Trang

Thứ Bảy, 3 tháng 3, 2012

CHÚA NHẬT II MÙA CHAY


Chúa Nhật II Mùa Chay Năm B


Bài Ðọc I: St 22, 1-2. 9a. 10-13. 15-18
"Của hiến tế của Abraham Tổ phụ chúng ta".
Trích sách Sáng Thế.
Trong những ngày ấy, Chúa thử Abraham và nói với ông rằng: "Abraham, Abraham!" Ông đáp lại: "Dạ, con đây". Chúa nói: "Ngươi hãy đem Isaac, đứa con một yêu dấu của ngươi, và đi đến đất Moria, ở đó ngươi sẽ dâng nó làm của lễ toàn thiêu trên núi Ta sẽ chỉ cho ngươi".
Khi hai người đến nơi Chúa đã chỉ, Abraham làm một bàn thờ và chất củi lên, rồi trói Isaac lại, đặt lên bàn thờ trên đống củi. Abraham giơ tay lấy dao để sát tế con mình. Bấy giờ thiên thần Chúa từ trời gọi ông rằng: "Abraham, Abraham!" Ông thưa lại: "Dạ, con đây". Người nói: "Ðừng giết con trẻ và đừng động đến nó, vì giờ đây ta biết ngươi kính sợ Chúa, đến nỗi không từ chối dâng đứa con duy nhất cho Ta". Abraham ngước mắt lên, thấy sau lưng mình có con cừu đực đang mắc sừng trong bụi cây, Abraham liền bắt nó và tế lễ thay cho con mình. Thiên thần Chúa gọi Abraham lần thứ hai và nói rằng: "Chúa phán: Ta thề rằng: vì ngươi đã làm điều đó, ngươi không từ chối dâng đứa con duy nhất của ngươi cho Ta, nên Ta chúc phúc cho ngươi, Ta cho ngươi sinh sản con cái đông đúc như sao trên trời, như cát bãi biển; miêu duệ ngươi sẽ chiếm cửa thành của quân địch, và mọi dân tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc nơi miêu duệ ngươi, vì ngươi đã vâng lời Ta".
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 115, 10 và 15. 16-17. 18-19
Ðáp: Tôi sẽ tiến đi trước thiên nhan Chúa trong miền đất của nhân sinh (Tv 114, 9).
Xướng: 1) Tôi đã tin cậy ngay cả trong lúc tôi nói: "Tấm thân tôi trăm phần khổ cực!" Trước mặt Chúa thật là quý hoá cái chết của những bậc thánh nhân Ngài. - Ðáp.
2) Ôi lạy Chúa, con là tôi tớ Chúa, con là tôi tớ Ngài, con trai của nữ tỳ Ngài, Ngài đã bẻ gãy xiềng xích cho con. Con sẽ hiến dâng Chúa lời ca ngợi làm sinh lễ, và con sẽ kêu cầu danh Chúa. - Ðáp.
3) Tôi sẽ giữ trọn lời khấn xin cùng Chúa, trước mặt toàn thể dân Ngài, trong nơi hành lang nhà Chúa, ở giữa lòng ngươi, Giê-rusalem hỡi! - Ðáp.

Bài Ðọc II: Rm 8, 31b-34
"Thiên Chúa không dung tha chính Con mình".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, nếu Thiên Chúa ủng hộ chúng ta, thì ai có thể chống lại chúng ta? Người không dung tha chính Con mình, nhưng lại phó thác Con vì tất cả chúng ta, há Người lại chẳng ban cho chúng ta mọi sự cùng với Con của Người sao? Ai sẽ tố cáo những kẻ Chúa chọn? (Chẳng lẽ là) chính Chúa, Ðấng làm cho nên công chính? Ai sẽ kết án? (Chẳng lẽ là) Ðức Giêsu Kitô, Ðấng đã chết và hơn nữa đã sống lại, đang ngự bên hữu Thiên Chúa, cũng đang biện hộ cho chúng ta?
Ðó là lời Chúa.

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Mt 17, 5
Từ trong đám mây sáng chói, có tiếng Chúa Cha phán rằng: "Ðây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người".

Phúc Âm: Mc 9, 1-9
"Ðây là Con Ta rất yêu dấu".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê, và Gioan đi riêng với Người lên núi cao, và Người biến hình trước mặt các ông, và áo Người trở nên chói lọi, trắng tinh như tuyết, không thợ giặt nào trên trần gian có thể giặt trắng đến thế. Rồi Êlia và Môsê hiện ra và đàm đạo với Chúa Giêsu. Bấy giờ Phêrô lên tiếng thưa Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm. Chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia". Phêrô không rõ mình nói gì, vì các ông đều hoảng sợ. Lúc đó có một đám mây bao phủ các Ngài, và từ đám mây có tiếng phán rằng: "Ðây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người". Bỗng nhìn chung quanh, các ông không còn thấy ai khác, chỉ còn một mình Chúa Giêsu với các ông. Và trong lúc từ trên núi đi xuống, Chúa Giêsu ra lệnh cho các ông đừng thuật lại cho ai những điều vừa xem thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại. Các ông tuân lời căn dặn đó, nhưng vẫn tự hỏi nhau: "Từ trong cõi chết sống lại nghĩa là gì?"
Ðó là lời Chúa.

Suy Niệm:
Sự kiện biến hình xảy ra khoảng một tuần sau khi Ðức Giêsu báo trước cuộc thương khó và cái chết của Ngài, nhằm củng cố niềm tin nơi các môn đệ để các ông có thể can đảm theo Chúa trên con đường khổ giá. Sự hiện diện của hai nhân vật trong Cựu Ước: Môisê và Êlia để khẳng định việc Ðức Giêsu chịu khổ nạn và đi vào vinh quang nằm trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa mà Thánh Kinh đã loan báo.

Cầu Nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xưa Chúa đã tỏ vinh quang của Chúa để tăng sức cho các môn đệ. Xin Chúa củng cố niềm tin cho chúng con, để khi gặp gian nan, thử thách, chúng con không ngã lòng thất vọng nhưng sẵn sàng đón nhận và can đảm dấn thân theo Chúa. Amen.



Suy Niệm:
Chúa Nhật 2 Mùa Chay Năm B
Khởi nguyên 22,1-2.9a.10-13.15-18; Rôma 8,31b-34; Marcô 9,2-10

Suy niệm: Cái Chết, Con Ðường Ðưa Tới Sự Sống
"Tôi biết tôi tin vào ai".
Lời khẳng định thâm tín đó của thánh Phaolô có thể coi như diễn tả đúng niềm tin của Abraham trong cuộc hành trình về quê hương mới: quê hương sự sống qua ngõ sự chết. Trong sứ mệnh nhập thế cứu đời, Ðức Kitô cũng không đi con đường nào khác ngoài con đường chết-để-sống: nếu Người đã biến hình sáng chói để loan báo trước cảnh vinh quang ngày Người lại đến, thì chính Người cũng đã cho môn đệ biết trước đêm tối của giờ Thương khó Người sẽ phải đi qua (Mc 14,34-36).
Chấp nhận mất tất cả để được nhận lại tất cả, chết với Chúa để sống lại vinh quang với Người, đó là định luật căn bản của Kitô giáo. Ðịnh luật đó, hôm nay Giáo hội nhắc lại cho chúng ta qua niềm tin của Abraham trong cơn thử thách cũng như qua ánh sáng cuộc biến hình của Ðức Kitô trên núi Tabo.

1. "Ðem Con Một... Lên Ðường... Hiến Tế"
Lệnh Chúa truyền như phản ngược lại với Lời Chúa hứa. Abraham vẫn nhớ rõ lời Thiên Chúa vừa mới giao ước. Isaac từ nay sẽ là người nối dõi tông đường cho dòng họ Abraham (Kn 21,12). Ông cũng không quên Isaac là người con duy nhất của mình. Mẹ con Hagar đã bị đuổi đi, mà Sara thì lại quá già nua cằn cỗi. Bây giờ lệnh truyền phải đem con đi tế hiến! Phải chăng lưỡi dao oan nghiệt giáng xuống trên Isaac sẽ chấm dứt dòng dõi của ông và do đó giao ước sẽ bị phá hủy? Chắc hẳn trong thân phận làm người của mình, Abraham đã không thể nào nghĩ khác được. Nhưng ông đã lên đường, không chần chờ, không do dự. Và rồi đã tới đỉnh cao, nơi cử hành hy lễ, ông giơ tay, cầm dao, sẵn sàng giết con, người con duy nhất mà hơn ai hết, ông biết rõ nếu chết đi là ông mất tất cả.
Thái độ dứt khoát và hành động quyết liệt của Abraham, tự nó, nói lên trọn vẹn niềm tin của ông: nó cho ta thấy ông biết rõ ông tin vào ai và phải tin thế nào.
Abraham biết mình tin vào Ðấng không muốn sự chết nhưng muốn sự sống. Chính nhờ đó mà ông nhìn thấy được sự sống phong phú qua cái chết tế hiến của con mình. Việc Chúa đòi ông hy sinh con một mình chứng tỏ Chúa hoàn toàn làm chủ sự sống. Bởi vì Người là nguồn gốc sự sống nên chỉ mình Người mới ban sự sống và có quyền đòi lại sự sống đã ban. Thiên Chúa đã trao Isaac cho Abraham, bây giờ Người đòi lại sự sống đó, dù rằng Người đã cam kết: Isaac sẽ khởi đầu của một miêu duệ đông đảo. Sự đòi hỏi bất thường đó chỉ nhằm nói lên khả năng của Thiên Chúa làm được những việc đối với ta xem ra nghịch lý: khơi dậy sự sống từ cái chết, gọi được cái có từ cái không (Rm 4,17).
Nhờ biết rõ mình tin vào ai, nên Abraham đã tin một cách dứt khoát, trọn vẹn, triệt để: Chúa bảo ông đem Isaac đi, ông dẫn đi. Chúa bảo ông lên đường, ông lên đường. Chúa bảo ông tế hiến con một của ông, ông thi hành. Nhưng không phải vì thế mà niềm tin của ông mất hết vẻ nhân bản thông thường. Ông biết rõ dù là con do lời hứa, Isaac thực sự cũng là con của ông. Vâng lệnh Chúa tế hiến con mình, Abraham không thể không cảm thấy lòng mình bị xâu xé vì mối tình phụ tử. Nhưng ông đã tuân theo thiên ý với niềm tin vững chắc: Chúa sẽ trù liệu mọi sự để thực hiện lời hứa và chương trình cứu độ của Người. Chính niềm tin phó thác đó đã giúp ông mau mắn làm điều ông có thể và để cho Chúa làm điều vượt quá sức ông. Kết quả là sức mạnh của đức tin đã biến đổi đời ông. Ðể ông khỏi ray rứt suốt đời vì mặc cảm giết con, thì đây Thiên Chúa gửi đến cho ông một tế vật, khiến ông có thể tôn thờ Người với lòng tín phục hân hoan. Thay vì phải chấm dứt tuổi già trong nỗi cô đơn của một gia tộc tuyệt tự, thì ông thanh thản sống nốt những ngày còn lại trong niềm hãnh diện; con mình đã được thánh hiến và dòng dõi phát sinh từ đó là một dân tộc thánh.

2. Chết Ðể Sống Lại
Chính vì biết mình tin vào ai, nên Abraham đã dứt khoát lên đường, chấp nhận với tâm hồn phó thác, leo trọn con đường tế hiến lên đỉnh Mô-ri-gia, để rồi từ điểm cao của núi đồi và tuyệt đỉnh của hy tế, ông đã hưởng trọn niềm vui ngắm khung trời đầy sao, nhìn bãi biển trắng cát, liên tưởng đến miêu duệ đông đảo của mình. Mất đi để nhận lại, chết rồi để được sống, người cha của mọi kẻ có lòng tin đã lấy chính cuộc đời mình để làm sáng tỏ định luật đó của lịch sử cứu độ. Tin Mừng của Marcô hôm nay (9,2-10) thuật lại cuộc biến hình trên núi Tabo cũng nhằm chứng minh quá trình tất hữu đó của cuộc đời Chúa Kitô cũng như của chúng ta trên đường về cõi sống.
Quả vậy, định hướng của Tin Mừng là nhằm làm nổi bật mầu nhiệm chết-để-sống lại của Chúa Cứu thế. Chính trong viễn tượng đó mà sau khi đã cho các tông đồ thoáng thấy bóng tối của con đường Thương khó Người sắp đi qua, Người đã biến hình sáng chói, báo trước cuộc Phục sinh và ngày trở lại vinh quang của Người, để nhắn bảo các ông phải biết tìm ra sức sống phong phú bên kia cái chết. Vẻ huy hoàng của Tabo hôm nay không làm ta quên dòng sông Yorđan ngày trước. Nếu hạt thóc không mục nát đi trong lòng đất, thì không bao giờ nẩy sinh được cây lúa xanh tươi. Ta cũng phải chết đi với Chúa Kitô để được sống lại với Người. Và trong Người, chúng ta được trở thành con cái Thiên Chúa.
Nhưng, cũng như Abraham, ta phải dứt khoát tin ở Ðức Kitô và chấp nhận đi vào con đường cứu rỗi của Người, đồng thời sống trọn vẹn mầu nhiệm biến hình trong đời sống hằng ngày của chúng ta, nghĩa là sẵn sàng để cho Thần Khí Ðức Kitô đổi mới con người chúng ta và can đảm góp phần làm cho thế giới này biến dạng. Muốn thế, ta phải trung thành lắng nghe Lời Con Thiên Chúa (Mc 9,7) trong Sách Thánh và qua mọi biến cố của cuộc đời ta.

Giảng Lễ
Chúa Yêsu đưa ba môn đệ lên núi cao để họ được chiêm ngưỡng vinh quang của Con Thiên Chúa. Phụng vụ Giáo hội cũng đưa ta đến đây, để chứng kiến và tham dự vào mầu nhiệm cao cả.
Trước hết ta hãy nhìn xem câu truyện Chúa thử thách Abraham. Phụng vụ mùa Chay đọc cho ta nghe câu chuyện kinh hoàng này, vì như ta đã thấy trong Chúa nhật tuần trước, mùa Chay là mùa thử thách, thử thách đức tin của những người con Chúa. Abraham hồi đó chỉ có một đứa con, đứa con duy nhất của tuổi già, đứa con của Lời Hứa từ bao năm. Thế mà hôm nay Chúa gọi: Abraham! - Dạ. - Hãy đem người con yêu quý của ngươi đi hiến tế cho ta! Chúng ta hãy tưởng tượng xem diện mạo và tâm can của người cha già lúc đó như thế nào. Lời Chúa thật mạnh hơn tiếng sét lớn. Nhưng Abraham không ngã, không mất tinh thần. Sách Thánh viết: ông dậy sớm, bổ củi, thắng lừa rồi dắt Isaac đi, đi ba ngày trời ròng rã, ba ngày đau như cắt mỗi khi nghĩ tới giờ phút kinh hoàng sẽ phải hạ sát đứa con vô tội. Chắc chắn không ai có được thái độ đó. Chắc chắn không người cha nào đủ sức đi như vậy. Nhưng Abraham không phải là con người thường. Ông là con người có đức tin. Lòng ông tin Chúa thật tuyệt đối và vô điều kiện. Ông không lấy suy luận loài người chất vấn mệnh lệnh Chúa. Lời Chúa ông đã nghe rõ nên ông chỉ còn biết thi hành. Ông phó mặc hậu quả cho Thiên Chúa định liệu. Ðức tin của ông thật là gương mẫu. Phải nói mạnh hơn, lòng tin đó quả thật vô địch. Thế nên ông được xưng tụng là cha của các thế hệ tín hữu, là tổ phụ của dòng dõi tin tưởng. Ông là tổ phụ của ta, chứ không riêng của con cái Israel. Và câu truyện về ông mà hôm nay phụng vụ nhắc lại cho ta, thúc giục chúng ta tin mạnh mẽ hơn vào Chúa, dứt khoát chấp nhận Lời Chúa mà không so đo hơn thiệt. Có như vậy chúng ta mới được chấp nhận vào giao ước mà Chúa đã thề hứa với Abraham và miêu duệ ông đến muôn đời.
Ta hãy để ý đến tư tưởng Giao ước mà đoạn cuối bài đọc thứ I đã gợi lên. Và nếu ta còn nhớ, thì bài Cựu Ước Chúa nhật trước cũng nói đến Giao ước. Chúa đã giao ước với Noe. Ngài hứa không còn phạt loài người như trong vụ đại hồng thủy nữa. Trong bài đọc hôm nay, Ngài hứa ban phúc lộc chan hòa cho Abraham; dòng dõi ông sẽ nhiều như sao trên trời và như cát ngoài biển; mọi dân tộc trên mặt đất sẽ nhờ con cháu ông mà được hạnh phúc. Như vậy từ giao ước Noe tới giao ước mà Chúa đã thề hứa với Abraham đã có một tiến bộ rõ rệt. Chẳng những Chúa không muốn sát phạt loài người nữa, mà còn muốn cho họ được phát triển và hạnh phúc. Rồi đây, trong các Chúa nhật sau ta sẽ thấy Chúa còn hành động cụ thể hơn nữa để dần dần thực thi mọi Lời Hứa. Và như vậy, rõ ràng bao giờ Chúa cũng chỉ muốn ban thêm ơn cho ta, cho những người tin Chúa, tin đến nỗi sẵn sàng hy sinh tất cả để chấp nhận Lời Ngài. Hôm nay, chúng ta hãy tin vào Chúa mạnh mẽ hơn nữa, chắc chắn bàn tay của Ngài đang hướng dẫn đời sống của ta đi đến chỗ tốt đẹp, nên ta sẽ cố gắng bắt chước Abraham, không sờn lòng khi gặp thử thách, mà - có thể nói - cứ nhắm mắt thi hành mọi lời Phúc Âm ta nghe được. Làm như vậy có liều lĩnh không? Chắc chắn là không và chỉ có thể làm cho ta trở nên giống Ðức Kitô hơn và sẽ đạt tới vinh quang như Người. Ðiều đó thật rõ rệt, như Phúc Âm hôm nay cho chúng ta thấy.
Ðức Kitô biến hình ở trên núi cao. Người được hưởng vinh quang đang dành cho Người sau ngày Phục sinh. Chúa Cha muốn Người nếm trước vinh quang đó, không phải để khích lệ Người đi vào con đường tử nạn. Ngay từ đầu Người đã quảng đại chấp nhận đi vào con đường này rồi. Có thể nói không lúc nào Người quên nghĩ tới giờ của mình, giờ ra đi chịu chết để đưa nhân loại về cùng Thiên Chúa Cha. Sở dĩ hôm nay có cuộc biến hình này là vì các môn đệ và chúng ta. Người muốn củng cố đức tin của mọi người, để đừng ai nao núng khi nhìn thấy bộ mặt đau thương của Người trên thập giá. Vinh quang Chúa Cha dọi vào Người trên núi thánh, để chúng ta có ấn tượng đích thực về Người hầu bao giờ chúng ta cũng nghe theo tiếng Người kêu gọi. Nhưng đồng thời vinh quang ấy cũng đã bao bọc các môn đệ. Và qua sự kiện biến hình này, Chúa Cha muốn cho chúng ta tin chắc vào vinh quang mà chính chúng ta sẽ được trong vinh quang của Chúa Con. Có lần nhìn vào cộng đoàn các tín hữu, thánh Phaolô phải thú nhận rằng: xét về phương diện trần gian quả thật chúng ta chẳng đáng tự phụ gì, vì chúng ta thua kém người ta về mọi mặt. Nhưng sau này sẽ thế nào? Thánh Kinh là Lời Chúa đoan chắc với chúng ta: Ðức Kitô ở đâu, ta cũng sẽ ở đó. Ngài ở trong vinh quang, chúng ta cũng sẽ trở nên sáng láng; Ngài biến hình ở trên núi cao trước mắt môn đệ, để họ thấy vinh quang đang chờ Ngài và đồng thời cũng để họ biết mình sẽ được ở trong vinh quang ấy.
Thế thì niềm tin của chúng ta quả thật quá phấn khởi! Và chúng ta phải gia tăng niềm tin. Abraham chưa thấy gì mà đã tin mạnh mẽ. Ông chỉ tin rằng Chúa sẽ trù liệu tất cả. Còn ta, chúng ta có bảo chứng về niềm tin của mình. Hơn cả ba môn đệ, chúng ta biết chắc Ðức Kitô đã phục sinh, Người đang ở trong vinh quang, và Người đang sửa soạn chỗ vinh quang cho những ai tin Người. Những người nghi ngờ về tương lai tốt đẹp của mình, hãy nghe lời thánh Phaolô trong bài đọc II, Chúa Cha đã không khước từ ban Con Một Mình chịu chết để cứu chuộc ta, thì hỏi có gì và có ai khiến ta phải sợ hãi nữa? Ðể ta được hạnh phúc, Người đã hy sinh đến cả người Con yêu dấu của mình, thì hỏi ai còn có thể nghi ngờ về lòng Người thương ta? Và thương ta đến như vậy mà Người không muốn ta được hạnh phúc sao? Abraham chưa phải hy sinh đứa con mà đã được hạnh phúc chan hòa. Huống nữa là Chúa Cha đã hy sinh Con mình thật sự! Không lẽ tình thương của Người đối với ta không được thỏa mãn sao? Nghĩa là không lẽ chúng ta sẽ không hạnh phúc như lòng Cha nhân từ mong muốn sao? Không, dù hiện nay bề ngoài đời sống của ta còn phần nào chưa vinh hiển, ta vẫn phải đinh ninh rằng: chẳng qua mình đang ở trần gian, Ðức Kitô cần mặc lấy thân xác để đi con đường thánh giá, nhưng Người đã đạt tới vinh quang và chắc chắn sẽ đưa chúng ta vào nơi vinh hiển.
Và để bảo đảm điều đó, Người muốn dùng chính Thánh Thể mà chúng ta cử hành bây giờ , để đi vào trong ta, sống trong ta, đi qua trần gian với ta, để đưa ta đến nơi sáng láng.
Chúng ta hãy tin vào Thánh Thể; hãy rước lấy Chúa vào lòng, hãy để tinh thần của Chúa hướng dẫn đường đi nước bước của ta để dù có gặp thử thách lớn lao như Abraham, lòng tin của ta vào đạo Chúa vẫn không hề nao núng, khiến mọi Lời hứa trong giao ước sẽ thực hiện ở nơi ta, và nhiều người nhờ đấy cũng được phúc.

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)

04/03/2012 CHÚA NHẬT TUẦN 2 MC – B
Mc 9,2-10
*****
TRONG TÌNH THÂN CỦA CHÚA
Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình. Người đưa các ông đi ra riêng một chỗ, chỉ mình các ông thôi. (Mc 9,2)
Suy niệm: Để chuẩn bị cho các môn đệ đón nhận mầu nhiệm khổ nạn và phục sinh, Chúa Giêsu dẫn Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi, chỉ các ông thôi. Trong các Tin Mừng Nhất Lãm, bộ ba Phêrô, Giacôbê và Gioan là những người luôn được theo Chúa Giêsu trong nhiều trường hợp đặc biệt, hôm nay các ông được Chúa dẫn đi riêng cho chứng kiến vinh quang của Ngài, vinh quang sẽ ẩn dấu đến cùng trong thân phận Giêsu chịu chết như tử tội trên thánh giá. Trong chỗ thân tình, các ông được Chúa mạc khải trước về Ngài, để các ông có thể đứng vững trong những biến cố đen tối sắp xảy đến. Chỉ một mình các ông được chứng kiến vinh quang Chúa, chỉ một mình các ông nghe Chúa Cha chứng thực về Con yêu dấu, nhưng các ông vẫn không hiểu nổi vinh quang của Chúa sẽ tỏ hiện sau cái chết của Chúa. Niềm tin vào Đấng phục sinh luôn thách thức con người, kể cả người môn đệ Chúa.
Mời Bạn: Lời Chúa nói trong Thánh Kinh, trong giáo huấn của Giáo hội, trong kinh nghiệm đức tin của bạn, giúp bạn xác quyết niềm tin: Chúa đã sống lại, hằng sống và đang sống với bạn trong mọi bước đường đời của bạn. Những lúc bị thử thách, trong cảnh đen tối cuộc đời, bạn có nhớ những lời Chúa nói với bạn không?
Chia sẻ: Lời Chúa nâng đỡ đức tin của bạn thế nào khi bạn gặp thử thách?
Sống Lời Chúa: Khi gặp thử thách, bạn nhớ lại một câu Lời Chúa và cầu nguyện với Chúa cách chân thành.
Cầu nguyện: Hát “Lắng nghe Lời Chúa”.
(5 Phút Lời Chúa)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
CHÚA NHẬT II MÙA CHAY; St 22, 1-2.9a.10-13.15-18; Rm 8, 31b-34; Mc 9, 2-10.
LỜI SUY NIỆM: Hôm ấy, Chúa Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình, Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, chỉ mình các ông thôi, tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. (Mc 9,2).
          Chúa Giêsu, Ngài đã bày tỏ một sự thương yêu thân mật đối với ba tông đồ trong Nhóm Mười Hai, ở những nhóm càng nhỏ thì sự thân mật và yêu thương càng sâu đậm hơn. Trong đời sống của những con người được Chúa yêu thương một cách đặc biết nào đó, dù là lương hay giáo thì sự gặp gỡ của Ngài với họ, thường chỉ có người đó mới cảm nhận được hết hạnh phúc và vui sướng, và sau khi họ cảm nhận được điều đó thì họ muốn được giới thiệu cho nhiều người khác. Những cuộc gặp gỡ này giúp cho chúng ta hiểu thấu được sự ra đi của Đức Mẹ đến với bà I-sa-ve, thấy được An-rê giới thiệu Chúa Giêsu cho Phêrô em mình, thấy được Phi-líp-phê giới thiệu Chúa cho Nathanaen bạn của mình. Muốn được điều này chúng ta cố gắng tìm gặp Ngài, vì Ngài là Tình Yêu tha thứ. Ngài đang đợi mỗi người trong chúng ta quay trở về với Ngài.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
04 Tháng Ba
Các Con Hãy Nên Trọn Lành!

Người ta kể lại rằng thánh Antôn ẩn tu đã tìm đến gặp một người thợ giày, vì nghe đồn rằng người thợ giày này có một đời sống đạo đức lạ thường. Ðể hỏi đâu là bí quyết để nên thánh, người thợ giày đáp gọn: "Tôi chỉ biết đóng giày".
Ngạc nhiên vô cùng, thánh Antôn hỏi vặn lại: "Nếu chỉ có thế thì làm sao mà gọi là thánh thiện được. Tôi đây, tôi tưởng nghĩ đến Chúa từng phút giây. Ông có bí quyết gì khác nữa không?". Người thợ giày giải thích: "Tôi làm việc 8 giờ, cầu nguyện 8 giờ và ngủ nghỉ 8 giờ".
Thánh Antôn vẫn chưa cho đó là cuộc sống lý tưởng. Ngài cho biết, ngài cầu nguyện từng phút giây. "Vậy ông sống đức khó nghèo như thế nào?". Người thợ giày bảo: "Tôi cho Giáo hội một phần ba của cải của tôi, một phần ba tôi bố thí cho người nghèo và một phần ba tôi giữ lại cho tôi". Thánh Antôn chưa cho đó là bí quyết nên thánh trọn hảo, bởi vì chính ngài đã phân phát tất cả của cải của ngài cho Giáo hội và người nghèo...
Thánh nhân vặn hỏi mãi, cuối cùng người thợ giày mới khai ra bí quyết của ông như sau: "Mặc dù tôi phân phát một phần ba tiền lương của tôi cho người nghèo, nhưng đêm ngày tôi không ngủ yên được khi tôi nhìn thấy cảnh nghèo xung quanh tôi, đến độ tôi đã thưa với Chúa: Chúa ơi, thà để con đi hỏa ngục còn hơn nhìn thấy những người khốn khổ này phải triền miên trong cảnh nghèo đói...".
Nghe đến đó, thánh Antôn đã bỏ ra về. ngài chợt hiểu rằng ngài chưa đủ thánh thiện như người thợ giày này đến độ dám hy sinh tất cả chỉ vì người nghèo.
Có rất nhiều cách để nên thánh, nhưng dường như không có một mẫu mực thánh thiện chung cho tất cả mọi người. Có người nên thánh ngay trong bấc sống của mình giữa trần gian. Có người chịu tử đạo. Có người sống trong bậc tu trì. Mỗi một vị thánh là một cách sống.
Tuy nhiên giữa khung khác biệt đó vẫn có một mẫu số chung cho tất cả mọi cuộc sống thánh thiện: đó là Tình Yêu. Thánh Phaolô trong bài ca đức ái đã nói: "Dù tôi có thể nói được các tiếng lạ lùng, dù tôi có thể làm được phép lạ chuyển núi di sông, dù tôi có làm được không biết bao nhiêu công trình... nếu tôi không có tính đức bác ái, tôi chỉ là một thứ thùng rỗng...".
Không có đức bác ái, không có tình yêu thì tất cả tòa nhà đạo đức của chúng ta chỉ được xây dựng trên hão huyền mà thôi. Chúa Giêsu cũng đã nói với chúng ta: "Các con hãy nên trọn hảo như Cha các con trên trời". Thiên Chúa là Tình Yêu. Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người không loại trừ ai. Và cuối cùng vì yêu thương con người, Thiên Chúa đã hóa thân làm người như chúng ta... Ðó là tận cùng của Tình Yêu!
Người thợ giày trong câu chuyện của thánh Antôn không những dành của cải của mình cho người nghèo, ông còn tưởng nghĩ đễn người nghèo như chính lẽ sống của mình. Thánh Antôn đã nhận ra đó là bí quyết cao cả nhất để nên thánh. Bố thí tất cả của cải của mình, xa lánh tất cả các thú vui của cuộc sống, đêm ngày ăn chay cầu nguyện là điều tốt. Nhưng nếu sống như thế chỉ để tìm cho mình sự thanh thản trong tâm hồn mà phải sợ người khác quấy rầy, thì một cuộc sống như thế chưa phải là lý tưởng nhất.
"Hãy nên trọn lành như Cha các con trên trời". Ðó phải là lý tưởng của người Kitô chúng ta. Cha trên trời yêu thương tất cả mọi người. Cha trên trời đã yêu thương con người đến nỗi đã phó ban chính Con Một của Ngài. Thiên Chúa chỉ được gọi là Cha bởi vì Ngài sống cho con cái của mình... Sự sống Ngài ban cho chúng ta chỉ có thể triển nở và có ý nghĩa nếu nó cũng được sống cho tha nhân.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chủ Nhật II Mùa Chay, Năm B
Bài đọc: Gen 22:1-2, 9, 10-13, 15-18; Rom 8:31-34; Mk 9:2-10.

1/ Bài đọc I:
1 Sau các việc đó, Thiên Chúa thử lòng ông Áp-ra-ham. Người gọi ông: "Áp-ra-ham! " Ông thưa: "Dạ, con đây." 2 Người phán: "Hãy đem con của ngươi, đứa con một yêu dấu của ngươi là I-xa-ác, hãy đi đến xứ Mô-ri-gia mà dâng nó làm lễ toàn thiêu ở đấy, trên một ngọn núi Ta sẽ chỉ cho."9 Tới nơi Thiên Chúa đã chỉ, ông Áp-ra-ham dựng bàn thờ tại đó, xếp củi lên, trói I-xa-ác con ông lại, và đặt lên bàn thờ, trên đống củi. 10 Rồi ông Áp-ra-ham đưa tay ra cầm lấy dao để sát tế con mình. 11 Nhưng sứ thần của ĐỨC CHÚA từ trời gọi ông: "Áp-ra-ham! Áp-ra-ham! " Ông thưa: "Dạ, con đây!" 12 Người nói: "Đừng giơ tay hại đứa trẻ, đừng làm gì nó! Bây giờ Ta biết ngươi là kẻ kính sợ Thiên Chúa: đối với Ta, con của ngươi, con một của ngươi, ngươi cũng chẳng tiếc! "13 Ông Áp-ra-ham ngước mắt lên nhìn, thì thấy phía sau có con cừu đực bị mắc sừng trong bụi cây. Ông Áp-ra-ham liền đi bắt con cừu ấy mà dâng làm lễ toàn thiêu thay cho con mình.15 Sứ thần của ĐỨC CHÚA từ trời gọi ông Áp-ra-ham một lần nữa 16 và nói: "Đây là sấm ngôn của ĐỨC CHÚA, Ta lấy chính danh Ta mà thề: bởi vì ngươi đã làm điều đó, đã không tiếc con của ngươi, con một của ngươi, 17 nên Ta sẽ thi ân giáng phúc cho ngươi, sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên đông, nên nhiều như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển. Dòng dõi ngươi sẽ chiếm được thành trì của địch. 18 Mọi dân tộc trên mặt đất sẽ cầu chúc cho nhau được phúc như dòng dõi ngươi, chính bởi vì ngươi đã vâng lời Ta." 

2/ Bài đọc II:
31 Vậy còn phải nói gì thêm nữa? Có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta? 32 Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta?33 Ai sẽ buộc tội những người Thiên Chúa đã chọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa, Đấng làm cho nên công chính? 34 Ai sẽ kết án họ? Chẳng lẽ Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã chết, hơn nữa, đã sống lại, và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta? 

3/ Phúc Âm:
2 Sáu ngày sau, Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, chỉ mình các ông thôi, tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mắt các ông. 3 Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy. 4 Và ba môn đệ thấy ông Ê-li-a cùng ông Mô-sê hiện ra đàm đạo với Đức Giê-su. 5 Bấy giờ, ông Phê-rô thưa với Đức Giê-su rằng: "Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a." 6 Thực ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông kinh hoàng. 7 Bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: "Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người."8 Các ông chợt nhìn quanh, thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giê-su với các ông mà thôi.9 Ở trên núi xuống, Đức Giê-su truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại.10 Các ông tuân lệnh đó, nhưng vẫn bàn hỏi nhau xem câu "từ cõi chết sống lại" nghĩa là gì.


GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Thiên Chúa hy sinh Người Con Một cho con người.
             Tình yêu là quan niệm trừu tượng: con người không thể định nghĩa tình yêu, nhưng có thể cảm nghiệm thế nào là tình yêu. Tình yêu Thiên Chúa còn khó hiểu hơn nữa, vì chúng ta chưa từng thấy Ngài; nhưng chúng ta có thể cảm nghiệm sâu xa tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người mỗi khi ngước nhìn Cây Thập Giá.
            Các Bài Đọc hôm nay được sắp xếp rất tài tình để giúp chúng ta cảm nghiệm tình yêu Thiên Chúa qua hai biến cố xảy ra trên Núi Moriah và trên Đồi Golgotha. Trong Bài Đọc I, Sách Sáng Thế Ký tường thuật sự kiện Thiên Chúa muốn thử thách đức tin của ông bằng cách ra lệnh cho ông phải giết Isaac, người con một duy nhất chính Thiên Chúa đã ban cho ông trong lúc tuổi già. Với một niềm tin sắt đá vào Thiên Chúa, ông đã giơ dao sẵn sàng giết con theo lệnh truyền của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc II, Thánh Phaolô đã so sánh biến cố này với biến cố Tử Nạn của Chúa Giêsu trên Đồi Golgotha, trước khi rút ra kết luận: Nếu Thiên Chúa đã yêu con người đến độ đã hy sinh Người Con Một cho con người, còn gì có thể mà Thiên Chúa không làm cho con người. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu mang 3 môn đệ thân tín lên núi Thabor, cho các ông xem thấy vinh quang của Ngài, để chuẩn bị cho các ông đối diện với Cuộc Thương Khó sắp tới. 

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Tổ-phụ Abraham sẵn sàng hy sinh người con một cho Thiên Chúa.
            1.1/ Đức tin của Tổ-phụ Abraham: Đức tin phải chịu thử thách. Trình thuật Sáng Thế Ký hôm nay nói rõ: “Thiên Chúa muốn thử lòng ông Abraham.” Nhưng là một thử thách quá to lớn, vượt quá sức chịu đựng của con người khi Thiên Chúa đòi hỏi: “Hãy đem con của ngươi, đứa con một yêu dấu của ngươi là Isaac, hãy đi đến xứ Moriah mà dâng nó làm lễ toàn thiêu ở đấy, trên một ngọn núi Ta sẽ chỉ cho.”
            (1) Nếu chúng ta là Abraham, chúng ta sẽ phản ứng làm sao trước đòi hỏi của Thiên Chúa:
            * Đủ rồi Chúa ơi! Hết cách để thử rồi sao Chúa? Đây là người con một, người con Chúa ban cho trong lúc tuổi già. Nếu Thiên Chúa muốn Isaac như thế, chẳng thà đừng ban!
            * Làm sao một người cha có can đảm cầm dao giết đứa con vô cùng yêu quí của mình? Lại là đứa con nối dõi tông đường!
            (2) Phản ứng của Abraham: Nếu cứ quanh quẩn với lý luận con người, Abraham sẽ không thể hiểu nổi và chấp nhận đòi hỏi của Thiên Chúa, vì nó quá vô lý; nhưng ông chọn, như bao nhiêu lần đã chọn, để sống theo niềm tin. Thiên Chúa ban cho rồi Thiên Chúa cất đi, xin cho ý Ngài thể hiện. Thiên Chúa cất đi rồi Thiên Chúa lại ban, chẳng có gì không thể đối với Ngài. Vì thế, khi tới nơi Thiên Chúa đã chỉ, ông Abraham dựng bàn thờ tại đó, xếp củi lên, trói Isaac con ông lại, và đặt lên bàn thờ, trên đống củi. Rồi ông Abraham đưa tay ra cầm lấy dao để sát tế con mình.
            1.2/ Vở bi kịch chấm dứt các đột ngột: Nhưng sứ thần của Đức Chúa từ trời gọi ông: "Abraham! Abraham!" Ông thưa: "Dạ, con đây!" Người nói: "Đừng giơ tay hại đứa trẻ, đừng làm gì nó! Bây giờ Ta biết ngươi là kẻ kính sợ Thiên Chúa: đối với Ta, con của ngươi, con một của ngươi, ngươi cũng chẳng tiếc!"
            - Thiên Chúa nhìn thấu suốt tâm hồn Abraham: Ông thực sự đặt niềm tin trọn vẹn nơi Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa muốn thử ông, nên khi thấy ông đã chứng tỏ niềm tin, Thiên Chúa không cần phải nhìn thêm điều gì nữa.
            - Tổ-phụ Abraham dâng của lễ thay cho con mình là Isaac: “Ngước mắt lên nhìn, thì thấy phía sau có con cừu đực bị mắc sừng trong bụi cây. Ông Abraham liền đi bắt con cừu ấy mà dâng làm lễ toàn thiêu thay cho con mình.”
            1.3/ Phần thưởng Đức Chúa hứa ban cho Tổ-phụ Abraham: Sứ thần của Đức Chúa từ trời gọi ông Abraham một lần nữa và nói: "Đây là sấm ngôn của Đức Chúa, Ta lấy chính danh Ta mà thề: bởi vì ngươi đã làm điều đó, đã không tiếc con của ngươi, con một của ngươi, nên Ta sẽ thi ân giáng phúc cho ngươi:
            (1) Giòng dõi đông đúc: Ta sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên đông, nên nhiều như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển.
            (2) Đất Hứa: Giòng dõi ngươi sẽ chiếm được thành trì của địch.
            (3) Và một dân tộc được tuyển chọn: Mọi dân tộc trên mặt đất sẽ cầu chúc cho nhau được phúc như dòng dõi ngươi, chính bởi vì ngươi đã vâng lời Ta.

2/ Bài đọc II: Thiên Chúa đã hy sinh Người Con Một cho con người.
            2.1/ So sánh tình yêu của Thiên Chúa với tình yêu của Tổ-phụ Abraham: Biến cố xảy ra trên Núi Moriah chỉ là hình bóng và sự chuẩn bị để con người hiểu được biến cố xảy ra trên Đồi Golgotha. Có nhiều điểm giống nhau và khác nhau giữa hai biến cố này:
            (1) Cả hai người cha đều sẵn sàng hy sinh Người Con Một, người con yêu quí nhất. Nếu chúng ta hiểu được tình cha con giữa Abraham và Isaac, chúng ta cảm nghiệm được phần nào tình yêu giữa Chúa Cha và Chúa Con. Trong sự quan phòng của Thiên Chúa, biến cố Abraham-Isaac là để chuẩn bị tâm hồn chúng ta cho biến cố Chúa Giêsu, để chúng ta cảm nhận được phần nào tình yêu Thiên Chúa dành cho con người.
            (2) Một sự khác biệt vô cùng lớn lao giữa hai biến cố: Trong biến cố Cựu Ước, Isaac không chết, con cừu đực được giết làm của lễ tòan thiêu chết thay cho con trẻ. Trong biến cố Tân Ước, Chúa Giêsu đã chết thực sự thay cho con người bằng cái chết tủi nhục và đau đớn hơn nhiều. Nếu chúng ta đã từng bất bình khi Thiên Chúa đòi Abraham sát tế con mình, chúng ta có thể hiểu nổi tình thương Thiên Chúa dành cho con người không? Thiên Chúa, chúng ta chưa từng xem thấy; nhưng khi nhìn thấy Chúa Giêsu chết treo trên Thập Giá, chúng ta cảm nhận được tình yêu quá lớn lao Ngài dành cho con người.
            2.2/ Thiên Chúa không kết án con người: Thánh Phaolô giúp chúng ta rút ra một số kết luận từ biến cố này: “Vậy còn phải nói gì thêm nữa? Có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta? Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta?”
            Thiên Chúa không muốn kết án con người, con người kết án chính mình bằng cách dửng dưng hay quay lưng lại với tình yêu Thiên Chúa: “Ai sẽ buộc tội những người Thiên Chúa đã chọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa, Đấng làm cho nên công chính? Ai sẽ kết án họ? Chẳng lẽ Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết, hơn nữa, đã sống lại, và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta?”

3/ Phúc Âm: Chúa Giêsu biến hình để chuẩn bị tâm hồn cho các Tông-đồ.
           3.1/ Mục đích của việc Biến Hình: Chúa Giêsu cho các Tông-đồ nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa là để dạy cho các ông bài học: phải qua đau khổ mới đạt tới vinh quang. Ngài chuẩn bị cho các Tông-đồ trước Cuộc Thương Khó sắp tới; để khi các ông phải đương đầu với Cuộc Thương Khó, các ông có sức mạnh để chịu đựng và vượt qua.
            3.2/ Chúa Giêsu mặc khải cho các Tông-đồ nhiều điều: Có nhiều điều Chúa Giêsu muốn mặc khải cho các Tông-đồ qua việc Biến Hình này, nhưng không được trình bày cách rõ ràng:
            (1) Ngài chính là Con Thiên Chúa: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người.”
Đây là lần thứ hai Thiên Chúa Cha nói những lời này; lần thứ nhất trong biến cố Chúa chịu Phép Rửa tại sông Jordan trước khi Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ rao giảng. Lần này trước khi Chúa Giêsu bắt đầu Cuộc Thương Khó và Phục Sinh. Mục đích là để các Tông-đồ xác tín mối liên hệ giữa Chúa Cha và Chúa Con.
            (2) Ngài chính là Đấng Thiên Sai mà Luật và các tiên-tri loan báo: Sự có mặt của hai chứng nhân: ông Elijah đại diện cho các tiên tri, cùng ông Moses đại diện cho các ngôn sứ, hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu, chứng tỏ điều này.
            (3) Đấng Thiên Sai tự nguyện chọn con đường Thập Giá: Câu hỏi của các môn đệ ở cuối trình thuật: "từ cõi chết sống lại nghĩa là gì?” chứng tỏ các ông biết họ đàm đạo về Cuộc Thương Khó sắp xảy ra cho Chúa Giêsu tại Jerusalem. Trình thuật Biến Hình của Luca nói rõ điều này.
            (4) Tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người: Đây là điểm cao của việc Biến Hình, mặc dù trình thuật không đề cập tới. Khi cho Con của Ngài đi qua Cuộc Thương Khó để cứu chuộc con người, Thiên Chúa muốn các ông hiểu tình yêu của Ngài dành cho con người.
            (5) Chúa Giêsu tự nguyện đi qua Cuộc Thương Khó: Các ông đã nghe chính Ngài bàn với các chứng nhân Cựu Ước về những gì sắp xảy ra; để khi nó thực sự xảy ra, các ông biết đó không phải là chuyện tình cờ. Ngài tình nguyện chấp nhận chịu đau khổ, chứ không phải Ngài thua cuộc trước bạo lực của con người.
            3.3/ Tại sao Chúa Giêsu ngăn cấm các ông kể lại việc Biến Hình:
            - Bí mật của Đấng Thiên Sai: Có những việc chỉ cần cho một số người biết, nếu không sẽ gây hoang mang. Có những việc chỉ được tiết lộ khi thời gian đã chín mùi. Chúa chỉ tỏ việc Biến Hình cho ba môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê, và Gioan. Ở trên núi xuống, Đức Giêsu truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại.

 ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
            - Thiên Chúa cho Người Con Một là cho chính Ngài. Ngài cũng mong chúng ta phải cho chính người con một của chúng ta, tức là cho chính chúng ta, như Abraham vậy. Tình yêu trọn vẹn là như thế. Thiên Chúa chứng tỏ tình yêu của Ngài qua hai biến cố: chuẩn bị tâm hồn con người qua biến cố Abraham-Isaac, và cảm nghiệm rõ ràng qua Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu.
            - Chúng ta không thể hiểu sự thử thách của Thiên Chúa dành cho Abraham, và càng không thể hiểu nổi tại sao Thiên Chúa lại hy sinh Người Con Một của Ngài. Điều này giúp chúng ta những lúc không thể hiểu tại sao Thiên Chúa để đau khổ xảy ra, chúng ta biết tin tưởng vào Ngài như Abraham. 
            - Đức tin phải được tôi luyện trong thử thách và đau khổ. Đàng sau Cuộc Thương Khó và Thập Giá là vinh quang Phục Sinh. Nếu chúng ta từ chối đau khổ và Thập Giá, chúng ta cũng từ chối con đường dẫn tới vinh quang Phục Sinh.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
****************

Suy Niệm
Ðức Giêsu mê những ngọn núi vắng vẻ,
đó là nơi Ngài gặp gỡ Cha, chìm đắm trong cầu nguyện.
Có nhiều ngọn núi trong cuộc đời Ðức Giêsu:
núi của Bài Giảng về các mối phúc,
núi Tabo nơi Ngài biến hình,
núi Sọ và núi Ô-liu nơi Chúa thăng thiên.
Những ngọn núi trở thành cột mốc đánh dấu.
Những ngọn núi đan vào nhau làm nên cuộc hành trình.
Ba môn đệ thân tính được Ngài đưa lên núi Tabo,
để củng cố niềm tin của họ,
trước khi họ thấy Ngài như người bị Cha bỏ rơi
và bị mọi người khai trừ ruồng rẫy trên núi Sọ.
Nhưng vinh quang của núi Tabo
chỉ là một loé sáng bất ngờ và tạm thời,
báo trước vinh quang viên mãn khi Ngài về Thiên Quốc.
Biến hình là một hành động của Thiên Chúa Cha.
Sau khi gặp Cha, Ðức Giêsu được Cha biến hình.
Sự biến đổi này ảnh hưởng đến thân xác và khuôn mặt,
và đến cả y phục của Ngài.
Vinh quang của Con Thiên Chúa làm người vốn bị che khuất,
nay được Cha hé mở cho các môn đệ.
Ông Môsê ngày xưa, sau khi lên núi gặp Ðức Chúa
cũng đã phải che lại khuôn mặt chói lọi của mình.
Chẳng ai gặp Thiên Chúa thực sự mà lại không biến hình.
Ðời sống kết hiệp thực sự với Thiên Chúa
làm cho người Kitô hữu tỏa sáng rực rỡ.
Biến hình không phải là trở thành cái gì khác mình,
như Tôn Ngộ Không với các trò biến hoá.
Biến hình là trở lại với cái tôi sâu thẳm của mình:
tôi là con yêu dấu của Thiên Chúa.
Từ khi chịu phép Thánh Tẩy,
chúng ta đã bước vào một cuộc biến hình,
từ từ và liên tục.
Nếu chúng ta chấp nhận đi vào đường hẹp của Thầy Giêsu
chúng ta sẽ được biến hình đổi dạng
và phản ánh ngời sáng hơn vinh quang Chúa (x. 2Cr 3,18).
Chúng ta phải trở thành điều chúng ta đang là.
Ðời sống Kitô hữu là một cuộc lên núi
và xuống núi với Chúa Kitô mỗi ngày.
Cần cảm nếm được sự dịu ngọt và hạnh phúc
khi được chiêm ngắm Chúa Giêsu trên núi cao.
Nhưng cũng phải xuống núi với Chúa
để đi đến nơi hiến mình, nơi phục vụ,
đi cùng và đi sau Chúa Giêsu
đến với Vườn Dầu và Núi Sọ.
Ước gì chúng ta dám đón nhận những gai góc đời thường
và nhìn mọi khổ đau bằng cái nhìn mới mẻ.
Người Kitô hữu lên núi gặp Chúa
để rồi được sai xuống núi hành đạo.
Nhưng xuống núi rồi, lại có khi thấy cần lên núi.
Cầu Nguyện
Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào,
xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng.
Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc,
xin cho con quý chuộng những lúc
được an nghỉ trước nhan Chúa.
Khi bị xao động bởi những bận tâm và âu lo,
xin cho con biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa
để nghe lời Người.
Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng,
xin cho con thoát được lên cao
nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.
Lạy Chúa,
ước gì tinh thần cầu nguyện
thấm nhuần vào cả đời con.
Nhờ cầu nguyện,
xin cho con gặp được con người thật của con
và khuôn mặt thật của Chúa.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Ngày 04
CHÚA NHẬT II MÙA CHAY
 

Đức Giêsu Kitô, người đầu tiên giữa anh em, được ánh sáng của sự sông và niềm vui bao quanh đến độ tràn sang chung quanh: " Chúng con ở đây thì hạnh phúc quá!"; việc tràn ngập ánh sáng giúp cho chúng ta hiểu rằng cái chết không phải là tiêng nói cuối cùng cho Người, cho chúng ta, cho linh hổn cũng như cho thân xác.
Các môn đệ tự' hỏi với nhau về điều Người muôn nói đó là sông lạiế Chính chúng ta cũng tự hỏi: ai hay điểu gì có thể trâh át sự lo sợ của chúng ta? một lời hứa chăng? Thật không đủ. Phải có một kinh nghiệm và kinh nghiệm này là kinh nghiệm của cuộc biến hình, mầm sông của phục sinh.
Kinh nghiệm trước mắt chúng ta về những gương mặt mà đau khổ và bạo lực đáng lẽ làm suy sụp thì lại rực sáng lên. Kinh nghiệm trong chúng ta, những giai đoạn bi đát của mệt mỏi hay thâ't vọng, của một cuộc sông không đem lại niềm vui gì cho tinh thần, nhưng lại thấm vào ngay trong thân xác chúng ta. Chúng ta không biết gì về một thân xác được phục sinh và từ nay không còn chết nữa, nhưng chúng ta biết điều đã hứa với chúng ta nay đã bắt đầu. Ngay bây giờ, chúng ta biết, đúng hơn chúng ta thấy, sự chê't không phải là tiêhg nói cuôi cùng.
Jean-Pierre Manigne - La Vie

 Ngày 4

Thánh Casimiro

Hoàng tử, bổn mạng nước Balan

Người Balan (1458-1484)

             Casimiro được coi là "người anh em và người bênh kẻ nghèo".
            1. Hoàng tử tốt bụng: Sinh tại Cracovie,  nước Ba Lan,  năm 1458.   Con vua Casimir 4 ,  mẹ là hoàng hậu Elizabeth.
            Casimiro ảnh chịu ảnh hưởng thày dạy hơn là người cha.
Khi cậu lên 13, lòng tốt của cậu vang xa tới nước Hungary, đến nỗi họ muốn mời Casimiro làm vua họ thay vua nước Hungary. Thấy thế, cha cậu sai cậu đi đánh chiếm nước Hungary, nhưng khi Casimiro biết đức giáo hoàng đã xin vua cha cậu đừng đánh, Casimiro rút quân về . Vua cha rất giận chuyện này, giam cậu 3 tháng trong lâu đài.
            2. Hoàng tử đạo đức:  Lợi dụng thời gian này, Casimiro học tập và cầu nguyện. Casimiro kính mến Đức Mẹ tha thiết, ngày nào cậu cũng đọc thánh ca: "Mỗi ngày con ca ngợi Mẹ Maria". Cậu muốn khi cậu chết, người ta chôn thánh ca đó trong mồ cậu. Casimiro coi đó như bổn phận trước tiên đối với Chúa. Cậu quyết tâm từ nay sẽ không dấn thân vào chiến tranh nữa.
            Cậu sống khiết tịnh hoàn hảo,  lúc còn nhỏ ngài đã xa lánh những thú vui trần thế.  Cậu cũng quyết định không kết hôn. Điều này làm cha mẹ cậu bực mình, vì bỏ cơ hội kết hôn với con gái hoàng đế Frederic III.
            Điều cậu thích hơn cả là được ở lâu trước bàn thờ.  Nhiều đêm ngài nằm ngủ dưới đất hoặc trước cửa nhà thờ trong nhà vua.  Ngài đặc biệt sùng kính Chúa chịu đóng đanh. Mỗi lần nhìn lên Thánh Giá là mội lần ngài chảy nước mắt vì thương Chúa.  Nơi thánh nhân còn nổi bật hai nhân đức :Bác ái và Công Bằng.  Ngài nói" Đức Ái không gian dối,  nhưng chân thật,  do Chúa Thánh Thần nhóm lên trong lòng để ta yêu mến Thiên Chúa toàn năng.   Nó tràn nhập trong lòng tôi, nó dàn ra bề ngoài để tôi thương yêu tha nhân".

            3. Chết vì bệnh phổi: Khi vua cha vắng nhà, hoàng tử Casimiro lên thay cha cai trị nước Balan trong thời gian vắn. Những người Công Giáo Balan đã tìm thấy trong ngài một mẫu gương sáng chói trong cuộc chiến thầm lặng nhưng đầy cam go mà họ phải trải qua.
            Bệnh lao phổi không ngừng theo đuổi ngài,  cho đến khi ngài kiệt sức và an nghỉ trong Chúa ngày 4 tháng 3 năm 1483,  tại lâu đài Grodno, lúc lên 26 tuổi.     Đức Giáo Hoàng Lêô X tôn phong lên bậc Thánh năm 1522,  và được chọn làm bổn mạng nước Balan năm 1602.




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét