Trang

Thứ Tư, 21 tháng 3, 2012

THỨ NĂM TUẦN IV MÙA CHAY


Thứ Năm sau Chúa Nhật IV Mùa Chay


Bài Ðọc I: Xh 32, 7-14
"Xin Chúa tỏ lòng khoan dung đối với tội lỗi dân Chúa".
Trích sách Xuất Hành.
Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Môsê rằng: "Ngươi hãy đi xuống; dân mà ngươi dẫn ra khỏi đất Ai-cập đã phạm tội. Chúng đã sớm bỏ đường lối Ta đã chỉ dạy cho chúng, chúng đã đúc tượng bò con và sấp mình thờ lạy nó; chúng đã dâng lên nó của lễ hiến tế và nói rằng: "Hỡi Israel, này là Thiên Chúa ngươi, Ðấng đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai-cập". Chúa phán cùng Môsê: "Ta thấy rõ dân này là một dân cứng cổ. Ngươi hãy để Ta làm, Ta sẽ nổi cơn thịnh nộ với chúng và sẽ huỷ diệt chúng, rồi Ta sẽ làm cho ngươi trở nên tổ phụ một dân tộc vĩ đại".
Môsê van xin Chúa là Thiên Chúa của ông rằng: "Lạy Chúa, tại sao Chúa nổi cơn thịnh nộ với dân mà Chúa đã dùng quyền lực và cánh tay hùng mạnh đưa ra khỏi đất Ai-cập? Xin Chúa đừng để cho người Ai-cập nói rằng: "Người đã khéo dẫn họ đến đây, để giết họ trên núi và huỷ diệt họ khỏi mặt đất". Xin Chúa nguôi cơn giận và tỏ lòng khoan dung đối với tội lỗi dân Chúa. Xin Chúa nhớ đến Abraham, Isaac, và Israel tôi tớ Chúa, vì chính Chúa đã thề hứa rằng: "Ta sẽ làm cho con cháu các ngươi sinh sản ra nhiều như sao trên trời, Ta sẽ ban cho con cháu các ngươi toàn cõi xứ này như lời Ta đã hứa, và các ngươi sẽ chiếm hữu xứ này mãi mãi". Chúa đã nguôi cơn giận, không thực hiện điều dữ mà Người đe doạ phạt dân Người.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 105, 19-20. 21-22. 23
Ðáp: Lạy Chúa, xin nhớ chúng con khi gia ân huệ cho dân Ngài (c. 4a).
Xướng: 1) Họ đã đúc con bò tại Horeb, và lễ bái thần tượng đã đúc bằng vàng. Họ đem vinh quang của mình đánh đổi lấy hình tượng con bò ăn cỏ. - Ðáp.
2) Họ đã quên Thiên Chúa là Ðấng cứu độ mình, Ðấng đã làm những điều trọng đại bên Ai-cập, Ðấng đã làm những điều kỳ diệu trên lãnh thổ họ Cam, và những điều kinh ngạc nơi Biển Ðỏ. - Ðáp.
3) Chúa đã nghĩ tới chuyện tiêu diệt họ cho rồi, nếu như Môsê là người Chúa chọn, không đứng ra cầu khẩn với Ngài, để Ngài nguôi giận và đừng tiêu diệt họ. - Ðáp.

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Ed 33, 11
Chúa phán: "Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống".

Phúc Âm: Ga 5, 31-47
"Có người tố cáo các ngươi, đó là Môsê, người mà các ngươi vẫn tin tưởng".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu nói với dân Do-thái rằng: "Nếu chính Ta làm chứng về Mình, thì chứng của Ta sẽ không xác thực. Có một Ðấng khác làm chứng về Ta, và Ta biết chứng Người làm về Ta thì xác thực. Các ngươi đã sai người đi hỏi Gioan, và Gioan đã làm chứng cho sự thật. Phần Ta, Ta không cần chứng của loài người, nhưng Ta nói những điều này để các ngươi được cứu thoát. Gioan là cây đèn cháy sáng. Các ngươi cũng muốn vui hưởng ánh sáng đó một thời gian. Nhưng Ta có một bằng chứng hơn chứng của Gioan: vì công việc Chúa Cha đã giao cho Ta hoàn thành, là chính công việc Ta đang làm. Các việc đó làm chứng về Ta rằng Chúa Cha đã sai Ta. Và Chúa Cha, Ðấng đã sai Ta, chính Người cũng làm chứng về Ta. Nhưng chưa bao giờ các ngươi được nghe tiếng Người, chưa bao giờ nhìn thấy mặt Người, và lời Người, các ngươi cũng chẳng giữ lại được, vì các ngươi không tin Ðấng Người đã sai đến. Các ngươi tra cứu Sách Thánh, vì tưởng rằng trong đó các ngươi sẽ tìm thấy sự sống muôn đời; chính Sách Thánh lại làm chứng về Ta, vậy mà các ngươi vẫn không chịu đến với Ta để được sống.
Ta không tìm vinh quang nơi loài người. Nhưng Ta biết các ngươi không có lòng yêu mến Thiên Chúa. Ta đến nhân danh Chúa Cha, nhưng các ngươi không chịu đón nhận. Nếu có một người nào khác nhân danh mình mà đến, các ngươi sẽ đón nhận nó. Các ngươi là những người nhận vinh quang lẫn nhau mà không tìm vinh quang do một Thiên Chúa, thì làm sao các ngươi có thể tin được? Các ngươi đừng tưởng rằng Ta sẽ tố cáo các ngươi với Chúa Cha. Kẻ tố cáo các ngươi là Môsê, tức là người mà các ngươi vẫn tin tưởng. Vì nếu các ngươi tin Môsê, thì có lẽ các ngươi cũng đã tin Ta, bởi vì chính Môsê đã viết về Ta. Nhưng mà nếu các ngươi không tin điều Môsê đã viết, thì làm sao các ngươi tin lời Ta được?"
Ðó là lời Chúa.

Suy Niệm:
Ðức Giêsu quở trách thái độ cố chấp của người Do thái. Họ không chấp nhận Ðức Giêsu. Họ chối từ Thiên Chúa và chỉ cầu vinh nơi người đời. Ðức Giêsu được chính Chúa Cha làm chứng, người Do thái cũng không chấp nhận. Vì không tin, nên họ không thể yêu mến.
Lời Chúa hôm nay vẫn còn đang nói với chúng ta. Chúa cũng đang chất vấn và quở trách chúng ta về cách sống của mình. Rất nhiều khi chúng ta khước từ Chúa để chạy theo những danh vọng những đam mê làm chúng ta càng xa dần Thiên Chúa, xa nguồn hạnh phúc đích thực.

Cầu Nguyện:
Lạy Chúa, xin tha thứ cho chúng con vì những lần chúng con khước từ tình yêu, không nhìn nhận sự hiện diện của Chúa bằng nhiều cách. Dù vậy Chúa vẫn trung thành yêu thương chúng con. Xin giúp chúng con mạnh sức thoát khỏi những ràng buộc của đam mê, tội lỗi. Ðể chúng con luôn đặt trọn niềm tin yêu vào Chúa. Chúng con cầu xin, nhờ Ðức Giêsu, Chúa chúng con. Amen.

Lời Chứng Bởi Gioan

Trong lịch sử Giáo Hội có vị tu sĩ danh tiếng tên là Luther, thuộc dòng Augustinô bên Ðức, và khi mới 35 tuổi đã mang chức vụ Giám Tỉnh. Vị Giám Tỉnh Luther này lại quá ham hoạt động, chỉ vì tìm danh tiếng bên ngoài. Ông thường nói: "Tôi quá bận, nào là phải dạy học, giảng thuyết, viết sách, nên không có giờ đọc kinh, không có giờ để cám ơn Chúa, có khi tôi phải bỏ luôn cả lễ". Hậu quả là vì quá hăng say hoạt động, nên Luther đã dẫn đến những chủ trương lạc thuyết, bất chấp lời khuyên bảo của Tòa Thánh, cuối cùng đã ly khai khỏi Giáo Hội, ra khỏi dòng và đã kết bạn, lôi kéo nhiều người khác theo mình, làm cho Giáo hội phải thiệt hại nặng nề.
Ở nước Pháp cũng có một giáo sĩ lỗi lạc, đồng thời là một văn hào danh tiếng, tên là Lamèleir. Ông có đường lối sống như Luther. Suốt ngày lo lắng nhiều việc, bỏ bê giờ cầu nguyện, chỉ cậy vào trí khôn mình mà không tìm kiếm ánh sáng nơi Thiên Chúa. Kết quả cũng không khác gì Luther: kiêu căng, bất tuân phục, đưa bản thân vào sự khốn khổ tinh thần, lôi kéo nhiều người cùng xuống vực thẳm.
Ðức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, tác giả tập sách "Ðường Hy Vọng" nhắn nhủ như sau: Tiếng gọi vẫn tiếp tục nhắc nhở con trong mọi việc nhỏ là "Hãy Theo Thầy", và lời thưa "Vâng" của con vẫn tiếp tục cho đến hơi thở cuối cùng. Hãy bỏ mình vác Thập Giá mỗi ngày và đóng đinh mình trên Thánh Giá với Thầy. Mỗi ngày con bớt đi "tự ái" mà thêm "bác ái". Mỗi ngày con hãy bớt sự tin vào mình mà hãy tin vào Chúa. Thời đại nào cũng có những người tự xưng mình là tiên tri, nhưng đường lối của họ không đem lại hy vọng cho nhân loại. Chỉ có Chúa Giêsu tự xưng là đường, chỉ có Ngài mới đem lại hy vọng với kích thước của thế giới. Hãy rao giảng Tin Mừng cho mọi người. Hãy làm chứng nhân cho Ta đến tận cùng thế giới. "Tin" là chấp nhận Chúa Giêsu cách vô điều kiện và quyết tâm sống chết với Ngài.
Anh chị em thân mến!
Nếu không hướng thượng, không cộng tác với ơn soi sáng của Chúa, chúng ta dễ chạy theo những thần tượng tâm hồn. Thời đại nào cũng có người tự hào cho là tiên tri, tự xưng mình có đủ khả năng để giải quyết những vấn đề của xã hội. Nhưng lịch sử Giáo Hội đã chứng minh rằng: "Ai muốn xây dựng những gì ở ngoài Thiên Chúa hay không cần Thiên Chúa thì sẽ thất bại".
Lạy Chúa, xin thương ban tràn đầy Thánh Thể của Ngài xuống trong tâm hồn con, để con biết lắng nghe Lời Chúa và trung thành chu toàn thánh ý Ngài cho đến cùng. Amen.

Suy niệm:
 Để hiểu được bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta cần đọc từ đầu chương năm.
Đức Giêsu chữa anh bất toại bên hồ nước gần Đền thờ Giêrusalem (cc. 1-9).
Anh được khỏi và vác chõng đi vào ngày sabát theo lệnh Đức Giêsu.
Chuyện đó dẫn đến việc người Do-thái chống đối ngài (c. 16).
Khi nghe ngài nói: “Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc”
họ tìm cách giết ngài, vì cho rằng ngài mắc tội phạm thượng, 

dám gọi Thiên Chúa là Cha và coi mình ngang hàng với Thiên Chúa (c. 18).
Không chút sợ hãi, Đức Giêsu khẳng định quyền mình đã nhận được từ Cha :
quyền làm cho kẻ chết sống lại và quyền phán xét trong ngày sau hết (cc. 19-30).
Dù có quyền, lúc nào ngài cũng là Con làm theo ý Cha, Đấng sai ngài.
 Trong bài Tin Mừng này, Đức Giêsu như người bị đứng trước tòa, bị kết án tử.
Vì không được tự làm chứng cho chính mình,
nên ngài phải tìm những lời chứng để biện hộ cho lời nói, việc làm của ngài.
Trước hết là lời chứng của Gioan Tẩy giả (cc. 33-35).
Ông là ngọn đèn làm chứng về ánh sáng, về Đức Giêsu (Ga 1, 8-9).
Nhưng người ta đã không đón nhận lời chứng ấy.
Kế đến là những công việc Cha giao mà ngài đã hoàn thành (c. 36).
Lẽ ra chúng phải là lời chứng thuyết phục cho thấy ngài được Cha sai.
Cuối cùng là lời chứng của Chúa Cha (cc. 37-40).
Cha làm chứng bằng những lời của Cha trong Kinh Thánh (c. 39).
Nhưng họ không giữ lời Cha ở lại trong lòng,
nên chẳng tin, cũng chẳng muốn đến với Đấng được Cha sai (c. 38. 40).
 Những lời chứng trên đây trở nên vô ích 
đối với những ai không có lòng yêu mến Thiên Chúa (c. 42),
không tìm vinh quang Thiên Chúa mà chỉ tôn vinh lẫn nhau (c.44).
Đức Giêsu đã phải chấp nhận sự từ khước này
mà ngài biết cuối cùng sẽ dẫn đến cái chết.
Làm sao ta có thể ra khỏi những thành kiến để đón lấy sự thật, 
ra khỏi những tư lợi ích kỷ để dám tin vào tình yêu.
ra khỏi cái tôi chật hẹp để dám sống cho người khác.
Hãy tin vào Giêsu, Đấng được Cha sai (c. 38).
Hãy đến với Giêsu để được sống (40).
 LỜI NGUYỆN  
 Lạy Thiên Chúa, đây lời tôi cầu nguyện:
Xin tận diệt, tận diệt trong tim tôi
mọi biển lận tầm thường.
Xin cho tôi sức mạnh thản nhiên
để gánh chịu mọi buồn vui.

Xin cho tôi sức mạnh hiên ngang
để đem tình yêu gánh vác việc đời.

Xin cho tôi sức mạnh ngoan cường
để chẳng bao giờ khinh rẻ người nghèo khó,
hay cúi đầu khuất phục trước ngạo mạn, quyền uy.

Xin cho tôi sức mạnh dẻo dai
để nâng tâm hồn vươn lên khỏi ti tiện hằng ngày.

Và cho tôi sức mạnh tràn trề
để âu yếm dâng mình theo ý Người muốn.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J

22/03/12 THỨ NĂM TUẦN 4 MC
Ga 5,31-47

CHỨNG NHÂN SỐNG

“Chính những việc tôi làm đó làm chứng cho tôi.” (Ga 5,36)

Suy niệm: Chúa Giêsu đưa ra những chứng từ để chứng minh sứ mạng của Ngài. Thứ nhất là Chúa Cha: Mọi việc làm và lời nói của Chúa Giêsu đều nhất nhất theo ý Chúa Cha, minh chứng Ngài đến từ Thiên Chúa. Thứ hai, Kinh Thánh làm chứng cho Chúa Giêsu, vì những gì Chúa làm chứng tỏ Ngài là Đấng Mêsia mà Kinh Thánh tiên báo. Thứ ba, Gioan Tẩy Giả cũng làm chứng khi giới thiệu Chúa cho người Do thái ở sông Giođan. Sau cùng, vinh quang mà Ngài đạt được không phải do con người dành cho mà là từ Thiên Chúa. Trước khi chịu tử nạn, ngài đã cầu nguyện: “Lạy Cha, xin hãy tôn vinh Con Cha ngõ hầu Con Cha tôn vinh Cha.” Chúa Giêsu minh chứng như vậy để người Do thái tin Ngài và nhờ đó được ơn cứu độ.

Mời Bạn: Ngày nay vẫn còn rất nhiều người không tin vào Chúa Giêsu. Chúa muốn bạn làm chứng cho Ngài bằng lời nói, việc làm, bằng cuộc sống của bạn. Có khi chỉ một Lời Chúa được bạn nói ra, một hành động thấm nhuần Tin Mừng sẽ có sức đưa một người anh em tin nhận Chúa.

Chia sẻ: “Con người thời nay cần những chứng nhân hơn là thầy dạy” (Đức Phaolô VI). Bạn quyết định sẽ làm gì, sống thế nào để lời nói trên đây thành hiện thực nơi chính bạn?

Sống Lời Chúa: 
Được một cụ già hay chia sẻ cơm bánh, một em bé đã hỏi: “Thưa bà, bà có phải là Chúa Giêsu không?” Đây thật là một chứng tá sống cho Chúa Giêsu.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, chớ gì mỗi người chúng con là một cuốn Tin Mừng sống động, để lời nói và việc làm của chúng con giúp anh em tin nhận Chúa, và chúng con sẽ làm vinh danh Chúa.


Lời Chúa Trong Gia Đình
Xh 32, 7-14; Tin Mừng theo Thánh Ga 5, 31-47.
LỜI SUY NIỆM: Chúa Cha, Đấng đã sai tôi, chính Người cũng đã làm chứng cho tôi. Các ông đã không bao giờ nghe tiếng Người, cũng chẳng bao giờ  thấy tôn nhan Người. Các ông đã không để cho lời Người ở mãi trong lòng, bởi vì chính các ông không tin vào Đấng Người đã sai đến. (Ga 5,37).
          Thiên Chúa là Đấng vô hình, nên không ai thấy được; nên lời chứng của Ngài con người cũng không thể nghe bằng tai của mình được, nhưng lời Ngài sẽ nảy sinh riêng trong lòng của mỗi chúng ta khi chúng ta tin vào Chúa Giêsu là Đấng mà Thiên Chúa Cha đã sai đến. Khi chúng ta tin, chúng ta sẽ nhìn thấy nơi Ngài có Chúa Cha, bởi trong sáng tạo Thiên Chúa sáng tạo bằng lời phán thì thành sự. Chúa Giêsu khi Ngài làm phép lạ Ngài cũng chỉ phán một lời thì thành sự. Khi Thiên Chúa dựng nên con người, Người đã lấy bùn đất nặn nên, khi muốn cho con người mù thấy rõ ràng Chúa Giêsu cũng đã chữa dần dần mới thấy rõ. Chúng ta sẽ được nghe những lời Chứng của Chúa Cha về Chúa Giêsu, qua việc nghe trong các sách Sáng Thế, về sáng tạo và tuyển chon các Tổ phụ. Trong Sách Xuất Hành vai trò của Mô-sê và hành trình trong sa mạc tiến về Đất Hứa. Chúng ta sẽ thấy nơi Đức Giêsu đã hoàn thành những gì trong Cựu Ước đã nói về Đấng Mêsia.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
22 Tháng Ba
Trái Tim, Bộ Óc Và Cái Lưỡi

Một ngày kia, trái tim, bộ óc và cái lưỡi đồng ý với nhau là sẽ không bao giờ nói những lời đơn sơ nhỏ bé nữa.
Trái tim phát biểu: "Những lời đơn sơ nhỏ bé chỉ làm bận rộn ta thôi. Chúng làm cho ta trở nên yếu đuối. Sống trong thời buổi này trái tim phải trở nên cứng rắn, cương quyết, chứ không thể mềm nhũn dễ bị xúc động được".
Bộ óc biểu đồng tình: "Vâng, đúng thế, thời buổi này chỉ có những tư tưởng cao siêu, những công thức tuyệt diệu, những chương trình vĩ đại mới đáng cho bộ óc suy nghĩ tới. Những lời đơn sơ nhỏ bé chỉ làm mất thời giờ, mà thời giờ là vàng bạc".
Cái lưỡi nghe trái tim và bộ óc nói thế không khỏi hãnh diện và tự cảm thấy mình trở nên rất quan trọng, mặc dù lưỡi chỉ là bộ phận bé nhỏ của thân thể, vì thế lưỡi cũng hội ý: "Hai anh quả thật đã đạt được tột đỉnh của sự khôn ngoan. Nếu hai anh nghĩ thế thì, tôi sẽ chỉ nói những danh từ chuyên môn, những câu nói văn hoa bóng bẩy, những bài diễn văn sâu sắc, hùng hồn".
Như đã đồng ý, kể từ dạo ấy, trái tim chỉ gửi lên lưỡi những lời nói cứng cỏi, bộ óc chỉ sản xuất và gửi xuống lưỡi những tư tưởng cao siêu và lưỡi sẽ không còn nói những lời đơn sơ nhỏ bé nữa.
Với thời gian, mặt đất trở nên tẻ lạnh như cảnh vật vào mùa đông: Không có lấy một chiếc lá xanh, không còn một cánh hoa đồng nội và lòng người cũng trở nên chai đá như những thửa ruộng khô cằn, nứt nẻ trong những tháng hè nóng bức.
Nhưng những ông già, bà cả vẫn còn nhớ những lời đơn sơ nhỏ bé. Ðôi lúc miệng họ vô tình bật phát nói ra chúng. Lúc đầu họ sợ bị bọn trẻ chê cười. Nhưng kìa, thay vì cười chê, những lời nói đơn sơ nhỏ bé lại được truyền từ miệng này sang miệng khác, từ bộ óc này đến bộ óc khác, từ trái tim này qua trái tim nọ. Cuối cùng, chúng xuất phát như những chiếc hoa phá tan lớp tuyết giá lạnh để ngoi lên làm đẹp cuộc đời.
Câu chuyện trên không tiết lộ những lời đơn sơ nhỏ bé là gì, nhưng chúng ta có thể đoán: đó có thể là hai chữ: "Xin lỗi!", thốt lên để xin nhau sự tha thứ.
Hay đó là lời chào vắn gọn: "Mạnh giỏi không?" đồng nghĩa với câu hỏi: "Tôi có thể làm gì được cho anh cho chị không?".
Nhất là hai tiếng : "Cám ơn!" thốt lên chân thành từ cửa miệng của những kẻ được giúp đỡ, của những con người mang công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, hay của những vợ chồng trung tín chia sẻ với nhau những ngọt bùi, đắng cay của cuộc sống hoặc của những người được bạn bè đỡ nâng sau những thất bại ê trề hay sau những lần vấp ngã.
(Lẽ Sống)
Nhà lãnh đạo phải trung thành yêu thương dân đến cùng
Bài đọc: Exo 32:7-14; Jn 5:31-47.

Các nhà lãnh đạo tinh thần dễ nản chí khi nhìn thấy những vong ân, bội nghĩa của những người mình hướng dẫn; nhưng Thiên Chúa đòi họ phải kiên nhẫn và yêu thương họ đến cùng. Các Bài Đọc hôm nay đưa ra những mẫu gương của các nhà lãnh đạo sẵn sàng hy sinh cho dân chúng.
Trong Sách Xuất Hành, Thiên Chúa muốn thử Moses nên nói với ông hãy để Ngài tiêu diệt họ và Ngài sẽ ban một dân khác lớn hơn; vì họ đã phản bội Thiên Chúa qua việc đúc con bê bằng vàng để thờ lạy. Ông Moses bầu cử cho dân khỏi bị tiêu diệt. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu có thể để cho người Do-thái chết trong sự cứng lòng của họ, nhưng Ngài chọn con đường kiên nhẫn thuyết phục họ tin vào Ngài, bằng cách đưa ra các nhân chứng: Gioan Tẩy Giả, tiếng Chúa Cha làm chứng từ trời, các công việc Ngài làm, và bằng chứng Kinh Thánh.
I. KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Ông Moses bầu cử cho dân trước Thiên Chúa.
1.1/ Dân chúng phản bội Thiên Chúa: Thờ lạy bụt thần là tội vi phạm trầm trọng tới điều răn thứ nhất. Điều khôi hài hơn nữa là thay vì cám ơn Thiên Chúa đã dùng uy quyền đưa họ ra khỏi đất nô lệ của Ai-cập, họ lại cho là công ơn của con bò vàng mà tay họ làm nên, sụp lạy nó, và nói: "Hỡi Israel, đây là thần của ngươi đã đưa ngươi lên từ đất Ai-cập." Chúng ta rất ghét người vô ơn; và ghét hơn nữa người đánh cắp công lao của chúng ta. Thế mà rất nhiều lần chúng ta đã không biết cám ơn Thiên Chúa về những công ơn Ngài làm cho chúng ta, lại còn cho công ơn ấy vào sai chỗ như: Thần Tài, người khác, hay chính sức mình!
Tiên tri Isaiah nhận xét rất đúng về những hạng người vô ơn này khi nói: “Con bò còn biết chủ, con lừa còn biết cái máng cỏ nhà chủ nó. Nhưng Israel thì không biết, dân Ta chẳng hiểu gì” (Isa 1:3). Nói cách khác, con người vô ơn còn thua lòai bò lừa. Đó là lý do tại sao Đức Chúa phán với ông Moses: "Ta đã thấy dân này rồi, đó là một dân cứng đầu cứng cổ. Bây giờ cứ để mặc Ta, cứ để cơn thịnh nộ của Ta bừng lên phạt chúng, và Ta sẽ tiêu diệt chúng. Nhưng Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn."
1.2/ Ông Moses bầu cử cho dân: Mặc dù không đồng ý với việc của dân làm; nhưng ông Moses xin Thiên Chúa tha thứ đừng tru diệt họ, vì hai lý do sau:
(1) Vì danh Thiên Chúa: Nếu Thiên Chúa tru diệt họ, người Ai-cập lại có thể rêu rao: “Chính vì ác tâm mà Người đã đưa chúng ra, để giết chúng trong miền núi và tiêu diệt chúng khỏi mặt đất.”
(2) Vì lời hứa với các tổ phụ: “Xin Ngài nhớ đến các tôi tớ Ngài là Abraham, Isaac và Israel; Ngài đã lấy chính danh Ngài mà thề với các vị ấy rằng: Ta sẽ làm cho dòng dõi các ngươi đông đúc như sao trên trời, và sẽ ban cho dòng dõi các ngươi tất cả miền đất ấy, là miền đất Ta đã hứa; chúng sẽ được thừa hưởng miền đất ấy đến muôn đời.”
Đức Chúa đã thương, Ngài không giáng phạt dân Người như Người đã đe. Lãnh đạo dân, nhất là trong hòan cảnh khó khăn như thời gian lang thang trong sa mạc 40 năm, không dễ. Moses không luôn luôn liên nhẫn với dân đâu, chính ông cũng đã từng than phiền với Thiên Chúa vì sự cứng lòng và độc ác của dân khi họ không tìm được nước uống: "Con phải làm gì cho dân này bây giờ? Chỉ một chút nữa là họ ném đá con!"
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu kiên nhẫn thuyết phục người Do-thái.
Trong ba năm công khai rao giảng, Chúa Giêsu đụng độ nhiều lần với các kinh-sư và biệt-phái. Thông thường, con người thường cho người khác tối đa là 3 lần để hiểu sự thật; sau đó sẽ không cần cắt nghĩa nữa nếu họ vẫn ngoan cố không chịu tin. Chúa Giêsu rất kiên nhẫn với họ trong việc giải thích Người là Đấng Thiên Sai mà họ đang mong chờ. Chúa Giêsu biết: Nếu Ngài làm chứng về chính mình, thì lời chứng của Ngài không dễ cho họ tin. Vì thế, Ngài phải theo cách của Lề Luật đòi: ít nhất phải có hai nhân chứng để chứng nhận một điều là sự thật. Ngài liệt kê các nhân chứng của Ngài như sau:
(1) Gioan Tẩy Giả: làm chứng cho Chúa Giêsu nhiều lần. Ông đã chỉ vào Chúa Giêsu và nói: "Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian. Chính Người là Đấng tôi đã nói tới khi bảo rằng: Có người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi.” “Chính các ông đã cử người đến gặp ông Gioan, và ông ấy đã làm chứng cho sự thật. Phần tôi, tôi không cần lời chứng của một phàm nhân, nhưng tôi nói ra những điều này để các ông được cứu độ.”
(2) Các phép lạ Chúa đã làm: Người Do-thái đã chứng kiến hay nghe nói về những phép lạ Chúa Giêsu đã làm. Phép lạ mà họ mới chứng kiến là Chúa chữa lành một người bại liệt đã 38 năm. Những phép lạ này đòi hỏi người làm phải có uy quyền hay đến từ Thiên Chúa. Chúa Giêsu giải thích cho họ: “Nhưng phần tôi, tôi có một lời chứng lớn hơn lời chứng của ông Gioan: đó là những việc Chúa Cha đã giao cho tôi để tôi hoàn thành; chính những việc tôi làm đó làm chứng cho tôi rằng Chúa Cha đã sai tôi.”
(3) Tiếng Chúa Cha làm chứng từ trời và trong lòng mọi người: Hai lần Chúa Cha đã làm chứng từ trời cho Chúa Con bằng tiếng vọng từ trời “Đây là Con Ta yêu dấu. Các ngươi hãy nghe lời Người” khi Chúa Giêsu chịu Phép Rửa và khi Ngài Biến Hình. Hơn nữa, Chúa Cha vẫn làm việc trong tâm hồn người Do-thái cũng như các tín hữu, nếu họ để tâm nghe Người. Họ không nhận ra tiếng Chúa Cha là vì: “Các ông đã không bao giờ nghe tiếng Người, cũng chẳng bao giờ thấy tôn nhan Người. Các ông đã không để cho lời Người ở mãi trong lòng, bởi vì chính các ông không tin vào Đấng Người đã sai đến.”
(4) Kinh thánh làm chứng cho Chúa Giêsu: “Các ông nghiên cứu Kinh Thánh, vì nghĩ rằng trong đó các ông sẽ tìm được sự sống đời đời. Mà chính Kinh Thánh lại làm chứng về tôi. Các ông không muốn đến cùng tôi để được sự sống.”
(5) Ý hướng tốt lành của Chúa Giêsu: Nếu một người chỉ mong muốn và cố gắng hết sức để cho người khác được điều tốt lành, và không muốn bất kỳ một sự tôn vinh hay trả ơn; người đó thực sự yêu người khác. Chúa Giêsu thuyết phục họ hãy tin vào Ngài để được sống, vì Ngài thực sự yêu thương và lo lắng cho họ. Nếu họ không có ý hướng tốt lành: chỉ tôn vinh lẫn nhau và không tìm kiếm vinh quang phát xuất từ Thiên Chúa duy nhất, họ sẽ không thể tin vào Ngài.
II. ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Nhà lãnh đạo tinh thần phải kiên trì chịu đau khổ để đưa dân về với Thiên Chúa. Họ phải kiên nhẫn học hỏi và cắt nghĩa cho những người được họ hướng dẫn.
- Phần thưởng mà họ nhận được không phải là sự tôn vinh cá nhân hay những lợi lộc vật chất; nhưng là chính Thiên Chúa và niềm vui được làm vinh quang Cha trên trời.
- Dân chúng không nhận ra sự thật vì rất nhiều lý do: quá đau khổ, không có kiến thức căn bản, chước cám dỗ của ba thù. Nhà lãnh đạo may mắn được Thiên Chúa ban cho hiểu biết và có sức mạnh hơn để vượt qua. Họ phải gánh chịu đau khổ và tha thứ cho dân như Chúa Cha, Chúa Giêsu, và Moses đã gánh chịu và tha thứ cho dân.
Anthony Đinh Minh Tiên, Op.

Ngày 22


Trong bí tích Thánh Thể như anh em đang cử hành trong sự tôn thờ, trong sự kéo dài và chuẩn bị, anh em được đồng bàn với Đức Giêsu, một sự đổng bàn mà Người khao khát được hiệp thông với tất cả anh em. Người yêu thương anh em như chính anh em đang sống, nghèo nàn, đáng thương. Nhưng nhất là, hãy để vị lương y linh hổn đến chăm sóc các vết thương của anh em và chữa lành mọi bênh tật của anh em.
Nhưng đừng như những người Pharisêu là những người không hiểu được sự đổng bàn mà Đức Giêsu đã chuẩn bị cho họ với Người, và họ đã từ chối bước vào. Họ tự đóng kín trước lòng nhân từ chỉ vì họ không ý thức rằng, tất cả chúng ta đều là những tội nhân và những người mang thương tích của cuộc sống, và chúng ta cần đến mọi chăm sóc của vị lương y thần linh là Đức Giêsu.
Đừng sợ, hãy đến tham vấn Người trong lúc tôn thờ; trong thinh lặng, Người sẽ hoạt động trong sâu thẳm của anh em và lòng nhân từ của Người sẽ hoạt động trong anh em như việc thoa dầu cao quí nhất.

Giám mục Jean-Pierre Cattenoz
Thứ Năm 22-3

Thánh Benvenutus ở Osimo

(c. 1282)
T
hánh Benvenutus xuất phát từ dòng họ Scotivoli nổi tiếng ở Ancona, Ý Ðại Lợi. Sau khi học thần học và luật tại Ðại Học Bologna, ngài được thụ phong linh mục và được trở về Ancona để phụ giúp việc điều hành giáo phận.
Sau đó, ngài được bổ nhiệm làm giám quản Giáo Phận Osimo. Thành phố này từng trống ngôi giám mục trong 20 năm vì bị trừng phạt về tội ủng hộ Hoàng Ðế Frederick II trong cuộc chiến chống với đức giáo hoàng. Cha Benvenutus thành công trong việc thuyết phục dân chúng Osimo trở về tuân phục đức giáo hoàng. Năm 1264, đức giáo hoàng đặt Cha Benvenutus làm Giám Mục Osimo, nhưng cho phép ngài nhận áo dòng Phanxicô trước khi nhận nhiệm vụ mới.
Khi là giám mục, Ðức Benvenutus vẫn mặc y phục của Dòng và tuân giữ quy luật Thánh Phanxicô một cách nghiêm nhặt. Ngài thúc giục sự cải tổ trong giáo phận bằng cách triệu tập các công đồng và thiết lập các quy tắc thật khôn ngoan để chống với những lạm dụng thời bấy giờ. Nói tóm lại, Ðức Benvenutus đã đưa mọi người trong giáo phận về gần với Thiên Chúa hơn.
Năm 1282, ngài từ trần trong thánh đường của ngài giữa các linh mục giáo phận. Ba năm sau, ngài được Ðức Giáo Hoàng Martin IV tôn phong hiển thánh.

Lời Bàn

Dân chúng đủ mọi thành phần xã hội đã noi gương Thánh Phanxicô đi theo Ðức Kitô. Trong khi hầu hết các giám mục Phanxicô đều phục vụ trong công tác truyền giáo, nhưng cũng có nhiều vị như Thánh Benvenutus. Ðịa vị lãnh đạo của các ngài giúp họ ý thức rằng đời sống khiêm tốn và khó nghèo là dấu chỉ của Giáo Hội Ðức Kitô.

Copyright © 2010 by Nguoi Tin Huu. 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét