã hoàn thành công việc Người làm. Khi làm xong mọi công việc của Người, ngày thứ bảy, Thiên Chúa nghỉ ngơi. Thiên Chúa ban phúc lành cho ngày thứ bảy và thánh hoá ngày đó, vì ngày đó Người đã nghỉ, ngưng làm mọi công việc sáng tạo của Người.”
2/ Bài đọc I (năm chẵn): Trời cao thăm thẳm còn không chứa nổi Ngài, huống chi ngôi nhà con đã xây đây!
2.1/ Tại sao con người cần có một nơi xứng đáng để thờ phượng: Nhiều người đã đặt câu hỏi: Nếu Thiên Chúa ở khắp mọi nơi, tại sao cần phải đến nhà thờ mới gặp được Thiên Chúa? Họ có thể dẫn chứng lời vua Solomon hôm nay: "Có thật Thiên Chúa cư ngụ dưới đất chăng? Này, trời cao thăm thẳm còn không chứa nổi Ngài, huống chi ngôi nhà con đã xây đây!" Câu hỏi này có thể được trả lời như sau:
Thứ nhất, theo bằng chứng lịch sử, đó là điều Thiên Chúa muốn. Trong cuộc hành trình của con cái Israel trong sa mạc 40 năm, chính Thiên Chúa đã truyền cho Moses phải thiết lập Lều Hội Ngộ, Nhà Tạm, Bàn Thờ, chức tư tế, phẩm phục, cùng tất cả các đồ dùng trong phụng vụ thánh. Ngài hứa sẽ ở với con người qua cột mây phủ trên Lều Hội Ngộ. Khi con cái Israel đã định cư trong Đất Hứa, vua Solomon được phép Thiên Chúa để xây dựng một Đền Thờ cố định tại Jerusalem, thay cho Lều Tạm. Vì thế, Đền Thờ là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa ở với con người. Trong Tân Ước, Chúa Giêsu đã lập bí-tích Thánh Thể để bảo đảm lời hứa "Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế." Nơi nào có Mình Thánh Chúa trong Nhà Tạm, nơi đó có sự hiện diện của Đức Kitô với con người.
Thứ hai, Đền Thờ được dựng nên hoàn toàn cho lợi ích của con người, chứ không cho Thiên Chúa, vì toàn thể vũ trụ là Đền Thờ của Ngài. Là loài hữu hạn, con người cần có một nơi cụ thể để xác tín sự hiện diện của Thiên Chúa trước khi cầu nguyện. Mỗi khi dân Israel nhìn thấy "cột mây" đậu xuống trên Lều Tạm, họ biết Thiên Chúa đang hiện diện ở đó. Hơn nữa, nơi Thiên Chúa hiện diện còn phải là nơi cực thánh linh thiêng để con người biết cách cư xử cho xứng đáng mỗi khi tới cầu nguyện; chứ không phải nơi con người muốn làm gì thì làm.

2.2/ Công dụng của Đền Thờ: Phụng vụ thánh gắn liền với sự hiện diện của Đền Thờ. Trong Cựu Ước, Đền Thờ là nơi con người đến cầu nguyện với Thiên Chúa chung cộng đoàn cũng như cá nhân. Thứ đến, Đền Thờ là nơi con người đến nghe và học hỏi Lời Chúa để biết cách hành xử đúng theo những gì Thiên Chúa muốn. Sau cùng, Đền Thờ còn là nơi con người đến dâng những lễ vật hy sinh để đền bù các tội lỗi của mình. Trong Tân Ước cũng vậy, thánh đường là nơi các tín hữu đến làm việc thờ phượng chung cũng như riêng. Hai điều nổi bật là lắng nghe Lời Chúa và cử hành các bí-tích. Việc tha thứ tội lỗi trong Cựu Ước được thay thế bằng Lễ Hy Sinh của Đức Kitô trong Thánh Lễ và bí-tích Hòa Giải.

3/ Phúc Âm: Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm.
3.1/ Luật Kosher thanh tẩy của người Do-thái: Khi nói tới Luật, người Do-thái nghĩ ngay đến Thập Giới của Thiên Chúa ban cho họ qua Moses; nhưng bên cạnh đó, còn nhiều những luật mà họ gọi là “luật truyền miệng,” hay “luật bất thành văn.” Những luật này, sau một thời gian được các tiền nhân giữ, đương nhiên trở thành luật và được ghi chép lại trong ít thế kỷ trước khi Chúa Giêsu ra đời.
(1) Những gì được họ coi là không thanh sạch: Có rất nhiều điều được coi là không sạch bởi người Do-thái: người đàn bà mới sinh con, người phong cùi, xác chết, người Dân Ngoại, và rất nhiều những rau cỏ cũng như các thú vật không được ăn vì không sạch. Tất cả những đồ vật mà những loại người này đụng vào, đều trở nên không sạch. Vì thế, họ có những khỏan luật mô tả những gì không sạch, và những điều luật làm sao để giải quyết những gì không sạch.
(2) Vệ sinh và tội lỗi: Đối với họ, thanh sạch không phải chỉ là chuyện vệ sinh, nhưng là chuyện liên quan đến tội lỗi và Lề Luật. Kẻ nào vi phạm có thể bị trừng trị theo Luật và ngay cả có thể bị tử hình
3.2/ Phản ứng của Chúa Giêsu: Ngài chắc chắn không đả phá việc giữ vệ sinh trước khi ăn; nhưng Ngài muốn vạch ra cho họ thấy những phi lý quá trớn về sự quan sát luật thanh sạch của họ:
(1) Giữ đạo thành thật bên trong hay giữ luật cách giả hình bên ngoài? Tôn giáo hệ tại việc giúp con người sống mối liên hệ chân tình với Thiên Chúa, chứ không phải ở việc giữ một số lễ-nghi cách hời hợt bên ngoài. Chúa Giêsu dùng lời của tiên-tri Isaiah tố cáo họ: "Ngôn sứ Isaiah thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết rằng: Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta.”
(2) Luật của Thiên Chúa phải được coi quan trọng hơn luật của con người: Chúa tiếp tục chỉ trích họ: “Các ông thật khéo coi thường điều răn của Thiên Chúa để nắm giữ truyền thống của các ông… Các ông lấy truyền thống các ông đã truyền lại cho nhau mà huỷ bỏ lời Thiên Chúa.”

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa tạo dựng mọi sự tốt đẹp và trao cho con người quyền điều khiển. Chúng ta có bổn phận bảo vệ mọi sự tốt đẹp theo như ý định của Thiên Chúa. Thiên Chúa không tạo dựng điều xấu xa; những điều này xảy ra là do quỉ thần và sự lạm dụng tự do của con người.
- Thiên Chúa muốn hiện diện cách hữu hình với con người trong Đền Thờ hay thánh đường. Chúng ta có thể cầu nguyện khắp nơi; nhưng phải vào thánh đường để lắng nghe Lời Chúa và cử hành các bí-tích.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
****************
Ngày 07
Mỗi người đều có một không gian sôhg trên thiên đường! Đó là điểm đặc biệt đầu tiên của thiên đàng. Trước mặt Thiên Chúa, chúng ta mới trọn vẹn là chính chúng ta. Trong khi chúng ta sông trên trái đất, chúng ta phải chiến đâu để nhân vị chúng ta tìm được một vị ữí thích đáng, để hiện diện trước mặt kẻ khác trong sự thật của chính chúng taề Khi chúng ta được nhìn Thiên Chúa mặt đối mặt, "chúng ta sẽ thây Người như vậy" (1 Ga 3,2). Chúng ta sẽ hiện diện trong hữu thể là con của Thiên Chúa, cuối cùng chúng ta mới thật là mình.

Một câu hỏi cứ luôn trờ lại: "Người ta sẽ làm gì trên thiên đàng?" Có lẽ chán chết. Trời giông như một phòng thánh rộng rãi trong đó người ta chìm đắn trong cầu nguyện... Thiên đàng đâu phải thế. Chúng ta sẽ làm gì trên trời? câu trả lời thật đơn sơ. Chúng ta sẽ thực hành hai giới răn: yêu Chúa, yêu người thân cận như chính mình. Có hạnh phúc nào lớn hơn nữa không? Không! chỉ vi chúng ta sẽ yêu không bờ bến, không khoảng cách, không nghịch lý, chúng ta sẽ yêu bằng tình yêu của Thiên Chúa.
Hạnh phúc lớn nhất là được yêu. Yêu chính mình... Tình yêu này đôi khi rất khó trên trần gian, sẽ trờ thành tự nhiên, sáng chói và chìm vào biển tình yêu của chính Thiên Chúa chúng ta
Paul-Dominique Marcovits, o.p. - Cerf 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét